Những lời của Đức Phật nói ra, ban đầu được gọi chung là Giáo Pháp (Dhamma), bao gồm cả 03 phương diện là: Giáo Lý (Pariyatti), Thực Hành (Patipatti) và Chứng Ngộ (Pativedha).

  • (1) Phần để làm Giáo Lý còn được gọi là “Pháp Học”.
  • (2) Phần để Thực Hành còn gọi là “Pháp Hành”.
  • (3) Phần để Chứng Ngộ còn được gọi là “Pháp Giác Ngộ” hay “Pháp Thành”.

Toàn bộ Giáo Pháp đã được lưu giữ lại trong kinh điển của Phật Giáo được gọi là Tam Tạng Kinh (Tipiṭaka). Những dịch giả dịch Tam Tạng Kinh qua Anh ngữ đã ước lượng Tam Tạng Kinh lớn hơn khoảng 11 lần so với toàn bộ Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo. Tam Tạng Kinh chứa đựng Những Lời Dạy của Đức Phật do chính Đức Phật lịch sử nói ra hơn 45 năm đi truyền dạy, từ sau Phật Giác-Ngộ cho tới khi Phật bát-Niết-bàn.

Tipiṭaka trong tiếng Pāḷi có nghĩa là Ba Cái Rổ (Ti = ba, Piṭaka = cái rổ), có thể gọi là Ba Rổ Kinh. Nó không chỉ mang ý nghĩa là vật chứa đựng mà còn mang ý nghĩa ‘truyền thừa’ giống như những cái rổ được chuyền tay cho nhau, giống những người thợ chuyền những rổ đất hay cát từ người này đến người kia theo một hàng dài cho đến cuối cùng để sử dụng. Tương tự vậy, những Cái Rổ chứa Giáo Pháp hay Ba Rổ Kinh được chuyền tay truyền thừa liên tục qua nhiều thế kỷ bắt đầu từ Vị Thầy (Phật) truyền thừa thông qua những thế hệ những đệ tử.

(Ở Việt Nam đã quen dùng là Tam Tạng Kinh (HV) có nghĩa là Ba Tàng Kinh hay Ba Kho Kinh).

Ba Tạng Kinh đó là:

  • (1) Luật Tạng (Vinaya Piṭaka), bao gồm những điều luật và quy định đối với Tăng Đoàn và những tăng sĩ. Nó gồm cả Patimokha (Giới Bổn Tỷ-kheo, tức Giới Luật Tăng Đoàn);
  • (2) Kinh Tạng (Sutta Piṭaka), chứa đựng những bài thuyết giảng giáo pháp của Đức Phật đã nói ra và truyền dạy cho những cá nhân, hay những nhóm người, hoặc những hội chúng có nhiều thành phần … trong suốt thời gian đi truyền dạy Giáo Pháp của Phật; và
  • (3) Vi Diệu Pháp Tạng (Abhidhamma Piṭaka), giảng dạy về 04 chủ-đề cao học tột cùng một cách phân tách vi tế: Tâm (Citta), Những Yếu-Tố thuộc Tâm hay Tâm Sở (Cetasika), Sắc (Rupa, tức sắc thân hay thể vật chất), và Niết-Bàn (Nibbana).

Theo nhà sư Sayadaw U Thittila ở Miến Điện, những kinh văn bằng tiếng Pāḷi ở các nước theo Phật Giáo Nguyên Thủy như Miến Điện, Lào, Cam-pu-chia, Tích Lan, Thái Lan về thực chất thì nội dung, ngữ nghĩa và ngay cả những thuật ngữ đã được dùng hầu như hoàn toàn là giống nhau. Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pāḷi chứa đựng tất cả mọi điều cần thiết để chỉ dẫn một người đi đến Con Đường dẫn đến mục-đích cứu cánh là Niết-bàn, sự chấm-dứt khổ.1

(A) Mỗi Truyền Thống Có Một Phiên Bản Riêng Của Tam Tạng Kinh

Có tất cả 03 phiên bản Tam Tạng Kinh Điển được công nhận bởi 03 trường phái Phật Giáo vẫn đang hiện hành cho đến ngày nay, đó là:

