III. PHẨM TÂM
(CITTA VAGGA)
----
1 bài kệ: Pháp Cú số 33-43.
9 tích truyện.
----
III. 1 - Tích ĐẠI ĐỨC MÊ KỲ DẠ
(Meghiyattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 33-34)
33. “Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ,
durakkhaṃ dunnivārayaṃ;
Ujuṃ karoti medhāvī,
usukāro’va tejanaṃ.”
33. “Tâm xao động không yêu,
Khó giữ, khó kiểm định.
Người trí điều tâm chỉnh,
Như thợ khéo uốn tên.”
34. “Vārijo’va thale khitto,
okamokata ubbhato;
Pariphandati’daṃ cittaṃ,
māradheyyaṃ pahātaveti.”
34. “Như thủy tộc bị vớt,
Bỏ lên bờ xa nước.
Tâm nầy run lạ thường,
Hãy thoát cảnh Ma vương.”
Hai bài kệ Pháp Cú nầy (33-34) Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại núi Cālika (Trà Lý Ca), đề cập đến Đại đức Meghiya (Mê Kỳ Dạ).
(Sự tích Đại đức Meghiya có giải rộng trong kinh Meghiya. Nơi đây chỉ tóm tắt sơ lược.)
Trong thời kỳ Đại đức Ānanda chưa xuất gia, Đại đức Meghiya là vị Sa môn tùy tùng của Đức Bổn Sư, một hôm trông thấy một vườn xoài, cảnh trí u nhã. Đại đức phát tâm mãnh liệt, muốn vào đó để tu tập, mong sớm đắc đạo quả. Đại đức bèn ngỏ lời xin phép Đức Thế Tôn, nhưng Ngài đã ngăn cản Đại đức ba lần mà Đại đức vẫn quyết tâm bỏ Ngài ra đi.
Vào đến vườn xoài, Đại đức cố gắng hành Sa môn pháp, nhưng vì tâm còn dục vọng chưa tự chủ được, nên phiền não dấy lên. Đại đức thối chuyển bèn quay về tạ tội với Đức Bổn Sư.
Khi ấy Đức Bổn Sư quở trách rằng:
- Nầy Meghiya! Tội của ông làm thật nặng nề lắm, Ta đã can ngăn, bảo ông rằng: “Nầy Meghiya, hãy khoan. Hiện giờ Ta chỉ có một mình, chừng nào ta kiếm thấy vị Tỳ khưu khác thay thế cho ông, rồi ông hãy đi.” Ông đã chẳng kể gì đến lời yêu cầu của Ta, bỏ Như Lai một mình mà ra đi. Mang danh Tỳ khưu mà có tâm nông nổi, không vâng lời Như Lai, thì thật là không nên vậy. Trái lại, ông nên sửa đổi tâm mình sao cho nhẹ nhàng uyển chuyển, mềm mại dễ uốn nắn.
Nói rồi Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:
33. “Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ,
durakkhaṃ dunnivārayaṃ;
Ujuṃ karoti medhāvī,
usukāro’va tejanaṃ.”
33. “Tâm phàm xao xuyến rộn ràng,
Rất khó kiểm soát, khó hàng phục thay!
Người trí uốn nắn tâm ngay,
Dễ dàng như thợ có tài uốn tên.”
34. “Vārijo’va thale khitto,
okamokata ubbhato;
Pariphandati’daṃ cittaṃ,
māradheyyaṃ pahātaveti.”
34. “Như thủy tộc nằm vứt trên,
Xa bờ cách nước, vẫy lên hãi hùng.
Tâm nầy run rẩy hãi hùng,
Hãy mau chóng thoát khỏi vùng ác ma.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn ngữ, tiếng Phandanaṃ nghĩa là xao xuyến, rung động khi tiếp xúc với cảnh (đối tượng) là Ngũ trần (Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc).
Capalaṃ: Rộn ràng, không trú vững trong một đối tượng, giống như trẻ con ở miền quê, không giữ được một oai nghi.
Cittaṃ: Tâm là thức (viññāṇa) đây nói về tứ đại tâm, là tâm nương theo đối tượng ở bốn cõi: Dục, Sắc, Vô sắc và Siêu thế.
Durakkhaṃ: Khó gìn giữ tâm không cho nó đeo níu theo Ngũ trần là đối tượng mà nó ưa thích mỗi khi có sự tiếp xúc. Cũng như khó giữ gìn một con bò không cho nó ăn lúa, khi thả nó tự do đi trong đồng lúa chín.
Dunnivārayaṃ: Khó kiểm soát, khó giữ gìn, khó ngăn chận không cho tâm chạy theo đối tượng khác với đề mục đã chọn.
Usukāro’va tejanaṃ: Cũng như người thợ chuốt tên khi vô rừng chọn một khúc cây rễ chắc đem về, đẻo vót thành mũi tên, cho nó trở nên mềm dịu, dễ uốn nắn và đem hơ trên lửa nóng, cho nó trở nên mềm dịu, dễ uốn nắn, đoạn buộc ép nó vào một cây cột thật chặt ngay thẳng, hoàn thành một mũi tên không lệch lạc, mà người ấy dùng bắn một sợi tóc ở đàng xa, với mũi tên ấy, người thợ vào triều biểu diễn tài nghệ bắn cung cho đức vua và bá quan xem, ắt được ban thưởng trọng hậu như thế nào, thì cũng như thế ấy, một nam tử hiền minh có đủ trí tuệ trước hết thọ trì hạnh Đầu đà ngụ nơi rừng vắng để cho phàm tâm của mình bớt xao xuyến rộn ràng. Như người thợ chuốt tên đẻo vót các phiền não thô sơ bên ngoài cái phàm tâm, tẩm nó bằng thứ dầu yêu mến đức tin nơi Chánh Pháp. Hơ nó lên ngọn lửa nóng là sự nhiệt thành tinh tấn cả thân tâm, đoại đem nó lên buộc ép trên cây cột Chỉ, Quán (Samathavipassanā) làm cho nó trở nên ngay thẳng, phẳng phiêu, rồi ắt sẽ thấu triệt các pháp hữu vi, phá vỡ cái khối vô minh vĩ đại, chứng đắc Tam minh, Lục thông, Cửu Chánh Pháp. Khi làm chủ được các pháp siêu nhân ấy rồi, người trở nên là bậc Ứng Cúng tối thượng rất đáng thọ dụng các vật dâng cúng của tín thí vậy.
Vārijo’va: Như là loài thủy tộc, giống vật sống dưới nước như cá.
Thale khitto (bị vứt lên bờ): là bị người ta dùng tay chân, lưới, chài, hoặc phương tiện nào khác bắt được bỏ nằm trên bờ.
Okamokata ubbhato: Trong thành ngữ nầy, chữ Oka có đủ cả hai nghĩa: một là nước, như nói okapuṇṇehi cīvarehi (với những ly đầy nước), hai là chỗ ở như đã nói: Okaṃ pahāya aniketasārī (bỏ nhà làm kẻ lang thang không nhà). Loài thủy tộc sanh trưởng dưới nước, thì nước là chỗ trú của nó vậy. Ubbhato là bị vớt lên, bị kéo lên khỏi chỗ ở.
Pariphandatidaṃ cittaṃ: Cũng như con cá bị vớt lên khỏi nước là chỗ ở thường xuyên của nó, bị bỏ nằm trên khô, nó hằng vùng vẫy như thế nào, thì cái phàm tâm nầy cũng thế; khi nó bị kéo lôi ra khỏi gian nhà ngũ dục mà nó hằng vui say thỏa thích, bị đặt lên đề mục niệm Minh Sát, lúc mà hành giả thân tâm tinh tấn, cần tu nhiệt tâm tinh cần để mau thoát khỏi cái vòng luân hồi, gọi là cảnh giới của ác ma thì nó cũng run rẩy, vẫy vùng không chịu yên lặng. Tuy nhiên là kẻ nam tử, là bậc trí tuệ cũng không vì thấy khó mà bỏ qua hay là xao lãng phận sự rèn luyện tâm mình, uốn nắn nó trở nên chân chánh và dễ sử dụng. Hoặc là: Cái phàm tâm nầy, vì còn bị trói buộc trong vòng luân hồi khổ não, còn ở dưới quyền thao túng của Ma vương cho nên nó run rẩy hãi hùng như loài thủy tộc bị vớt lên khỏi nước vậy. Hãy mau thoát khỏi cảnh giới của ác ma, thoát ra cái gọi là vòng luân hồi khổ não hằng làm cho tâm phàm run rẩy hãi hùng.
*
Bài kệ vừa dứt, Đại đức Meghiya chứng đắc Tu Đà Hườn quả, trong số các Tỳ khưu khác cũng chứng đạt Thánh quả như Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ngài Mê Kỳ Dạ quyết tu thiền,
Ngặt nỗi tâm phàm khó định yên!
Thầy dạy: Hãy khoan chờ thị giả!
Trò xin: Cho gấp đến lâm tuyền!
Rừng sâu tưởng chứa nhiều pháp tịnh,
Cảnh vắng càng sanh lắm sự phiền!
Rốt cuộc lui về nương bóng Phật,
Buổi nầy, chưa hiệp đủ nhân duyên.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC MEGHIYA
33. Like the fletcher the arrow the wise one straightens the fickle mind.
33. Người trí làm thẳng tâm dao động như thợ rèn tên làm thẳng mũi tên.
33. Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ,
durakkhaṃ dunnivārayaṃ;
Ujuṃ karoti medhāvī,
usukāro’va tejanaṃ. (3:1)
33. Mind agitated, wavering,
hard to guard and hard to check,
one of wisdom renders straight
as arrow-maker with a shaft.
34. Like a fish out of its watery abode, this mind trembles at having to abadon Māra’s realm.
34. Giống như con cá ra khỏi nước, tâm này dao động vì phải từ bỏ cảnh giới Ác ma.
34. Vārijo’va thale khitto,
okamokata ubbhato;
Pariphandati’daṃ cittaṃ,
māradheyyaṃ pahātaveti. (3:2)
34. As the fish from watery home
is drawn and cast upon the land,
even so flounders this mind
while Māra’s Realm abadoning.
----
III. 2 - Tích VỊ TỲ KHƯU Ở THỦY LƯU THÔN
(Aññatarabhikkhavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 35)
35. “Dunniggahassa lahuno,
yatthakāmanipātino;
Cittassa damatho sādhu,
cittaṃ dantaṃ sukhāvahanti.”
35. “Lanh lẹ khó kiểm thúc,
Mê say theo ngũ dục.
Lành thay điều phục tâm,
Tâm điều dưỡng hạnh phúc.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự tại Tinh xá Jetavana (Tinh xá Kỳ Viên), đề cập đến một vị Tỳ khưu nọ.
Tương truyền rằng: Nơi miền sơn cước, thuộc lãnh thổ vương quốc Kosala, có một ngôi làng tên Mātikagāma (Thủy Lưu thôn), là một địa phương cư dân trù mật.
Một lần nọ, có sáu mươi vị Tỳ khưu xin Đức Bổn Sư khẩu truyền đề mục niệm cho đắc A La Hán quả. Rồi cùng nhau đi kiếm nơi hành đạo và đồng vào khất thực trong Mātikagāma.
Khi ấy, vị thân mẫu của thôn trưởng Mātikagāma trông thấy chư Tăng, bèn rước thỉnh vào nhà, mời ngồi đàng hoàng rồi dâng cúng các thực phẩm thượng vị. Sau đó, bà bạch hỏi rằng: “Bạch Đại đức Tăng, chẳng hay quí Ngài định đi đến đâu?”.
- Nầy bà đại tín nữ, chư Tăng đi tìm chỗ thuận tiện, thuận cảnh.
Bà đại tín nữ hiểu ngay là: “Ý các Ngài muốn tìm kiếm chỗ để an cư.” Bà liền sụp xuống đảnh lễ và yêu cầu:
- Nếu quí Ngài lưu lại nơi đây trong ba tháng an cư nầy, tôi sẽ xin thọ trì Tam qui và Ngũ giới và thọ luôn Bát giới vào những ngày Bát quan trai.
Chư Tăng bảo nhau: “Chúng ta nương nhờ bà nầy khỏi phải đi khất thực, chắc có thể hành đạo đến nơi rốt ráo được.” Thế là, chư Tăng hoan hỷ nhận lời.
Bà đại tín nữ lo cất lên một ngôi đạo tràng Tinh xá rồi cúng dường đến chư Tăng.
Một hôm nọ, sau khi đã ở yên, chư Tăng tập hợp đông đủ và cùng khuyến dụ lẫn nhau rằng: “Nầy chư huynh đệ, chúng ta không nên hành đạo một cách dể duôi cẩu thả. Quả thật, tám cảnh địa ngục đang mở rộng cửa chờ kẻ dể duôi, như chờ đón ông chủ sắp trở về nhà. Vả lại, chúng ta đã thọ giáo đề mục do chính Đức Phật hiện thế khẩu truyền rồi mới đến đây. Ân huệ của chư Phật chúng ta không thể nào hưởng bằng cách gian dối được. Ta hãy là người không phóng dật, ta không nên đứng hay ngồi hai vị một chỗ với nhau. Buổi tối, trong giờ phục dịch các vị Trưởng lão, và buổi sáng trong giờ đi khất thực chúng ta sẽ họp mặt nhau. Ngoài ra trong những thời khác, chúng ta không nên ở chung hai vị trong một chỗ. Thảng như có vị Tỳ khưu nào thân thể bất an, đến đánh kẻng ở giữa đạo tràng để kêu gọi, chúng ta nghe tiếng hiệu lịnh sẽ đến lo thuốc men, săn sóc vị ấy.”
Sau khi đồng ý, chư Tăng giữ đúng theo lời giao ước, mỗi vị ở riêng một nơi để hành đạo.
Thế rồi, một hôm vào buổi sáng, bà đại tín nữ dẫn cả đoàn tôi tớ và gia đinh mang theo những thứ thuốc ngừa bệnh như bơ, đường… đi vào Tinh xá. Vào đến nơi, bà không thấy vị Tỳ khưu nào cả, bà hỏi những người lân cận:
- Các Ngài đi đâu hết cả rồi?
- Chắc các Ngài đang ngồi riêng nơi chỗ hành đạo của mình.
Nghe đáp như vậy, bà lại hỏi:
- Ta phải làm sao mới được gặp các Ngài đây?
Khi ấy, có một người hiểu biết nội qui giao ước của chư Tăng, mới thưa rằng: “Thưa bà! Hễ nghe tiếng kẻng thì chư Tăng sẽ hội lại.”
Bà đại tín nữ liền sai gia nhân đánh kẻng.
Chư Tỳ khưu nghe được tín hiệu bất thường, nghĩ chắc có vị Tỳ khưu nào thọ bịnh nên kêu gọi, bèn rời chỗ ngụ riêng biệt của mình, tập trung vào Tinh xá. Khi đi thì mỗi vị từ mỗi ngã đến, không ai đi chung đường với ai. Bà đại tín nữ thấy vậy, lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Chắc là các con trai của ta (Mamaputta) đã sanh sự bất hoà với nhau.”
Sau khi đảnh lễ Đại đức Tăng, bà hỏi:
- Bạch chư Đại đức, các Ngài sanh sự bất hòa phải chăng?
- Chư Tăng không có sự bất hoà đâu, nầy bà đại tín nữ.
- Bạch các Ngài, nếu các Ngài không sanh sự bất hòa thì tại sao khi mới đến nhà chúng tôi, tất cả các Ngài cùng đi chung, còn bây giờ thì các Ngài từ chỗ ngụ riêng rẽ, mỗi Ngài đi một mình đến đây?
- Nầy bà đại tín nữ, chư Tăng đang hành Sa môn pháp, thì mỗi vị phải ở riêng mỗi nơi.
- Bạch các Ngài! Sa môn pháp đó là cái chi?
- Nầy bà đại tín nữ, chư Tăng niệm đề mục ba mươi hai thể trược và quán sự sanh diệt của danh sắc.
- Bạch các Ngài! Sự niệm ba mươi hai thể trược và quán sự sanh diệt của danh sắc như vậy, đó là công việc riêng của các Ngài hay là của cả chúng tôi nữa?
- Nầy bà đại tín nữ, pháp đó Đức Thế Tôn không cấm đoán ai cả.
- Thế thì xin các Ngài hoan hỷ dạy chúng tôi niệm ba mươi hai thể trược và quán sự sanh diệt của danh sắc.
Chư Tăng bèn đem pháp Thiền Chỉ - Quán truyền dạy tất cả cho bà đại tín nữ học tập.
Từ đó về sau, bà đại tín nữ lo chăm niệm ba mươi hai thể trược xong, quán luôn sự sanh diệt của danh sắc trong tự ngã, liền chứng đắc đạo quả A Na Hàm trước cả chư Tăng, đồng thời bà cũng đạt được tứ phân tích với thần thông thắng trí.
Sau khi hưởng thụ hương vị đạo quả, bà dùng thiên nhãn quan sát xem thử coi: “Chừng nào các con trai của ta mới đạt đến pháp nầy?”. Bà thấy rằng: “Tất cả chư Tăng đều chưa đắc thiền định đạo quả chi hết. Vì tâm còn vướng tham, sân, si.” Bà lại quán xét xem: “Các con trai ta có căn lành chứng đắc A La Hán chăng?”. Bà thấy rằng có, bà lại quán xét thử: “Chỗ ngụ có được thích hợp chăng?”. Bà thấy rằng chỗ ngụ thích hợp, bà lại tìm xét rằng: “Bạn lữ có thích hợp chăng?”. Bà lại thấy rằng bạn lữ thích hợp.
Khi quán đến vật thực có thích hợp chăng, bà lại thấy rằng: “Vật thực chẳng thích hợp với chư Tăng!”.
Từ đó về sau, bà lo nấu dọn nhiều thứ khác nhau, vô số thứ kẹo ngọt, nhiều món ăn mới lạ đặc biệt, rồi thỉnh chư Tăng vào ngồi trong nhà, xối nước khai mạc lễ cúng dường và ngỏ lời yêu cầu là:
- Bạch chư Đại đức, các Ngài cần dùng món nào, xin cứ tự tiện lấy món đó mà độ đi.
Được lời thỉnh cầu, chư Tăng thọ dụng món cháo, cơm hay vật thực chi khác, tùy theo sở thích.
Nhờ độ vật thực thích hợp, các Ngài hành thiền đắc định tâm (ekaggaṃ cittaṃ), với tâm định các Ngài càng tăng tiến pháp Minh sát (Vipassanā), không bao lâu chứng đạt A La Hán quả. Khi ấy, chư Tăng nghĩ rằng: “Quả thật, nhờ ơn bà đại tín nữ, chúng ta mới thành đạt được như vầy, nếu thiếu vật thực thích hợp thì chúng ta chẳng hưởng thụ được Đạo Quả. Bây giờ chờ khi ra hạ, tự tứ Tăng rồi, chúng ta sẽ trở về yết kiến Đức Bổn Sư.”
Đến khi mãn mùa hạ, chư Tăng đến từ giã bà đại tín nữ:
- Hôm nay chư Tăng chúng tôi định về yết kiến Đức Bổn Sư.
Bà đáp: “Lành thay! Bạch các Ngài.”
Nói rồi, bà theo tiễn chân, đưa chư Tăng đi một đỗi đường, vừa thốt lên những lời ưu ái, bà còn nói:
- Bạch các Ngài, xin các Ngài có dịp nào rảnh thì các Ngài đến thăm viếng, nhắc nhở chúng tôi.
Khi chư Tăng về đến Tinh xá Jetavana, gần thành Sāvatthī, sau khi đảnh lễ Đức Bổn Sư, ngồi qua một bên xong. Đức Bổn Sư phán hỏi: “Nầy các Tỳ khưu! Các ông hành đạo có kham nhẫn không? Có khỏi phải đi bát vất vả không?”. Chư Tỳ khưu đáp:
- Bạch Ngài, chúng con hành đạo kham nhẫn và tự túc dễ dàng. Bạch Ngài, chúng con khất thực không bao giờ vất vả. Thật vậy, nhờ một bà đại tín nữ là mẹ của thôn trưởng ở Mātikagāma biết được tâm niệm của chúng con mỗi khi chúng con ước muốn: “Chà phải chi mình được cúng dường món ăn danh sắc như thế!” thì bà liền đem cúng dường món ăn mà chúng con ước muốn ngay.
Chư Tỳ khưu hết lời tán dương công đức của bà đại tín nữ.
Một vị Tỳ khưu nọ, được nghe chư Tăng nhập hạ tại Mātikagāma, tán dương công hạnh của bà đại tín nữ. Cũng muốn đến đó hành đạo, bèn xin thọ giáo đề mục thiền định nơi Đức Bổn Sư và bạch rằng: “Bạch Ngài, con sẽ đi đến làng Mātikagāma.”
Sau khi bái biệt Đức Bổn Sư, Tỳ khưu nầy khởi hành từ Jetavana du hành lần hồi đến làng Mātikagāma, vào ngồi trong Tinh xá, nghĩ rằng: “Nghe đồn bà đại tín nữ nầy có Tha tâm thông. Nay ta đã đến đây, đi đường xa mệt mỏi, không thể quét dọn Tinh xá được, phải chi bà gởi một người nam đến cho phục dịch bần tăng.”
Bà đại tín nữ đang ngồi ở nhà, quán thấy tư tưởng của vị Tỳ khưu mới đến, bèn gọi một gia đinh vào bảo:
- Nầy con, hãy vào Tinh xá, phụ đỡ công việc cho vị Đại đức đi.
Tên gia đinh vânh lịnh chủ, vào quét dọn trong Tinh xá. Khi ấy, vị Tỳ khưu khát nước, bèn ước rằng: “Chà, phải chi bà ấy có nước giải khát gởi đến cho ta dùng nhỉ?”.
Bà tín nữ liền gởi nước giải khát.
Vị Tỳ khưu lại ước: “Phải chi sáng ngày mai bà tín nữ đến cúng dường ta cháo nấu thật nhừ với thực phẩm hảo hạng.”
Bà đại tín nữ cũng làm thỏa mãn vị ấy. Độ cháo xong rồi, Tỳ khưu lại ước: “Chà, phải chi bà có thứ kẹo bánh ngọt đó thì gởi đến cúng dường cho ta.”
Bà đại tín nữ lại cho người mang thứ bánh kẹo đó đến dâng. Vị Tỳ khưu lại nghĩ rằng: “Ta ao ước bất cứ thứ gì, bà tín nữ ấy đều gởi đến cả. Bây giờ ta muốn gặp mặt bà, phải chi bà cho người mang cúng dường đến ta thứ vật thực thượng vị, còn bà thì đi tay không đến đây.”
Bà tín nữ kêu gọi gia đinh: “Con trai ta muốn gặp mặt ta. Vậy các con hãy chờ ta cùng đi một lượt.”
Cho gia đinh mang theo vật thực, bà đi đến Tinh xá cúng dường vị Tỳ khưu. Độ xong bữa, vị Tỳ khưu hỏi bà đại tín nữ:
- Phải bà là Mātikamātā chăng?
- Bạch Ngài, phải.
- Nầy bà đại tín nữ, bà có Tha tâm thông phải chăng?
- Bạch Ngài, tại sao Ngài lại hỏi tôi như thế?
- Tôi ước trong tâm vật nầy, vật nọ, thấy sao bà làm đúng theo tất cả, nên mới hỏi bà như thế.
- Bạch Ngài, chư Tỳ khưu biết được tâm người khác cũng có nhiều vị.
- Nầy bà đại tín nữ, tôi không hỏi người khác, tôi chỉ hỏi mỗi một mình bà thôi.
Mặc dầu có Tha tâm thông, nhưng bà đại tín nữ cũng không khoe khoang “Tôi biết được tâm người khác”, bà chỉ trả lời: “Nầy con trai (Putta), những ai có Tha tâm thông thường làm như thế đó.” Nghe vậy, vị Tỳ khưu lo ngại rằng: “Quả thật vậy, việc nầy chướng ngại cho ta quá, còn là phàm nhơn thì trong tâm còn có những tư tưởng quàng xiên ô trược, lẫn lộn với những tư tưởng chơn chánh thanh cao. Nếu rủi mà ta nghĩ đến điều không phải, thì cũng bị bà nầy thấu rõ tới tim đen của ta, y như kẻ trộm bị người nắm chóp mai, bắt được với tất cả tang vật. Vậy ta phải chạy cho xa chỗ nầy.”
Nghĩ rồi, vị Tỳ khưu bảo bà Mātikamātā rằng:
- Nầy bà tín nữ, tôi sẽ ra đi ngay bây giờ.
- Bạch Đại đức, Ngài đi đâu?
- Tôi trở về với Đức Bổn Sư, bà tín nữ à.
- Bạch Ngài! Xin thỉnh Ngài hãy ở lại đây.
- Tôi không thể ở lại đây đâu. Này bà tín nữ, tôi nhất định sẽ ra đi.
Nói rồi, vị Tỳ khưu ra khỏi Tinh xá, lên đường trở về chỗ ngụ của Đức Bổn Sư.
Khi vị Tỳ khưu về đảnh lễ Đức Bổn Sư, Ngài phán hỏi:
- Nầy Tỳ khưu, ông không còn ở lại tại chỗ ấy sao?
- Vâng, bạch Ngài con không thể ở tại chỗ ấy được.
- Tại cớ nào vậy, Tỳ khưu?
- Bạch Ngài! Bà tín nữ ấy có Tha tâm thông, biết rõ cả những tư tưởng của người khác, con còn là phàm nhân, con có những ý nghĩ thanh cao xen lẫn với những dục vọng bất hảo. Nếu như con nghĩ tưởng đến điều chi sái quấy, sợ e bà ấy biết rõ tâm xấu của con, như người ta nắm lấy chóp mao của kẻ gian phi với những tang vật. Vì vậy, con không dám ở đó, phải trở về đây.
- Nầy Tỳ khưu! Nếu quả như thế thì ông nên ở lại nơi đó.
- Bạch Ngài, con không thể trở lại nơi đó nữa.
- Nầy Tỳ khưu, có thể ở lại nơi đó được, nếu ông có thể gìn được một vật.
- Bạch Ngài, vật chi?
- Cái tâm của ông. Tâm là vật rất khó kềm giữ, nhưng ông phải cố gắng chế ngự nó, đừng nghĩ tưởng đến việc nào khác. Tâm là vật khó bắt giữ được.
Nói đoạn Đức Bổn Sư ngâm lên kệ ngôn:
35. “Dunniggahassa lahuno,
yatthakāmanipātino;
Cittassa damatho sādhu,
cittaṃ dantaṃ sukhāvahanti.”
35. “Tâm phàm ngũ dục mê sa,
Biến hoá lanh lẹ khó mà bắt thay!
Người thu thúc được tâm nầy,
Mới là thong thả tháng ngày yên vui.”
*
CHÚ GIẢI:
Dunniggahaṃ: Khó giữ, khó kềm chế cái tâm phàm lắm.
Lahuno: Lanh lẹ, là nói về tốc độ sanh diệt của tâm trong từng sát na (Khaṇa), vì lẽ tâm sanh diệt liền liền, biến đổi luôn luôn nên khó mà nắm giữ kềm chế nó được.
Yatthakāmanipātino: Hễ ưa thích chỗ nào thì sa đọa theo chỗ ấy, không kể gì giới hạnh. Quả thật tâm phàm không biết chỗ nào nên, chỗ nào hư, chỗ nào phải, chỗ nào quấy. Không phân biệt giai cấp, tông tộc chi cả, hễ ưa thích chỗ nào thì nó mê sa theo chỗ ấy mà thôi.
Citassa damatho sādhu: Lành thay, nếu tâm phàm ấy được điều phục bằng bốn Thánh đạo. Lành thay! Nếu tâm phàm ấy được bình tịnh hoá, (cittaṃ dantaṃ sukhāvahaṃ) vì sao? Quả nhiên, vì người điều phục tâm hưởng được hạnh phúc, nhờ tâm định tĩnh, người sẽ hưởng thụ được sự an lạc của đạo quả và sự an lạc tối đại Níp Bàn chẳng sai.
*
Bài kệ vừa dứt, trong số chư Tăng hiện có, nhiều người chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả, đại chúng thính pháp cũng được hưởng sự lợi ích.
Đức Bổn Sư phủ dụ Tỳ khưu bằng huấn từ sau đây:
- Nầy Tỳ khưu! Ông cứ đi đến đó hành đạo. Đừng lo nghĩ vẩn vơ khác mà làm chi.
Vị Tỳ khưu thọ lãnh huấn từ của Đức Bổn Sư ra đi, đến làng Mātikagāma, ngày đêm chuyên lo gìn giữ tâm mình, ngoài ra không tưởng đến việc chi khác.
Bà đại tín nữ dùng Thiên nhãn thông nhìn thấy Đại đức:
- Bây giờ con trai ta đã thọ lãnh huấn từ của đức Thầy rồi nên trở lại đây.
Bà lại dùng Tâm thông để biết rõ ý muốn của vị Tỳ khưu, rồi cho người nấu nướng thực phẩm thích hợp đem đến cúng dường vị ấy. Nhờ độ vật thực thích hợp, mấy hôm sau, vị Tỳ khưu đắc A La Hán quả, hưởng được tịnh lạc của đạo quả. Vị ấy suy nghĩ: “Bà tín nữ nầy hộ độ ta rất lớn, nhờ sự hộ độ nầy mà ta giải thoát được trần lao! Trong kiếp nầy bà hộ ta như thế, không biết trong những kiếp trước, khi ta còn lang thang trong vòng luân hồi bà có hộ ta hay không?”.
Nghĩ rồi, vị Tỳ khưu dùng Túc mạng thông, nhớ lại từ một cho đến chín mươi chín kiếp của mình. Trong chín mươi chín kiếp, có kiếp bà đại tín nữ nầy là bạn gối chăn của vị Tỳ khưu, nhưng lại sanh tâm ngoại tình và hạ sát chồng, thấy sự trắc nết lang tâm của bà vợ trong kiếp ấy, vị Đại đức nghĩ thầm: “Chao ôi! Bà đại tín nữ nầy đã tạo tội ác nặng nề quá lắm.”
Ngay lúc ấy, bà đại tín nữ cũng ngồi trong nhà mình dùng Thiên nhãn thông quán sát vị Tỳ khưu: “Không biết con trai đã đạt đến mục đích cứu cánh của bậc xuất gia chưa?”. Khi biết được vị ấy đã đắc thành A La Hán, bà nói thầm: “Nhờ pháp Minh sát mà con ta đã đắc A La Hán quả; đang nghĩ rằng: Ôi! Bà đại tín nữ nầy có công hộ độ ta rất lớn không biết trong đời quá khứ, bà có hộ độ ta như thế không?”.
Vẫn tiếp tục theo dõi tâm vị Tỳ khưu, bà đại tín nữ thấy vị ấy dùng Túc mạng thông, nhớ lại được chín mươi chín kiếp, bà nói thầm: “Trong chín mươi chín kiếp, có kiếp ta đã giao tình cùng kẻ khác và đã sát hại vị nầy. Vị nầy thấy sự lang tâm trắc nết của ta trong những kiếp trước, nghĩ rằng: “Chao ôi! Bà đại tín nữ tạo tội ác nặng nề thay?”.”
