(263) (CCLXIII) Mahā-Moggallāna (Thera. 104)

Ðời ngài được kể với đời ngài Sāriputta (CCLIX). Sau khi xuất gia một tuần, ở gần làng Kallavāla tại Magadha, trong khi du hành ngài bị hôn trầm thụy miên và được Thế Tôn dạy: “Này Moggallāna, biếng nhác không giống với im lặng của bậc Thánh”. Ngài liền tinh tấn chế ngự sự yếu đuối của mình. Khi chỉ nghe đề tài về các giới do Đức Phật giảng dạy, ngài chứng được quả A-la-hán. Một thời, Thế Tôn ở tại Jetavana, xác chứng ngài là bậc thần thông đệ nhất. Các bài kệ của ngài được kiết tập thứ nhất.

I

Khích lệ các Tỷ-kheo:

1147. Chúng ta người ở rừng,
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định.

1148. Chúng ta người ở rừng,
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.

1149. Chúng ta ở gốc cây,
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định

1150. Chúng ta ở gốc cây,
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.

II

Với một kỹ nữ muốn cám dỗ ngài:

1151. Với am, sườn bằng xương,
May dính với gân thịt,
Gớm thay, đầy hơi thối!
Mang tay chân người khác,
Làm thân thể của mình!

1152. Cái bị đựng đầy phân,
Ðược da bao bọc lại,
Ôi con Quỷ cái kia!
Với vú bị ung nhọt,
Thân Ngươi, chín dòng nước
Luôn luôn được tuôn chảy.

1153. Thân Ngươi chín dòng nước
Hôi thối, tạo trói buộc,
Tỷ-kheo tránh thân ấy,
Như kẻ sạch tránh phân.

1154. Nếu người khác biết Ngươi
Như ta biết được Ngươi,
Người ấy tránh xa Ngươi,
Như khi mưa tránh phân.

Người đàn bà ấy cảm thấy hổ thẹn, đảnh lễ vị Truởng lão rồi thưa:

1155. Thật là vậy, Ðại hùng,
Như Sa-môn, ngài nói:
Ở đây, có kẻ đắm,
Như bò già trong bùn.

Bậc Trưởng lão:

1156. Ai nghĩ có thể nhuộm,
Bầu trời với màu nghệ,
Hoặc với màu sắc khác
Kẻ ấy chỉ thất bại.

1157. Tâm ta giống trời ấy,
Nội tâm khéo định tĩnh,
Chớ đem ác tâm đến
Như chim rơi đống lửa.

1158. Hãy xem bóng trang sức
Nhóm vết thương tích tụ,
Bệnh hoạn nhiều tham tưởng
Nhưng không gì trường cửu.

III

Khi được tin Trưởng lão Sāriputta viên tịch:

1159. Ôi, thật hãi hùng thay!
Ôi! Lông tóc dựng ngược,
Bậc đủ nhiều đức tánh,
Xá-lợi-phất nhập diệt.

1160. Các hành là vô thường
Có sanh phải có diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.

IV

Nói về Trưởng lão Tissa:

1161. Những ai thấy năm uẩn,
Là khác, không phải ngã,
Quán thấu vật tế nhị,
Như tên đâm mũi tóc.

1162. Những ai thấy các hành,
Là khác, không phải ngã,
Chúng thấu triệt tế nhị,
Như têm đâm mũi tóc.

V

Nói về Trưởng lão Vaḍḍhamāna

1163. Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham dục.

1164. Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham hữu.

VI

Tuyên bố liên hệ đến kinh Pāsādakampana:

1165. Ðược khuyên bảo bởi vị,
Ðã tu tập tự ngã,
Mang thân này tối hậu,
Với ngón chân ta làm,
Rung chuyển cả lâu đài,
Migāramātu.

VII

Nói liên hệ với một Tỷ-kheo:

1166. Không với nhu nhược này,
Không với ít lực này
Có thể chứng Niết-bàn,
Giải thoát mọi buộc ràng.

1167. Vị Tỷ-kheo trẻ này,
Con người tối thượng này,
Chiến thắng ma, ma quân,
Mang thân này tối hậu.

VIII

Về đời sống viễn ly của mình:

1168. Giữa đồi Vebhāra,
Giữa đồi Pandava,
Sét đánh vào hang động,
Con bậc Vô tỷ ấy,
Ðã đi vào hang núi,
Ðang ngồi nhập thiền định.

IX

Ði vào Rājagaha (Vương Xá) để khất thực, ngài khuyến giáo người cháu của Sāriputta, một Bà-la-môn có tà kiến, người này thấy ngài Ðại-ca-diếp, cảm thấy ghê tởm, như thấy được một nữ thần bất hạnh.

An tịnh và thoải mái,
Ẩn sĩ trú vùng xa,
Thừa tự Phật tối thắng,
Ðược Phạm thiên tán thán.

1169. Hỡi này Bà-la-môn,
Hãy đảnh lễ Ca-diếp,
Ngài là con thừa tự,
Bậc Giác Ngộ tối thắng,
Ẩn sĩ trú vùng xa
An tịnh và thoải mái.