  • (1) Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pāḷi (Pāḷi Tipiṭaka) của Phật Giáo Trưởng Lão Bộ (Theravada, hay còn được gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy).
  • (2) Đại Tam Tạng Kinh của trường phái Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana TriPiṭaka) bằng tiếng Hán, vốn là những bản dịch từ kinh văn bằng tiếng Phạn (Sanskrit).
  • (3) Tam Tạng Kinh Tây Tạng (Tibetan TriPiṭaka) bằng tiếng Tây Tạng, còn được gọi là Kagyur (bao gồm những bản dịch từ nguồn kinh điển tiếng Phạn và 04 Đại Kinh Mật Thừa Tây Tạng (Tantra) và Tangyur (bao gồm những tác phẩm của những học giả, luận sư người Ấn Độ và Tây Tạng).

Trường phái Trưởng Lão Bộ hay Phật Giáo Nguyên Thủy là trường phái Phật giáo chính thống, có cội rễ từ thời của Đức Phật, cũng không chấp nhận những kinh điển trong các phiên bản của Đại Thừa và Tây Tạng, vì họ cho rằng đó là những sáng tác sau này, chứ không phản ảnh hay thể hiện được đó là “Những Lời Dạy của chính Đức Phật lịch sử”.

Theo học giả Warder2, mặc dù Phật giáo Đại Thừa khẳng định rằng mình được sáng lập ra bởi chính Đức Phật lịch sử, nhưng những bằng chứng rõ ràng và được công nhận là những giáo lý của Đại Thừa có nguồn gốc từ miền Nam Ấn Độ, gần vùng Andhra Pradesh vào thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên (CN). Nhiều vị thầy hàng đầu của trường phái này cũng được sinh ra ở miền Nam Ấn Độ, tu học ở đó, và sau này lên miền Bắc để giảng dạy, một trong số đó là Ngài Nagarjuna (Long Thọ). Ý tưởng cho rằng những tàng kinh đã được cất giữ ở miền Nam Ấn Độ là lý do để cho những người Đại Thừa có cớ để giải thích cho những Phật tử ở miền Bắc lý do tại sao những Tỷ-kheo ở miền Bắc chưa hề nghe được những loại kinh đó từ chính Đức Phật. Và vì vậy, những người Đại thừa ở miền Nam đã chối cãi rằng đó chỉ là những sáng tác sau thời Đức Phật tại thế.

Một cách giải thích khác của họ được ghi chép lại bởi nhà sử học Tây Tạng Taranatha cho rằng mặc dù Đức Phật đã giảng dạy các kinh Phật Giáo Đại Thừa, nhưng những kinh đó đã không được cho lưu hành trong thế giới loài người nhiều thế kỷ, bởi vì lúc ấy không có được những người thầy (đạo sư) tài giỏi và cũng không có những học trò (đệ tử) đủ thông minh để triển khai. Những kinh Đại Thừa được giáo truyền một cách bí mật cho nhiều bậc siêu nhiên và được gìn giữ bởi những bậc Trời Thần và những con rồng naga. Những giáo lý bí mật này đã được mang ra khỏi nơi cất giấu bởi những đại sư Đại Thừa xuất hiện khoảng thế kỷ 2 sau Công Nguyên, họ là những bậc thầy có năng lực diễn dịch những kinh điển thiêng liêng đó. Riêng lời giải thích này của họ cũng quá đủ để chúng ta biết rõ rằng những kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa đã chưa bao giờ có cho đến tận thế kỷ thứ 2 sau CN.

Theo quan điểm của học giả Warder: những lý luận lạ lùng như vậy thì không thể nào được chấp nhận là một sự thật lịch sử cho được. Bởi vì tất cả mọi giáo lý của Phật Giáo tiền thân từ thời Đức Phật lịch sử chưa bao giờ mang ý nghĩa bí mật hay bí truyền gì gì cả. Khả năng về một số lượng giáo lý đồ sộ được giáo truyền bí mật giống như là một sự bịa đặt hay sự bôi bác về năng-lực của Đức Phật, cứ như thể Đức Phật lịch sử đã không có khả năng thực hiện được những việc (truyền dạy) mà những người khác có thể thực hiện được 600 năm sau đó vậy! Khó mà tin được cái luận điệu cho rằng: ‘Chính Đức Phật đã nói các kinh Đại Thừa, nhưng rồi Đức Phật đã không thành công trong việc truyền dạy cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà phải dùng phương cách mật truyền, theo như lý luận của các nhà Đại Thừa.’ Hơn nữa, rõ ràng trong Đại Kinh Bát-Niết-bàn (Mahaparinibbana Sutta) (của tất cả 03 trường phái) thì chính Đức Phật đã tuyên bố rằng: “Chẳng có gì hay giáo pháp bí truyền nào còn được giấu trong nắm tay của người thầy cả.”