Khi được hiểu biết như vậy, bà đại tín nữ tự hỏi:
- Trong khi lang thang trong vòng luân hồi, trong kiếp trước nữa ta có hộ độ con trai ta không?
Nghĩ rồi, bà cố ôn lại kiếp thứ một trăm, trong kiếp nầy bà cũng là vợ của vị ấy, đã hi sinh mạng sống, chết thế cho chồng: “Ôi! Ta đã là một đại ân nhân cho con trai ta vậy.”
Biết được như thế, bà đại tín nữ ngồi ở nhà mình dùng thần thông nhắc vị ấy rằng: “Ngài hãy hồi cổ xa hơn nữa đi.” Vị Tỳ khưu nhờ Thiên nhĩ, nghe được tiếng nhắc của bà đại tín nữ, bèn nhớ lại tiền kiếp thứ một trăm, thấy được rằng trong kiếp ấy, bà tín nữ nầy đã hi sinh mạng sống, chết thế cho chồng: “Ôi, bà đại tín nữ nầy cũng đã từng là người hỗ trợ ta trong kiếp quá khứ kia mà!”.
Nghĩ như vậy, vị Tỳ khưu rất hoan hỷ, giải đáp về bốn câu hỏi về quả vị tối cao của đại tín nữ ngay tại chỗ ngồi. Vừa dứt lời thì vị ấy viên tịch, chứng đạt Vô Dư Níp Bàn (Anupādisesanibbāna).
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Hai chuyến đi về bến Thủy Lưu,
Cầu mong tín nữ hộ Tỳ khưu,
Nhờ cơm thích hợp thành công lớn,
Mượn cảnh tương nghì, đạt pháp mầu!
Ân trước há đành tâm bội bạc?
Thù sau chi để đạt ưu sầu?
Ngược dòng đời, lướt qua dòng đạo,
Nước chảy thuyền xuôi mãi tận đâu!
DỨT TÍCH TỲ KHƯU Ở THỦY LƯU THÔN
35. It is well indeed retraining this fleeting, wandering mind. Such restraint brings happiness.
35. Tốt lành thay điều phục tâm này đang quay cuồng dao động. Sự điều phục ấy đem đến an lạc hạnh phúc.
35. Dunniggahassa lahuno,
yatthakāmanipātino;
Cittassa damatho sādhu,
cittaṃ dantaṃ sukhāvahaṃ. (3:3)
35. The mind is very hard to check
and swift, it falls on what it wants,
The training of the mind is good,
a mind so tamed brings happiness.
----
III. 3 - Tích VỊ TỲ KHƯU BẤT MÃN
(Ukkhaṇṭhitabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 36)
36. “Sududdasaṃ sunipuṇaṃ,
yatthakāmanipātinaṃ;
Cittaṃ rakkhetha medhāvī,
cittaṃ guttaṃ sukhāvahanti.”
36. “Vi tế khéo lẩn lút,
Đắm chìm trong ngũ dục.
Kẻ trí hộ trì tâm,
Tâm hộ hưởng hạnh phúc.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), đề cập đến một vị Tỳ khưu bất mãn.
Tương truyền rằng: Trong thời gian Đức Bổn Sư ngự gần thành Sāvatthī (Xá Vệ), có một Công tử con nhà triệu phú (Seṭṭhiputto) đến bạch với vị Đại đức quen thuộc với gia đình mình như vầy: “Bạch Ngài! Con có ý muốn thoát khổ, xin Ngài hoan hỷ thuyết pháp nào giải khổ được cho con nghe?”.
- Lành thay! Nầy đạo hữu, nếu đạo hữu muốn thoát khỏi khổ, đạo hữu nên hành pháp bố thí. Hãy cúng dường bằng cách rút thăm chia phần, để bát. Hãy tổ chức Trai Tăng mỗi kỳ sóc vọng, hãy hộ độ chư Tăng đang an cư kiết hạ, hãy dâng cúng tứ sự.”
Đạo hữu nên chia tư sản của mình ra làm ba phần, một phần dành để kinh doanh, một phần cấp dưỡng gia đình vợ con, một phần nữa đem ra bố thí cúng dường Phật pháp.
- Lành thay! Bạch Ngài.
Công tử vâng lời vị Đại đức, tuần tự thực hành các pháp bố thí, rồi lại đến bạch hỏi vị Đại đức rằng:
- Bạch Ngài! Những điều Ngài chỉ giáo cho con, con đã làm xong. Bây giờ con phải làm gì thêm khác nữa?
- Đạo hữu nên thọ trì Tam Qui và Ngũ Giới.
Sau khi đã thực hành những điều nầy, Công tử hỏi pháp cao thượng tiếp theo.
- Thế thì, đạo hữu nên thọ trì Thập giới đi.
Công tử vâng chịu: “Lành thay! Bạch Ngài.” Do nơi cách tạo phước từ thấp tới cao, Công tử được người đương thời mệnh danh là Công tử Tuần Tự (Anupubba).
Sau đó Công tử Anupubba lại bạch hỏi vị Đại đức.
- Bạch Ngài! Còn phước nào cao thượng mà con nên làm nữa chăng?
- Thế thì con hãy xuất gia đi.
Công tử vâng chịu lời vị Đại đức, lìa bỏ gia đình để đi xuất gia. Có được vị Luận Sư là thấy tiếp dẫn và vị Luật Sư là thầy tế độ. Đều là những Đại đức thông suốt về pháp học của mình.
Khi vị tân sư đến gần vị thầy tiếp dẫn, thì được nghe vị ấy thuyết giảng về những đề tài trong tạng Vi Diệu Pháp “Đúng theo chơn lý của Đức Phật đã giác ngộ, pháp nầy nên hành, pháp nầy chẳng nên hành…”. Và khi vị ấy đến gần vị thầy tế độ, thì cũng được nghe thầy mình thuyết giảng những học giới trong Tạng Luật: “Đúng theo chánh pháp của Đức Thế Tôn, điều nầy nên làm, điều nầy chẳng nên làm… Điều nầy hợp lẽ đạo, điều nầy không hợp lẽ đạo…”.
Vị Tỳ khưu ấy suy nghĩ rằng: “Chao ôi! Việc hành đạo nầy thật là phiền phức, ta xuất gia cầu mong đạt được sự thoát khổ, nào ngờ vào tu phải học bù đầu, không được thảnh thơi lúc nào cả. Phải biết trước như thế nầy, ta ở nhà làm cư sĩ, ráng sức tự tu cũng có thể thoát khỏi cái vòng khổ não được vậy.”
Từ đó về sau, Tỳ khưu Tuần Tự sanh tâm bất mãn, chán nản đề mục ba mươi hai thể trược không niệm, Phạn ngữ cũng không học, hình thể gầy còm tiều tụy, mình mẩy nổi gân xanh, tinh thần bạc nhược, ngồi đâu gãi đó.
Khi ấy, các vị Sa di trẻ tuổi nói với thầy Tỳ khưu Tuần Tự rằng: “Sư ơi! Sư làm gì mà đứng ngồi nơi đâu, sư cũng gãi ghẻ, phải sư mắc bịnh huỳnh đản chăng mà coi sư ốm o tiều tụy, mình đầy gân xanh, bần thần dã dượi vậy?”.
- Nầy các đạo hữu, tôi bất mãn lắm.
- Tại sao vậy sư?
Tỳ khưu Anupubba bèn tỏ thật tâm sự của mình. Mấy ông Sa di bèn đem chuyện nầy bạch lại với ông thầy tiếp dẫn và thầy tế độ. Hai ông nầy bèn dắt Tỳ khưu bất mãn ấy đến chỗ ngụ của Đức Thế Tôn, Đức Bổn Sư phán hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu! Các ông đến đây có việc chi cần thiết?
- Bạch Ngài! Tỳ khưu nầy không thỏa mãn ở trong giáo pháp của Ngài.
- Các vị ấy nói thế. Có thật không hỡi Tỳ khưu?
- Dạ đúng, bạch Ngài.
- Tại sao vậy?
- Bạch Ngài, con xuất gia là mong được thoát khổ rồi vô tu, rồi lại được nghe thầy tiếp dẫn thuyết Vi Diệu Pháp, và vị thầy tế độ thuyết về Tạng Luật mà phát mệt, nên con nghĩ rằng: “Nơi đây đầu óc của ta thật là bận rộn, không được thảnh thơi. Phải chi ta cứ làm cư sĩ, ở nhà hành cũng có thể thoát khổ được vậy.”
- Nầy Tỳ khưu! Nếu ông có thể giữ được một vật nầy thì ngoài nó ra, ông khỏi phải lo phòng hộ cái chi khác nữa.
- Bạch Ngài, vật chi vậy?
- Cái tâm của ông! Ông có thể gìn giữ nó được không?
- Bạch Ngài, con có thể giữ được.
- Thế thì ông hãy hộ trì cái tâm của ông, bấy nhiêu đó đủ để ông thoát khổ được.
Ban huấn từ xong, Đức Thế Tôn thuyết kệ rằng:
36. “Sududdasaṃ sunipuṇaṃ,
yatthakāmanipātinaṃ;
Cittaṃ rakkhetha medhāvī,
cittaṃ guttaṃ sukhāvahanti.”
36. “Tâm phàm bị ngũ dục cuốn lôi,
Vi tế, u uẩn, ngược xuôi khó nhìn.
Người khôn phòng hộ tâm mình,
Yên vui nhờ khéo giữ gìn bản thân.”
*
CHÚ GIẢI:
Sududdasaṃ: Do hai tiếng Suṭṭhu và duddasaṃ ghép lại, nghĩa là rất khó thấy, khó biết.
Sunipuṇaṃ: (suṭṭhu nipuṇaṃ) nghĩa là rất mềm, uyển chuyển hết sức vi tế, u ẩn.
Yatthakāmanipātinaṃ: Vui đâu trút đó, cứ để cho ngũ dục cuốn lôi, không kể giai cấp, tông tộc, tuổi tác… Cho cả về mặt giới luật thì bất chấp nên hư, phải quấy cho nên nói là thích đâu là mê sa đó.
Cittaṃ rakkhetha medhāvī: Đối với kẻ ngu si, đần độn thì sự phòng hộ bản tâm không thể có được, còn bậc hiền minh trí tuệ, sau khi làm chủ được tâm, đạt đến mức bình thản vô não hại thì có thể phòng hộ bản tâm, cho nên ông hãy phòng giữ tâm như thế ấy. Quả thật, tâm được phòng hộ thì đem chủ nó đến nơi an lạc, là đạo quả Níp Bàn an lạc vậy.
*
Khi bài kệ vừa dứt, Tỳ khưu bất mãn phát tâm hoan hỷ chứng đắc Dự Lưu quả. Nhiều vị khác cũng chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả. Kỳ dư đại chúng thính pháp đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Công tử đi tu chỉ thích nhàn,
Thấy nhiều Kinh Luật phát bi quan.
Pháp môn bốn vạn chia đầy lối,
Học giới vài trăm rẽ đủ đàng!
Chẳng ở tiếng đời chê bạc nhược,
Không về của đạo chán gian nan!
May nhờ Phật dạy dùng tâm hộ,
Vào được dòng xuôi đến Níp Bàn.
DỨT TÍCH TỲ KHƯU BẤT MÃN
36. The subtle and secretive mind, when well guarded, will yield happiness.
36. Khi được khéo hộ phòng, tâm tế nhị, khó thấy sẽ mang lại hạnh phúc.
36. Sududdasaṃ sunipuṇaṃ,
yatthakāmanipātinaṃ;
Cittaṃ rakkhetha medhāvī,
cittaṃ guttaṃ sukhāvahaṃ. (3:4)
36. The mind is very hard to see
and fine, it falls on what in wants.
One who’s wise should guard the mind
a guarded mind brings happiness.
----
III. 4 - Tích ĐẠI ĐỨC HỘ TĂNG ĐIỆT
(Bhāgineyyasaṅgharakkhitattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 37)
37. “Dūraṅgamaṃ ekacaraṃ,
asarīraṃ guhāsayaṃ;
Ye cittaṃ saññamessanti,
mokkhanti mārabandhanā.”
37. “Tâm đi xa một mình,
Ẩn hang sâu vô hình.
Ai bình tâm khéo giữ,
Thoát vòng Ma kiết sử.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), đề cập đến vị Tỳ khưu pháp danh là Bhāgineyyasaṅgharakkhita (Hộ Tăng Điệt).
Tương truyền rằng: Trong thành Sāvatthī (Xá Vệ), có cậu công tử sau khi nghe pháp của Đức Bổn Sư, bèn lìa bỏ gia đình xuất gia thọ Cụ túc giới, có pháp danh là Saṅgharakkhita (Hộ Tăng), Ngài đã chứng đắc quả La Hán sau vài ngày hành Sa môn pháp.
Người em út của Đại đức, khi có con trai bèn lấy pháp danh của Ngài mà đặt cho con mình, kèm thêm chữ Bhāgineyya (Điệt là cháu) thành ra đứa bé có tên là Bhāgineyyasaṅgharakkhita.
Đến tuổi trưởng thành, Bhāgineyyasaṅgharakkhita xuất gia Sa di với Sư bá, nhưng sau khi thọ Cụ túc, Tỳ khưu ấy lại đi nhập hạ ở một ngôi chùa ở một làng quê.
Khi an cư mùa mưa, Đại đức Bhāgineyyasaṅgharakkhita chia được hai lá y tắm mưa, một lá dài bảy hắc và một lá dài tám hắc tay (hattha: Độ năm tấc tây). Đại đức Saṅgharakkhita cháu nguyện rằng: “Lá y tám hắc tay ta sẽ dâng thầy tế độ, còn lá y bảy hắc tay ta sẽ giữ lại phần ta.”
Đến khi mãn mùa an cư, Tỳ khưu Saṅgharakkhita cháu định về thăm Sư bá, nên vừa đi khất thực tự túc, đi bộ lần hồi về đến Tinh xá của Sư bá, nhằm lúc Đại đức đi vắng. Bhāgineyyasaṅgharakkhita bèn vào Tinh xá, quét dọn trai phòng của Đại đức, múc sẵn nước rửa chân, trải sẵn tọa cụ rồi ngồi nghỉ chờ Đại đức về.
Khi thấy Sư bá mình về gần đến nơi, Hộ Tăng Điệt đi ra rước bát, thỉnh Đại đức vào an tọa, lấy quạt hầu Đại đức, dâng nước uống và rửa chân Đại đức, xong rồi mới lấy y tắm mưa đem đến đặt dưới chân Đại đức:
- Bạch Ngài! Xin Ngài hãy thọ lãnh y nầy.
Nói rồi Bhāgineyyasaṅgharakkhita đứng dậy quạt hầu Đại đức. Khi ấy Đại đức nói:
- Nầy Bhāgineyyasaṅgharakkhita! Y của Sư bá có đầy đủ rồi, con hãy giữ y nầy lại mà dùng đi.
- Bạch Ngài! Từ khi phát sanh con đã nguyện để dành cúng dường Ngài, xin Ngài hãy thọ dụng.
- Nầy Bhāgineyyasaṅgharakkhita, con hãy giữ lại mà dùng, Sư bá có đủ y rồi.
- Bạch Ngài, xin Ngài đừng từ chối. Xin Ngài từ bi thọ dụng cho con được nhiều phước lớn.
Mặc dù Tỳ khưu Saṅgharakkhita cháu khẩn khoản yêu cầu nhiều lượt, Đại đức Sư bá chẳng nhận lãnh y.
Thấy vậy, Tỳ khưu cháu không phải nài nỉ y nữa. Tuy đứng làm thinh quạt hầu vị Đại đức nhưng trong thâm tâm vị Tỳ khưu nầy nghĩ rằng: “Khi còn tại gia mình là cháu Đại đức Sư bá. Khi xuất gia rồi mình là đệ tử của Ngài. Thế mà Ngài không thọ lãnh vật mình dâng cúng. Ngài đã không tưởng tình bác cháu, thầy trò thì mình còn ở đây tu với Ngài làm chi nữa, thà là mình hoàn tục cho rồi.” Nghĩ đến đây, Tỳ khưu Saṅgharakkhita cháu tính thầm: “Đời sống tại gia cũng khó sắp đặt lắm. Hoàn tục rồi, ta sẽ làm gì để sinh nhai đây?”.
Nhớ đến hai lá y, Tỳ khưu Saṅgharakkhita cháu phác họa một chương trình: “Mình sẽ đem lá y tám hắc bán lấy tiền mua một con dê cái, dê cái thì mau sanh con lắm, hễ nó đẻ ra bao nhiêu thì ta bán hết bấy nhiêu, góp nhóp tiền bạc cho khá nhiều, rồi mình sẽ cưới vợ, vợ mình sẽ sanh cho mình một đứa con. Khi ấy, mình sẽ lấy tên bác mình đặt tên cho con, để nó ngồi trong cỗ xe nhỏ, rồi mình đưa cả vợ con đến chào bác mình. Đang đi giữa đường, mình bảo vợ mình rằng: “Em trao con qua cho anh bế.”, vợ mình bảo: “Anh ẵm con mà chi, anh hãy đẩy cỗ xe đi.”, rồi vợ mình bế xốc con lên và nói: “Để em ẵm nó.”, nhưng vợ mình bồng con không quen, buông nó té xuống dưới đường, bánh xe lăn qua cán ngang mình đứa bé. Mình mắng vợ: “Con tao mà mầy không bao giờ chịu trao cho tao, để mầy ẵm một mình không nổi vậy đó, đồ đàn bà hư nói không biết nghe. Mắng rồi, mình xách gậy đập lên lưng vợ mình.” Nghĩ miên man đến đó, Tỳ khưu Bhāgineyyasaṅgharakkhita quên hẳn là mình đang đứng quạt hầu Sư bá, nên cầm cây quạt đánh lên đầu Đại đức Saṅgharakkhita. Đại đức dùng Tha tâm thông quán xem tại sao Đại đức bị cháu đánh lên đầu như thế. Khi biết rõ nguyên nhân, Đại đức nói:
- Nầy Hộ Tăng điệt, ông đánh phụ nữ không được thì thôi. Chớ Đại đức Trưởng lão nầy đâu có mắc mớ gì?
Tỳ khưu Saṅgharakkhita cháu hoảng hốt: “Chết ta rồi! Đại đức Sư bá Ngài có Tha tâm thông, biết rõ dự định của ta hết. Vậy ta còn mặc y Sa môn làm chi nữa.”
Nghĩ vậy, Saṅgharakkhita cháu quăng cây quạt xuống đất và phát bỏ chạy đi. Khi ấy Hộ Tăng Điệt bị các Tỳ khưu và Sa di trẻ đuổi theo bắt lại, dắt đến trước mặt Đức Bổn Sư.
Thấy chư Tăng ấy, Ngài phán hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, các ông đến đây có việc chi cần yếu? Các ông ví được một Tỳ khưu phải không?”.
- Vâng, bạch Ngài, ông Sư nầy bất mãn bỏ chạy đi. Chúng con bắt lại, dắt đến cho Ngài liệu định.
- Nầy Tỳ khưu! Chư Tăng nói vậy có đúng không?
- Bạch Ngài, đúng vậy.
- Nầy Tỳ khưu! Ông làm như thế này có lợi ích chi, chỉ gây tội lỗi nặng nề thì có. Ông há chẳng phải là đứa con trai của một vị Phật tinh cần hay sao? Xuất gia trong giáo pháp của một vị Phật như ta, ông đã không khiến được mọi người nhắc nhở đến ông với một Thánh quả nào? Một bậc Tu Đà Hườn hoặc bậc Tư Đà Hàm, A Na Hàm hay A La Hán ư. Tại sao ông lại tạo nghiệp nặng nề như thế?
- Bạch Ngài, vì con bất mãn.
- Tại sao ông lại bất mãn?
Tỳ khưu Bhāgineyyasaṅgharakkhita đem hết mọi sự trình bày với Đức Bổn Sư, từ lúc mình an cư được hai lá y tắm mưa cho đến lúc đánh quạt lên đầu Sư bá. Thuật hết rồi, Bhāgineyyasaṅgharakkhita bạch rằng: “Bạch Ngài, vì lẽ đó mà con bỏ chạy.”
Đức Bổn Sư bảo rằng:
- Lại đây, Tỳ khưu đừng lo vớ vẩn. Tâm phàm thì nó hay chạy theo cảnh nào mà nó vừa lòng, dầu cho xa vời mấy cũng vậy. Phải ráng tinh tấn thoát khỏi ràng buộc của tham, sân, si.
Rồi Đức Bổn Sư ngâm tiếp kệ ngôn rằng:
37. “Dūraṅgamaṃ ekacaraṃ,
asarīraṃ guhāsayaṃ;
Ye cittaṃ saññamessanti,
mokkhanti mārabandhanā.”
37.“Tâm phàm lén lúc âm thầm,
Ra đi biệt tích vắng tăm một mình.
Hang sâu như ẩn dạng hình,
Người nào điều phục tâm bình mới hay.
Vòng Ma đã thoát ra ngoài,
Không còn trăn trối miệt mài trần lao.”
CHÚ GIẢI:
Dūraṅgamaṃ: Đi xa. Thật vậy, dù không có những chỉ tơ mảnh mai như tơ nhện, phát đi tứ hướng đông, tây, nam, bắc để liên lạc với cảnh, nhưng hễ có cảnh vừa lòng, dẫu xa cách mấy, tâm cũng nhận bắt được cho nên gọi là tâm đi xa.
Ekacaraṃ (đi một mình): Không bao giờ có bảy hay tám tâm nhập chung lại một bó, đồng phát sanh trong một sát na. Lúc sanh thì tâm sanh từng cái một, lúc diệt thì tâm cũng diệt từng cái một, cho nên gọi là tâm đi một mình.
Asarīraṃ (vô hình): Tâm thì không có hình ảnh màu sắc chi cả.
Guhā (hang động): Là tứ đại đất, nước, lửa, gió. Nơi đây chỉ cho sắc trái tim (hadayarūpa), là chỗ tâm nương gá và phát sanh.
Ye cittaṃ (người nào): Chỉ những người nam nữ, tại gia hay xuất gia mà giữ không cho Tùy phiền não phát sanh lên được, dứt trừ được phiền não đã phát sanh, vì sự mất trí hay đã lãng quên.
Saññamessanti: Có ý thức giữ được tâm bình thản, không điên đảo rộn ràng.
Mokkhanti mārabandhanā: Được giải thoát khỏi vòng luân hồi trong tam giới, khỏi cái gọi là Ma phược (Mārabandhanā), là tất cả những dây trói buộc của phiền não Ma vương.
*
Bài kệ vừa dứt, Tỳ khưu Hộ Tăng Điệt chứng đắc Tu Đà Hườn quả. Nhiều vị khác cũng chứng đác Thánh quả, nhất là Sơ quả, kỳ dư thính chúng đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Một lá y choàng chửa bán ra,
Mà Sư Điệt đã tính non già!
Mua dê, để giống, gom tiền bạc,
Cưới vợ, sanh con, viếng Bác nhà.
Quạt đó, nhưng quên Thầy tế độ,
Gậy đâu, lại nhớ bạn quần thoa?
Tỉnh rồi mới biết tâm đi lạc,
Đắc quả nhờ nghe pháp Phật Đà.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC HỘ TĂNG ĐIỆT
37. Restraining the wandering, bodiless, cave-dwelling mind, one is freed from death’s shackle.
37. Khi điều phục được tâm vô hình, hay đi xa và ẩn kính này, con người thoát khỏi dây trói buộc của tử ma.
37. “Dūraṅgamaṃ ekacaraṃ,
asarīraṃ guhāsayaṃ;
Ye cittaṃ saññamessanti,
mokkhanti mārabandhanā.” (3:5)
37. Drifting far, straying all alone,
formless, recumbent in a cave.
They will be free from Māra’s bonds
who do retrain this mind.
----
III. 5 - Tích ĐẠI ĐỨC PHỤC TÂM
(Cittahatthattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 38-39)
38. “Anavaṭṭhitacittassa,
saddhammaṃ avijānato;
Pariplavapasādassa,
paññā na paripūrati.”
38. “Người chưa có định tâm,
Hiểu chánh pháp sai lầm,
Tín đức chẳng kiên cố,
Chẳng đắc tuệ cao thâm.”
39. “Anavassutacittassa,
ananvāhatacetaso;
Puññapāpapahīnassa,
natthi jāgarato bhayaṃ.”
39. “Người hết tâm tham ái,
Không còn ý não hại,
Phước tội đều dứt trừ,
Giác tỉnh không sợ hãi.”
Hai bài kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài an ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), đề cập đến Đại đức Cittahattha (Phục Tâm).
Tương truyền rằng: Thuở ấy có một vị công tử vào rừng để tìm một con bò đi lạc, theo dấu chân con bò đi mãi cho đến cuối giờ ngọ, công tử mới tìm gặp được nó. Đuổi cho nó nhập bầy xong, công tử cảm thấy mình vừa đói lại vừa khát. Nhìn thấy cổng Tinh xá cậu nghĩ rằng: “Mình vào đây xin cơm nước, thế nào chư Tăng cũng cho.” (Trong thời Đức Phật còn tại thế, có vô số thức ăn phụ và canh phát sanh đến chư Tăng luôn luôn.)
Sau khi ăn cơm no, uống nước đã khát, rửa tay và súc miệng rồi, công tử đảnh lễ chư Tăng:
- Bạch các Ngài! Hôm nay chắc là có thí chủ thỉnh các Ngài đến nhà thọ bát mang về.
- Không đâu, nầy ông thiện nam, chư Tăng đi khất thực hằng ngày luôn luôn đều được như thế nầy.
Công tử suy nghĩ: “Mình thức khuya dậy sớm, làm việc không hở tay, cũng chưa có được cơm ngon canh ngọt mà dùng. Mình nghe chư Tăng nói ngày nào cũng độ như vầy thì thật là sướng quá. Mình nên đi tu chớ ở nhà làm gì cực khổ quá.”
Thế rồi, công tử đến xin chư Tăng cho mình được xuất gia nhập đạo.
Khi ấy, chư Tăng đáp: “Lành thay! Ông thiện nam.” và cho công tử được xuất gia ngay.
Thọ Cụ túc giới rồi, tân Tỳ khưu cũng làm hết mọi phận sự lớn nhỏ của một vị Tỳ khưu. Nhờ được thọ hưởng đầy đủ lễ vật phát sanh lên đến chư Thánh Tăng, nên mấy ngày sau vị Sư mới nầy phát phì.
Khi ấy, vị nầy nghĩ rằng: “Thà làm người cư sĩ còn hơn là sống đi trì bình khất thực.” Thế rồi, vị ấy lại hoàn tục trở về nhà. Ở nhà làm công việc được vài hôm thì sút ốm trở lại, thấy vậy chàng nghĩ rằng: “Thà làm vị Sa môn còn hơn ở nhà chịu cực khổ như vậy.”
Nghĩ rồi, công tử lại đến chùa xin xuất gia. Cách vài hôm sau, nhà Sư mới lại bất mãn, nên hoàn tục nữa. Nhưng trong lúc tại gia, công tử vẫn lui tới nơi chùa làm phụ các việc hộ Tăng. Mấy bữa sau, công tử lại bất mãn nghĩ thầm: “Ta nên xuất gia chớ ở nhà làm cái gì.”
Thế là, công tử đến đảnh lễ chư Tỳ khưu và xin xuất gia lại. Khi ấy, chư Tăng nghĩ công người hộ độ nên cũng chiều lòng cho công tử xuất gia trở lại.
Công tử nầy xuất gia đi xuất gia lại tất cả là sáu lần như vậy. Mỗi lần thấy công tử xuất gia thì vị nào cũng nói:
- Ông Sư nầy bây giờ khắc phục tâm được rồi mới xuất gia hành đạo đó.
Vì thế chư Tăng tặng cho vị nầy danh hiệu Cittahattha. Trong thời gian Đại đức Cittahattha hoàn tục rồi xuất gia trở lại nhiều lần như thế thì cô vợ có thai.
Đến kỳ muốn xuất gia lần thứ bảy, công tử từ rừng xách đồ phụ tùng mang về nhà, bỏ xuống và nói:
- Ta sẽ đắp y trở lại.
Rồi đi ngay vô buồng, nhằm lúc cô vợ chửa của công tử ngủ mê, cô ta để tuột y nội, thân thể lõa lồ mà không hay biết, mũi thì ngáy khò khò, miệng thì hả toang hoác, ngó y như thây ma chết sình. Công tử ghê tởm, tự nghĩ: “Đây là Vô thường, Khổ não. Mình đã mấy lần xuất gia lại hoàn tục, cũng tại cái nầy đây mà mình không tu làm Tỳ khưu lâu bền được.”
Đoạn công tử lấy y buộc thắt ngang bụng rồi chạy ra khỏi nhà. Khi ấy, bà mẹ vợ đứng bên nhà kế cận, thấy công tử đi vào nhà rồi chạy trở ra, thì tự hỏi: “Thằng nầy từ rừng mới về nhà, bây giờ lại lấy y vàng buộc ngang lưng bụng chạy trở ra đi về phía chùa. Tại sao vậy cà?”.
Bà nhạc vào nhà thấy đứa con gái của mình nằm hở hang như thế thì biết ngay là: “Thằng nầy nhìn thấy tướng con nầy nằm ngủ phát chán nên bỏ ra đi.”
Bà đánh thức con gái: “Dậy đi! Kāḷakaṇṇi (Hắc Nhi), chồng mầy thấy tướng mầy nằm ngủ, nó chán bỏ đi luôn đó. Từ nay chắc nó không thuộc quyền sở hữu của mầy nữa đâu.”
- Má à! Anh ấy đi rồi anh ấy về nhiều lượt rồi mà, vài bữa đây anh ấy lại trở về, chớ có đi luôn đâu mà sợ.
Công tử Cittahattha đi trên đường, chân đặt bước mà miệng cứ lẩm nhẩm thầm: “Vô thường, Khổ não”, rồi chứng đạt quả Tu Đà Hườn trong lúc đang đi đường.
Đến đảnh lễ chư Tăng xin xuất gia, công tử bị từ chối:
- Chư Tăng không muốn cho ông xuất gia, ông đâu có đủ tư cách làm vị Sa môn. Đầu ông cứng như đá mài dao.
- Bạch các Ngài, xin các Ngài hoan hỷ từ bi giúp con một lần nầy nữa mà thôi.
Chư Tăng lại chiều lòng, cho công tử xuất gia, mấy ngày sau Tỳ khưu Cittahattha chứng đắc A La Hán cùng với Tuệ phân tích, chư Tăng không biết việc nầy, hỏi vị Thánh Tăng mới:
- Nầy đạo hữu! Kỳ nầy sao lâu quá đạo hữu chưa trở về nhà.