1170. Vị trải trăm đời sống,
Ðều thuộc dòng Phạm chí,
Học giả, giỏi Vệ-đà,
Sanh tiếp tục làm người.

1171. Dầu là bậc giáo sư,
Thấu triệt ba Vệ-đà,
Ðảnh lễ vị như vậy,
Chỉ giá một mười sáu.

1172. Vị ấy trước bữa ăn,
Thấy được tám giải thoát.
Thuận hướng và nghịch hướng.
Rồi mới đi khất thực.

1173. Chớ có đến tấn công
Một Tỷ-kheo như vậy,
Hỡi này Bà-la-môn,
Chớ có đào tự ngã,
Hãy khởi ý tín nhiệm
Vị La hán như vậy,
Chấp tay đảnh lễ gấp,
Chớ để đầu ông hỏng.

X

Khi khuyến giáo một Tỷ-kheo tên Potthila:

1174. Người không thấy diệu pháp,
Dẫn đầu về luân hồi,
Chạy theo hướng tà đạo,
Ðường cong không nên đi.

1175. Như con sâu dính phân,
Say mê theo các hành,
Ðắm sâu vào lợi danh,
Trống rỗng, hỡi Pôt-thi.

XI

Tán thán Tôn giả Sāriputta:

1176. Hãy xem Tôn giả này
Xá-lợi-phất đẹp sắc,
Giải thoát cả hai phần,
Nội tâm khéo định tĩnh.

1177. Không bị tên khát ái,
Các kiết sử đoạn tận,
Ba minh đã đạt được,
Sát hại xong thần chết,
Ðáng được người cúng dường,
Là ruộng phước vô thượng.

XII

Do ngài Sāriputta nói lời tán thán Moggallāna:

1178. Có nhiều chư Thiên này,
Có thần lực danh xưng,
Ðến mười ngàn chư Thiên
Tất cả Phạm phụ Thiên.
Họ đứng chấp hai tay
Ðảnh lễ Mục-kiền-liên.

1179. Ðảnh lễ thượng sanh nhân!
Ðảnh lễ vô thượng nhân!
Lậu hoặc ngài đã đoạn,
Ngài xứng được cúng dường.

1180. Ðược trời người đảnh lễ,
Ðã sanh, bậc thắng chết,
Như sen không dính nước,
Ngài không dính các hành.

1181. Vị trong một sát-na,
Biết đời, dưới ngàn cách,
Chẳng khác Ðại Phạm Thiên,
Tỷ-kheo ấy Thiên tử
Ðầy đủ thần thông lực,
Thấy được những thời cơ
Chết sống của mọi loài.

XIII

Mahā-Moggallāna nói lên, xác nhận khả năng của mình:

1182. Xá-lợi-phất với tuệ,
Giới hạnh, an tịnh tâm,
Tỷ-kheo đến bờ kia,
Vị ấy thật tối thượng.

1183. Nhưng ta ngay giây phút
Ðến trăm ngàn triệu lần,
Biến hóa tự thân được,
Ta thiện xảo biến hóa,
Thuần thục với thần thông.

1184. Dòng họ Môg-gal-la,
Sống thiền định trí tuệ
Ði đến bờ bên kia,
Không ái giáo pháp đạt.
Hiền trí, các căn tịnh,
Chặt đứt các trói buộc,
Như voi bựt đứt ngang,
Dây leo đã mục nát.

1185. Ta hầu hạ Bổn Sư,
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.

1186. Sanh của ta đã tận,
Chiến thắng dạy làm xong,
Lưới danh được đoạn diệt,
Gốc sanh hữu nhổ lên,
Mục đích hạnh xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ðích ấy đã đạt được,
Mọi kiết sử diệt xong.

La mắng Māra đã vào và ra khỏi bụng ngài:

1187. Ðịa ngục ấy thế nào,
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kà-kùsandha.

1188. Có trăm loại cọc sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt,
Ðịa ngục là như vậy,
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha.

1189. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì người đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

1190. Dựng lên giữa biển cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu,
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.

1191. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

1192. Ai Thế Tôn khuyến khích,
Chúng Tỷ-kheo chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển
Lầu mẹ Migāra.

1193. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

1194. Với ngón chân rung chuyển,
Lầu Vi-ja-yan-ta,
Ðầy đủ thần thông lực,
Chư Thiên cũng hoảng sợ.

1195. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

1196. Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vijayan,
Hiền giả, ngươi có biết,
Ái tận được giải thoát?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.

1197. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

1198. Ai từng hỏi Phạm thiên
Tại hội chúng Thiện Pháp:
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng
Phạm thiên cảnh thiên giới.

1199. Brahmà đã chân thành,
Tiếp tục đáp câu hỏi:
Tôn giả tôi không chấp
Các tà kiến thuở xưa.

1200. Tôi thấy sự huy hoàng
Phạm thiên cảnh thiên giới,
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường tại?

1201. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

1202. Ai với sự giải thoát,
Cảm xúc Cao Sơn đảnh,
Rừng đông Videha
Và người nằm trên đất,

1203. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

1204. Thật sự lửa không nghĩ:
'Ta đốt cháy kẻ ngu',
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.

1205. Cũng vậy này Ác-ma,
Ngươi đột kích Như Lai,
Tự đốt mình cháy mình,
Như kẻ ngu chạm lửa.

1206. Ác ma tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng Ác-ma,
Ác quả không đến ta.

1201. Ðiều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác-ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo.

1208. Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhe-kalà,
Vị Dạ-xoa thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.

Như vậy, Tôn giả Mahā-Moggallāna nói lên những bài kệ.