Kiểu tuyên bố của các nhà Đại Thừa cho rằng không có những người thầy có đủ năng-lực cũng như không có những đệ tử đủ thông-minh vào thời Đức Phật (để triển khai giáo lý Đại Thừa) nghe thật là ngược ngạo, và đó chỉ để nhằm mục đích tự đề cao và tự đưa mình lên thế thượng phong và hạ thấp vị-trí và những thành-tựu của những vị Đại Đệ Tử Thanh Văn và những bậc A-la-hán lỗi lạc trong thời Đức Phật và sau đó.

Thực tế là, một trong những kinh Đại Thừa sớm nhất, Ratnakuta Sutra (Kinh Đại Bảo Tích) đã bác bỏ và lăng mạ những hàng đệ tử Phật Giáo Nguyên Thủy gồm những đệ tử Thanh Văn (Savaka) và những A-la-hán (Arahant) không phải là những ‘người con’ của Đức Phật, tức không phải là những Phật tử đích thực vậy! Sự thật là trong các kinh Đại Thừa đều có sự bác bỏ, khinh khi, và coi những vị thánh tăng vào thời Đức Phật là ‘tiểu nhược’ (hina) một cách càng làm khó chịu và càng khó chấp nhận hơn nữa. Điều đó cho thấy Đại Thừa đã thể hiện quan điểm cực kỳ mâu thuẫn và trái ngược lại với những bản chất bao dung và thông cảm hiểu biết được đề cao trong tất cả những kinh điển Phật giáo vốn là tinh thần đích thực của Giáo Pháp mà Đức Phật đã giảng dạy.

(B) Độ Tin Cậy Của “Ba Rổ Kinh” (Tipiṭaka) So Với Những Phiên Bản Của Những Trường Phái Khác

Trong quyển “Cuộc Đời Của Đức Phật Theo Như Tam Tạng Kinh Pāḷi” của nhà sư học giả Nanamoli3 đã ghi lại một tham luận của tiến sĩ T.W. Rhys Davids, một học giả Pāḷi lỗi lạc, như sau:

“Đức Phật không để lại những lời dạy thâm sâu, vắn tắt nào để rồi từ đó những môn đồ của Phật sau này tự do khai triển ra thành một hệ thống hay những hệ thống tư tưởng của riêng mình. Nhưng thay vì vậy, chính Đức Phật đã công phu xây dựng học thuyết (tức Giáo Pháp) của mình; và trong suốt 45 năm dài truyền dạy, Phật đã có đủ dư nhiều thời gian để lặp đi lặp lại những đề-cương [matika, mẫu đề, giáo lý chính] và những chi-tiết của giáo pháp đó nhiều lần cho các đệ tử khác nhau và để kiểm tra sự hiểu-biết của họ về giáo pháp đó, cho đến khi các đệ tử giỏi giang đã được nhuần nhuyễn trong việc phân-biệt tinh thông những giáo pháp siêu thể vi diệu nhất, và những vị đệ tử đó đã được huấn luyện với trí-nhớ mà những bậc sa-môn Ấn Độ có được. Khi có những điều hoặc những sự thật được yêu cầu đọc tụng lại từ trong trí-nhớ (khi kết tập kinh điển - ND), thì họ đều làm được. Điều đó cho thấy sự tin-cậy có thể được đặt vào kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy hơn là vào những phiên bản ghi chép sau này của các giáo phái khác.”

Trích "Giáo Trình Phật Học" của Chan Khoon San
Lê Kim Kha dịch Việt