- Bạch các Ngài! Hễ còn luyến ái trong tâm thì còn trở về nhà. Ai dứt được tâm luyến ái thì không còn muốn trở về nhà nữa chứ sao!
Chư Tăng kéo đến bạch cùng Đức Thế Tôn:
- Bạch Ngài! Tỳ khưu nầy đã dám nói với chư Tăng như thế. Ông nói như thế tức là nói tráo trở, giả dối phạm đại vọng ngữ.
Nhưng Đức Bổn Sư xác nhận: “Nầy các Tỳ khưu! Ông ấy nói đúng sự thật, con trai Ta trong lúc tâm còn bất định, không thông hiểu chánh pháp thì còn đi đi về về. Nhưng bây giờ thì dứt cả việc phước việc tội.”
Nói rồi Đức Bổn Sư ngâm hai bài kệ như sau:
38. “Anavaṭṭhitacittassa,
saddhammaṃ avijānato;
Pariplavapasādassa,
paññā na paripūrati.”
38. “Người tâm bất định xôn xao,
Không thông Chánh pháp tối cao lạ thường.
Đức tin chẳng được kiên cường,
Thì trí Bát nhã không phương viên thành.”
39. “Anavassutacittassa,
ananvāhatacetaso;
Puññapāpapahīnassa,
natthi jāgarato bhayaṃ.”
39. “Người mà tâm đã tịnh thanh,
Không còn tham ái, gian manh thù hằn.
Phước tội đều dứt tận căn,
Giác tỉnh chẳng sợ lẽ hằng tử sanh.”
*
CHÚ GIẢI:
Anavaṭṭhitacitassa (Người tâm bất định): Tâm phàm là không có chút gì chơn thường, hay là bất biến. Nó giao động luôn luôn không khi nào đứng yên, cũng như trái bí đặt trên lưng ngựa, như cây đòn xóc dựng trên đống trấu, cũng như bông Kadamba để trên đầu trọc vậy. Người nào lúc thì làm nô lệ, lúc thì làm tu sĩ ngoại đạo Ājīvaka, lúc thì tu theo Nigantha, lúc thì tu đạo sĩ, không nhất định theo mãi một con đường nào thì gọi là người tâm bất định.
Saddhammaṃ avijānato (Người không thông Chánh pháp): Người có tâm bất định thì không phân tích được ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề (Sattatiṃsabodhipakkhiya).
Paññā na paripūrati (Không đầy đủ trí tuệ): Không có trí tuệ cao siêu để hiểu biết, phân tích được các pháp trong cõi Dục, cõi Sắc… Nội trong cõi Dục còn chưa biết cho đầy đủ, có đâu mà hiểu biết tới cõi Sắc, rồi từ cõi Sắc mà hiểu biết cho đầy đủ cõi Vô sắc và Siêu thế được.
Anavassutacittassa (Người hết tâm tham ái): Là người đã dứt trừ được tham ái.
Ananvāhatacetaso (Không còn ý não hại): Là không có tâm muốn dùng cây đánh đập, dầu đang lúc giận, không có ý gì muốn đánh đập làm thiệt hại ai.
Puññapāpapahīnassa (Phước tội đều dứt trừ): Là dứt bỏ bốn đạo, gọi là dứt phước, và diệt tận phiền não gọi là dứt tội.
Natthi jāgarato bhayaṃ (Giác tỉnh không sợ hãi): Đây là nói trạng thái giác tỉnh, vô úy của bậc Lậu tận, bậc đã giác tỉnh, thấy được năm pháp giác tỉnh là: Tín, tấn, niệm, định và tuệ, cho nên dầu thức hay ngủ cũng không sợ phiền não là sự sợ hãi, những phiền não người đã đoạn trừ bằng bốn Thánh đạo, không còn theo đuổi người nữa, nghĩa là những phiền não người đã đoạn trừ bằng Tu Đà Hườn đạo là ba kiết sử thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ không còn trở lại theo người nữa, những phiền não nào người đã đoạn trừ bằng Tu Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán đạo, những phiền não ấy có bảy kiết sử, không còn trở lại đeo níu người ấy nữa.
*
Nghe dứt hai bài kệ đại chúng đều hưởng được lợi ích và đắc Thánh quả.
Sau đó, có một hôm chư Tỳ khưu đề khởi Pháp luận trong giảng pháp đường như vậy:
- Nầy chư huynh đệ, những phiền não nầy quả thật là đáng sợ, một vị công tử có đầy đủ căn lành để đắc A La Hán mà còn bị nó lung lạc, tu rồi hoàn tục đến bảy lần như thế.
Đức Bổn Sư nghe được Pháp thoại đề khởi giữa chư Tỳ khưu, bèn ngự hành vào giảng đường, ngự lên Phật tọa xong, Ngài phán hỏi:
- Nầy chư Tỳ khưu! Hôm nay các ông hội thảo chuyện chi thế?
- Bạch Ngài như vầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư xác nhận: “Nầy các Tỳ khưu! Những phiền não đáng sợ là thế, nếu nó phát sanh lên rồi thì ai cũng bị nó chi phối tất cả. Khắp cõi Sa bà từ chư Thiên, Phạm Thiên đến những chúng sanh ti tiện, không một ai thoát khỏi quyền lực của nó. Cả những người đầy đủ trí tuệ như Ta thuở trước, cũng bị bao gồm trong vòng vây của nó, đừng nói chi là ai khác. Quả thật, Ta cũng đã từng vì nửa gáo hột giống và một cái cuốc mà đã hoàn tục, xuất gia cả bảy lần như thế.”
- Bạch Ngài! Lúc nào vậy?
- Nầy các Tỳ khưu! Các ông có muốn nghe chăng?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Thế thì hãy lắng nghe đây.
Đức Bổn Sư thuật lại tiền tích rằng:
Trong thời quá khứ, khi vua Brahmadatta đóng đô tại thành Bārāṇasī, có một thanh niên tên là Kuddālapaṇḍita (Tráp hiền sĩ), xuất gia làm đạo sĩ. Ở tu tám tháng trong miền Tuyết Sơn, đến mùa mua thấy đất ướt Kuddāla nghĩ rằng: “Ở nhà còn nửa gáo hột giống bí ngô, với cái cuốc cùn. Ta đừng để cho mất giống…”.
Nghĩ rồi, chàng hoàn tục, trở về nhà lấy cuốc xới một thửa đất, xới dọn, đem hạt giống bí ngô đi gieo, cắm rào chung quanh để gìn giữ. Đến mùa bí già, hái ăn xong còn tiếc nuối để dành một gáo hột giống mới nữa.
Hết mùa mưa, Kuddāla hiền trí lại tự nghĩ: “Bây giờ ta ở nhà làm gì? Thôi ta hãy xuất gia tu tám tháng nữa đi.”
Thế là hiền trí Kuddāla lìa nhà, vào tu ở trong miền Tuyết Sơn và đến mùa mưa năm sau lại về. Cứ như thế tất cả sáu lần và cũng về nhà sáu lần, cũng vì đạo sĩ tiếc nuối nửa gáo hột giống với cây cuốc cùn. Đến lần thứ bảy, vị hiền trí ấy nghĩ rằng: “Ta đã sáu lần hoàn tục, sáu lần xuất gia lại cũng tại cây cuốc cùn nầy. Cứ giữ nó hoài tu không được, ta hãy đem liệng bỏ nó đi cho rồi.”
Xách cuốc tới bờ sông, hiền trí Kuddāla nghĩ rằng: “Nếu ta thấy biết chỗ nó rớt xuống thì sợ e mình còn lượm lấy lại được, chi bằng mình liệng đừng dòm thấy chỗ nó rơi xuống mới nên.”
Nghĩ kỹ rồi, chàng lấy vải gói gáo hạt giống, đoạn cột gáo hột giống vào cây cuốc, cầm đầu cán cuốc đứng trên bờ sông, nhắm hai mắt lại, quay cái cuốc trên đầu ba vòng cho có trớn chàng ném mạnh nó ra giữa dòng sông. Khi quay đầu mở mắt ra không nhìn thấy dấu vết của cuốc rơi xuống chỗ nào. Hiền sĩ vui thích reo lên ba lần: “Ta đã thắng, ta đã thắng…”.
Trong khi ấy, Quốc vương xứ Bārāṇasī ngự giá thân chinh để bình giặc loạn ở biên cương, ban sư khải hoàn vừa ngự đến bờ sông. Đức vua khoác lên long thể chiếc dục y quí giá, ngự xuống sông để tắm, thì nghe tiếng reo của Kuddāla.
(Các vị lãnh chúa thì không ưa thích tiếng reo: “Ta đã thắng…” như vậy.)
Quốc vương đến gần bậc hiền trí và phán hỏi:
- Trẫm đi bình phiên dẹp loạn, đắc thắng khải hoàn về đến đây. Vừa nghe đạo nhân hô to ba lần: “Ta đã thắng” chẳng hay đạo nhân đã thắng là thắng cái chi?
- Tâu đại vương! Đại vương tuy chiến thắng kẻ tặc loạn bên ngoài, bây giờ tuy nó chịu thua, nhưng cũng có ngày nó dấy binh thắng ngược lại đại vương, còn tôi đã chiến thắng kẻ tặc loạn bên trong là tâm tham ái, không còn sợ bị nó thắng ngược lại. Sự toàn thắng vĩnh viễn như thế mới thật là vẻ vang.
Nói xong, đạo sĩ ngâm lên kệ ngôn rằng:
“Na taṃ jitaṃ sādhu jitaṃ,
yaṃ jitaṃ avajīyati;
Taṃ kho jitaṃ sādhu jitaṃ,
yaṃ jitaṃ nāvajīyati.”
Giao tranh trên bãi chiến trường,
Thắng rồi lại bại lẽ thường xưa nay.
Toàn thắng mới thật là hay,
Thắng không còn bại vì tay địch thù…”
Ngâm kệ rồi, đạo sĩ nhìn xuống dòng sông, lấy nước làm đề mục niệm, đắc Thần túc thông, bay lên ngồi kiết già giữa hư không.
Quốc vương được nghe Pháp của đại nhân thuyết rồi, liền phủ phục long thể xin Ngài nhận làm đệ tử. Đức vua xuất gia cùng với tướng sĩ tùng chinh, thành một đoàn đạo sĩ ở trong một đạo tràng rộng cả một do tuần.
Nghe tin Quốc vương Bārāṇasī đã xuất gia, Quốc vương nước láng giềng cử đại binh định sang đánh chiếm nước nầy. Nhưng khi tiến binh vào giữa thành đô nguy nga tráng lệ mà không hề có quân phòng thủ, Quốc vương xâm lăng nghĩ thầm: “Một kinh đô như vầy mà Quốc vương Bārāṇasī còn bỏ đi xuất gia, thì việc xuất gia nầy không phải là việc thấp hèn đâu. Vậy trẫm cũng nên xuất gia cho rồi.”
Nghĩ vậy, Quốc vương bèn ngự giá thân hành đến tận đạo tràng, xin đại nhân cho mình được xuất gia và đã xuất gia với đoàn quân hộ giá. Lần lượt có tất cả bảy Quốc vương đều xuất gia như trên, thành ra đạo tràng chiếm trọn một vùng đất bảy do tuần. Bảy nhà vua đã phế thải cơ đồ, sự nghiệp, xuất gia chỉ đem theo những người tâm phúc của mình mà thôi.
Đại nhân Kuddāla sống đời phạm hạnh đến khi lâm chung sanh về cõi Phạm Thiên giới.
Thuật hết câu chuyện tiền thân, Đức Bổn Sư dẫn giải rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Ta là hiền trí Kuddāla thuở xưa và những phiền não quả thật là đáng sợ như thế đó.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Cuốc cùn, hột giống tiếc mà chi?
Tạo nghiệp dây dưa chẳng định kỳ?
Đất thịt sáu lần còn nghĩ đến,
Rừng thiêng bảy lượt mãi ra đi.
Tham sân tội lớn nên kinh cụ,
Tín, tấn căn sâu khá chủ trì.
Quyết thắng được mình là đại thắng,
Phục tâm hiền sĩ cũng tướng y.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC CITTAHATTHA
38. A flickle mind, a shallow faith and ignorance of Dhamma lead not one to total wisdow.
38. Tâm dao động, thiếu tín thành và không hiểu chánh Pháp tất nhiên không đưa đến trí tuệ viên mãn.
38. Anavaṭṭhitacittassa,
saddhammaṃ avijānato;
Pariplavapasādassa,
paññā na paripūrati. (3:6)
38. One of unsteady mind,
who doesn’t know True Dhamma,
who is of wavering confidence
wisdom fails to win.
39. A vigilant, lustless, hateless mind which transcends good and evil, knows no fear.
39. Tâm vô sân, lý tuệ, tỉnh giác vượt lên mọi thiện ác không còn biết sợ hãi.
39. Anavassutacittassa,
ananvāhatacetaso;
Puññapāpapahīnassa,
natthi jāgarato bhayaṃ. (3:7)
39. One of unflooded mind
a mind that is not battered,
abandoning evil, merit too,
no fear for One Awake.
----
III. 6 - Tích CÁC TỲ KHƯU QUÁN TỰ NGÃ
(Āraddhavipassakabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 40)
40. “Kumbhūpamaṃ kāyamimaṃ viditvā,
nagarūpamaṃ cittamidaṃ ṭhapetvā;
Yodhetha māraṃ paññāyudhena,
jitañca rakkhe anivesano siyā.”
40. “Biết thân như ngói gạch,
Giữ tâm như thành quách.
Dùng gươm trí đánh ma,
Thủ thắng mãi vô địch,
Mọi ô nhiễm đều xa.”
Kệ Pháp Cú nầy Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại gần thành Sāvatthī (Xá Vệ), có năm trăm Tỳ khưu đến xin thọ giáo đề mục Minh sát với Ngài rồi cùng nhau đi kiếm chỗ hành Sa môn pháp.
Sau khi trải qua lộ trình hằng trăm do tuần, chư Tỳ khưu đến một thị trấn dân cư trù mật. Khi ấy nhiều người trông thấy chư Tăng, bèn ra rước thỉnh các Ngài vào nhà an tọa trên những chỗ ngồi đã được soạn sẵn, dâng cúng vật thực ngon lành xong rồi hỏi rằng:
- Bạch chư Đại đức chẳng hay các Ngài đi đâu vậy?
- Chúng tôi đi tìm nơi cảnh tiện nghi.
Nghe đáp như thế, họ liền yêu cầu rằng:
- Bạch chư Đại đức, nếu có thể xin thỉnh quí Ngài lưu lại nơi đây, trong ba tháng an cư nầy, chúng tôi sẽ nhờ quí Ngài giáo truyền Qui giới để vâng giữ hành theo.
Khi được biết chư Tăng đã nhận lời, họ đưa chư Tăng đến một khu rừng lớn gần đó:
- Xin thỉnh các Ngài hãy trú ngụ lại nơi nầy.
Nói rồi họ cáo từ trở lại làng, để chư Tăng đi vào khu rừng ấy, chư Thiên ngụ trong rừng nghĩ thầm: “Chư Tăng nầy là những bậc có Giới đức, nay lại có dịp quang lâm đến khu rừng nầy, trong lúc quí Ngài cư ngụ nơi đây, mà chúng ta đưa con cháu, em út trèo lên ở trên cây thì coi không được.” Vì thế chư Thiên đều tuột ngồi xuống đất hết, tính thầm rằng: “Chắc quí Ngài chỉ ngụ đỡ một đêm nầy thôi, rồi sáng mai sẽ đi nơi khác.”
Hôm sau, chư Tỳ khưu vào làng khất thực xong, lại trở về khu rừng ấy. Chư Thiên cho rằng: “Chắc hôm nay có ai thỉnh các Ngài, nên các Ngài còn rán ở lại. Hôm nay chưa đi thì mai các Ngài sẽ đi vậy.”
Chư Thiên cứ ở dưới đất với sự hy vọng từng ngày như vậy cho đến nửa tháng, khi đó chư Thiên nghĩ thầm rằng: “Chắc chắn quí vị Đại đức nầy trú ngụ tại đây cả ba tháng rồi, suốt thời gian quí Ngài cư ngụ tại đây như thế nếu chúng ta ngự trên cây thì không phải cách, còn nếu chúng ta đem con cái em út nằm ngồi dưới mặt đất cả ba tháng trường thì cũng khó nhọc cho chúng ta. Ta phải làm sao cho chư Tỳ khưu nầy bỏ chạy mới được.”
Thế rồi, chư Tăng hiện ra làm ma nhát chư Tăng, khi thì cho thấy đầu lâu, khi thì cho thấy thân mình mất đầu, khi thì cho nghe tiếng rú kinh dị của phi nhơn, phi nhơn phá phách khắp nơi ngụ của các Ngài, hoặc nơi hành đạo, trên đường đi kinh hành chẳng hạn.
Chư Tỳ khưu mất ăn mất ngủ, sa sút hao mòn lần lần nhuốm bịnh, quí Ngài hỏi lẫn nhau: “Đạo hữu bịnh gì?”.
Vị thì nói tôi đau thần kinh, vị thì nói tôi đau phổi… truy ra nguyên nhân của bịnh thì mới biết là bị ma nhát.
- Nầy đạo hữu, hôm nay tôi thấy một cái đầu lâu ở cuối con đường kinh hành.
- Tôi thì thấy một thân hình không đầu ở trong chỗ ngủ.
- Tôi lại nghe tiếng rú kinh dị ở chỗ ngồi thiền.
- Chúng ta nên bỏ chỗ nầy, kiếm chỗ khác thích nghi hơn, chớ ở đây thấy bất tiện quá.
- Chúng ta hãy về yết kiến Bậc Đạo Sư.
Chư Tăng đồng ý lìa bỏ khu rừng, đi bộ lần hồi về đến chỗ ngự của Đức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài xong rồi ngồi qua một bên. Khi ấy, Đức Bổn Sư phán hỏi chư Tăng:
- Nầy chư Tỳ khưu, chắc chắn nơi ấy các ông không được an vui phải chăng?
- Vâng bạch Ngài! Trong lúc chúng con ở đó có nhiều hiện tượng phát sanh rất đáng sợ, khiến cho chúng con mất sự an vui, chúng con đồng ý cho rằng: “Nơi nầy không tốt, cần phải xa lánh”, nên chúng con rời bỏ nơi ấy mà về đây với Ngài.
- Nầy các Tỳ khưu, các ông nên đến chỗ ở như vậy.
- Bạch Ngài! Không thể được.
- Nầy các Tỳ khưu! Lần trước các ông ra đi không mang theo khí giới. Lần nầy nên lấy khí giới đem theo rồi hãy lên đường.
- Bạch Ngài! Thứ khí giới nào vậy?
Đức Bổn Sư đáp: “Để Ta ban cho khí giới, các ông nhận lãnh khí giới của Ta ban cho rồi hãy đi.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư khẩu truyền dạy hết bài Kinh Từ Bi:
Karaṇīyamatthakusalena
Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca
Sakko ujū ca suhujū ca
Suvaco cassa mudu anatimānīti…
“Pháp hữu ích nên hành cần biết,
Đường Niết Bàn nếu quyết ruỗi giong.
Trí năng, chơn chánh, phục tòng,
Thẳng ngay, mềm mỏng, không lòng cống cao”…
Tiếp theo bài kinh, Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Bài kinh nầy các ông hãy tụng niệm cho thường, từ lúc đặt chân vào khu rừng cho đến lúc đến vòng ngoài Tinh xá, rồi sẽ vào trong… Thôi các ông cứ yên trí lên đường.
Chư Tỳ khưu đảnh lễ từ biệt Đức Bổn Sư, ra đi lần hồi đến bìa rừng ấy, đồng thanh vừa niệm Kinh Từ Bi vừa đi vào trong rừng. Toàn thể chư Tăng ngụ trong rừng đều phát tâm Từ bi, ra nghinh tiếp chư Tăng, xin rước y bát, hoặc xin đấm lưng, hoặc xin bóp tay chân cho các Ngài. Những nơi ăn, chốn ngủ hoặc chỗ hành thiền. Và xúm nhau gìn giữ luân phiên, sắp đặt trang hoàng, không còn có tiếng kêu rú phi nhơn.
Nhờ thuận cảnh, chư Tăng hành đắc định tâm (Ekaggata citta). Nơi chỗ hành thiền ban đêm và ban ngày các Ngài dùng tâm Minh sát quán sự sanh diệt của tự ngã, tiến hành pháp Quán, các Ngài thấy rõ rằng: “Cái bản ngã nầy nó giòn yếu, dễ tan vỡ, cũng như một món đồ gốm vậy thôi.”
Đức Chánh Biến Tri ngự tọa trong hương thất, hiểu biết chư Tỳ khưu ở trong rừng, đang trong trạng thái tiến hành Tuệ Minh sát, bèn gọi các vị ấy và dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, cái bản ngã nầy có tính dễ tan vỡ, chẳng vững bền như thế.
Nói rồi Đức Bổn Sư phóng hào quang sáu màu rực rỡ, hiện kim thân cho chư Tăng ngó thấy như Ngài đang ngồi đối diện, mặc dù lúc ấy Ngài đứng cách xa chư Tăng hàng trăm do tuần, và đọc kệ rằng:
40. “Kumbhūpamaṃ kāyamimaṃ viditvā,
nagarūpamaṃ cittamidaṃ ṭhapetvā;
Yodhetha māraṃ paññāyudhena,
jitañca rakkhe anivesano siyā.”
40. “Thân nầy đã biết mỏng manh,
Như đồ gốm hay bể, thành giữ tâm.
Sẵn gươm trí tuệ đang cầm,
Khá mau đánh dẹp Ma quân vây thành.
Giữ phần thắng lợi về mình,
Chớ đừng đắm trước, mê tình không nên.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng Kumbhūpamaṃ trên đây, nghĩa là sánh như đồ gốm, là do tính giòn yếu, dễ tan vỡ, không bên bỉ lâu dài. Cái khối tập hợp bởi ba mươi hai thể trược, gọi là xác thân nầy đây, ta phải biết nó không bền bỉ gì hơn một món đồ gốm, như chậu đất, như bình sành hay là ngói gạch.
Nagarūpamaṃ cittamidaṃ ṭhapetvā (giữ tâm như thành quách): Thành trì thì mặt ngoài kiên cố, chung quanh phải có hào sâu, lũy cao phải có cửa cho chắc. Bên trong phải có ngăn nắp thứ tự, đường xe rộng rãi, phải có ngã tư, như thế bọn cường khấu bên ngoài muốn vào cướp phá bên trong không thể được, đành phải bỏ đi chẳng khác nào chúng chạm phải núi đá vậy.
Con nhà gia giáo và bậc hiền minh cũng thế, sau khi điêu luyện tâm Minh sát cho kiên cố như thành trì, vị nầy bế cửa thành tâm, đứng vững trong thành.
Yodhetha māraṃ paññāyudhena (Dùng gươm trí đánh Ma): Bọn cướp cầm đủ thứ khí giới, đồng côn, xông đến hãm thành trì, ví như những ma phiền não cần phải diệt tận hay khử trừ với khí giới làm bằng Minh sát tuệ, Thánh đạo tuệ và Bát nhã tuệ.
Jitañca rakkhe (thù thắng): Là giữ phần thắng là tuệ Minh sát vừa mới phát sanh, đừng cho suy giảm, chọn chỗ ở thích hợp, thời tiết thích hợp, thính pháp thích hợp… mà nương theo để hành cho đắc các bậc thiền rồi xuất thiền, dùng tâm thanh tịnh phán xét, thấu rõ các pháp hữu vi, gọi là đem phần thắng lợi về mình.
Anivesano siyā (Mọi ô nhiễm đều xa): Là hãy dứt lìa sự luyến ái, trở thành bậc vô nhiễm.
Cũng như một chiến tướng ở tiền tuyến, sau khi xây đắc thành trì kiên cố rồi mới giao tranh với địch quân đến lúc đói khát có thể cầm theo hoặc buông bỏ vũ khí, tùy thích trở vào thành bế cửa nghỉ ngơi, ăn uống xong rồi lại nai nịch mang theo vũ khí trở ra chiến đấu nữa. Tướng ấy tuy tạm thủ quyền thắng lợi, nhưng cũng còn lo giữ sự thắng, bằng sự phòng vệ, cho đến lúc đánh tan quân địch. Quả thật, nếu lúc chiến tướng đang nghỉ ngơi vui chơi trong thành như vậy, mà địch quân chiếm phá được thành thì cả vương quốc phải lọt về tay kẻ khác vậy.
Cũng như thế ấy, Tỳ khưu mới đắc tuệ Minh sát, nhập thiền nhiều lượt rồi mới xuất thiền thì có thể dùng tâm thanh tịnh gìn giữ sự giác ngộ của các pháp hữu vi, thắng được phiền não Ma vương, nhờ đắc đạo cao thượng. Nếu như vị nầy vui thích Thiền định, không xuất thiền dùng tâm thanh tịnh mà quán đi quán lại cho thấu triệt các pháp hữu vi thì không thể thấu triệt đạo quả. Vì vậy, chỉ nên gìn giữ pháp nào tâm cần gìn giữ, không nên đắm trước mê say theo nó như sau khi định tâm trong đề mục thiền rồi, không nên lưu luyến giữ mãi tâm nơi đó. Các ông hãy hành như vậy.
*
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp dạy các Tỳ khưu như thế. Khi thời pháp chấm dứt, cả năm trăm vị Tỳ khưu chứng đắc A La Hán quả với Tuệ phân tích ngay tại chỗ ngồi bèn tán thán ca tụng kim thân đấng Như Lai, đảnh lễ Ngài rồi lui gót.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Nhờ kinh Bác ái cảm chư Thiên,
Ngũ bá Tỳ khưu ở mới yên.
Hết bị tà ma gây bịnh sợ,
Còn nhờ giả quỉ hộ rừng thiền.
Đem tâm Minh sát xây thành trí,
Lấy kiếm siêu nhân dẹp giặc phiền.
Bản ngã quán rời như ngói bở,
Thoát trần nhẹ bước gót thiên nhiên.
DỨT TÍCH CÁC TỲ KHƯU QUÁN TỰ NGÃ
40. Win over forces of evil with wisdom, fortifying your mind as a guarded city.
40. Hãy dùng trí tuệ chiến thắng các thế lực của Ác ma và hộ phòng tâm như một thành trì.
40. Kumbhūpamaṃ kāyamimaṃ viditvā,
nagarūpamaṃ cittamidaṃ ṭhapetvā;
Yodhetha māraṃ paññāyudhena,
jitañca rakkhe anivesano siyā. (3:8)
40. Having known this urn-like body,
Made firm this mind as fortress town,
With wisdom-weapon one fights Māra
While guarding booty, unattached.
----
III. 7 - Tích ĐẠI ĐỨC TISSA THÚI THÂY
(Pūtigattatissatheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 41)
41. “Aciraṃ vatayaṃ kāyo,
paṭhaviṃ adhisessati;
Chuddho apetaviññāṇo,
niratthaṃ’va kaliṅgaranti.”
41. “Không lâu đâu xác nầy,
Trên đất sẽ nằm ngay,
Với thức bị vứt bỏ,
Như gỗ mục hết xài.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), đề cập đến Đại đức Tissa thúi thây.
Tương truyền rằng: Thuở ấy có một công tử ở thành Sāvatthī (Xá Vệ), sau khi nghe thời pháp của Đức Bổn Sư, bèn ly tục, xuất gia nhập đạo, tu lên Tỳ khưu với pháp danh là Đại đức Tissa.
Trong thời gian đi hành đạo, rày đây mai đó, Đại đức bị nổi đinh sang đầy mình, ban đầu các mụt ngứa chỉ như hột cải, nhưng càng ngày càng lớn thêm ra to bằng hột đậu xanh, hột đậu đen, bằng trái táo lớn, rồi bằng trái a ma lặc (Āmalaka) bằng trái Beluva.
Khắp châu thân Đại đức đầy những ghẻ, lở loét, hôi hám, do đó Đại đức mới có biệt hiệu là Tissa thúi thây.
Về sau, xương cũng mục gãy, Đại đức không còn đi đứng tự mình được nữa, các y nội ngoại của Đại đức dính đầy máu mủ, có đóm giống như ổ tàng ong. Các Tỳ khưu, Sa di đệ tử không thể chịu đựng được mùi hôi thúi, nên không đến gần săn sóc Đại đức, bỏ Đại đức nằm chèo queo một mình.
Chư Phật thì không bao giờ bỏ qua thông lệ quan sát thế gian, mỗi ngày hai lần: Buổi sáng tinh sương, các Ngài bủa lưới trí quán sát từ ngoài thế giới Ta bà vào tới hương thất và buổi chiều chạng vạng tối, các Ngài quan sát từ hương thất trở ra đến ngoại biên.
Trong khi ấy, hình ảnh của Đại đức Tissa thúi thây lọt trong giác võng của Đức Như Lai. Đức Bổn Sư nhìn thấy căn lành của Đại đức Tissa nầy, đắc được quả A La Hán. Ngài nói thầm: “Tỳ khưu nầy bị các bạn đồng tu và các đệ tử bỏ rơi, ngoài Ta ra thì ông không còn ai là nơi nương tựa khác.”
Đức Bổn Sư ngự ra ngoài hương thất, du hành vòng quanh Tinh xá như kinh hành, rồi ngự đến phòng nấu nước (Aggisāla), lấy bình rửa sạch, châm đầy nước, bắt lên lò lửa, rồi đứng chờ cho nước nóng. Khi biết nước đã nóng, Ngài đến nắm đầu giường chỗ Tỳ khưu Tissa đang nằm.
Chư Tăng thấy vậy, liền tranh nhau: “Bạch Thế Tôn! Xin dang ra, để chúng con khiêng cho.”
Rồi chư Tăng xúm nhau nhấc luôn chiếc giường cùng người, đem vào phòng nấu nước.
Đức Bổn Sư khiến chư Tăng lấy chậu chế nước nóng, cởi y vai trái (uttarasaṅga) của Đại đức, vò sạch sẽ rồi đem phơi nắng.
Kế đó, Ngài đến gần Đại đức, bảo Tăng chúng lấy nước nóng thấm ướt mình Đại đức, rồi tắm rửa, kỳ cọ cho sạch sẽ. Khi Đại đức tắm xong thì y được phơi cũng vừa khô. Đức Bổn Sư dạy chư Tăng lấy y nầy vận đỡ cho Đại đức, cởi y nội ra đem đi giặt sạch sẽ rồi phơi ngoài nắng.
Khi y nội của Đại đức khô thì mình của Đại đức cũng vừa ráo nước. Được vận một lá y bên dưới, một lá y bên trên xong. Đại đức cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, nằm định tâm trên giường.
Đức Bổn Sư đứng trên đầu nằm của Đại đức phán rằng:
- Nầy Tỳ khưu! Thân của ông đây, một khi tâm thức lìa bỏ nó rồi, thì nó không còn có chỗ sở cậy, nó sẽ nằm ngay trên mặt đất như khúc gỗ mục mà thôi.
