I. Chủng Loại (Tạp 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,240)

1-2) Nhân duyên ở Sāvatthi...

3) -- Này các Tỷ-kheo có bốn loại Nāgā (rồng, rắn) về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Nāgā từ trứng sanh, loại Nāgā từ thai sanh, loại Nāgā từ ẩm ướt sanh, loại Nāgā hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Nāgā theo sanh chủng.

II. Diệu Thắng (S.iii,240)

1-3) Nhân duyên ở Sāvatthi...

4) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Nāgā về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Nāgā từ trứng sanh, loại Nāgā từ thai sanh, loại Nāgā từ ẩm ướt sanh, loại Nāgā hóa sanh.

5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, loại Nāgā từ thai sanh, loại từ ẩm ướt sanh, và loại hóa sanh thù thắng hơn loại Nāgā từ trứng sanh.

6) Tại đây, này các Tỷ-kheo, loại Nāgā từ ẩm ướt sanh và loại hóa sanh thù thắng hơn loại Nāgā từ trứng sanh và từ thai sanh.

7) Tại đây, này các Tỷ-kheo, loại Nāgā hóa sanh thù thắng hơn loại Nāgā từ trứng sanh, loại từ thai sanh và loại từ ẩm ướt sanh.

Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Nāgā theo sanh chủng.

III. Uposatha (1) (Bố-tát) (S.iii,241)

1) Một thời Thế Tôn ở Sāvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika.

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây một số Nāgā từ trứng sanh, sống giữ hạnh Uposatha và từ bỏ thân của chúng?

4) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, một số Nāgā từ trứng sanh suy nghĩ như sau: “Trước đây chúng ta đã làm hai hạnh về thân, hai hạnh về lời nói, hai hạnh về ý. Do chúng ta làm hai hạnh về thân, hai hạnh về lời nói, hai hạnh về ý ấy, sau khi thân hoại mạng chung, chúng ta sanh cộng trú với các Nāgā do trứng sanh.

5) Nếu nay chúng ta làm thiện hạnh về thân, thiện hạnh về lời nói, thiện hạnh về ý, như vậy khi thân hoại mạng chung, chúng ta có thể sanh thiện thú, thiên giới, thế giới này.

6) Vậy nay chúng ta hãy làm thiện hạnh về thân, thiện hạnh về lời nói, thiện hạnh về ý”.

7) Do nhân này, do duyên này, này Tỷ-kheo, ở đây một số Nāgā do trứng sanh, sống giữ hạnh Uposatha và từ bỏ thân của chúng.

IV. Uposatha (2) (S.iii,242)

1-2) Nhân duyên ở Sāvatthi...

Rồi một Tỷ-kheo...

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, một số Nāgā từ thai sanh sống giữ hạnh Uposatha và từ bỏ thân của chúng?

4-6) (Như kinh trước)

7) -- Do nhân này, do duyên này, này Tỷ-kheo, ở đây, một số Nāgā từ thai sanh sống giữ hạnh Uposatha và từ bỏ thân của chúng.

V. Uposatha (3)

(Như kinh trước chỉ thế vào: Loại Nāgā từ ẩm ướt sanh)

VI. Uposatha (4)

(Như kinh trước, chỉ thế vào: Loại Nāgā hóa sanh)

VII. Nghe (1) (S.iii,243)

1-2) Nhân duyên ở Sāvatthi...

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, một loại (chúng sanh), sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh?

4) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, một loại (chúng sanh) làm hai hạnh về thân, làm hai hạnh về lời nói, làm hai hạnh về ý. Chúng nghe nói như sau: “Loại Nāgā từ trứng sanh được thọ mạng lâu dài, nhan sắc thù thắng, hưởng thọ nhiều lạc”.

5) Chúng suy nghĩ như sau: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, chúng ta có thể sanh cộng trú với loại Nāgā từ trứng sanh!"

6) Sau khi thân hoại mạng chung, chúng được sanh cộng trú với loại Nāgā từ trứng sanh.

7) Do nhân này, do duyên này, này Tỷ-kheo, ở đây, một loại (chúng sanh), sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh.

VIII. Nghe (2)

(Như kinh trước, chỉ thế vào: Loại Nāgā từ thai sanh)

IX. Nghe (3)

(Như kinh trước, chỉ thế vào: Loại Nāgā từ ẩm ướt sanh)

X. Nghe (4)

(Như kinh trước, chỉ thế vào: Loại Nāgā hóa sanh)

XI. Ủng Hộ Bố Thí (1) (S.iii,244)

1-3) ... Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, một số (chúng sanh), sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh?

4) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, có loại (chúng sanh) làm hai hạnh về thân, làm hai hạnh về lời nói, làm hai hạnh về ý. Chúng nghe nói như sau: “Các Nāgā từ trứng sanh, thọ mạng lâu dài, nhan sắc thù thắng, thọ hưởng nhiều lạc”.

5) Chúng suy nghĩ như sau: “Ôi, mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, chúng ta được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh!"

6) Chúng bố thí đồ ăn. Sau khi thân hoại mạng chung, chúng được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh. Do nhân này, do duyên này, này Tỷ-kheo, ở đây, một loại (chúng sanh), sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh. Chúng bố thí đồ uống... Chúng bố thí vải mặc... Chúng bố thí xe cộ... Chúng bố thí vòng hoa... Chúng bố thí hương... Chúng bố thí hương liệu xoa bóp... Chúng bố thí ngọa cụ... Chúng bố thí nhà cửa... Chúng bố thí đèn dầu. Sau khi thân hoại mạng chung, chúng được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh.

7) Do nhân này, do duyên này, này Tỷ-kheo, ở đây, một loại (chúng sanh), sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các Nāgā từ trứng sanh.

XII-XIV. Ủng Hộ Bố Thí (2-4) (S.iii,245)

(Như kinh trên, câu hỏi được đặt ra với ba loại Nāgā còn lại và câu trả lời nói lên theo mỗi trường hợp)