Nói rồi Đức Bổn Sư thuyết lên kệ ngôn:
41. “Aciraṃ vatayaṃ kāyo,
paṭhaviṃ adhisessati;
Chuddho apetaviññāṇo,
niratthaṃ’va kaliṅgaranti.”
41. “Thân nầy hẳn thật không bền,
Rồi đây nó sẽ nằm trên đất mồ.
Không hồn như gỗ mục khô,
Bị đem vứt bỏ vì vô dụng mà.”
*
CHÚ GIẢI:
Paṭhaviṃ adhisessati: Trong lúc bình sanh, thân nầy chỉ nằm trên giường, nhưng rồi đây nó sẽ nằm trên đất trong bãi tha ma.
Chuddho: Bị vứt bỏ, ném quăng đi.
Apetaviññāṇo: Khi tâm thức xuất đi rồi thì cái thân trống rỗng, không có hồn nằm trơ như khúc gỗ.
Niratthaṃ’va kaliṅgaranti: “Như khúc gỗ mục, vô dụng hết xài.” Thật thế, những người thợ giàn trò, đi vào rừng, nếu cần cây ngay thì đốn cây ngay, cần cây cong thì đốn cây cong, xong rồi róc sạch vỏ, chỉ lấy gỗ tốt còn gỗ xấu, mục, lủng lỗ, bị bọng, không có lõi thì vứt bỏ lại. Những thợ giàn trò khác, vào thấy những khúc gỗ vứt bỏ nầy, không ai thèm lấy dùng xài. Tuy nhiên, nếu muốn thì họ cũng lấy làm thanh giường, gỗ chùi chân hoặc băng ngồi ngoài vườn chẳng hạn. Chớ ba mươi hai thể trược trong thân nầy không thể dùng làm được chân giường hay làm được vật chi khác được. Khi tâm thức mất rồi, thân xác nầy trở nên hoàn toàn vô dụng, y như cây mục nát, chỉ chờ ngày bị dẹp bỏ nằm trong bãi tha ma.
*
Khi bài pháp vừa dứt, Đại đức Tissa thúi thân đắc A La Hán quả với Tuệ phân tích. Trong số đó các Tỳ khưu khác cũng có nhiều vị đắc Thánh quả, nhất là quả Dự lưu.
Đại đức Tissa đắc quả A La Hán rồi thì nhập Vô Dư Níp Bàn. Đức Bổn Sư dạy các Tỳ khưu hỏa táng Đại đức, lấy xá lợi để vào Bảo tháp mà thờ.
Chư Tăng bạch hỏi Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài! Đại đức Tissa thúi thây sanh về cõi nào?
- Nầy các Tỳ khưu! Tissa đã nhập Vô Dư Níp Bàn.
- Bạch Ngài! Một vị có đầy đủ duyên lành đắc A La Hán quả như thế, tại sao mà thân xác lại lở lói thúi hôi? Tại lý do nào mà bị gãy xương? Nhờ đâu mà đắc A La Hán quả?
- Nầy các Tỳ khưu! Tất cả những sự kiện nầy đều do tiền nghiệp của ông ta.
- Bạch Ngài! Ông ấy đã tạo những nghiệp gì?
- Nầy các Tỳ khưu! Nếu muốn biết thì các ông hãy lắng nghe.
Đức Bổn Sư dẫn tích rằng:
“Trong thời kỳ của Đức Chánh Biến Tri Kassapa, Tỳ khưu nầy là một người săn chim, sau khi bắt được chim, y đem dâng cho các vị lãnh chúa, còn dư ra thì đem bán. Khi bán không hết, y sợ làm thịt để dành thì thịt chim không còn tươi, nên bẻ lọi giò, lọi cánh chim để chim còn sống mà không thể thoát được, y để chim nằm chung một đống.
Qua ngày sau, y lại đem đống chim ấy ra bán, khi nào săn được nhiều chim thì y cho người nấu nướng chim ấy, tự mình dùng lấy. Một hôm khi phần cơm ngon của y vừa chín thì có vị Đại đức Lậu Tận đang trì bình, đến đứng trước cửa nhà y, thấy Đại đức, y phát tâm tịnh tín nghĩ rằng: “Mình sát hại chúng sanh, ăn thịt cũng nhiều quá rồi. Hôm nay có Đại đức đến đứng ngay trước cửa nhà mình, vậy ta lấy thức ăn ngon lành để dâng cúng Ngài.”
Sau khi thỉnh bát không của Đại đức, y đơm đầy bát ngon với thức ăn thượng vị, đem dâng Đại đức và gieo năm vóc xuống đảnh lễ: “Bạch Ngài! Xin cho con được chứng ngộ quả tối cao của Ngài.”
Đại đức phúc chúc: “Xin cho người được như ý.”
Nầy các Tỳ khưu do tiền nghiệp ấy mà ngày nay Tissa trả quả. Mình mẩy thúi lở, xương gẫy, cũng vì xưa kia đã sát hại và bẻ gẫy chân, cánh chim. Còn quả A La Hán là nhờ để bát cúng dường cơm ngon đến vị Lậu Tận.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Nghiệp ác ngày xưa đã tạo gây,
Báo Ngài Đề Xá khổ thân nầy.
Săn chim bẻ lọi chân cùng cánh,
Gãi ghẻ càu banh mủ lộn mày.
Thịt thúi xương giòn nằm bại liệt,
Trò xa bạn lánh sợ truyền lây.
Định tâm thính pháp rồi viên tịch,
Sớt bát tròn nhân quả cũng đầy.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC TISSA THÚI THÂY
41. Soon this body will lie lifeless, bereft of consciousness, like a worthless log of burnt wood.
41. Chẳng bao lâu thân nầy sẽ nằm bất động, vô thức, giống như khúc gỗ đã cháy hết, trở nên vô dụng.
41. Aciraṃ vatayaṃ kāyo,
paṭhaviṃ adhisessati;
Chuddho apetaviññāṇo,
niratthaṃ’va kaliṅgaranti. (3:9)
41. Not long alas, and it will lie
this body, here upon the earth.
Discarded, void of consciousness,
useless as a rotten log.
----
III. 8 - Tích NAN ĐÀ CHỦ TRẠI BÒ
(Nandagopālakavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 42)
42. “Diso disaṃ yaṃ taṃ kayirā,
verī vā pana verinaṃ;
Micchāpaṇihitaṃ cittaṃ,
pāpiyo naṃ tato kare’ti.”
42. “Cừu địch hại cừu địch,
Oan gia báo oan gia;
Không bằng tâm thiên lệch,
Khiến kẻ ấy đọa sa.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Kosala (Kiều Tát La), đề cập đến ông Nanda (Nan Đà) chủ trại bò.
Tương truyền rằng: Ở thành Sāvatthī (Xá Vệ) có một gia chủ là thuộc hạ của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc), tên là Nanda là một chủ trại bò, rất giàu có, gia tài đồ sộ, sự sản kinh dinh. Người ta bảo nhau rằng: “Cũng như đạo sĩ tóc bính (Jaṭilo) tên Keṇiyo làm người xuất gia, ông Nanda làm nghề nuôi bò, như thế là để gìn giữ tài sản của mình khỏi sự áp chế của đức vua.”
Ông Nanda thỉnh thoảng đem năm món ngưu vị (gorasa) đến biếu ông Anāthapiṇḍika, rồi đến yết kiến Đức Thế Tôn nghe pháp. Sau đó, ông thỉnh Đức Bổn Sư đến nhà ông.
Một hôm đang ngự hành cùng với đại chúng Tỳ khưu trên đường cái. Đức Bổn Sư xét biết rõ căn lành của ông Nanda đã chín mùi rồi, Ngài bèn tách qua con đường nhỏ, ngự đến một gốc cây ngồi gần nhà ông ta.
Ông Nanda đến đảnh lễ Đức Bổn Sư chào hỏi thân thiện rồi ngỏ lời thỉnh Đức Bổn Sư ngự đến nhà ông và ông làm phước cúng dường thực phẩm hương điền có đủ năm thứ ngưu vị đến Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm chủ tọa trong bảy ngày liền.
Đến ngày thứ bảy, Đức Bổn Sư đọc kệ hoan hỷ chúc phúc cho thí chủ xong, thuyết luôn tuần tự pháp, giảng giải từ pháp Bố thí cho đến phước báu của sự Xuất gia.
Khi Ngài chấm dứt pháp thoại, ông chủ trại bò Nanda chứng đắc quả Dự Lưu. Ông ôm bát của Đức Thầy đi theo một quãng đường xa. Khi nghe lịnh dạy: “Ông thiện nam hãy dừng bước.” Ông Nanda bèn đảnh lễ cáo từ Đức Bổn Sư, rồi quay trở lại nhà. Trong lúc ấy, một người thợ săn bắn trúng ông Nanda, khiến ông ta chết ngay lập tức.
Những Tỳ khưu đi sau, thấy vậy đến than phiền với Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài! Ông Nanda chủ trại bò, vì có Ngài đến đây mới làm đại lễ Trai Tăng và đi tiễn chân Ngài nên khi trở về mới bị giết chết, nếu như Ngài không đến đây thì ông ta chưa chết đâu.
Đức Bổn Sư đáp:
- Nầy các Tỳ khưu! Dầu Ta có đến đây hay không đến đây cũng vậy. Trong bốn phương tám hướng, cho dầu ông ta có đi hướng nào cũng không thoát khỏi tử thần. Quả thật vậy, tội khổ nào mà cả bọn cướp và kẻ thù đều không thể gây tại hại cho nhau thì chính cái tâm lệch lạc tà vạy thúc đẩy những chúng sanh nầy phải rơi vào tội khổ ấy.
Nói rồi Đức Bổn Sư đọc kệ rằng:
42. “Diso disaṃ yaṃ taṃ kayirā,
verī vā pana verinaṃ;
Micchāpaṇihitaṃ cittaṃ,
pāpiyo naṃ tato kare’ti.”
42. “Kẻ thù hoặc kẻ oan gia,
Hại nhau, hại ấy vẫn là kém xa.
Cái hại của tâm niệm tà,
Khiến cho kẻ ấy đọa sa một mình.”
*
CHÚ GIẢI:
Hai tiếng Diso disaṃ trên đây, có nghĩa là kẻ cướp gặp kẻ cướp. Vì nói tắt nên ngắt bớt chữ gặp (disvā).
Yaṃ taṃ kayirā: Nếu làm điều nào để hủy diệt đối thủ thì làm ngay điều đó.
Verī vā pana verinaṃ: Câu nầy nghĩa là mường tượng như như câu đầu. Ví như một kẻ cướp phản bội một kẻ cướp, làm thiệt hại đến vợ, đồng ruộng, gia sản… của đồng bọn. Trong lúc đang gây hại thù thì bị đồng bọn bắt gặp quả tang, hoặc là gây thù oán vì một một lý do nào đó, buộc oan trái với một kẻ khác, khi gặp mặt kẻ ấy thì dùng những thủ đoạn độc ác thô bạo để tàn hại y hoặc là cưỡng bức vợ con của y, hoặc là phá hoại ruộng vườn của y, hoặc là giết y chết.
Micchāpaṇihitaṃ cittaṃ: Tâm lệch lạc là đặt vào chỗ sái quấy, là chỗ ở trên con đường thập ác nghiệp (thân ba, khẩu bốn, ý ba).
Pāpiyo naṃ tato kareti: Vì có tâm tà vạy, kẻ ấy ngày càng làm tội lỗi tiêm nhiễm, cho nên gọi là khiến cho kẻ ấy đọa sa vào vòng tội ác. Quả thật, kẻ cướp hoặc kẻ thù hoặc là đối phương của họ, trong kiếp nầy gây khổ cho nhau, hoặc là tàn sát lẫn nhau là cùng.
Trái lại, nếu cái tâm tà vạy, tà kiến, bị đặt nằm trên lộ bất thiện nghiệp trong kiếp nầy, thì nó đưa kẻ ấy đến chỗ diệt vong, hằng trăm kiếp đọa sa vào bốn ác đạo, không cho cất đầu lên nổi.
*
Nghe dứt bài kệ nhiều vị Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Sơ quả. Đại chúng thính pháp cũng hưởng được sự lợi ích.
Vì chư Tăng không hỏi đến tiền nghiệp của cận sự nam Nanda, cho nên Đức Bổn Sư không dẫn giải.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Cúng Phật Trai Tăng đủ bảy ngày,
Nan Đà chết dữ cũng kỳ thay!
Mũi tên oan nghiệt, trăm người rõ,
Quả Thánh Tu Đà, mấy kẻ hay?
Tâm niệm khi lành, khi hiểm ác,
Thân sanh lúc sướng, lúc đọa đày.
Gieo chi gặt nấy, tùy duyên nghiệp,
Tội phước là nhân tạo rủi may.
DỨT TÍCH NANDA CHỦ TRẠI BÒ
42. A misdirected, misguided mind does to a person far greater harm than a bitter enemy.
42. Tâm sai lạc hướng tà gây tai hại cho mỗi người nhiều hơn là một kẻ thù ác độc.
42. Diso disaṃ yaṃ taṃ kayirā,
verī vā pana verinaṃ;
Micchāpaṇihitaṃ cittaṃ,
pāpiyo naṃ tato kare. (3:10)
42. Whatever foe may do to foe,
or haters those they hate
the ill-directed mind indeed
can do one greater harm.
----
III. 9 - Tích ĐẠI ĐỨC TU LỆ DA
(Soreyyattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 43)
43. “Na taṃ mātā pitā kayirā,
aññe vāpi ca ñātakā;
Sammāpaṇihitaṃ cittaṃ,
seyyaso naṃ tato kare’ti.”
43. “Không phải do cha mẹ,
Hoặc thân nhân làm thế.
Chính tâm niệm chánh chơn,
Khiến người cao thượng hơn.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra nhân câu chuyện phát khởi từ thành Soreyya (Tu Lệ Da), về sau chấm dứt tại thành Sāvatthī (Xá Vệ).
Trong thời Đức Chánh Biến Tri an cư gần thành Sāvatthī. Trong thành Soreyya, có công tử con nhà triệu phú Soreyya, cùng với người bạn ngồi chung một cỗ xe nhỏ, nhanh lẹ, gọn gàng đã dắt theo rất đông bộ hạ tùy tùng đi ra phía ngoài thành để tắm.
Ngay lúc đó, Đại đức Mahākaccāyana đang đứng ngoài cổng thành đắp y Tăng Già Lê (Saṅghāṭi) lên mình, định vào thành Soreyya để khất thực, thân sắc của Đại đức sáng đẹp tợ vàng ròng.
Công tử Soreyya trông thấy Đại đức cởi trần, ước thầm: “Cha! Phải chi Đại đức nầy là vợ của mình hoặc là vợ mình có được thân hình sáng đẹp như thân hình của Đại đức nầy.”
Vì nghĩ quấy như thế, công tử mất hết cả nam tướng đột nhiên biến thành một tiểu thơ, hết sức hổ thẹn, Soreyya tuột xuống xe bỏ trốn.
Cả đoàn tùng giả đều thấy tiểu thư, nhưng không ai nhìn ra đó là công tử của mình, nên ngơ ngác hỏi chuyền nhau: “Cái gì thế? Cái gì thế?”.
Người nam hóa nữ nầy đi thẳng một mạch đến thành Takkasilā, chẳng từ giã người bạn cũ của mình, báo hại chàng ta đi tìm công tử Soreyya khắp vùng lân cận chung quanh mà chẳng hề gặp.
Sau khi tắm trở về, nghe Trưởng giả hỏi:
- Còn công tử đâu?
Nhóm bộ hạ đáp: “Chúng con tưởng rằng công tử tắm xong trở về nhà trước rồi!”.
Khi hay tin con mình mất tích, ông triệu phú cho người đi tìm công tử khắp nơi nhưng không gặp, thì buồn rầu than khóc, rồi nấu cơm cúng quảy vì nghĩ rằng công tử đã chết chìm.
Tiểu thư Soreyya đi đường gặp một đoàn lái buôn, bèn đi bộ theo sau chiếc xe của ông đoàn trưởng, nhiều người trông thấy tiểu thư liền hỏi rằng:
- Cô gái đi theo xe chúng tôi, cô là con nhà ai chúng tôi không biết?
- Mấy ông cứ đánh xe đi đi, để tôi đi bộ cũng được.
Nhưng đi lâu mỏi chân, tiểu thư cởi chiếc nhẫn đeo ở ngón tay ra đổi lấy một chỗ ngồi trên xe.
Những lái buôn suy nghĩ: “Trong thành Takkasilā có công tử là con nhà triệu phú của ta chưa có đôi bạn, để ta làm mối chỉ se tơ cho cô nầy với công tử. Chắc ta sẽ được trọng thưởng.”
Thế là họ đi ngay đến công tử nói rằng:
- Thưa ông chủ! Hôm nay chúng tôi đưa về cho ông chủ một bảo nữ (itthīratana).
Nghe vậy, công tử cho mời Tiểu thư Soreyya đến để công tử xem mặt. Khi thấy tiểu thư trẻ trung xinh đẹp, duyên dáng, công tử sanh lòng yêu mến, bèn nhận cưới làm chánh thất.
(Hiện tượng nam hóa nữ hay nữ hóa nam rất thông thường, mặc dầu là khó thấy. Thật vậy, không hề có việc người nam nào chưa từng hóa thành nữ, và cũng không hề có người nữ nào mà không hóa thành nam. Quả nhiên, những người nam đã gian dâm với vợ kẻ khác, sau khi mệnh chung phải thọ khổ hàng trăm kiếp, nằm trong địa ngục và khi tái sanh làm người thì phải mang thân phụ nữ. Chính Đại đức Ānanda là bậc Thánh Thinh Văn đã hoàn thành pháp độ sau một trăm ngàn đại kiếp, nhưng khi còn luân hồi cũng có lần phạm tội tà dâm trong kiếp sanh làm con người thợ rèn. Sau khi mãn kiếp đọa sa vào địa ngục, thọ khổ đền tội xong, do nghiệp còn dư sót, còn phải mang thân phụ nữ, làm vợ người nam trong mười bốn kiếp và trải qua thêm bảy kiếp nữ nhân nữa mới được trở lại làm người nam.
Những phụ nữ, sau khi làm các việc lành như bố thí, trì giới… không muốn mang thân người nữ, nên phát nguyện rằng: “Do phước báu của chúng tôi ngày hôm nay, xin cho chúng tôi được tái sanh làm nam nhân trong ngày vị lai.”, (Idaṃ no puññaṃ purisattabhāvapaṭilābhāya saṃvattatūti.), thì sau khi chết được hóa thân thành nam tử. Chư Thiên nữ hầu hạ Thiên Vương cũng do sự hành đạo chơn chánh mà được hóa sanh thành thiên tử.
Công tử Soreyya nầy vì một lúc dấy ý nghĩ xằng đối với Ngài Mahākaccāyana mà trong kiếp hiện tại hóa thành nữ nhân.).
Ăn ở với con ông triệu phú trong thành Takkasilā, cô Soreyya có thai, mãn mười tháng cô sanh con trai, khi đứa con đầu biết đi lẫm đẫm thì cô lại sanh thêm một đứa con trai nữa.
Thế là cô làm mẹ hai đứa con trai, nếu tính chung trước đó, khi còn là công tử Soreyya cô có được hai con trai, thì cô có tất cả là bốn người con trai.
Lúc bấy giờ, chành thanh niên bạn cố tri của cô đang ngồi trên một cỗ xe nhỏ, dẫn đầu năm trăm cỗ xe bò. Chàng từ thành Soreyya sanh thành Takkasīla. Khi đoàn xe đi vào trong thành, cô Soreyya đứng trên tầng chót tòa lâu đài của mình, mở cửa sổ nhìn xuống đường phố, trông thấy thanh niên thì nhận ra được bạn cố tri, bèn sai nữ tỳ đi mời thanh niên lên lầu thượng, khoản đãi niềm nở, trọng hậu.
Thanh niên không biết chủ nhân nên hỏi:
- Thưa bà! Bà chưa từng tiếp xúc với chúng tôi lần nào, tại sao bà lại hậu đãi chúng tôi như thế nầy, hay là có quen biết với chúng tôi chăng?
- Vâng thưa công tử tôi có quen biết với công tử, phải công tử ở thành Soreyya không?
- Dạ phải, thưa bà.
Bà chủ nhà lại hỏi thăm tình hình sức khỏe của song thân, của vợ con công tử Soreyya. Công tử đáp:
- Dạ thưa bà, tất cả đều bình an vô bịnh… Thưa bà, bà cũng có quen biết với nhà ông triệu phú ấy nữa sao?
- Dạ thưa công tử, tôi biết ông bà có một cậu công tử. Cậu ấy hiện giờ ở đâu?
- Bà ơi! Cậu ấy mất rồi, xin bà đừng nhắc đến nữa. Một hôm tôi với công tử cùng ngồi chung trên cỗ xe nhỏ, đi ra ngoài thành để tắm. Thế rồi, cậu ấy mất tích chúng tôi không biết cậy ấy đi đâu, tìm khắp quanh vùng cũng không gặp cậu ấy. Về báo tin cho ông bà Trưởng giả, hai ông bà khóc lóc thở than, rồi lo liệu ma chay cầu siêu cho cậu…
- Thưa ông, chính tôi là công tử Soreyya đây.
- Thưa bà! Bà có tỉnh trí không? Mà sao bà lại nói như thế. Bạn của tôi là một công tử khôi ngô tuấn tú, đẹp như Thiên tử cõi Thượng thiên kia mà.
- Thưa công tử, chính tôi là cậu ấy, không dám nói ngoa.
Cậu công tử không tin hỏi lại:
- Sao lạ kỳ vậy?
- Ngày ấy, công tử có thấy Đại đức Mahākaccāyana chớ?
- Vâng, tôi có thấy.
- Tôi đã ngắm nhìn Ngài Đại đức, rồi ước ao rằng: “Chà phải chi Đại đức làm vợ mình, hay là vợ mình có thân hình đẹp đẽ như của Đại đức.”, vừa nghĩ quấy như vậy, thì nam tướng biến mất và nữ tướng của tôi hiện rõ rệt ra. Khi ấy, tôi quá hổ thẹn, không dám nói ra cho ai biết cả, bỏ chạy lánh đi chỗ khác đó công tử.
- Ôi thôi! Bạn tệ quá đỗi tệ, tại sao lúc bấy giờ bạn không cho tôi hay? Bây giờ bạn đã sám hối với Ngài Đại đức chưa?
- Thưa công tử chưa, công tử biết Đại đức bây giờ ở đâu không?
- Ngài đang cư ngụ trong thành nầy.
- Nếu Đại đức có trì bình ngang đây. Tôi sẽ xin đặt bát Ngài, cúng dường đến Ngài.
- Thế thì bạn hãy lo sắm sửa lễ vật cho sẵn sàng để chúng ta đi sám hối với Ngài.
Công tử đến chỗ ngụ của Đại đức, đảnh lễ Ngài rồi ngồi nép qua một bên, bạch rằng:
- Bạch Ngài, xin thỉnh Ngài ngày mai nầy đến thọ bát nơi nhà con.
- Nầy công tử, ngươi từ xa đến đây phải chăng?
- Bạch Ngài ! Xin Ngài đừng hỏi con về việc ấy, chỉ xin thỉnh Ngài ngày mai nầy thọ bát nơi nhà con.
Đại đức im lặng nhận lời.
Công tử trở về nhà sắp đặt lễ vật cúng dường trọng thể đến Đại đức. Hôm sau, Đại đức đi ngay đến nhà của công tử. Sau khi thỉnh Đại đức an tọa và cúng dường thực phẩm thượng vị đến Đại đức, công tử dắt cô Soreyya ra quì mọp dưới chân Đại đức: “Bạch Ngài, xin Ngài thứ tội cho bạn con.”
- Chuyện chi thế?
- Bạch Ngài! Cô nầy đây, trước kia là một người nam, bạn thân thiết của con, có lỡ nhìn trộm Ngài và ước quấy như vậy, thành ra mất hết nam tính, hóa ra thân nữ nhân, xin Ngài xá tội.
- Thôi hãy đứng dậy, ta miễn thứ cho cô đó.
Đại đức vừa dứt lời thì tiểu thư Soreyya hoàn hình công tử trở lại như trước.
Sau khi ấy, công tử Takkasilā nói với công tử Soreyya:
- Nầy bạn, hai đứa con nầy do tôi và bạn sanh ra, hoàn thai và hoàn dưỡng chúng, sanh dưỡng cũng đạo đồng, chúng nó là con của chúng ta, vậy chúng ta cứ tiếp tục chung sống ở đây bạn đừng ngại chi cả.
- Bạn à! Tôi đã sống một kiếp là nam nhân, sau đó là nữ nhân và bây giờ trở lại thân nam nhân như trước. Ba lần thay đổi xác thân. Lần đầu, tôi là cha hai đứa con trai, lần sau là mẹ hai đứa con trai khác, cho nên bây giờ đây tôi đã chán ngán đời sống tại gia. Thôi bạn đừng cố gắng lưu tôi lại làm gì. Tôi sẽ đến xuất gia với Ngài Đại đức, hai đứa con nầy xin bạn ráng nuôi nấng, dạy dỗ, đừng bỏ chúng vất vả tội nghiệp.
Nói rồi, công tử Soreyya hôn hít, nựng nịu hai đứa con trai, đoạn nắm tay chúng giao trả tận tay cha chúng, rồi từ giã ra đi đến xuất gia với Ngài Đại đức.
Đại đức cho công tử xuất gia làm Sa di, về sau cho thọ Cụ túc giới, rồi dắt đệ tử lần lượt du hành về thành Sāvatthī.
Từ đấy, người ta gọi vị tân Sư nầy là Tỳ khưu Soreyya.
Hiện tượng biến nam thành nữ của Đại đức Soreyya lúc Ngài chưa xuất gia đã làm chấn động dư luận trong xứ. Thiên hạ đua nhau đến hỏi Đại đức:
- Bạch Ngài! Chúng tôi nghe đồn rằng: Ngài đã hóa nữ, rồi lại hóa nam. Chuyện ấy có thật chăng?
- Quả thật như thế, nầy đạo hữu.
- Bạch Ngài, nếu quả thật vậy, trong hai đợt con ấy, một đợt do Ngài hoài thai và một do hột giống của Ngài, Ngài thương lớp con nào hơn?
- Nầy đạo hữu, những con do tôi sanh thì thương nhiều hơn.
Hết kẻ nầy đến kẻ khác, những kẻ hiếu kỳ luôn luôn tìm gặp Đại đức Soreyya chỉ hỏi bấy nhiêu đó thôi. Đại đức phải lặp đi lặp lại mãi câu trả lời: “Con lọt lòng thì thương hơn.”, vừa thẹn vừa bực, Đại đức tìm lãng vào chỗ thanh vắng để dễ bề hành đạo.
Nhờ hạnh độc cư, Đại đức Soreyya an tâm, quán sự sanh diệt của danh sắc trong tự ngã, chứng đắc A La Hán quả với Tuệ phân tích.
Sau đó, cũng còn nhiều kẻ đến hỏi Ngài nữa:
- Bạch Đại đức nghe đồn rằng: Ngài đã biến tính như thế, có đúng không?
- Quả có thế, nầy đạo hữu.
- Vậy trong hai lớp con của Ngài, Ngài thương đứa nào nhiều hơn?
- Ta không còn yêu thương lớp con nào nữa cả.
Chư Tăng nghe được câu hỏi trả lời của Đại đức bèn tố cáo với Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài! Tỳ khưu nầy đại vọng ngữ, những ngày trước đây ông mới nói: “Con lọt lòng thì thương hơn.” Hôm nay ông lại nói: “Không còn thương con nào hết.” Thế là ông ta dám khoe dối pháp cao nhân, bạch Ngài.
Đức Bổn Sư phán: “Nầy các Tỳ khưu! Con trai của Ta không khoe dối pháp cao nhân, nhờ chánh niệm chánh chơn, con ta đã kiến đạo, nên từ đó về sau không còn thương mến con nào nữa cả. Thật thế, sự nghiệp là Thánh sản mà cả cha lẫn mẹ không thể tạo được cho những chúng sanh nầy, thì chỉ có nội tâm chơn chánh của họ đã ban bố cho họ mà thôi.”
Để giải rộng luận đề trên, Đức Bổn Sư thuyết pháp thoại và đọc lên kệ ngôn rằng:
43. “Na taṃ mātā pitā kayirā,
aññe vāpi ca ñātakā;
Sammāpaṇihitaṃ cittaṃ,
seyyaso naṃ tato kare’ti.”
43. “Chẳng phải do cha mẹ sanh,
Hoặc thân thuộc khác tạo thành mà nên.
Đưa người cao thượng hơn lên,
Chính tâm niệm hướng về bên thiện lành.”
*
CHÚ GIẢI:
Na taṃ: Việc ấy không phải do cha hay mẹ hoặc là những bà con họ hàng nào khác làm nên cho họ được.
Sammāpaṇihitaṃ: Đặt đúng trên lộ Thập thiện nghiệp là bố thí, trì giới, thiền định, tôn kính, phục vụ, hồi hướng công đức, tùy hỷ công đức, thính pháp, thuyết pháp nói đạo, chánh kiến.
Seyyaso naṃ tato kare’ti: Chính nhờ tâm niệm chánh của họ, làm cho họ trở nên quí báu, cao thượng hơn lên.
Thật thế, cha mẹ có thể đem tài sản truyền lại cho con trai mình, nhưng không thể khiến cho chúng sống hạnh phúc suốt đời được, như song thân bà Visākhā là sở hữu chủ của một sản nghiệp kinh dinh đồ sộ dường ấy, đã làm cho bà tài sản lớn, mong rằng bà sống suốt đời hạnh phúc, nhưng cũng tùy theo sức mình mà thôi.
Không thể có cha mẹ nào có thể cho con mình cơ đồ của một bực chuyển luân vương bao trùm bốn châu thiên hạ. Đừng nói chi đến tài sản của chư Thiên, hoặc là tài sản của bậc cao nhân là các mức thiền định, hoặc là tài sản siêu thế là các đạo quả. Thế mà, tâm niệm chánh đạo nằm trên đường Thiện nghiệp có thể cho hành giả tất cả những sản nghiệp phi thường ấy, cho nên nói do cái tâm niệm chánh của họ làm cho họ trở nên quí báu cao thượng hơn lên vậy.
*
Khi thời pháp chấm dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả nhất là Tu Đà Hườn quả. Kỳ dư thính chúng đều hưởng lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Nam mà hóa nữ lại hoàn nam,
Hai gánh gia đình nghĩ hết ham!
Nghĩa vợ tình chồng thôi đã chán,
Lòng cha, dạ mẹ chỉ thêm nhàm.
Dâm căn nguyện dứt, nương thiền quán,
Giới bổn xin gìn, ngụ thảo am.
Tu Lệ Da đi về Xá Vệ,
Nhờ môn tàm quý được siêu phàm.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC SOREYYA
43. A well-directed mind does to a person far greater good than one’s parents or one’s kinsmen.
43. Tâm theo hướng chánh hạnh làm lợi lạc cho mỗi người nhiều hơn cả cha mẹ hay thân quyến nữa.
43. Na taṃ mātā pitā kayirā,
aññe vāpi ca ñātakā;
Sammāpaṇihitaṃ cittaṃ,
seyyaso naṃ tato kare’ti. (3:11)
43. What one’s mother, what one’s father,
whatever other kin may do,
the well-directed mind indeed
can do one greater good.
DỨT PHẨM TÂM
----
IV. PHẨM HOA
(PUPPHAVAGGA)
----
16 bài kệ: Pháp Cú số 44-59.
12 tích truyện.
----
IV. 1 - Tích 500 VỊ TỲ KHƯU ĐÀM LUẬN VỀ ĐỊA ĐẠI
(Paṭhavīkathāpasutapañcasatabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 44-45)
44. “Ko imaṃ paṭhaviṃ vijessati,
yamalokañca imaṃ sadevakaṃ;
Ko dhammapadaṃ sudesitaṃ,
kusalo puppham’iva pacessati.”
44. “Ai thông suốt địa đại,
Diêm nhân thiên giới nầy.
Hiểu Pháp Cú khéo giải,
Như thợ tuyển hoa hay.”
45. “Sekho paṭhaviṃ vijessati,
yamalokañca imaṃ sadevakaṃ;
Sekho dhammapadaṃ sudesitaṃ,
kusalo puppham’iva pacessati.”
45. “Hữu học thông địa đại,
Diêm nhân thiên giới nầy.
Hiểu Pháp Cú khéo giải,
Như thợ tuyển hoa hay.”
Hai bài kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự gần thành Sāvatthī (Xá Vệ) đề cập đến năm trăm vị Tỳ khưu đang đàm luận về địa đại.
Tương truyền rằng: Một buổi chiều, sau khi Đức Thế Tôn vân du nhiều quốc độ. Trở về Jetavana, chư Tăng cùng vào ngồi trong giảng đường đàm luận về địa hình, địa chất, nhắc lại địa phương mình đã lần lượt trải qua “từ làng nọ đến làng kia, đường xa bằng phẳng hay gập ghềnh, lầy lội hay có nhiều sỏi đá, đất màu đen hay màu nâu.”
Đức Bổn Sư ngự vào, phán hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các ông đang ngồi thảo luận việc chi đây?”.
Chư Tăng đáp: “Bạch Ngài, chúng con đang bàn luận về địa đại, nhắc lại những địa phương chúng con đã trải qua.”
Đức Bổn Sư phán dạy: “Nầy các Tỳ khưu, các nơi ấy, thuộc về ngoại cảnh địa đại (bāhirappaṭhavī) mà các ông cần nên chỉnh trang hoàn bị.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư đọc hai bài kệ sau đây:
44. “Ko imaṃ paṭhaviṃ vijessati,
yamalokañca imaṃ sadevakaṃ;
Ko dhammapadaṃ sudesitaṃ,
kusalo puppham’iva pacessati.”
44. “Ai người thông suốt địa hình,
Diêm ma, nhân giới, thiên đình cũng thông.
Ai như thợ khéo tuyển bông,
Pháp Cú khéo giảng, hiểu thông thực hành.”
45. “Sekho paṭhaviṃ vijessati,
yamalokañca imaṃ sadevakaṃ;
Sekho dhammapadaṃ sudesitaṃ,
kusalo puppham’iva pacessati.”
45. “Hữu học thông suốt địa hình,
Diêm ma, nhân giới, thiên đình cũng thông.
Hữu học, thợ khéo tuyển bông,
Pháp Cú khéo giảng, hiểu thông thực hành.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn ngữ Imaṃ paṭhaviṃ nghĩa là địa đại nầy ám chỉ xác thân tứ đại của con người gồm có Danh và Sắc.
Ko vijessati: Ai sẽ thấu triệt, hiểu rành, tự do mình giác ngộ mà biết được rốt ráo, làm cho thấu rõ chân lý.
Yamalokañca: Diêm ma giới, chỉ bốn khổ cảnh địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la.
Imaṃ sadevakaṃ: Nhân, thiên giới, chỉ cho cõi người và sáu cõi trời Dục giới là Tứ Đại Thiên, Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc và Tha Hóa Tự Tại.
Hai câu kệ đầu nhập lại thành một câu hỏi.
Ko dhammapadaṃ sudesitaṃ: Ai hiểu Pháp Cú khéo giải. Những bài kệ Pháp Cú do chính Đức Bổn Sư đã khéo thuyết giảng chính xác, đúng chân lý, gọi là ba mươi bảy nhân phát sanh quả Bồ đề, ví như những đóa hoa tươi tốt của người thợ khéo làm tràng hoa để tuyển chọn. Ai mà nhận chân được giá trị của chúng, sẽ thu thập, nghiền ngẫm, hiểu cho rốt ráo, làm cho thấu rõ.
Hai câu kệ sau nhập lại cũng thành một câu hỏi.
Sekho (Hữu học): Là bậc đã chứng đắc Thánh quả, nhưng còn đang học tập Tam học là Giới, Định, Tuệ, đầu tiên là Sơ đạo, hay Dự Lưu đạo, hoặc Nhập Lưu đạo. Hành giả chứng đạt bậc nầy, chỉ còn sanh lại nhiều nhất là bảy lần, trước khi đắc A La Hán đạo. Trong khoảng thời gian xuôi ngược dòng Thánh vức, bậc hữu học luôn luôn trau giồi Giới, Định, Tuệ, xa lìa tam độc, nhất là tham dục, tự mình thắng phục mình, nhận thức chân xác và làm sao cho thấu rõ bản chất tự ngã, không còn mê đắm nữa. Bậc Hữu học như thế, nhất định sẽ chứng nhập Níp Bàn chậm nhất là sau bảy kiếp.
Như người thợ làm tràng hoa, vào vườn hoa chỉ lựa ròng những bông hoa tươi đẹp rực rỡ, loại bỏ những nụ còn non, những cánh hoa héo úa u nần, bị sâu ăn lủng lỗ. Bậc Hữu học cũng khéo nhận thức trong kinh Pháp Cú do Đức Bổn Sư đã thuyết giảng, những pháp vi tế thâm sâu là ba mươi bảy pháp trợ đạo Bồ đề mà thâu thập, lãnh hội, thấu triệt và làm cho thấu rõ.
*
Đức Bổn Sư nêu ra hai câu hỏi và chính Ngài đã tự giải đáp như trên.
Đến cuối bài kệ năm trăm vị Tỳ khưu đều đắc A La Hán quả với Tuệ phân tích. Đồ chúng thính pháp cũng hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Trên bước quan hà khắp đó đây,
Năm trăm Đại đức gắng theo thầy.
Đôi phen lấn lướt đường cao sỏi,
Lắm lúc xông pha lộ thấp lầy.
Mặt đất Tỳ khưu xem đã rõ,
Dòng tâm sanh diệt quán chưa hay.
Hồi quang phản chiếu trừ tam độc,
Pháp Cú tri hành, chứng Quả ngay.
DỨT TÍCH NĂM TRĂM VỊ TỲ KHƯU ĐÀM LUẬN VỀ ĐẠI ĐỊA
44. Who will comprehend this well-taught Dhamma as a garland-maker selects his flowers?
44. Ai sẽ thấu hiểu Pháp cú khéo giảng nầy như người làm vòng hoa tuyển chọn hoa?
44. Ko imaṃ paṭhaviṃ vijessati,
yamalokañca imaṃ sadevakaṃ;
Ko dhammapadaṃ sudesitaṃ,
kusalo puppham’iva pacessati. (4:1)
44. Who will comprehend this earth.
the world of Yama, and the gods?
Who discern the well-taught Dhamma
As one who’s skilled selects a flower.
45. Like a garland-maker, a Learner on the Path will comprehend this well-taught Dhamma.
45. Giống như Người làm vòng hoa, vị Hữu học trong Chánh Đạo sẽ thấu hiểu Pháp cú khéo giảng nầy.
45. Sekho paṭhaviṃ vijessati,
yamalokañca imaṃ sadevakaṃ;
Sekho dhammapadaṃ sudesitaṃ,
kusalo puppham’iva pacessati. (4:2)
45. One Trained will comprehend this earth
the world of Yama, and the gods,
One Trained discern the well-taught Dhamma
As one who’s skilled selects a flower.
----
IV. 2 - Tích TỲ KHƯU QUÁN BÀO ẢNH
(Marīcikammaṭṭhānikattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 46)
46. “Pheṇūpamaṃ kāyamimaṃ viditvā,
marīcidhammaṃ abhisambudhāno;
Chetvāna mārassa papupphakāni,
adassanaṃ maccurājassa gacche.”
46. “Biết thân như bọt trướng,
Giác thân như huyễn tượng.
Phá vòng hoa Ma quân,
Qua khỏi mắt tử thần.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự gần thành Sāvatthī (Xá Vệ) đề cập đến một vị Tỳ khưu quán bào ảnh.
Tương truyền rằng: Tỳ khưu nầy sau khi thụ huấn đề mục thiền quán nơi Đức Bổn Sư, bèn đi vào trong một khu rừng nọ, lập tâm: “Ta sẽ hành Sa môn pháp.” Sau một thời gian tinh tấn công phu, không chứng đắc A La Hán, vị Sa môn nghĩ rằng:
- Chắc ta còn thiếu sót, để về xin thầy bổ khuyết.
Đi dọc đường, vị ấy trông thấy ảo ảnh phát sanh lên, bèn tư niệm rằng: “Cũng như ảo ảnh phát hiện trong mùa hè, đứng ở xa trông như là có thật, nhưng đến gần thì chẳng còn hình bóng chi cả. Cái thân ngũ uẩn nầy, nó cũng sanh diệt hư ảo như thế thôi.”
Vị Sa môn vừa đi vừa chú tâm quán xét đề mục ảo ảnh, đến khi đường xa mệt mỏi, vị ấy xuống sông Aciravatī (Bất Cửu) để tắm, tắm xong lên ngồi nghỉ trên bờ, vị ấy nhìn xuống dòng nước đang chảy xiết. Trên mặt nước cuồn cuộn nhiều bọt nước nổi lên rồi tan biến. Vị ấy nghĩ rằng:
- Cái thân ngũ uẩn nầy nó cũng nổi lên rồi tan biến như bọt nước mà thôi.
Và vị ấy lấy đề tài nầy làm đề mục tham thiền.
Khi ấy, Đức Bổn Sư đang đứng trong hương thất, Ngài trông thấy vị Tỳ khưu đang ngồi trên bờ sông quán niệm bào ảnh, bèn phán rằng:
- Nầy Tỳ khưu! Tự ngã nầy cũng giống như bọt nước, bào ảnh, nó có tính hằng sanh khởi và hoại diệt như thế mãi.
Nói rồi Đức Bổn Sư thuyết lên kệ ngôn:
46. “Pheṇūpamaṃ kāyamimaṃ viditvā,
marīcidhammaṃ abhisambudhāno;
Chetvāna mārassa papupphakāni,
adassanaṃ maccurājassa gacche.”
46. “Biết thân bọt nước đầu gành,
Giác thân huyễn hóa diệt sanh sự thường.
Phá vòng hoa dục Ma vương,
Qua mắt thần chết lên đường thoát thân.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn ngữ nầy, Pheṇūpamaṃ nghĩa là ví như bọt nước. Cái nhóm ba mươi hai thể giả hiệp, gọi là xác thân nầy đây, nó yếu đuối, mong manh, không trường tồn vĩnh viễn, thoạt sanh diệt từng sát na một, xét ra không khác chi là bọt nước đầu gành.
Marīcidhammaṃ: Nghĩa là ảo ảnh, phát sanh lên do các chất nóng bốc hơi, mặt trời hè đứng ở xa trông thấy giống như cảnh thật ai cũng phải lầm, nhưng khi đến gần thì thấy trống trơn, chẳng có chi hết. Cái giả thân nầy nó giống như cái huyễn, tạm bợ, thay đổi từng sát na, xem gần thì nó giống như ảo ảnh vậy.
Abhisambudhāno: Nghĩa là giác ngộ, thông suốt, hiểu rõ.
Mārassa papupphakāni: Là hãy thoát đi, vượt qua khỏi tầm thấy biết, tức là quyền hạn của tử thần, hãy đạt đến vô sanh bất tử là Đại Níp Bàn.
*
Khi bài kệ chấm dứt, Đại đức chứng A La Hán quả với Tuệ phân tích, bèn thốt lời tán dương ca tụng Kim thân của Đức Bổn Sư. Đoạn đảnh lễ Ngài rồi lui gót.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Dòng nước trôi xuôi, bọt nổi phình,
Nầy thân huyễn hóa kiếp phù sinh…
Trăm năm nhớ lại như tàn mộng,
Một sớm rời đi đã biệt hình.
Tội ác gây nhiều vì ái dục,
Phước lành tạo ít bởi vô minh.
Phải như Đại đức vô rừng vắng,
Gặp Phật tham thiền đắc Quả minh.
DỨT TÍCH TỲ KHƯU QUÁN BÀO ẢNH
46. Viewing this body as foam and a mirage, one avoids the shafts of death and goes beyond him.
46. Thấy thân nầy như bọt nước và ảo ảnh, ta tránh khỏi mũi tên của Thần chết và vượt qua tầm nhìn của Ma.
46. Pheṇūpamaṃ kāyamimaṃ viditvā,
marīcidhammaṃ abhisambudhāno;
Chetvāna mārassa papupphakāni,
adassanaṃ maccurājassa gacche. (4:3)
46. Having-know this froth-like body
and wakening to its mirage-nature,
smashing Māra’s flowered shafts
unseen beyond the Death-king go.
----
IV. 3 - Tích VIḌŪḌBHA
(LƯU LY VƯƠNG)
(Viḍūḍabhavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 47)
47. “Pupphāni h'eva pacinantaṃ,
byāsattamanasaṃ naraṃ;
Suttaṃ gāmaṃ mahogho'va,
maccu ādāya gacchati.”
47. “Kẻ đang mãi hái hoa,
Tâm còn vọng tưởng xa.
Bị Tử thần bắt mất,
Như làng ngủ bị lụt.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana (Kỳ Viên), đề cập đến vua Viḍūḍabha (Lưu Ly Vương) và đoàn tùy giá viễn chinh, đã chết trôi vì nạn lụt.
Thuở ấy ở ba nước láng giềng có ba vị Đông cung Thái tử đồng trang lứa với nhau: Thái tử Pasenadi (Ba Tư Nặc) con vua xứ Kosala (Kiều Tát La), Thái tử Mahāli con dòng Licchavī xứ Vesāli và Thái tử Bandhula con vua Malla xứ Kusinārā.
Ba Thái tử cùng đi du học văn võ với một vị danh sư lừng danh ở thành Takkasilā. Ba vị Thái tử gặp gỡ nhau trong một quán trọ ngoại thành. Sau khi hỏi thăm nhau, biết rõ mục đích cuộc hành trình cùng danh tánh tông tích của nhau, họ bèn kết nghĩa đệ huynh, và đồng đến xin nhập môn một lượt. Không bao lâu cả ba vị Thái tử đồng song nầy văn ôn võ luyện đã đến mức tinh thông thuần thục. Đồng cùng nhau bái tạ Sư trưởng ra đi, ai về xứ nấy.
Trong ba vị, Thái tử Pasenadi được phụ vương đẹp dạ, truyền ngôi cửu ngũ, sau khi thấy Thái tử biểu diễn tài nghệ cho Ngài duyệt lãm.
Thái tử Mahāli thuộc dòng Licchavī, trong lúc biểu diễn vì dụng lực thái quá, nên hai mắt bị nổ. Các vua Licchavī đồng thanh bảo rằng:
- Ôi! Thật chẳng mai cho sư phó của chúng ta, Ngài đã bị mù cả đôi mắt, không lẽ chúng ta bỏ rơi Ngài, chúng ta phải có bổn phận chăm lo phụng dưỡng Ngài mãn đời mới trọn đạo thầy trò.
Các vua đồng ý tặng cho Thái tử chức Huỳnh môn quan, quyền trấn một cửa cổng thành, trị giá một trăm ngàn đồng.
Nhậm chức rồi, Thái tử liền nhận năm trăm Thái tử dòng Licchavī đến xin thọ giáo để học tập văn võ.
Thái tử Bandhula về nước Kusinārā để biểu diễn nghệ thuật. Các hoàng tộc dòng Malla đích thân bó tre thành từng bó, mỗi bó là sáu mươi cây, ở giữa mỗi bó lại đệm một giáo sắt, đoạn treo nó giữa hư không, hỏng mặt đất và thách Thái tử chém cho đứt rơi xuống.
Thái tử bái Tổ xong rồi, cất mình phóng lên hư không cao tám mươi hắc tay. Chân vừa rơi chấm đất, Thái tử hươi gươm chém tới lia lịa, đến bó tre cuối cùng, Thái tử chợt nghe tiếng giáo sắt bị khua chạm lên, bèn hỏi: “Cái gì thế?”.
Khi biết được trong sáu mươi bó tre có đệm giáo sắt, Thái tử ném gươm khóc rằng: “Trong tất cả thân bằng quyến thuộc của ta nơi đây, không một ai thương yêu ta nói cho ta biết trước việc nầy. Nếu ta biết trước thì ta sẽ chém đứt cả sáu mươi bó tre mà không cho phát lên tiếng khua chạm giáo sắt.”
Thái tử day lại thưa với phụ hoàng cùng mẫu hậu rằng:
- Tâu phụ vương và mẫu hậu! Xin hãy tru lục bọn nầy rồi trị quốc mới yên.
- Nầy vương nhi! Chiếu theo luật vua phép nước, không thể làm việc ấy được (vì quyền trị quốc chỉ có thể truyền tử lưu tôn mà thôi.).
Sau khi nài nỉ song thân nhiều phen không kết quả, Thái tử bèn yêu cầu: “Thế thì phụ hoàng và mẫu hậu cho con sang xứ của bạn con.” Được mẹ cha chuẩn tấu, Thái tử lên đường đến kinh thành Sāvatthī.
Quốc vương Pasenadi nghe tin Thái tử Bandhula ly hương sang nước mình, liền ngự giá ra đến rước bạn ở ngoài thành, rất trọng thể. Về triều giao cho bạn giữ chức Đại Nguyên soái, thống lãnh quân đội hoàng gia. Khi nhận chức rồi, Thái tử phái người thân tín trở về Kusinārā rước cả phụ vương và mẫu hậu về cùng ở chung với mình nơi thành Sāvatthī.
Một hôm, Quốc vương Pasenadi nhìn xuống đường phố khi Ngài đứng trên lầu ngự của mình thấy chư Tỳ khưu lũ lượt vào thành thọ bát nơi nhà các đại thí chủ như ông Anāthapiṇḍika, Cullānāthapiṇḍika, bà Visākhā, nàng Suppavāsā… Quốc vương phán hỏi thị thần:
- Chư Đại đức đi đâu vậy?
- Tâu Bệ hạ! Mỗi ngày có độ hai ngàn vị Tỳ khưu đến nhà ông Anāthapiṇḍika để dự lễ Trai Tăng hoặc thọ thực do thí chủ dâng cúng hợp pháp đến chư Tăng, rút thăm hoặc là chư Tỳ khưu bịnh chẳng hạn. Nơi nhà của Trưởng giả Cullānāthapiṇḍika có khoảng năm trăm vị đến thọ thực thường xuyên, nơi nhà của bà Visākhā và bà Suppavāsā cũng như thế.
Nghe xong, đức vua phát tâm muốn làm người hộ Tăng, bèn ngự giá đến Tinh xá Jetavana cung thỉnh Đức Bổn Sư với một ngàn vị Tỳ khưu vào hoàng cung thọ thực.
Quốc vương đích thân đứng ra trông coi việc đặt bát cúng dường trọn cả bảy ngày liền.
Đến ngày thứ bảy, đức vua đảnh lễ Đức Bổn Sư và yêu cầu:
- Bạch Ngài! Quả nhân xin thỉnh Ngài cùng năm trăm vị Tỳ khưu thường xuyên thọ thực nơi Hoàng cung.
- Tâu đại vương! Chư Phật không bao giờ thọ thực thường xuyên một nơi, vì còn nhiều chúng sanh chờ đợi các Ngài ngự đến.
- Nếu vậy xin Ngài phái một vị Tỳ khưu nào đó có thể đến hằng ngày.
Đức Thế Tôn giao phận sự nầy cho Đại đức Ānanda. Trong bảy ngày đầu, khi chư Tăng đến Quốc vương đích thân ngự ra rước bát, đứng trông nom chỉ bảo cho nội thần quyến thuộc hộ độ các Ngài rất chu đáo.
Đến ngày thứ tám, Quốc vương vì long thể bất an, nên xao lãng phận sự hộ độ chư Tăng, chư Tăng vào hoàng cung, không ai soạn sẵn chỗ ngồi, thỉnh các Ngài an tọa và dâng cúng thực phẩm đến tay các Ngài. Chư Tăng bàn với nhau rằng:
- Trong hoàng cung vì thừa hành lịnh của đức vua, nên không ai dám tự chuyên, đứng ra mời chư Tăng ngồi và phục dịch cả. Vắng mặt Quốc vương, chắc chúng ta không thể nào đến đây lâu được.
Thế là nhiều vị bỏ ra đi.
Qua những ngày sau, Quốc vương cũng vẫn chểnh mảng như thế, nhiều vị Tỳ khưu khác lại bỏ ra đi.
Qua những ngày sau đó, tình trạng cũng chẳng lấy làm khả quan hơn, thế là tất cả năm trăm Tỳ khưu đều lần lượt ra đi cả. Chỉ còn lại một mình Đại đức Ānanda (những bậc đại phúc đức bao giờ cũng đầy đủ uy tín, giữ đức tin trong sạch của hàng tại gia cư sĩ. Đệ tử của Đức Như Lai trong hàng xuất gia có Đại đức Sārīputta, Đại đức Moggallāna là hai Thượng Thinh Văn, Tỳ khưu Ni Khemā (An Bình), Tỳ khưu Ni Uppalavaṇṇā là hai nữ Thượng Thinh Văn, trong hàng tại gia cư sĩ thì có Trưởng giả Citta, Dạ xoa Āḷavaka là hai Thượng Thinh Văn thiện nam, về tín nữ thì có nàng Veḷukaṇṭakī Nandamātā và nàng Khujjuttarā là hai nữ Thượng Thinh Văn tín nữ. Tám vị nầy đáng được liệt kê ở hàng đầu trong tứ chúng. Ngoài ra tất cả các vị Thinh Văn ở các quốc độ, hễ đã hoàn thành thập độ rồi cũng đều là những bậc Đại phúc đức viên mãn hạnh nguyện hết. Đại đức Ānanda cũng vậy, Ngài đã trải qua một trăm ngàn đại kiếp, hoàn thành đủ pháp độ Ba la mật (Pāramī), hạnh nguyện đã viên mãn, Ngài có đầy đủ uy tín, giữ vững đức tin của hàng tại gia cư sĩ, một mình Ngài được hoàng tộc thỉnh mời ngồi và dâng cúng đàng hoàng tử tế. Sau khi chư Tăng ra về, Quốc vương ngự vào trai đường, trông thấy thực phẩm loại cứng loại mềm còn nguyên trên bàn, bèn phán hỏi nội thị rằng:
- Chư Đại đức không đến thọ bát hay sao?
- Tâu bệ hạ chỉ có một mình Đại đức Ānanda đến mà thôi.
Quốc vương nghe tâu, buồn giận chư Tỳ khưu, nghĩ rằng:
- Các Ngài đã cắt dứt con đường thiện duyên của trẫm rồi.
Quốc vương ngự đến bái kiến Đức Bổn Sư và bạch rằng:
- Bạch Ngài quả nhân đã chuẩn bị cả năm trăm cổ phần để sớt bát cúng dường chư Tăng, mà nghe rằng: Chỉ có một mình Đại đức Ānanda đến thọ thực… Số thực phẩm dọn ra mà còn y nguyên. Năm trăm vị Tỳ khưu không thấy vào hoàng cung, không biết vì lý do nào?
Đức Bổn Sư không quở trách chư Tỳ khưu, Ngài chỉ vỗ về đức vua Pasenadi rằng:
- Tâu đại vương! Chắc là chư Thinh Văn của Như Lai không có tình thân mật với đại vương, cho nên không đi vào cung nội.
Kế đó, Đức Bổn Sư kêu gọi chư Tăng vào và giảng dạy những trường hợp nào chư Tăng không đến thọ thực nơi nhà thí chủ và những trường hợp nào nên đến. Đoạn Ngài kết thúc bằng bài kinh nầy:
“Navahi bhikkhave aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā ca nālaṃ upagantuṃ upagantvā ca nālaṃ upanisīdituṃ. Katamehi navahi? Na manāpena paccuṭṭhenti, na manāpena abhivādenti, manāpena asanaṃ denti, santamassa pariguyhanti, bahukamhi thokaṃ denti, paṇītamhi lūkhaṃ denti, asakkaccaṃ denti, no sakkaccaṃ, na upanisīdanti dhammassavanāya, bhāsantassa na rañjiyanti. Imehi kho bhikkhave navahi aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā ca nālaṃ upagantuṃ upagantvā ca nālaṃ upanisīdituṃ.” Navahi bhikkhave aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā ca alaṃ upangantuṃ upagantvā vā alaṃ upanisīdituṃ.”
“Nầy các Tỳ khưu, có chín điều mà gia tộc nào hội đủ thì Tăng không nên đến đó nếu chưa đến. Hoặc không nên ngồi nếu đã đến đó. Thế nào là chín?
1. Họ không hoan hỷ đứng dậy tiếp rước.
2. Họ không hoan hỷ đảnh lễ.
3. Họ không hoan hỷ mời ngồi.
4. Có vật dụng mà họ giấu.
5. Có nhiều mà họ dâng ít.
6. Có đồ ngon mà họ dâng đồ dở.
7. Họ dâng bằng cách không cung kính.
8. Họ không giữ lễ, không ngồi gần.
9. Họ không thỏa thích trong khi nghe nói pháp giảng đạo.
Nầy các Tỳ khưu, chín điều nầy gia tộc nào hội đủ thì Tăng không nên đến đó nếu chưa đến, hoặc không nên ngồi nếu đã đến rồi.
Nầy các Tỳ khưu, có chín điều mà gia tộc nào hội đủ thì chư Tăng nên đến đó nếu chưa đến, hoặc nên ngồi nơi đó nếu đã đến rồi. Thế nào là chín?
1. Họ hoan hỷ mời ngồi.
2. Họ hoan hỷ đứng dậy tiếp rước.
3. Họ hoan hỷ đảnh lễ.
4. Có vật dụng họ không giấu.
5. Có nhiều mà họ dâng nhiều.
6. Có đồ ngon mà họ dâng đồ ngon.
7. Họ dâng bằng cách cung kính.
8. Họ giữ lễ phép, ngồi gần.
9. Họ thỏa thích nghe pháp, nói đạo.
Nầy các Tỳ khưu, chín điều nầy, gia tộc nào mà hợp đủ thì Tăng nên đến đó nếu chưa đến, hoặc nên ngồi nếu đã đến rồi.”
Dứt bài kinh, Đức Thế Tôn lại tiếp chuyện với nhà vua:
- Tâu đại vương! Chắc là các Thinh Văn của Như Lai không tìm được thân mật nơi đại vương, cho nên mới không đi vào ngự như vậy. Quả thật, bậc hiền trí ngày xưa, cho dầu được hộ độ chu đáo, nhưng ở chỗ thiếu tình thân mật cũng đã thọ khổ gần chết được, đến nỗi phải ra đi trở về nơi có tình thân mật.
- Bạch Ngài, vào thời nào vậy?
Đức Thế Tôn liền thuật lại tiền tích rằng:
Thuở xưa, dưới triều đại vua Brahmadatta, đóng đô tại thành Bārāṇasī. Có một Quốc vương là Kesava (Quyền Phát) đã từ bỏ ngai vàng điện ngọc, ra đi xuất gia làm đạo sĩ, năm trăm tùy tướng cũng xuất gia theo làm môn đệ của Kesava, người thợ cạo của đức vua cũng xuất gia làm thị giả của đạo sĩ, có tên là Kappaka (Lý Phát).
Đạo sĩ Kesava cùng với những môn sinh tu ở miền Tuyết Sơn (Himavanta) trong tám tháng nắng ráo. Đến mùa mưa, đạo nhân dắt đoàn đạo sĩ môn đệ ra đi đến thành Bārāṇasī, khất thực trong kinh thành.
Khi ấy, vua Brahmadatta trông thấy đạo sĩ Kesava thì phát tâm trong sạch. Thỉnh được đạo nhân nhận lời an cư bốn tháng trong hoàng thành, đức vua cho người sửa sang vườn ngự uyển để đạo nhân lưu trú. Mỗi ngày hai lượt, sáng và chiều đức vua ngự đến lo việc hộ độ các đạo nhân.
Ở được vài ba ngày, các đạo sĩ đệ tử điếc tai vì các tiếng voi, ngựa hí, chịu không nổi nên xin thầy cho mình rút lui. Đạo nhân hỏi:
- Chư hiền đồ sẽ đi về đâu?
- Bạch Sư phụ, chúng con về núi Tuyết Sơn.
- Nầy chư hiền đồ, ngày mới đến đây ta đã nhận lời của Quốc vương ở trú an cư nơi nầy bốn tháng, sao chư hiền đồ lại tính bỏ ra đi?
- Bạch Sư phụ, tại vì Sư phụ nhận lời mà không cho chúng con hay biết. Nơi đây, chúng con không thể ở lại đây, xin cho chúng con kiếm chỗ ở gần nơi đây, hầu có thể nghe ngóng tin tức của Sư phụ.
Nói rồi, cả đoàn đệ tử đảnh lễ từ biệt Kesava đạo nhân. Chỉ còn lại mình đạo sĩ Kappaka là vị thị giả ở lại hầu thầy mà thôi.
Khi đến hộ độ các đạo nhân, Quốc vương hỏi:
- Chư đạo sĩ đi đâu hết rồi?
- Tâu đại vương, chư hiền đồ bất mãn nên đã xin trở về núi Tuyết Sơn cả rồi.
Không bao lâu, đạo sĩ Kappaka cũng không thể kham nhẫn, bèn tỏ thật với thầy: “Bạch Sư phụ, con cũng không thể cố gắng ở lại đây lâu hơn nữa được.”
Sau khi xin phép nhiều lần, vị thị giả được đạo nhân Kesava bằng lòng cho đi về Tuyết Lãnh Sơn nhập chung với các bạn đồng tu, ở một nơi cách đó không bao xa để có thể nghe ngóng tin tức Sư phụ được dễ dàng.
Thời gian sau, đạo sĩ Kesava sanh chứng đau bụng vì nỗi nhớ nhung các đệ tử thân yêu. Quốc vương khiến ngự y đến điều trị, nhưng bịnh tình không thuyên giảm chút nào cả.
Đạo nhân thấy đức vua ân cần săn sóc, bèn hỏi:
- Tâu đại vương! Có thật đại vương muốn tôi khỏi bịnh chăng?
- Bạch Ngài ! Nếu quả nhân có cách nào làm cho Ngài mau bình phục thì quả nhân sẽ thi hành ngay.
- Tâu đại vương ! Nếu đại vương muốn cho tôi mau lành bịnh được yên lành, thì đại vương cho người đưa tôi về với các môn sinh.
- Bạch Ngài, được lắm.
Quốc vương truyền lịnh cho nội thị đặt đạo nhân nằm trên một chiếc giường, rồi khiến bốn vị đại thần, có quan Nārada lãnh đạo, đưa đạo nhân đi với lời ủy thác: “Chư khanh đi đến nơi rồi hãy lưu lại, chờ xem bao giờ đạo trưởng bình phục sức khỏe thì báo cho trẫm biết.”
Thị giả Kappaka nghe tin Sư phụ đã về, lật đật ra đi tiếp đón. Đạo nhân hỏi: “Còn các hiền đồ khác ở đâu?”.
Đạo sĩ Kappala đáp: “Bạch Sư phụ, nghe nói các sư huynh sư đệ của con ở tại nơi đó.”
Các đạo sĩ môn đệ hay tin thầy trở về, cũng đều qui tụ lại đông đủ, chung lo chăm sóc đạo nhân, như dâng nước nóng, các thứ trái cây rừng và thực phẩm khác.
Chỉ trong chốc lát, đạo nhân khỏi bịnh và vài ba ngày sau da dẻ đã sáng ánh như vàng ròng. Khi ấy đại thần Nārada hỏi đạo nhân:
“Manussindaṃ jahitvāna,
sabbakāmasamiddhinaṃ;
Kathannu bhagavā kesi,
kappassa ramasi assameti.”
“Chốn thảo am đủ mùi dục lạc,
Sao Thế Tôn Quyền Phát bỏ đi.
Thảo am Lý Phát có chi,
Mà Ngài lưu luyến làm gì cho cam?”.
“Sādūni ramaṇīyāni,
santi rukkhā manoramā;
Subhāsitāni kappassa,
Nārada ramayanti manti.”
“Nārada nầy, chốn thảo am,
Là nơi ta thích, không nhàm chán đâu.
Cỏ cây đẹp mát rừng sâu,
Có trì Lý Phát bạn bầu sớm hôm.”
“Sālīnaṃ odanaṃ bhutvā,
sucimaṃsūpasecanaṃ;
Kathaṃ sāmākanivārā,
aloṇā sādayanti tanti.”
“Cơm Sà Li thơm ngon trộn thịt,
Ngài quen dùng thỏa thích sẵn sàng.
Sá chi kê lạt tồi tàn,
Mà Ngài lưu luyến buộc ràng nơi đây?”
“Asāduṃ yadi vā sāduṃ,
appaṃ vā yadi vā bahuṃ;
Vissaṭṭho yattha bhuñjeyya,
vissāsaparamā rasāti.”
“Dầu ngon dầu dở trối thây,
Dầu nhiều dầu ít, dạ nầy chẳng lo.
Chung vui bạn lữ thầy trò,
Ăn sao cũng được, miễn cho thâm tình.”
Thuyết dứt tích Bổn Sanh nầy, Đức Bổn Sư dẫn giải rằng:
- Quốc vương thời ấy nay là Moggallāna, Nārada nay là Sārīputta, thị giả Kappaka nay là Ānanda và đạo sĩ Kesava chính là đấng Như Lai vậy.
Đức Bổn Sư nói tiếp: “Tâu đại vương, những bậc hiền trí thời xưa đã từng thọ khổ gần đến mạng chung, chỉ vì thiếu tình thân mật như thế đó. Các Thinh Văn của Như Lai, sở dĩ không vào hoàng cung cũng bởi vì không được thân mật với đại vương vậy.”
Quốc vương Pasenadi suy nghĩ: “Bây giờ quả nhân phải làm sao để cho Tăng chúng thân thiện với quả nhân đây? À quả nhân nên cầu hôn với hoàng tộc Thích Ca là quyến thuộc của Đức Chánh Biến Tri, được như vậy các Tỳ khưu và Sa di sẽ thấy quả nhân là quyến thuộc của Đấng Chánh Biến Tri, ắt hẳn sẽ thân thiện với quả nhân và sẽ lui tới trong đền ngự.”
Nghĩ vậy, Quốc vương phái sứ giả sang cầu hôn với dòng Thích Ca: “Khanh hãy đại diện cho trẫm, qua nạp sính lễ cầu hôn, xin cưới một Công chúa thuộc huyết thống Thích Ca rồi trở về đây phục lịnh.”,
Sứ thần lãnh mạng ra đi cầu hôn với dòng họ Thích. Tại thành Kapilavatthu, tất cả những vị tai mắt, đại diện cho hoàng tộc Thích Ca, đều được các Quốc vương triệu thỉnh nhóm đại hội dòng tộc biểu, để tham khảo ý kiến. Ai cũng cho rằng: “Vua Pasenadi không phải là dòng môn đăng hộ đối, dòng huyết thống ngang với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không nhận gả con cho y, thì y sẽ dấy động can qua, hưng binh đánh chiếm nước ta chẳng sai. Vậy ta nên làm gì bây giờ?”.
Đức vua Mahānāma (Đại Danh) bèn đề nghị rằng:
- Đứa con gái, tức thế nữ của trẫm, tên là Vāsabhakhattiya, có nhan sắc tuyệt đẹp, ta hãy đem gả cho vua ấy.
Giải pháp nầy được hoàng tộc Thích Ca chấp nhận. Đức vua bèn đáp lời cùng sứ giả: “Quả nhân vui lòng gả Công chúa cho Quốc vương.”
Sứ giả tâu rằng: “Công chúa ấy là con vị vua nào?”.
- Công chúa là con gái của đức vua Mahānāma, là biểu đệ của Đức Chánh Biến Tri, mỹ hiệu là Vāsabhakhattiya.
Sứ thần về nước mang tin mừng nầy tâu lên vua Pasenadi. Đức vua phán: “Nếu vậy thì tốt lắm, khanh hãy qua nghênh đón Công chúa về đây cho mau. Nhưng hãy nên cẩn thận đề phòng, dòng Sát Đế Lỵ Thích Ca thường man trá. Sợ e đem con gái của bọn phi tần đấy. Khanh hãy nài cho được thấy Công chúa dùng cơm chung một mâm với phụ vương trong bữa ăn tiệc tiễn hành cho chắc ý, rồi sẽ rước về.”
Các sứ thần mai dong tuân lịnh vua Pasenadi ra đi, gặp vua Mahānāma thì tâu rằng:
- Tâu bệ hạ! Quốc vương của tôi muốn cho Công chúa được ngồi dùng cơm chung với Ngài trong bữa tiệc tiễn hành.
- Tốt lắm, nầy chư hiền sĩ.
Đoạn Quốc vương Mahānāma khiến Công chúa trang điểm hoàn bị, đến giờ ngự thiện thì dùng chung mâm với đức vua cho sứ thần trông thấy. Xong bữa, đức vua chuyển giao Công chúa cho sứ giả hộ giá vu qui.
Đưa dâu về đến thành Sāvatthī, các sứ giả tâu với Quốc vương các việc mình đã mục kích tận tường. Quốc vương cả đẹp bèn phong cho Công chúa làm Chánh hậu, chưởng quản một nhóm năm trăm cung phi.
Không bao lâu sao, chánh hậu hạ sanh được một hoàng nam, màu da sáng chói như vàng ròng, đến ngày lễ đặt tên cho hoàng tử, Quốc vương phán quan nội giám đến thỉnh ý hoàng Thái hậu.
- Công chúa Vāsabhakhattiya dòng Thích Ca, là chánh cung hoàng hậu vừa mới hạ sanh hoàng tử, Tổ mẫu ưng đặt tên gì cho cháu nội?
Quan Thái giám lãnh lịnh của Quốc vương là người có tật lãng tai, khi đến tư cung của hoàng Thái hậu, ông trình bày sứ mạng của ông xong, Thái hậu đáp rằng:
- Thái tử là con của hoàng hậu Vāsabhakhattiya, lúc chưa sanh cũng đã thu phục được lòng người rồi. Bây giờ đây chắc hẳn là được quốc vương sủng ái vô cùng vậy?
Viên nội giám lãng tai, nghe lầm tiếng Vallabha (Đắc Sủng) thành ra tiếng Viḍūḍabha (Lưu Ly), rồi in trí như thế, nên trở về tâu với Quốc vương:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ đặt Thái tử tên là Viḍūḍabha.
Quốc vương nghĩ thầm: “Chắc đây là một tên rất xưa trong hoàng tộc trẫm.” Nghe theo lời của viên nội giám lãng tai, Quốc vương đặt tên cho Thái tử là Viḍūḍabha.
Ngay từ khi thái tử còn ở tuổi thiếu niên, quốc vương muốn lấy lòng Đức Bổn Sư, đã phong thái tử làm chức Hàm đô thống đại nguyên soái.
Lúc mới bảy tuổi, thái tử Viḍūḍabha trông thấy các vương tôn hoàng tử đồng tuế được ngoại tổ gởi cho đồ chơi như hình voi, hình ngựa hoặc thứ nầy thứ nọ, thì hỏi mẹ:
- Mẫu hậu ơi! Sao mấy hoàng nam khác có ngoại tổ gởi đồ chơi đủ thứ, còn con không có ai gởi tặng món chi hết vậy? Bộ con không có ngoại tổ phụ mẫu hay sao?
Chánh hậu đáp rằng: “Nầy vương nhi con! Ngoại tổ của con là dòng Thích Ca, ở cách đây xa lắm, cho nên không gởi quà tặng cho con được.”
Đến khi được mười sáu tuổi, thái tử Viḍūḍabha lại thưa với mẹ:
- Tâu mẫu hậu! Con muốn được về thăm dòng họ bên ngoại.
Chánh hậu gạt ngang, bảo rằng:
- Thôi vương nhi! Con về bên ấy mà làm gì?
Thái tử cứ theo mẹ mà van xin mãi. Sau cùng Chánh hậu phải chìu theo: “Vương nhi muốn đi thì con cứ đi.”
Chánh hậu Vāsabhakhattiya khiến người mang thơ đi trước thái tử về báo tin cho vua Mahānāma hay, nói rằng: “Con ở đây vẫn bình yên, xin hoàng tộc Thích Ca đừng lộ vẻ gì khác biệt với chồng con, đừng cho thái tử cùng quan hộ giá trông thấy.”
Hoàng tộc Thích Ca hay tin thái tử Viḍūḍabha sắp đến Kapilavatthu, thì thương nghị cùng nhau và quyết định rằng:
- Không thể để cho con cháu chúng ta đảnh lễ, chào đón nó.
Thế là bao nhiêu hoàng tôn, thái tử nhỏ tuổi hơn thái tử Viḍūḍabha đều được gởi về miền quê đổi gió. Các vị lớn tuổi ở lại tập trung nơi tòa khách thính trong thành Kapilavatthu.
Thái tử Viḍūḍabha được đưa vào thành, khi đứng trước các vị ấy, họ tự giới thiệu rằng: “Nầy vương nhi, đây là ngoại tổ của con. Đây là cửu phụ của con.”
Thái tử đảnh lễ ra mắt tất cả mọi người xong, không thấy có ai đảnh lễ lại mình, thì hỏi rằng:
- Sao không ai đảnh lễ con hết vậy?
Quyến thuộc Thích Ca trả lời rằng:
- Nầy vương nhi! Các thái tử hoàng tôn tuổi nhỏ hơn con mắc về quê cả rồi.
Và họ sắp đặt tiệc đãi đằng hoàng tử Viḍūḍabha rất trọng hậu. Thái tử lưu lại Kapilavatthu vài ba hôm chơi, rồi tạ từ dòng họ Thích Ca lên đường về xứ.
Khi ấy, các cung nữ đến dọn dẹp quét tước ngôi khách thính, lấy sữa tươi rửa cẩm đôn, nơi mà hoàng tử Viḍūḍabha đã ngồi, vừa rửa vừa mắng rằng: “Đây là chỗ ngồi của con trai cung nữ Vāsabhakhattiya.” Bất ngờ thay, có một viên tùy tướng của thái tử bỏ quên khí giới, nên trở lại khách thính lấy, y nghe được những lời nầy, bèn gạn hỏi rõ nguyên nhân, mới biết rằng: “Chánh hậu Vāsabhakhattiya tuy là con của đức vua Mahānāma dòng Thích Ca, nhưng mẹ nàng lại là một cung nữ.”
Viên tùy tướng đem chuyện nầy thuật lại cho quân sĩ nghe. Thế là, trong sĩ tốt có tiếng xôn xao, đồn rằng: “Bà Vāsabhakhattiya là con gái của một cung nữ.” Thái tử Viḍūḍabha nghe rõ câu chuyện, chàng căm tức dòng họ Thích Ca, thề rằng: “Mặc cho bọn nó giỏi lấy sữa tươi mà rửa chỗ ngồi của ta, khi nào lên làm vua ta sẽ lấy máu cổ họng chúng nó mà rửa lại chỗ ấy.”
Khi thái tử về đến thành Sāvatthī, các quan tùy giá thuật lại sự tích ấy do cung nữ Kapilā (Vệ Kim Thành) đã thổ lộ, nguồn gốc của chánh hậu lên đức vua Pasenadi. Quốc vương rất căm thù dòng họ Thích Ca, nghĩ rằng: “Bọn nầy đã mạo muội gả con gái cung nhân cho trẫm.”
Quốc vương hạ lịnh tước đoạt phẩm vị của Chánh cung hoàng hậu và Đông cung thái tử, biếm xuống làm cung nhân.
Cách mấy hôm sau, Đức Bổn Sư ngự vào hoàng cung, an ngự vào chỗ ngồi soạn sẵn, quốc vương bèn đảnh lễ Ngài và bạch rằng: “Bạch Ngài, quả nhân xin cho Ngài hay biết các quyến thuộc của Ngài đã mạo hôn, gả con gái cung nữ cho quả nhân, vì vậy, cho nên quả nhân đã tước hết phẩm vị Chánh hậu và Đông cung thái tử, cho làm cung nhân, nô tỳ vì phận vị ấy hợp với họ.”
Đức Bổn Sư phán rằng: “Tâu đại vương, việc nầy rất oan uổng cho họ, Chánh hậu đã được dòng Thích Ca nhìn nhận ngang hàng mới đem gả cho đại vương. Như Lai xác nhận việc nầy. Đại vương, mẫu hệ không nghĩa lý gì, chỉ có phụ hệ là đáng kể mà thôi. Như bậc hiền trí thuở xưa đã phong cho một thiếu nữ bần hàn đi mót củi khô lên làm chánh hậu, thái tử do nàng ấy sanh ra về sau lãnh tụ, là vị chúa tể thống trị cả quốc độ Bārāṇasī rộng đến mười hai do tuần, có danh hiệu là Kaṭṭhavāhanarāja (Tiều Phu Vương).
Nhân dịp nầy, Đức Bổn Sư thuật tích Bổn Sanh Nữ tiều phu (Kaṭṭhahāriyajātaka).
Quốc vương Pasenadi nghe pháp rồi, công nhận chỉ có phụ hệ là đáng kể nên phát tâm hoan hỷ, bèn truyền lịnh ân xá chánh hậu và thái tử, cho phục hồi cựu vị.
Nói về đô thống tướng quân Bandhula kết hôn với Công chúa Mallikā (Mạt Lỵ), là con vua xứ Malla, đã lâu ngày không có con. Gia tộc Bandhula kết tội nàng là “vô hậu”, nên đuổi Công chúa trở về cố quốc. Công chúa định đến bái biệt Đức Bổn Sư rồi sẽ lên đường. Vào Tinh xá Jetavana, Công chúa đảnh lễ Đức Như Lai rồi đứng qua một bên. Đức Bổn Sư phán hỏi:
- Con đi đâu đây?
- Bạch Ngài, con trở về sanh quán.
- Tại sao vậy?
- Bạch Ngài, vì con hiếm muộn, chồng con kết tội vô hậu, nên đuổi về xứ.
- Nếu thế thì con khỏi cần đi về quê, con hãy trở lại nhà chồng.
Công chúa mừng rỡ, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi trở gót về nhà Thống soái Bandhula, Bandhula hỏi nàng rằng:
- Tại sao nàng trở lại?
- Đức Thập Lực bảo thiếp trở lại.
Đại Tướng quân Bandhula bằng lòng cho vợ ở lại và nghĩ: “Chắc Đức Thập Lực tiên tri, thấy được vị lai. Thôi ta hãy ráng chờ xem.”
Quả thật, chẳng bao lâu Công chúa thọ thai, sanh chứng ốm nghén, thèm khát không chịu đựng được, bèn tỏ thật cùng chồng. Tướng quân Bandhula hỏi: “Nàng thèm món chi?”.
- Thưa tướng quân, tại kinh đô Vesālī, trong ngự uyển của vương tộc Licchavī, có hồ sen mà họ dành dùng làm lễ tôn vương. Thiếp thèm tắm rửa và uống nước trong hồ ấy.
Tướng quân Bandhula nói: “Được.” Đoạn Đại tướng lấy chiếc cung thần có sức mạnh gấp ngàn lần cung nỏ thường đeo lên vai. Gióng xe ra khỏi thành Sāvatthī, nhắm ngay thành Vesālī tiến tới và đột nhập vào thành Vesālī, do cửa của Thái tử Mahāli trấn giữ. Tư dinh của Thái tử Mahāli gần cửa kinh thành, Mahāli nhủ thầm: “Đây là tiếng xe của Tướng quân Bandhula. Hôm nay chắc các vua dòng Licchavī phải kinh tâm tán đởm.”
Các hồ cấm có hộ vệ quân trấn giữ, phòng thủ trong ngoài cẩn mật. Trên mặt hồ có lưới nhặt mắt, bao phủ kín mít một con chim nhỏ chui qua cũng không lọt.
Thế mà, Đô thống tướng Bandhula xuống xe tuốt gươm đánh đuổi lực lượng phòng vệ thật mau lẹ, chém đứt lưới đồng bao phủ mặt hồ, dìu vợ xuống tắm dưới hồ. Khi Công chúa tắm xong và uống nước thỏa mãn rồi, Tướng quân cũng tự mình xuống tắm.
Xong rồi, Đại tướng lái xe vượt qua khỏi thành Vesālī lên đường trở về bổn quốc.
Quân lính giữ ao hồ báo tin cho các vua Licchavī, các vua nổi giận, thắng năm trăm cỗ chiến xa, tức tốc dẫn binh xông ra khỏi thành, quyết theo bắt cho được Bandhula và Mallikā.
Các vua ghé vào dinh của Mahāli để cho biết ý định thì Thái tử cản rằng: “Thôi chư vương, đừng đuổi theo. Bandhula sẽ giết sạch chư vương, không sót một mạng.”
Các vua đồng thanh nói:
- Dầu sao chúng tôi cũng sẽ rượt theo hắn.
Mahāli dặn rằng: “Nếu vậy, chư vương nên lưu ý đề phòng. Hễ khi nào trông thấy bánh chiến xa của y lún xuống tới bùn thì nên thu quân trở lại. Nếu không, khi chư vương tiến tới mà nghe tiếng nổ vang như sấm, lúc ấy nên lui binh, bằng không chư vương sẽ thấy các đầu chiến xa của mình đứt đoạn nát tan. Đến đây, chư vương không nên liều lĩnh tiến xa hơn nữa mà nguy đến tánh mạng.”
Các vua Licchavī bất chấp lời khuyên ngăn của Thái tử Mahāli, đem hết toàn lực đuổi theo Bandhula Tướng quân. Công chúa Mallikā nhìn lại phía sau lưng, thấy bụi bay mù mịt, nàng nói với chồng: “Thưa phu tướng, hình như có nhiều chiến xa đuổi theo chúng ta.”
- Nếu vậy, nàng hãy nhìn cho kỹ, chừng nào thấy chiếc xe đầu tiên rõ rệt thì hãy bảo ta.
Khi thấy tất cả đoàn xe hiện ra như một chiếc xe giữa đám bụi mù. Công chúa Mallikā bảo chồng:
- Thưa phu tướng, giờ thiếp thấy rõ như một cái đầu xe.
Tướng quân Bandhula trao dây cương ngựa qua cho vợ, dặn rằng: “Nếu vậy, nàng hãy cầm giữ dây cương nầy, lái xe cho đi thẳng đường, để một mình ta đối phó với họ.”
Nói rồi Bandhula lấy thế đứng vững trên xe, lắp sẵn tên vào chiếc cung thần.
Khi thấy chiếc chiến xa của tướng Bandhula bị lún bánh xuống tới bùn, các vua thấy vậy cũng chẳng lui bước. Tướng quân Bandhula cho xe mình đi một quãng đường ngắn rồi giơ tay búng dây cung thần, một tiếng nổ vang trời vang lên như tiếng sấm. Các vua Licchavī nghe vậy cũng chẳng nao núng mà còn đuổi theo rất gấp. Bandhula đứng trên xe bắn mũi tên, mũi tên ấy đâm lủng đầu năm trăm cỗ chiến xa địch, xuyên qua mình năm trăm vua Licchavī ngay chỗ dây ngọc đái, rồi cắm phập xuống đất; các vua Licchavī không hay rằng mình đã trúng tên địch, hăng hái xông tới thét lớn: “Tiểu tốt vô danh, có giỏi thì đứng đó đừng chạy.”
Bandhula dừng xe lại, đợi các vua Licchavī đến gần mắng rằng: “Đồ chết bắn, ta không thèm giao chiến với những xác chết đâu.”
Các vua Licchavī bảo: “Ngươi hãy xem cho kỹ, chúng ta không phải là những xác chết.”
Bandhula nói: “Tất cả các ngươi đồng chung số phận, các ngươi hãy cởi mở ngọc đái của tên thủ lãnh ra xem.”
Các vua Licchavī vừa mở dây ngọc đái của tên thủ lãnh thì vị nầy ngã xuống chết.
- Tất cả các ngươi đều đồng chung số phận với tên đầu lãnh, mỗi người hãy trở về nhà sắp đặt việc hậu sự, từ giã vợ con quyến thuộc, rồi hãy cởi bỏ khôi giáp.
Bandhula đưa Công chúa Mallikā về thành Sāvatthī. Từ đó về sau, Công chúa sanh mười sáu lần sanh đôi con trai. Tất cả đều là những tay vũ dũng, có đởm lược anh hùng, đến tuổi trưởng thành đều am tường lục thao tam lược, mỗi chàng đền có ngàn sĩ tốt bộ hạ. Mỗi lần Bandhula tướng quân về triều yết kiến quốc vương, các công tử và bộ hạ đi theo vào đứng chật cả sân rồng trong đền ngự.
Một hôm, các quan tòa xử án, nhiều người vì bị xử hiếp trong một vụ kiện, trông thấy tướng quân Bandhula đi tới, la ó lên, phản đối các thẩm phán thiên vị và cậy nhờ tướng quân can thiệp. Bandhula tướng quân vào đến giữa tòa, minh xét lại bản án, làm cho rõ ngay gian và giúp cho người sở hữu chủ được thắng kiện. Quần chúng dự thính hoan hô vang dậy.
Quốc vương nghe tiếng reo hò phán hỏi thị thần: “Chuyện chi thế?”. Khi biết rõ nguyên do, Quốc vương rất hài lòng, giáng chức các quan tòa cũ và bổ nhậm Bandhula cầm đầu Tam pháp y. Từ ngày nhậm chức mới, Bandhula xử đoán rất công minh. Các vị tài phán bị cách chức, mất cả danh lợi đâm ra thù ghét Bandhula, nên kiếm chuyện đâm thọc với hoàng thân quốc thích, tuyên truyền rằng: “Bandhula âm mưu tạo phản.”
Quốc vương nghe các quyến thuộc tâu vào tâu ra mãi, cũng mắc kế của bọn gian thần, sanh tâm nghi ngờ người bạn cố tri, muốn tru lục cha con Bandhula để trừ hậu hoạn.
- Nếu trẫm ra lịnh hành quyết ngay tại nơi đây, ắt là mang tiếng người đời chê trách.
Quốc vương liền mật sai những tướng quân tâm phúc giả làm quân phiến loạn, đánh phá nơi biên thùy. Đoạn triệu tướng Bandhula vào triều phán rằng:
- Có tin biên thùy dấy loạn, trẫm phú cho hiền đệ và các hiền điệt đi tiểu trừ và bắt cho được bọn cướp thảo khấu ấy.
Tướng quân lãnh mạng ra đi, không ngờ Quốc vương ngầm sai những tướng tài khác đi kèm theo với mấy cha con, với lịnh truyền rằng: “Chém đầu Bandhula với ba mươi hai công tử, đem thủ cấp về đây.”
Trong lúc đội binh mã rầm rộ kéo đi ra biên thùy. Bọn khấu tặc nghe tin Đô thống tướng Bandhula xuất chinh, bèn tan rã hàng ngũ, bỏ chạy trước. Tướng quân vào thành lập lại trật tự vỗ an bá tánh, xong rồi kéo đại binh trở về gần tới kinh đô, các tướng sĩ lãnh lịnh vua thi hành bản án tử hình. Bắt hết cha con tướng quân Bandhula xử trảm một lượt.
Hôm ấy, nhằm ngày Công chúa Mallikā cung thỉnh hai vị Thượng Thinh Văn và năm trăm Tỳ khưu đến soái phủ thọ thực. Vào buổi sáng hôm ấy, công chúa nhận được thư báo của gia nhân: “Chồng và các con đã bị xử trảm.” Được biết hung tin công chúa vẫn lặng thinh, nhét phong thơ vào trong vạt áo, lo việc hộ độ chư Tăng, như không có việc gì quan hệ xảy xa, khi ấy bọn nữ tỳ của Công chúa, sau khi dâng cơm đến chư Tỳ khưu, đang bưng cái bình sanh tô (bơ tươi) đến trước hai vị Đại đức thì sút tay, buông rơi cái bình xuống nền bể nát.
Đức Sārīputta nói an ủi rằng:
- Của tạm bợ vô thường, lỡ bể thì thôi, chẳng nên ân hận.
Công chúa Mallikā liền lật vạt áo lên, lấy phong thơ đưa ra và nói: “Bạch Ngài, ba mươi hai đứa con trai và cha nó vừa bị xử trảm, khi được người nhà đưa thư báo tin nầy, đệ tử đọc rồi còn chẳng ân hận, huống chi là việc bể cái bình sanh tô mà đệ tử ân hận hay sao?”
Đức Tướng quân Chánh pháp liền thuyết lên kệ ngôn rằng:
“Animittamanaññātaṃ,
maccānaṃ idha jīvitaṃ;
Kasirañca parittañca,
tañca dukkhena saṃyuttanti.”
“Sanh tử không kỳ hạn,
Tuổi thọ khó tiên đoán.
Đời tồi tệ nhỏ nhen,
Đầy khổ đau hoạn nạn.”
Kế đó, Đại đức thuyết tiếp một thời pháp, rồi đứng lên rời Soái phủ, trở về Tinh xá.
Công chúa cho gọi hết ba mươi hai cô dâu đến phán dạy rằng:
- Chồng các con phải chết vì tay người khác, chẳng qua là trả quả của nghiệp tiền khiên, các con chớ nên buồn rầu khóc lóc, cũng đừng đem lòng oán hận đức vua.
Các thám tử của quốc vương nghe được những lời nầy, nên về tâu lên quốc vương việc các quả phụ không đem lòng oán hận Ngài. Nghe vậy, quốc vương sanh tâm kinh cảm, ngự đến tư dinh của công chúa Mallikā để xin chịu lỗi với công chúa và các nàng dâu góa bụa, xong rồi ban cho công chúa một ân huệ.
Công chúa tâu: “Thần thiếp xin nhận lãnh ân huệ của bệ hạ.”
Sau khi quốc vương ngự giá về cung, công chúa cử hành tang lễ, trai Tăng cầu siêu, đoạn tắm gội sạch sẽ vào triều yết kiến quốc vương:
- Tâu đại vương! Bệ hạ hứa ban ân huệ, nhưng thần thiếp không cầu mong việc chi khác, ngoài việc xin bệ hạ gia ân cho thần thiếp và ba mươi hai con dâu được trở về xứ sở quê hương.
Quốc vương chuẩn tấu. Công chúa sắp đặt cho ba mươi hai nàng dâu ai về nhà nấy, riêng mình cũng lên đường trở về quê quán trong thành Kusinārā.
Quốc vương ấn phong cháu trai của tướng quân Bandhula là Dīghakārāyana (Trường Lao) làm Đô thống đại Nguyên soái.
Nhưng Dīghakārāyana căm thù quốc vương đã xử trảm Bandhula nên hằng chờ cơ hội để trả thù cho cậu mình.
Lúc bấy giờ, Đức Bổn Sư đang ngự trong thị trấn Meḍalapa của dòng Thích Ca, quốc vương ngự giá đến đó, an dinh hạ trại cách chùa không bao xa, đoạn rời khỏi đại quân tùy giá vào chùa đảnh lễ Đức Bổn Sư, trước khi vào hương thất một mình, quốc vương cởi hết những phù hiệu của nhà vua (mão, hia, kiếm, trướng và hốt), giao cho Dīghakārāyana gìn giữ (đoạn nầy trong kinh Dhammacetiya sutta (Pháp Tháp) trong Trung Bộ Kinh có giải rõ từng chi tiết).
Thừa lúc quốc vương Pasenadi vào trong hương thất, Dīghakārāyana lấy hết phù hiệu vương vị, tôn Thái tử Viḍūḍabha lên làm vua, kéo rốc toàn quân trở về thành Sāvatthī, chỉ chừa lại cho quốc vương một con ngựa già và bà thế nữ hầu hạ vua mà thôi.
Sau khi đàm đạo thân ái với Đức Bổn Sư, quốc vương đảnh lễ Ngài trở ra, không thấy binh lính, hỏi bà thế nữ mới tỏ rõ mọi sự. Quốc vương nghĩ thầm: “Quả nhân phải nhờ Vương sanh (cháu kêu Ngài bằng dượng, tức là vua Ajātasattu) tiếp viện mà bắt Viḍūḍabha mới được.”
Khi quốc vương Pasenadi đến thành Rājagaha thì đã quá giờ lưu thông, các cổng thành đều đóng kín. Quốc vương buộc lòng phải nghỉ đỡ trong một ký túc xá. Cả ngày đi nắng lại bị trúng gió cảm sương, quốc vương thăng hà vào lúc nửa đêm. Thế nữ theo hầu đức vua khóc lóc thở than:
- Bệ hạ ơi! Bệ hạ là chúa của toàn dân xứ Kosala, mà sao phải chọn nằm cô quạnh lạnh lùng…
Khi đêm tàn, trời hừng sáng, nhiều người nghe tiếng nức nở của bà thế nữ, hỏi ra mới biết là đức vua Pasenadi thăng hà ở nơi quán trọ ngoài thành, bèn vào báo tin với quốc vương Ajātasattu, quốc vương bèn ra lịnh hỏa táng một cách trọng thể, y theo nghi lễ tống chung của bậc đại vương.
Thái tử Viḍūḍabha sau khi tức vị, nhớ lại mối hận ngày xưa, bèn chiêu tập binh mã, kéo hết đại binh ra khỏi thành Sāvatthī, trong tâm tính rằng: “Trẫm sẽ tận sát dòng Thích Ca.” Ngày ấy, lúc quán sát thế gian trong buổi sáng, Đức Bổn Sư thấy rằng dòng họ Thích Ca của Ngài sắp bị tiêu diệt. Ngài tự nghĩ: “Như Lai phải đi về độ tông tộc mới được.” Thế rồi, trong buổi sáng Ngài đi khất thực, độ xong bữa, Ngài trở về hương thất. Buổi trưa, Ngài nằm thiền, nghiêng mình về phía phải như con hùng sư, và buổi xế Ngài bay đến Kapilavatthu, an tọa dưới một gốc cây có bóng mát loang lổ, nơi giáp ranh hai nước.
Phía bên kia ranh thuộc lãnh thổ của Viḍūḍabha có cây đa to, tàn nhánh rậm rạp có nhiều bóng mát.
Vừa trông thấy Đức Bổn Sư, vua Viḍūḍabha vội đến gần Ngài đảnh lễ và bạch rằng:
- Bạch Ngài ! Trong lúc nắng nôi thế nầy, sao Ngài lại ngồi chi dưới gốc cây có bóng râm loang lổ, xin thỉnh Ngài qua ngồi bên gốc cây đa to có nhiều bóng mát, ở đằng kia.
Đức Bổn Sư đáp rằng: “Tâu đại vương! Bóng râm của thân quyến bao giờ cũng mát mẻ.”
Nghe vậy, đức vua Viḍūḍabha nghĩ rằng: “Chắc Đức Bổn Sư ngồi đây để bảo vệ gia quyến của Ngài.” Đức vua đảnh lễ rồi cáo từ Đức Bổn Sư và thâu binh trở về Sāvatthī. Đức Bổn Sư cũng đứng dậy bay về Jetavana.
Quốc vương Viḍūḍabha không thể quên được mối hận thù đối với dòng Thích Ca, xuất binh lần thứ hai đến chỗ giáp ranh hai nước, cũng gặp Đức Bổn Sư như lần trước, nên lại thu quân trở về. Đến lần thứ ba đức vua lại xuất binh, lại gặp Đức Bổn Sư nơi đó và lại thu quân trở về một lần nữa.
Đến lần xuất binh thứ tư của vua Viḍūḍabha, Đức Bổn Sư không can thiệp để cứu quyến thuộc của Ngài nữa. Vì Ngài quán thấy ác nghiệp của họ ở tiền kiếp, đã bỏ thuốc độc xuống dòng sông thuốc cá chết, nay quả tới thời trổ quả rồi, không thể che chở cứu vãn được nữa.
Với quyết tâm: “Trẫm sẽ tận diệt dòng họ Thích Ca.”, Viḍūḍabha đem đại đội hùng binh ra đi, không còn bị Đức Bổn Sư cản trở. Quyến thuộc của Đức Bổn Sư kiên trì giữ giới sát sanh, thà chịu chết chớ không dám xuống tay giết hại kẻ khác, nghe tin địch quân kéo đến, họ nghĩ ngay rằng: “Chúng ta là những tay thiện xạ bá phát bá trúng, nhưng ta không thể phá giới mà giết hại địch quân, ta chỉ nên bắn dọa cho họ sợ mà chạy thôi.”
Thấy tên bắn như mưa, vua Viḍūḍabha bảo các tùy tướng:
- Các khanh nghĩ sao? Có phải dòng Thích Ca giữ giới không sát sanh, thế mà bây giờ họ giết hại binh sĩ của trẫm.
Khi ấy, một tùy tướng tâu rằng:
- Tâu chúa thượng, vì sao chúa thượng lại lui quân?
- Dòng Thích Ca giết hại binh sĩ của trẫm.
- Ba quân tướng sĩ không có ai bị thương cả. Xin chúa thượng hãy cho kiểm lại quân sĩ xem.
Khi kiểm lại quân sĩ, không thấy thiệt mạng ai cả, vua Viḍūḍabha lại truyền lịnh tấn công và dặn rằng:
- Nầy ba quân tướng sĩ! Các khanh hãy giết sạch những kẻ nào nhận là dòng Thích Ca, trừ những ai đứng gần ngoại tổ của trẫm là vua Mahānāma, thì các khanh hãy dung tha mạng sống cho họ.
Quân binh của Viḍūḍabha phá cửa thành Kapilavatthu tuôn vào như nước vỡ bờ, đi lục soát bắt dòng Thích Ca để tru lục. Có nhiều người không cam tâm chịu chết vô cớ, bèn cắn cỏ hoặc cầm lau sậy đứng chực sẵn. Hễ quân nghịch đến hỏi: “Ngươi có phải là dòng họ Thích Ca không?” thì nhóm cắn cỏ đáp: “Không phải Thích Ca, cỏ.” (No sāko tiṇanti), còn nhóm cầm lau thì đáp: “Không phải Thích Ca, vi lô.” (No sāko naḷoti). Quân lính ngoại quốc nghe không rành, tưởng họ phủ nhận dòng Thích Ca, nên không hạ sát họ, các người nầy dầu có chết cũng không dám phạm giới nói dối, nên đã dùng mẹo khéo nói trớ như vậy mà được sống sót (tiếng Phạn Sāka là rau, đọc mường tượng như Sākya là Năng Nhân Thích Ca), cả những người chạy theo đứng gần với vua Mahānāma cũng được tồn sanh. Do đó, về sau có danh từ Thảo Thích Ca (Tiṇasākiya) để chỉ những người cắn cỏ và danh từ Vi lô Thích Ca (Naḷasākiya) để chỉ nhóm người đứng cầm lau.
Ngoài ba nhóm kể trên, tất cả hoàng tộc Thích Ca dầu là trẻ con còn bú cũng không toàn mạng. Vua Viḍūḍabha ra lịnh cắt cổ họ đem dội máu lên cẩm đôn mà mình đã ngồi khi trước.
Tông tộc Thích Ca đã bị vua Viḍūḍabha tru lục như thế, vua Viḍūḍabha ra lịnh bắt vua Mahānāma đem theo làm tù binh rồi mới rút lui trở về nước.
Đến giờ sáng vua Viḍūḍabha đình bộ, xuống một nơi thung lũng nghỉ, cho quân hầu bưng cơm và khiến người đi thỉnh ông ngoại đến để cùng ngồi ăn chung một mâm.
Dòng Sát Đế Lỵ thà bỏ mạng chớ không bao giờ chịu ngồi ăn chung mâm với con trai của thế nữ, cho nên vua Mahānāma nhìn xuống một ao hồ và nói:
- Nầy vương điệt, mình trẫm lấm lem cát bụi, để trẫm đi tắm đã.
- Vâng, ngoại tổ hãy đi tắm đi.
Vua Mahānāma nghĩ thầm: “Nếu ta không ngồi ăn chung với thằng nầy, thì chắc chắn nó sẽ giết chết ta, thà là ta tự sát cho rồi.”
Vua bèn xả búi tóc ra, cột thắt gút phía ngọn tóc, đoạn xỏ hai chân vào cái nồi, rồi nhảy ùm xuống nước. Do oai lực cao độ của vua Mahānāma, thủy cung của loài rồng phát hiện, Long vương tự hỏi: “Có chuyện gì thế?”. Khi quán thấy được nguyên nhân, Long vương liền rước vua Mahānāma để ngồi trên mang của mình rồi đưa về thủy cung. Vua Mahānāma lưu trú nơi đây trong mười hai năm trường.
Vua Viḍūḍabha ngồi chờ ngoại tổ đã lâu, bèn khiến quân lính túa đi tìm kiếm dưới nước trên bờ, đến tối cũng không thấy, thắp đuốc soi đường mà tìm cũng chẳng thấy được nhà vua mất tích. Sau cùng, vua Viḍūḍabha cho rằng vua Mahānāma đã trốn thoát, nên rút quân lên đường, đại binh đến sông Aciravatī vào lúc ban đêm, nên chia làm hai đội, đóng trại nghỉ tại bờ sông, một đội ngủ trên cồn cát dưới sông, một đội thì ngủ trên bờ cao. Những người ngủ tại cồn cát mà không tạo ác nghiệp thì bị kiến cắn thức dậy la lên: “Chỗ tôi nằm bị kiến cắn.”, thế là họ lên trên bờ cao mà nằm. Còn những người nằm ở trên bờ cao mà tạo ác nghiệp nặng cũng bị kiến cắn, họ thức dậy la rằng: “Chỗ tôi nằm có kiến.”, và họ lại đi xuống cồn cát mà nằm. Ngay lúc ấy, mây đen kéo mù mịt, mưa tuôn như thác đổ, nước sông dâng lên trong nháy mắt, ngập lụt cả bờ sông, cuốn vua Viḍūḍabha cùng đoàn quân ngủ trên cồn cát đưa luôn ra biển. Tất cả những người tạo ác trọng nghiệp đều làm mồi cho cá và rùa.
Đại chúng Tỳ khưu đề khởi lời nghị luận rằng:
- Dòng Thích Ca bị diệt vong quả thật là oan uổng, khi không bị bọn người khát máu, cho rằng dòng Thích Ca đáng bị tru lục, rồi gặp ai chém nấy. Như thế thật là phi lý bất công.
Đức Bổn Sư nghe được lời đàm thoại của chư Tỳ khưu, bèn dạy rằng:
- Nầy chư Tỳ khưu ! Trong kiếp hiện tại, dòng Thích Ca bị diệt vong như thế là bất xứng, nhưng không có gì oan uống vì họ chỉ gặt hái cái quả tương xứng với ác nghiệp mà họ đã tạo ra trong dĩ vãng mà thôi.
- Bạch Ngài ! Dòng họ Thích Ca đã tạo nghiệp gì trong dĩ vãng?
- Trong dĩ vãng, họ đã vầy thành đoàn, xuống sông bỏ thuốc độc làm cho cá và rùa chết thật nhiều, do cộng nghiệp ấy mà dòng Thích Ca phải bị tiêu diệt như vậy.
Qua ngày sau, chư Tỳ khưu lại nhóm trong giảng đường và đề khởi pháp thoại như vầy:
- Vua Viḍūḍabha hạ sát cả dòng họ Thích Ca, trở về không đến được xứ. Vì nuôi tham vọng quá mức mà dắt dẫn cả bao nhiêu người đi theo làm mồi cho cá và rùa ở dưới biển sâu.
Đức Bổn Sư ngự đến giảng đường, phán hỏi rằng:
- Nầy các Tỳ khưu ! Các ông đang hội thảo về việc chi vậy?
Chư Tăng đáp: “Bạch Ngài, chuyện như vầy…”.
- Nầy các Tỳ khưu ! Cũng như dòng nước lũ ngập lụt cả xóm làng đang mê ngủ, tử thần bắt những chúng sanh nầy trong lúc họ còn ôm ấp tham vọng chưa thỏa mãn, cắt đứt mạng căn của họ, nhận chìm họ xuống biển tứ ác đạo vậy.
Nói xong, Đức Bổn Sư thuyết kệ rằng:
47. “Pupphāni h'eva pacinantaṃ,
byāsattamanasaṃ naraṃ;
Suttaṃ gāmaṃ mahogho'va,
maccu ādāya gacchati.”
47. “Kẻ mãi hái hoa ngũ trần,
Tâm còn mê vọng, tử thần bắt đi.
Như làng xóm ngủ li bì,
Nửa đêm bị nước cuốn đi thình lình.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn Ngữ, câu byāsattamanasaṃ nghĩa là: Tâm còn lưu luyến đến chỗ đã đến, hoặc đến chỗ chưa đến cũng như thợ làm tràng hoa, vào hoa viên để hái hoa, tuy còn đang hái ở đây mà tâm đã vọng tưởng đến chỗ khác, người ấy đưa tâm đi chu du khắp vườn hoa, dự định hái hết chỗ nầy sang qua chỗ kia, vừa đi vừa hái hoa, vừa để tâm lông bông như thế nào, thì cũng như thế ấy, người say mê, đắm nhiễm ngũ trần, khi chiếm hữu một bông hoa biết nói, có một nhan sắc ưa nhìn, hoặc có thinh, hương, vị, xúc vừa lòng đẹp ý rồi, cũng còn hướng tới mơ ước những bông hoa khác nữa, người ấy chưa hề biết đủ và còn thả tâm hồn đi lông bông theo các bông hồng xa lạ. Cũng đồng một nghĩa như trên, đối với người thế thì bông hoa ấy là bò, trâu, tôi tớ, trai gái, ruộng vườn, làng, xứ, quận chẳng hạn, còn đối với bậc xuất gia thì là cốc liêu, tịnh thất, y, bát chẳng hạn, đó là những bông hoa có tên là ngũ trần dục lạc mà người mải mê thâu nhặt hết chỗ nầy đến chỗ khác, là người tâm còn vọng tưởng ngũ trần vậy.
Suttaṃ gāmaṃ (làng ngủ say), không phải là đồ vật trong làng như nhà cửa, vách phên… ngủ mà gọi là làng ngủ say, đây là nói về những chúng sanh như người và súc vật đang ngủ yên giấc lúc ban đêm, làng ngủ bị tử thần là nước dâng lên ngập lụt cả hai ba do tuần cả chiều dài lẫn chiều sâu bị lôi cuốn đem đi.
Cũng như thế ấy, tử thần là dòng nước lũ, lôi cuốn tất cả chúng sanh trong làng không sót một ai, dầu là đàn ông hay đàn bà, bò, trâu, gà, vịt chi cũng bị đưa ra biển làm mồi cho cá và rùa, thì sự tử vong cũng vậy, nó bắt những kẻ đang mê vọng ngũ trần, cắt đứt mạng căn của mình, kẻ ấy bị nhận chìm xuống biển tứ ác đạo.
*
Khi thời pháp chấm dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhứt là Sơ quả. Đại chúng thính pháp cũng đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Vì chút tư thù khởi chiến tranh,
Lưu Ly Vương tạo nghiệp không lành.
Làn tên hữu ý dầu miễn tử,
Núi kiếm vô tình chẳng phóng sanh?
Máu đỏ loang hồng tòa khách sảnh,
Lòng son tô thắm đất Kim Thành.
Diệt dòng giới vức vui chưa trọn,
Bụng cá vùi thây chẳng hổ danh.
DỨT TÍCH VUA VIḌŪḌBHA
47. As a flood sweeps aways a sleeping village, death carries away the heedlessly sensuous.
47. Như lụt cuốn trôi ngôi làng đang ngủ, Thần chết mang đi những kẻ đắm say phóng dật.
47. Pupphāni h'eva pacinantaṃ,
byāsattamanasaṃ naraṃ;
Suttaṃ gāmaṃ mahogho'va,
maccu ādāya gacchati. (4:4)
47. For one who has a clinging mind
and gathers only pleasure-flowers,
Death does seize and carry away
as great flood a sleeping village.
----
IV. 4 - Tích NÀNG SỰ PHỤ
(Patipūjikāvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 48)
48. “Pupphāni h’eva pacinantaṃ,
byāsattamanasaṃ naraṃ;
Atittaṃ yeva kāmesu,
antako kurute vasaṃ.”
48. “Kẻ đang mãi hái hoa,
Tâm còn vọng tưởng xa.
Tìm hưởng thú dục lạc,
Tử thần nhốt chẳng tha.”
Kệ Pháp Cú nầy Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự gần thành Sāvatthī đề cập đến nàng Patipūjikā (Sự Phụ).
Chuyện nầy khởi đầu từ trên cung trời Đao Lợi.
Tương truyền rằng: Thuở ấy trên Tam thập tam thiên có vị Thiên tử (Devaputta) có hiệu là Mālābhārī (Hoa Quang), dắt theo hàng ngàn ngọc nữ ngự du trong vườn thượng uyển. Năm trăm thiên nữ trèo lên cây hái hoa ném xuống, năm trăm ở dưới nhặt hoa đi trang điểm cho Thiên tử. Trong số Thiên nữ leo cây, có một nàng đang ngồi trên nhánh cây vừa hết tuổi thọ, ngọc thể của nàng biến mất cũng như ngọn đèn vụt tắt. Tâm thức nàng thọ sanh vào một gia đình khá giả trong thành Sāvatthī.
Khi ra đời, nàng nhớ được tiền kiếp của mình, biết: “Mình trước là ái thiếp của Thiên tử Mālābhārī trên cung trời Đao Lợi.” Nên vừa lớn khôn nàng đã bắt đầu dâng cúng hương hoa, lễ vật nguyện cầu được siêu sanh trở về đoàn tụ với lang quân.
Lúc mười sáu tuổi, nàng xuất giá, từ đó nàng sống năng làm phước cúng dường thực phẩm đến Tăng bằng những cách thông thường như để bát chư Tỳ khưu mà nàng rút thẻ bắt thăm được, Trai Tăng mỗi ngày Uposatha (ngày rằm và ngày ba mươi), hoặc hộ Tăng trong ba tháng hạ… và phát nguyện rằng: “Xin cho sự phước thí nầy hãy là món duyên lành, giúp cho con được tái sanh hội hiệp với chồng con.”
Chư Tỳ khưu nghe nàng ước nguyện như thế, sáng chiều hướng tâm đến chồng, nên đã đặt cho nàng biệt hiệu là nàng Patipūjikā (Sự Phụ). Nàng luôn chăm nom ngôi tọa đường (Āsana sālā) cho người, lo việc dâng nước và sắp đặt chỗ ngồi, những thiếu nữ khác khi muốn cúng dường, Trai Tăng cũng thường nhờ cậy nàng cho mượn chỗ và phụ tiếp công nữa, hoặc đưa vật thực đến mượn nàng thay mặt để lo hộ độ chư Tăng nơi ngôi tọa đường, cứ mỗi bước đến ngôi tọa đường, hoặc đi về nhà, là nàng Patipūjikā có được năm mươi sáu thiện pháp đều đều như vậy.
Nàng thọ thai, được mười tháng thì sanh được đứa con trai, khi đứa con đầu lòng biết đi, nàng sanh thêm được một đứa kế, và cứ thế, nàng hạ sanh được bốn đứa con trai.
Thế rồi, một hôm sau khi bố thí, cúng dường, thính pháp, thọ giới, đến cuối ngày không đau bịnh chi hết, nàng tự nhiên lìa bỏ cõi đời, siêu sanh về tái hội với chồng. Khi ấy, các Thiên nữ khác vẫn còn đang trang điểm cho Thiên tử Mālābhārī. Thiên tử thấy nàng thì hỏi:
- Từ sáng đến giờ không ai thấy nàng, vậy nàng đi đâu?
- Thưa chàng, thiếp đã mệnh chung.
- Nàng nói thật chứ?
- Vâng, quả đúng như thế, thưa chàng.
- Nàng sanh về đâu?
- Trong một gia đình khá giả nơi thành Sāvatthī.
- Nàng ở đó bao lâu?
- Ở trong bụng mẹ mười tháng thì ra đời, đến năm mười sáu tuổi thì xuất giá, sanh được bốn con trai rồi làm phước cúng dường và ước nguyện được trở về với chàng. Nên giờ đây mới được thọ sanh về đây đó chàng.
- Tuổi thọ nhân loại là bao nhiêu?
- Lối một trăm năm.
- Chỉ có bấy nhiêu ư?
- Vâng, thưa chàng.
- Sanh làm con người chỉ có bao nhiêu tuổi thọ thế, họ lại ăn ngủ buông lung, để mặc thời gian trôi qua hay là họ cúng dường làm phước vậy?
- Thưa chàng, chàng nói chi chuyện làm phước, người đời họ luôn luôn dể duôi, buông tuồng, y như là họ sống đến hết A tăng kỳ kiếp, không già không chết vậy.
Nghe đến đây, một mối kinh càm phát sanh lên trong lòng Thiên tử Mālābhārī. Nghe nói: “Sanh làm người chỉ sống có một trăm tuổi thọ, thế mà họ vẫn sống buông lung ăn ngủ mãi, thì họ biết bao giờ mới thoát khổ.”
Ở Thiên giới chúng ta, một trăm năm cõi nhân loại chỉ bằng một ngày đêm cõi Đao Lợi nầy. Cứ ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, tuổi thọ nơi Đao Lợi thiên cung là một ngàn tuổi, tính theo tuổi nhân loại là ba mươi sáu triệu năm.
Bởi thế, nàng Thiên nữ khi thác xuống cõi người rồi trở về thiên giới chưa đến một ngày. Coi như mới đi trong chốc lát vậy. Con người có tuổi thọ ít oi như thế mà cứ buông lung giãi đãi thì thật là không phải cách.
Ngày hôm sau, chư Tỳ khưu vào ngồi trong tọa đường thấy không có người trông nom, chỗ ngồi không ai sắp đặt, nước không ai dâng cúng, bèn hỏi: “Nàng Sự Phụ đâu rồi?”.
- Bạch các Ngài ! Nàng ấy còn đâu nữa chỉ vừa mới ngày hôm qua, khi các Ngài thọ thực xong ra đi, thì chiều hôm ấy nàng đã qui thiên.
Nghe tin buồn, các Tỳ khưu tưởng nhớ đến công đức của nàng tín nữ quá cố mà không cầm được giọt lệ, các Thinh Văn Lậu Tận cũng phát sanh kinh cảm. Sau bữa cơm, chư Tăng về chùa đảnh lễ Đức Bổn Sư và bạch hỏi rằng:
- Bạch Ngài, nàng cận sự Patipūjikā sáng chiều hằng lo làm phước cúng dường lễ vật, phát nguyện xin được gần chồng, bây giờ nàng đã thác, không biết được thọ sanh về đâu?
- Nầy các Tỳ khưu ! Nàng thọ sanh về gần gũi với chồng nàng.
- Bạch Ngài ! Nàng chết rồi, đâu còn gần gũi với chồng nàng.
- Nầy chư Tỳ khưu ! Nàng không phát nguyện gần gũi với chồng ấy đâu. Chồng nàng là thiên tử Mālābhārī trên cõi Đao Lợi, khi nàng đang trèo lên cây hái hoa để trang điểm cho chồng thì hết tuổi thọ, hạ sanh về nhân loại, bây giờ thì đã trở về với chồng cũ rồi.
- Bạch Ngài, có thật như thế ư?
- Nầy các Tỳ khưu ! Có thật như thế.
- Ôi! Kiếp sống của chúng sanh thật là nhỏ nhen ngắn ngủi bạch Ngài, mới hồi sáng nàng còn hộ độ chúng con, kế buổi chiều nàng phát bịnh chết liền.
Đức Bổn Sư đáp: “Phải đó, các Tỳ khưu, đời sống chúng sanh ngắn ngủi là thường lệ, những chúng sanh nầy còn đang mải miết hái hoa ngũ trần dục lạc, thì bị tử thần bắt giữ, dầu cho có than van khóc lóc, tử thần cũng bắt đi luôn.”
Rồi Đức Bổn Sư thuyết kệ rằng:
48. “Pupphāni h’eva pacinantaṃ,
byāsattamanasaṃ naraṃ;
Atittaṃ yeva kāmesu,
antako kurute vasaṃ.”
48. “Kẻ mãi hái hoa vô tình,
Tâm còn vọng tưởng chẳng gìn giữ thân.
Trong giờ thọ hưởng ngũ trần,
Lòng còn nô lệ, tử thần chẳng xa.”
*
CHÚ GIẢI:
Pupphāni h’eva pacinantaṃ: Như người thợ làm tràng hoa vào vườn hoa mải mê hái hoa. Người ham mê ngũ trần mải mê góp nhặt những vật dính liền vào xác thân. Xác thân và các đồ vật dụng khác, gọi là hoa dục lạc.
Byāsattamanasaṃ naraṃ: Tâm lưu luyến đủ mọi cách, chỗ nào chưa đến thì khát khao mong mỏi, chỗ nào đã đến rồi thì nịch ái đắm say.
Atittaṃ yeva kāmesu: Không bao giờ thỏa mãn trong sự tìm kiếm, thọ hưởng tích trữ mọi thứ ngũ trần dục lạc.
Antako kurute vasaṃ: Bị lọt vào tay của Tử thần là sự chết, dầu cho thở than khóc lóc gì cũng vô ích, thế nào cũng bị nó bắt đem đi.
*
Bài kệ chấm dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhứt là Thánh quả Tu Đà Hườn, đại chúng thính pháp đều được hưởng nhiều lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Một phút thiên đình lỡ sẩy chân,
Sự Phụ sa đọa xuống hồng trần.
Hái hoa còn nhớ khi đoàn tụ,
Làm phước chưa quên buổi hợp quần.
Sống chỉ nguyện siêu về cảnh cũ,
Thác không lo đoạn mất tình thân.
Giữa thời xuân sắc xinh như mộng,
Giã biệt chồng con dứt nợ trần.
DỨT TÍCH NÀNG SỰ PHỤ
48. Death grabs the pursuer of sensual pleasures at will before reaching the point of satiety.
48. Thần chết bắt được kẻ chạy theo dục lạc buông thả, trước khi kẻ ấy được thỏa mãn tham dục.
48. Pupphāni h’eva pacinantaṃ,
byāsattamanasaṃ naraṃ;
Atittaṃ yeva kāmesu,
antako kurute vasaṃ. (4:5)
48. For one of desires insatiate
who gathers only pleasure-flowers,
For one who has a clinging mind
Death the sovereign overpowers.
----
IV. 5 - Tích BÁ HỘ KHAN NANG
(Macchariyakosiyaseṭṭhivatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 49)
49. “Yathā pi bhamaro pupphaṃ,
vaṇṇgandhaṃ aheṭhayaṃ;
Paleti rasam’ādāya,
evaṃ gāme munī care.”
49. “Ví như ong lấy mật,
Không hại sắc hương hoa.
Vị Sa môn hành khất,
Vào làng lại trở ra.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự gần thành Sāvatthī, đề cập đến bá hộ Macchariya (Túi keo: Khan Nang).
Câu chuyện nầy khởi đầu tại thành Rājagaha.
Tương truyền rằng: Cách kinh thành Rājagaha không bao xa, có một thị trấn tên là Sakkara, nơi đó có ông bá hộ Macchariyakosiya, gia tài lên đến tám trăm triệu đồng vàng. Ông bá hộ nầy chẳng bao giờ bố thí cho ai hoặc tự mình tiêu xài chút ít chi, dầu chỉ là nhỏ nhen như rót dầu trên đầu cọng cỏ, cho đến những người thân thích ruột rà như vợ con trong nhà hoặc các bậc xuất gia như Sa môn, Bà la môn chẳng hạn, cũng không ai được hưởng phần gia tài khổng lồ mà ông bo bo gìn giữ như hồ nước đầy, không dám cho hao một giọt.
Một hôm, sau khi xuất định Đại bi trong buổi sáng sớm, Đức Bổn Sư dùng Phật nhãn quán xét toàn cõi thế gian tìm kiếm chúng sanh nào có đủ căn lành đáng được tiếp độ, Ngài thấy ở cách xa Ngài độ bốn mươi lăm do tuần, có hai vợ chồng ông Trưởng giả Macchariyakosiya có duyên lành đắc Tu Đà Hườn trong ngày ấy.
Nguyên cách mấy hôm trước, ông Trưởng giả có lên thành Rājagaha yết kiến đức vua, sau khi bãi chầu, trở về dọc đường ông có gặp một người dân quê đói bụng đang nhai ngấu nghiến một ổ bánh tàn ong chất đầy váng sữa coi bộ ngon lành lắm, làm ông phát thèm. Về đến nhà, ông nghĩ thầm: “Nếu ta hở môi ra nói là ta muốn ăn bánh tàn ong, thì chắc có nhiều đứa muốn ăn chung với ta, như thế phải tốn hao nhiều mè, bơ, đường, than, củi đủ thứ… Thôi tốt hơn ta không nên cho ai biết.” Rán dằn tâm đè nén sự thèm khát, ông bỏ đi thất thơ đây đó.
Nhưng càng đi nhiều, ông càng thấy vỏ vàng gầy guộc, mình nổi gân xanh, chớ không khuây khỏa được sự thèm khát. Về sau, ông phải vào phòng riêng, nằm úp sấp trên giường, cho đến nước ấy mà ông chẳng chịu tỏ thật với ai, chỉ vì sợ hao hụt kho tàng của mình.
Khi ấy, bà Trưởng giả vào đấm lưng cho chồng, hỏi ông:
- Chẳng hay mình đau bịnh chi vậy?
- Ta không có đau ốm chi cả!
- Hay là mình bị đức vua khiển trách?
- Đức vua cũng không phiền trách chi ta cả!
- Hay là con cái hoặc tôi tớ trong nhà có làm điều chi phật lòng của mình?
- Cũng chẳng có ai làm cho ta phật ý cả.
- Thế thì mình có thèm lạt món chi chăng?
Nghe vợ hỏi vậy, ông Trưởng giả lặng thinh, sợ nói ra lời thì thất thố, có thể hao tốn đến kho tàng của ông. Bà Trưởng giả không nghe ông trả lời, bèn lặp lại câu hỏi:
- Mình à, hay là mình thèm lạt món chi?
Ông không dám nói lớn, chỉ ấm ứ trong cuống họng: “Ta thèm ăn một món.”
- Mình thèm ăn món gì?
- Ta muốn ăn bánh tàn ong.
- Chỉ có vậy mình không nói cho tôi biết, để chịu nhịn thèm làm chi. Bây giờ, để tôi làm ổ bánh để đãi cả thị trấn Sakkara nầy.
- Bà lo cho nhiều người chi vậy, họ muốn ăn thì họ tự lo làm lấy mà ăn chớ.
- Thế thì tôi làm một ổ bánh vừa đủ để đãi tất cả gia nhân trong khu phố để ăn.
- Tôi dư biết là bà giàu có lớn rồi mà.
- Thế thì, tôi sẽ làm một ổ bánh lớn vừa cả gia tộc của mình ăn.
- Tôi vẫn biết bà có tật ưa làm đấy mà.
- Thế thì tôi sẽ làm một ổ bánh vừa đủ vợ chồng con cái mình ăn.
- Con cái ăn làm gì bánh nầy?
- Vậy tôi sẽ làm vừa đủ để ông và tôi dùng.
- Bà không thèm mà ăn làm chi.
- Vậy thì để tôi làm một cái vừa đủ mình ông ăn.
- Nếu bà nấu bánh tại đây sẽ có đứa biết mà ăn chực, bà chừa gạo tốt ra lấy tấm mẳn với khuôn lò nướng và chút ít sữa tươi, bơ lỏng, mật ong, đường rồi mang lên lầu bảy, ở đó làm bánh và nướng ngay tại chỗ đó, để tôi ngồi ăn một mình.
Bà Trưởng giả đáp: “Dạ được.”
Bà cho đem đủ thứ vật liệu cần thiết, lên tuốt trên lầu thượng, rồi cho các nữ tỳ xuống hết, mới kêu ông Trưởng giả lên. Ông Trưởng giả trước hết lo đi đóng kín các cửa lại, gài then cẩn thận, rồi mới lên lầu bảy, đóng cửa bít bùng, ngồi trong phòng, đoạn ông bảo bà đốt lò, làm bánh nướng cho ông ăn.
Khi ấy vừa bình minh, Đức Bổn Sư gọi Đại đức Moggallāna và dạy: “ Nầy Moggallāna, cách thành Rājagaha không xa, nơi thị trấn Sakkara có ông Trưởng giả Macchariyakosiya muốn ăn bánh tàn ong, nhưng sợ người ngó thấy, nên bảo vợ làm bánh nướng trên từng lầu thứ bảy, ông hãy đến nơi đó thu phục cho được ông Trưởng giả ấy, bảo họ mang theo cả bánh và sữa, bơ, đường, mật, rồi ông hãy dùng thần lực đưa cả hai vợ chồng về Jetavana. Hôm nay ta sẽ ngồi thọ thực tại chùa cùng với năm trăm Tỳ khưu.”
Đại đức đáp: “Lành thay! Bạch Ngài.”
Vâng lịnh Đức Bổn Sư, Đại đức dùng thần thông bay đến thị xã Sakkara. Đến đứng trước cửa sổ tòa lâu đài bảy từng của ông Trưởng giả, Đại đức đứng giữa hư không với tam y quả bát nghiêm trang rực rỡ chói lòa như ngọc Maṇī. Ông trông thấy Đại đức thì nghe trong tim rúng động, ông nghĩ: “Ta sợ gặp mặt những người như vậy nên mới lên đến chỗ nầy, vậy mà ông còn theo ta lên đứng tại cửa sổ.” Nên ông nói rằng:
- Nầy ông Sa môn ơi! Không có bánh cho ông đâu, ông hãy đi đi.
Không dè Đại đức đã quyết thi hành cho được sứ mạng rồi mới chịu đi, nên Ngài lặng thinh đứng nơi ấy. Ông Trưởng giả nổi xung, nói với giọng mất bình tĩnh, như là muối được ném vào lửa đỏ:
- Nầy ông Sa môn, ông đứng đó làm chi giữa trời vậy, ông có thể đi lên đi xuống làm thành một con đường mòn giữa hư không, nhưng rốt cuộc ông cũng chẳng được chi cả đâu.
Đại đức Moggallāna liền đi tới đi lui, ngay trước cửa sổ giữa hư không… Ông Trưởng giả liền nói:
- Ông đi tới đi lui làm chi cho mọi người thấy, chỉ mỏi chân thôi, ông có thể ngồi kiết già giữa hư không, nhưng nếu có làm như vậy ông cũng chẳng được chi cả.
Vị Đại đức liền xếp chân ngồi kiết già giữa hư không.
Ông Trưởng giả lại nói:
- Ông ngồi giữa trời mà làm chi, ông có thể đến đứng ngay trên cửa sổ, nhưng rốt cuộc làm như vậy, ông cũng sẽ chẳng được gì.
Vị Đại đức liền đến đứng trước cửa sổ ông Trưởng giả lại nói:
- Ông đứng ngay ngưỡng cửa sổ làm gì, ông có thể phun ra khói, nhưng rốt cuộc làm vậy ông cũng chẳng được gì đâu.
Vị Đại đức liền phun khói ra, cả tòa lâu đài mù mịt trong khói đen, hai mắt ông Trưởng giả xốn xang như bị kim chích. Sợ cháy nhà, ông ta không dám thách thức Đại đức phun lửa, nên làm thinh nghĩ rằng: “Ông Sa môn nầy đeo dính theo ta, nói gì cũng không nhúc nhích. Ta phải thí cho ông một ổ bánh đưa ổng đi cho rồi.”
Ông Trưởng giả bảo vợ: “Bà nầy, hãy nướng một cái bánh nhỏ cho ông Sa môn, bảo ông đi nơi khác đi.”
Bà Trưởng giả đổ chút ít bột vào khuôn, bột nổi phình thành một cái bánh to, choán đầy cả khuôn, thấy vậy ông nóng ruột, tự nghĩ rằng: “Chắc là đổ nhiều bột quá.”
Ông bèn đứng dậy, tự mình múc một muỗng nhỏ bột đổ vào khuôn, cái bánh thứ hai còn phồng to hơn cái bánh trước, ông lại tiếp tục bớt bột, nhưng cái thứ ba to lớn hơn thêm, ông tiếp tục bớt bột đổ thêm nữa, nhưng cái bánh càng về sau lại càng phồng hơn cái trước. Đến khi mệt mỏi, ông bảo vợ:
- Nầy bà, hãy lấy một cái bánh cho ông Sa môn đi.
Bà Trưởng giả cầm lấy cái bánh trong giỏ xách, nhưng tự nhiên các ổ bánh dính chùm lại với nhau. Bà gọi chồng:
- Mình à, những ổ bánh nầy dính chùm lại với nhau, tôi gỡ không ra.
- Bà để đó cho tôi.
Ông Trưởng giả gỡ cũng không ra, hai ông bà nắm hai đầu bánh kéo như căng dây, mà cũng không thể bẻ lẻ ra được, hai ông bà rán sức kéo một hồi mồ hôi xuất ướt cả mình, hai ông bà khát nước quá, phải buông ra chịu thua. Ông bảo vợ rằng:
- Bà à, ta không cần ăn bánh nữa, bà hãy đem cả giỏ xách nầy mà cho ông Sa môn đi.
Bà Trưởng giả mang cả giỏ bánh đến gần Đại đức, Đại đức thuyết pháp cho ông bà nghe về ân đức của Tam Bảo và giải cho họ biết về phước báu của các việc lành, nhất là sự bố thí sẽ phát sanh tròn đủ cho các thí chủ như trăng tròn mọc trong ngày rằm vậy.
Được nghe pháp, ông Trưởng giả phát tâm trong sạch thỉnh Đại đức: “Bạch Ngài! Xin thỉnh Ngài vào an tọa nơi đây thọ thực.”
Đại đức đáp: “Nầy Trưởng giả, Đức Chánh Biến Tri hiện đang ngự tọa trong chùa Jetavana, Ngài muốn độ bánh với năm trăm Tỳ khưu tại đó. Ngài đã sai ta đến đây thuyết phục ông bà, rồi đưa ông bà với bánh sữa, đường, mật về Jetavana. Vậy ta hãy chuẩn bị cùng nhau đi đến viếng Đức Bổn Sư.
- Bạch Ngài, hôm nay Đức Bổn Sư ngự tại đâu?
- Ở chùa Jetavana, cách đây độ bốn mươi lăm do tuần đó à.
- Bạch Ngài! Làm sao ta đi được một khoảng đường xa như thế cho kịp bây giờ.
- Nầy ông Trưởng giả, miễn là ông bà hoan hỷ thì dầu xa, ta sẽ dùng thần thông đưa hai người đi, nơi ta đứng trong tòa lâu đài nầy sẽ là cầu thang, và cổng tam quan của chùa Jetavana là chân cầu thang, chỉ trong thời gian mau lẹ như từ trên lầu nầy xuống đất, ta sẽ đưa hai ông bà tới Jetavana rồi.
Ông Trưởng giả bằng lòng nên đáp: “Lành thay, bạch Ngài.”
Đại đức bèn nguyện rằng: “Nơi đây, là cầu thang, xin cho chân thang là cổng của Tinh xá Jetavana.”
Lời nguyện của Đại đức thành tựu trong tức khắc. Đại đức và hai ông bà Trưởng giả trong chốc lát đã đến Jetavana, còn mau hơn là từ lầu xuống đất. Hai thí chủ cùng đến báo tin với Đức Bổn Sư: “Đã đến giờ thọ thực.”
Đức Bổn Sư bèn dắt năm trăm Tỳ khưu, ngự vào trai đường, Ngài ngự lên Phật bảo tọa đã được dọn sẵn, ông Trưởng giả bèn xối nước khai mạc buổi lễ cúng dường bánh đến Đại đức Tăng có Đức Phật là hội chủ. Bà sớt đầy bánh đến đấng Như Lai, Đức Bổn Sư thọ dụng bánh vừa đủ, cả năm trăm Tỳ khưu vẫn như thế, ông Trưởng giả đứng dâng sữa, bơ, mật, đường lỏng, đường cục.
Khi dùng xong bữa, Đức Bổn Sư cùng với năm trăm Tỳ khưu bảo thôi dâng, hai vợ chồng Trưởng giả mới rảnh tay, cùng ăn bánh cho no bụng, bánh còn dư thật nhiều, đem cho đến người xin tàn thực của chư Tăng, ăn cũng không hết. Hai ông bà bèn bạch lại với Đức Thế Tôn :
- Bạch Ngài, bánh còn dư đem bỏ đâu?
Đức Bổn Sư dạy:
- Hãy mang đổ ngoài cổng trước chùa Jetavana.
Khi hai ông bà đem bánh dư đổ xuống triền dốc, gần cổng tam quan chùa, cho đến nay chỗ ấy còn mang tàn tích kỷ niệm là Dốc bánh tàn ong (Kapallapūvapabbhāra), kế đó nhà đại phú hộ cùng vợ đến gần đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi đứng sang qua một bên. Đức Thế Tôn đọc kinh phúc chúc.
Nghe hết bài kinh, hai ông bà đắc quả Tu Đà Hườn, đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi lên cầu thang từ cổng tam quan trở lại lâu đài của mình.Từ đó về sau, ông đem cái kho tàng tám trăm triệu đồng vàng mà ủng hộ Phật pháp.
Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ngồi họp mặt trong giảng pháp đường, đề cao oai lực của Đại đức Moggallāna rằng:
- Chư hiền hữu có thấy oai lực của Đại đức Moggallāna chưa? Đại đức không làm mất đức tin, không làm hao tài sản, chỉ trong chốc lát mà thu phục được ông Trưởng giả Macchariyakosiya, khiến ông mang cả bánh và đưa ông ta trở về Jetavana yết kiến Đức Bổn Sư, nhờ đó ông đắc quả Tu Đà Hườn. Đại đức quả thật là một bậc đại thần lực vậy.
Do Thiên nhĩ, Đức Thế Tôn nghe được sự đàm luận của chư Tỳ khưu, Đức Bổn Sư ngự vào phòng họp phán hỏi rằng:
- Nầy các Tỳ khưu ! Hôm nay các ông hội họp thảo luận về việc chi thế?
- Bạch Ngài, chúng con … như vầy …
Nghe chư Tăng đáp xong, Đức Bổn Sư phán dạy:
- Nầy các Tỳ khưu! Ví như ong chỉ lấy mật trong hoa, Tỳ khưu nào khéo huấn luyện một gia tộc thì không làm mất đức tin, không làm hại tài sản, không làm khổ cực, khó mãi cho gia tộc ấy. Trái lại, khi đến gần người cư sĩ nên làm cho họ biết đến ân đức của Tam Bảo như con trai ta là Moggallāna, đây vậy.
Sau khi thốt lời khen ngợi Đại đức, Đức Bổn Sư thuyết lên kệ ngôn rằng:
49. “Yathā pi bhamaro pupphaṃ,
vaṇṇgandhaṃ aheṭhayaṃ;
Paleti rasam’ādāya,
evaṃ gāme munī care.”
49. “Ví như ong nọ tìm hoa,
Lấy xong chút mật rồi là bay đi.
Sắc hương chẳng động làm chi,
Sa môn khất thực cũng y thế mà.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ, Phạn ngữ bhamaro chỉ cho con ong mật bất cứ thứ nào.
Pupphaṃ: Trong vườn hoa, con ong vào ra hút mật, nhưng không làm tổn hại hoa và hương sắc của hoa.
Paleti: Sau khi hút lấy nhụy hoa vừa đủ no, con ong bay về tổ, nhả ra để làm thành mật, nó bay lút vào một bọng cây trong rừng rậm nào đó, nhỏ nhụy có lẫn bột phấn hoa ra lọc lấy chất tinh túy chế biến dần thành mật ong nguyên chất. Trong khi bay đi đó khắp vườn hoa, không bao giờ con ong làm thiệt hại hoa hay hương sắc của hoa, sau đó nó bay đi, tất cả vườn hoa vẫn y nguyên như thường.
Evaṃ gāme munī careti: Cũng như thế, bậc xuất gia tịnh giả hữu học hoặc vô học (asekha) đi trì bình khất thực trong làng xóm của người cư sĩ, không bao giờ sự đi lại của các Ngài gây tổn hại đức tin hoặc tài sản của các gia tộc khi vào làng như thế, rồi trở ra, bậc tịnh giả hữu học trải Tăng già lê (saṅghāṭi) ngồi nơi chỗ mát mẻ, có nước, ở ngoài xóm, quán tưởng vật thực đi bát được như thịt của đứa con mình, là người trốn trong rừng bất đắc dĩ phải ăn để duy trì mạng sống, rồi mới thọ dụng, sau khi đi vào rừng như thế, vị ấy lấy nội tâm làm đề mục tham thiền quán tưởng, đạt được bốn đạo và bốn quả trở thành vị Thánh vô học, trú tâm vào Kiến lạc pháp (Diṭṭhadhamma sukha) tức là hưởng thụ tịnh lạc hiện tiền do nhờ giác ngộ nội tâm.
Vị nầy cũng giống như con ong vào rừng nhả nhụy làm hoa, biến chế ra mật nguyên chất vậy. Bậc tịnh giả trong bài kệ nầy là chỉ bậc Sa môn A La Hán như Đại đức Moggallāna.
*
Bài kệ vừa dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
Sau bài pháp nầy, Đức Thế Tôn còn thốt lời tán dương ân đức cao thượng của Đại đức nữa:
- Nầy chư Tỳ khưu, không phải Moggallāna chỉ mới thu phục được Trưởng giả trong kiếp nầy. Trong tiền kiếp Moggallāna cũng đã từng huấn luyện ông ta, khiến ông ta hưởng được nghiệp quả liên quan rồi.
Để chứng minh cho việc nầy, Đức Bổn Sư giảng tích Illīsajātaka (Tích Đoản Kiếm) và ngâm lên kệ rằng:
(Jātaka 345)
“Ubho khañjā ubho kuṇī,
ubho visamacakkhukā;
Ubhinnaṃ pīḷakā sīse,
nāhaṃ jānāmi illīsanti.”
“Người què, người lại nhót chân,
Cả hai cặp mắt lé trân không nhìn.
Hai đầu lép cũng giống in,
Ai là đoản kiếm ta nhìn không ra?”
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Khan Nang bá hộ kiết ai bằng?
Thèm bánh tàn ong định trốn ăn.
Cửa đóng then gài che mắt tục,
Lời qua tiếng lại tiễn chân Tăng.
Duyên may Phật độ thành Sơ quả.
Phước tốt Sư trừ bớt bịnh căn.
Tự hậu chẳng quên thầy tiếp dẫn,
Tỳ khưu Lậu Tận, bực kỳ năng.
DỨT TÍCH BÁ HỘ KHAN NANG
49. The mendicant must sojourn the village for his needs gently like a bee on a flower.
49. Vị Tỳ khưu đi vào làng để khất thực một cách trang nghiêm như con ong đến với hoa.
49. Yathā pi bhamaro pupphaṃ,
vaṇṇgandhaṃ aheṭhayaṃ;
Paleti rasam’ādāya,
evaṃ gāme munī care. (4:6)
49. Just as the bee in a flower
harming neither hue nor scent
gathers nectar, flies away,
so in towns a Wise One fares.
----
IV. 6 - Tích TU SĨ NGOẠI ĐẠO TIỂU ĐIỆP
(Pāṭikājīvakavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 50)
50. “Na paresaṃ vilomāni,
na paresaṃ katākataṃ;
Attano’va avekkheyya,
katāni akatāni ca.”
50. “Đừng oán lời thô bỉ,
Việc người làm rồi chưa.
Hãy quán xét tự kỷ,
Việc mình làm xong chưa.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự gần thành Sāvatthī, đề cập đến tu sĩ Pāṭika (Tiểu Điệp).
Tương truyền rằng: Trong thành Sāvatthī có một bà thí chủ hằng chu cấp cho một tu sĩ ngọai đạo thường xuyên, tên ông ấy là Pāṭika (Tiểu Điệp) mà bà nhận làm con nuôi.
Trong xóm bà ở đó có những người đi nghe Đức Bổn Sư thuyết pháp, lúc về hằng ca tụng ân đức Phật Bảo bằng nhiều lời lẽ như là: “Ôi Pháp của chư Phật thuyết ra thật là huyền diệu phi thường!”.
Được nghe lời tán dương ân đức Phật Bảo, bà nầy phát tâm muốn đi chùa thính pháp, bèn ngỏ ý với tu sĩ Pāṭika:
- Bạch thầy, tôi muốn đến viếng Đức Phật.
Tu sĩ Pāṭika can rằng: “Thôi đừng đi má ơi!”.
Bà nài nỉ nhiều lần, vị tu sĩ cũng đều cản như vậy hết. Sau cùng bà nghĩ rằng: “Thầy không bằng lòng cho ta đi chùa nghe pháp, thôi thì ta hãy thỉnh Đức Thế Tôn đến đây! Như thế ta sẽ được nghe pháp.”
Sáng hôm ấy, bà chủ nhà cho gọi cậu con trai đến và bảo:
- Nầy con, con hãy đi thỉnh Đức Tôn Sư ngày mai đến đây.
Trước khi đi, cậu con trai ghé vào chỗ ngụ của tu sĩ Pāṭika đảnh lễ vị ấy rồi ngồi xuống. Vị tu sĩ hỏi cậu:
- Cậu đi đâu vậy?
- Má tôi sai tôi đi thỉnh Đức Tôn Sư.
- Cậu đừng nên đến chỗ ông Sa môn đó.
- Không được đâu thầy. Tôi sợ má tôi lắm. Thôi để tôi đi.
- Cậu đừng đi, đồ lễ vật sắp dưng cho ông ấy, để hai ta cùng chia nhau cùng ăn.
- Thôi thầy ơi! Má hăm đánh, tôi sợ lắm.
- Thế thì cậu hãy đi thỉnh đi, nhưng nhớ đừng chỉ rõ đường nào, lối nào đến nhà ta. Cậu giả như người ở gần đâu đó, và khi từ giã, cậu hãy chạy nhanh cho khuất mắt, rồi rẽ sang ngã khác đến đây.
Vâng lời tu sĩ ngoại giáo ấy, thiếu niên đến thỉnh Đức Bổn Sư rồi làm theo cách thầy ấy đã dặn, xong trở về phục lịnh.
Vị tu sĩ hỏi cậu ta: “Cậu đã làm cách nào?”.
- Thưa thầy, tôi đã làm đúng như lời thầy chỉ dạy.
- Cậu giỏi thật, vậy phần lễ vật dâng cho ông Sa môn ấy, hai đứa mình sẽ chia nhau ăn nhé.
Hôm sau, từ sáng sớm, tu sĩ Pāṭika đã đến nhà bà tín chủ ấy, bà rước tu sĩ vào ngồi trong nhà nghỉ.
Phía nhà trước, những người láng giềng phụ tô vách phòng bằng phân bò ướt, đoạn lấy bông lúa và bông ngũ cốc khô gieo rắc khắp nơi cho đẹp. Họ sửa soạn bảo tọa cực kỳ xinh đẹp và sang trọng để cung thỉnh Đức Bổn Sư ngồi. Quả thật, những người chưa từng thân cận với chư Phật thì không biết rành cách sắp đặt chỗ ngồi cho bậc Sa môn. Vả lại, chư Phật không cần phải có người dẫn đường chỉ lối cho Ngài đi. Trong ngày Đức Chánh Biến Tri đắc đạo quả dưới cội Bồ đề, khắp cả mười ngàn thế giới Ta bà đều rúng động. Ngài đã thấu rõ con đường luân hồi của chúng sanh: Đây là đường đi địa ngục, đây là đường đi súc sanh, đây là đường đi ngạ quỷ, đây là đường nhân loại, đây là đường chư Thiên và đây là đường bất diệt Đại Níp Bàn. Không bao giờ Ngài cần ai chỉ đường vào làng, hay vào thị trấn, hay đến những nơi khác. Vì thế nên sáng hôm ấy, Đức Bổn Sư mang y bát đến nhà bà đại tín chủ, bà ra khỏi nhà, gieo năm vóc xuống đảnh lễ Đức Bổn Sư, thỉnh Ngài an tọa trong nhà xong, xối nước khai mạc lễ cúng dường đến Ngài các vật thực loại cứng loại mềm ngon quí.
Khi Đức Bổn Sư độ xong bữa, bà cận sự nữ xin thỉnh bát Ngài, để Ngài thuyết kinh phúc chúc đến cho bà. Đức Bổn Sư ôn tồn thuyết pháp hồi hướng phước báu đến thí chủ làm cho bà vô cùng thỏa thích, vừa nghe pháp vừa thốt lên lời hoan hỷ: “Lành thay! Lành thay!”.
Khi ấy, tu sĩ Pāṭika ngồi ở nhà trong, nghe tiếng bà má nuôi đang thính pháp mà khen dồn như vậy thì dằn lòng không được, đứng dậy ra đi trong lòng nghĩ rằng: “Như vậy bà nầy bây giờ không còn là đệ tử của ta nữa rồi.”
Tu sĩ Pāṭika xỉ mạ bà đại tín nữ luôn cả Đức Phật bằng những lời lẽ bất nhã như là: “Mụ già đốn mạt, tới số rồi đa, hãy lo phụng sự hắn ta như vầy mãi nghe…”, đoạn bỏ đi luôn.
Bà cận sự nữ hổ thẹn vì lời mắng nhiếc của tu sĩ Pāṭika tâm bị xao lãng, không còn chú ý nghe pháp nữa.
Thấy vậy Đức Bổn Sư hỏi bà:
- Nầy bà tín nữ, bà không còn chú ý nghe pháp được nữa phải chăng?
- Bạch Ngài, những lời của thầy ấy làm cho tâm con xao lãng.
Đức Thế Tôn bảo rằng: “ Những lời lẽ của con người ưa khích bác, chống đối như thế, nói ra bà không nên nghĩ nhớ làm gì. Đừng chất chứa nó trong tâm, chỉ nên xem sự việc mình đã làm xong chưa, và việc mình chưa làm là hơn.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết bài kệ sau đây:
50. “Na paresaṃ vilomāni,
na paresaṃ katākataṃ;
Attano’va avekkheyya,
katāni akatāni ca.”
50. “Lời thô bỉ gác ngoài tai,
Việc làm đắc thất của ai mặc tình?
Hãy lo quán xét việc mình,
Việc nầy việc nọ hoàn thành hay chưa.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ nầy, câu Phạn ngữ Na paresaṃ vilomāni nghĩa là không nên để ý đến những lời nói thô bỉ, độc ác, xuyên tạc của kẻ khác.
Na paresaṃ katākataṃ: Không nên nhìn xem việc đã làm, hoặc không làm của kẻ khác, chẳng hạn như thấy rằng: Ông thiện nam nọ kém đức tin, không trong sạch, chưa hề bố thí tại nhà một vá thực phẩm nào, không làm phước Trai Tăng, không dâng cúng tứ vật dụng… Hoặc là ở nơi đó Tỳ khưu nọ kém đức tin, không trong sạch, không hầu hạ thầy tế độ, không phục vụ thầy tiếp dẫn, không làm tròn bổn phận đối với Tăng mới đến, đối với Tăng sắp đi xa, với Thánh Pháp, nơi làm lễ phát lộ, trong trai đường, trong nhà tắm nước nóng… Vị ấy cũng không thọ chi đầu đà nào, không tinh tấn tham thiền hành đạo…
Attano’va avekkheyya: Tự kỷ hằng quán xét như vầy: Kathambhūtassa me rattindivā vitīpatanti: Ngày và đêm qua mau thắm thoát ta đã làm xong việc chi chưa? Người tại gia nên luôn luôn quán xét như vậy, lại phải nhớ đến huấn từ nầy: “Con người gia giáo có đức tin xuất gia nhập đạo phải tự hỏi rằng: “Tam tướng là Vô thường, Khổ não, Vô ngã. Tại sao ta chưa dứt được bốn ách và chứng đắc Níp Bàn? Phải nên quán việc đã làm hoặc chưa làm như thế.”
*
Bài kệ vừa dứt, bà tín nữ đắc chứng Tu Đà Hườn quả. Đại chúng thính pháp cũng đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Bày mưu thỉnh Phật chỉ sai đường,
Tiểu Điệp ganh người được tán dương.
Trước ỷ làm con cao giọng mắng,
Sau do biết mẹ nặng tình thương.
Mất phần thực lộc thà ly biệt,
Được quả Thinh Văn cũng đoạn trường!
Hai lẽ chánh tà không hiệp một,
Kẻ còn ở lại, kẻ tha phương.
DỨT TÍCH TU SĨ NGOẠI ĐẠO TIỂU ĐIỆP
50. Consider only your own commissions and omissions and not those of others.
50. Chỉ nên xem xét những việc mình đã làm hay chưa làm, chứ không nên xem xét việc của người khác.
50. Na paresaṃ vilomāni,
na paresaṃ katākataṃ;
Attano’va avekkheyya,
katāni akatāni ca. (4:7)
50. Not others’ opposition
nor what they did hoặc failed to do,
but in oneself should be sought
things done, things left undone.
----
IV. 7 - Tích THIỆN NAM TẢN THỦ
(Chattapāṇi upasakavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 51-52)
51. “Yathā’pi ruciraṃ pupphaṃ,
vaṇṇavantaṃ agandhakaṃ;
Evaṃ subhāsitā vācā,
aphalā hoti akubbato.”
51. “Như đóa hoa tươi đẹp,
Có sắc chẳng mùi thơm.
Như lời nói tuy đẹp,
Không hành chẳng quả đơm.”
52. “Yathā’pi ruciraṃ pupphaṃ,
vaṇṇvantaṃ sagandhakaṃ;
Evaṃ subhāsitā vācā,
saphalā hoti sakubbato.”
52. “Như đóa hoa tươi đẹp,
Có sắc có mùi thơm.
Như lời nói đã đẹp,
Có hành quả chắc đơm.”
Kệ Pháp Cú (51-52) nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Tinh xá Jetavana, gần thành Sāvatthī đề cập đến thiện nam Chattapāṇi (Tản Thủ).
Quả thật vậy, vào thời ấy ở thành Sāvatthī có vị cận sự nam tên là Chattapāṇi đắc A Na Hàm và thông suốt Tam tạng.
Một buổi sáng nọ, sau khi thọ giới Bát quan, ông ấy đến hầu cận với Đức Thế Tôn, dĩ nhiên là chư Thánh Thinh Văn A Na Hàm thì không cần giữ giới Bát quan trai, vì các vị ấy giữ tròn phạm hạnh và không còn ăn sái giờ nữa. Do đó, có Phật ngôn: “Tâu đại vương! Dầu là người thợ làm chén, làm đồ gốm nhưng nếu ăn một ngày một bữa và giữ phạm hạnh tròn, thì cũng là bậc có giới đức, có thiện pháp, ví như vị A Na Hàm luôn luôn ăn ngày một bữa và giữ tròn phạm hạnh vậy!”.
Tuy nhiên, cận sự nam Chattapāṇi cũng theo lệ thọ trì Bát quan trai giới, rồi đến gần Đức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên nghe thuyết pháp.
Ngay lúc bấy giờ, quốc vương Pasenadi Kosala cũng ngự đến hầu Đức Bổn Sư.
Thấy quốc vương đến, ông cận sự nam nghĩ thầm: “Ta có nên đứng dậy hay không ?”, ông xét thấy rằng: “Ta đang ngồi chầu một vị Hoàng đế mà đứng lên chào một vua chư hầu thì không phải phép. Dầu cho quốc vương có thấy ta không đứng dậy tiếp rước mà giận dữ, ta cũng đành để cho quốc vương giận, chớ ta không đứng dậy. Quả nhiên, nếu thấy các vua mà đứng dậy thì quí trọng đức vua hơn Đức Bổn Sư hay sao? Thôi ta nhất định không đứng.” Thế rồi, ông cận sự nam ngồi yên như cũ.
Các bậc hiền trí không bao giờ giận người đang ngồi gần vị cao quí hơn mình, khi người nầy thấy mình mà không đứng dậy. Nhưng quốc vương thấy ông Chattapāṇi không đứng dậy chào mình, nghinh tiếp mình, thì lại bất bình, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi nép qua một bên, Đức Bổn Sư biết đức vua đang giận, bèn đề cao ông thiện nam rằng:
- Tâu đại vương! Cận sự nam Chattapāṇi nầy là bậc hiền giả, bậc lịch sự, thông suốt Tam tạng Pháp bảo, hiểu rành các điều hữu ích và vô ích.
Quốc vương nghe Đức Bổn Sư ca tụng cận sự nam với ân đức thù diệu thời mới nguôi cơn giận và phát tâm hoan hỷ.
Sau đó, một hôm quốc vương đã thọ thực xong, đang đứng trên lầu cao trong cung đình, trông thấy thiện nam Chattapāṇi, tay cầm dù chân mang dép tiến lên sân ngự, bèn cho quân hầu gọi ông vào đền, ông bỏ dù, cởi dép, đến gần đảnh lễ quốc vương, rồi đứng nép qua một bên. Quốc vương phán hỏi:
- Nẩy khanh cận sự nam, sao khanh lại bỏ dù, cởi dép chi vậy?
- Tâu bệ hạ! Vì nghe có lịnh quốc vương dời, nên thần dân bỏ dù cởi dép ra mà vào hầu bệ hạ.
- Chắc hôm nay khanh mới nhận biết trẫm là quốc vương phải không ?
- Tâu bệ hạ! Thần dân chúng tôi lúc nào cũng nhận biết bệ hạ là quốc vương luôn luôn.
- Nếu nói như thế, tại sao ngày hôm nọ khanh ngồi bên Đức Thế Tôn, thấy trẫm đến sao khanh không đứng dậy?
- Tâu đại vương! Như người đang ngồi chầu Đức hoàng đế mà trông thấy các vua chư hầu, nếu thần dân đứng dậy lúc ấy hóa ra bất kính thất lễ đối với Đức Bổn Sư. Vì vậy mà thần dân không đứng dậy.
- Khanh nói cũng hữu lý, trẫm nghe nói khanh là bậc hiểu rành các sự lợi và bất lợi trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai, thông suốt Tam tạng kinh điển, vậy khanh hãy thuyết pháp ngay trong hậu cung đình cho trẫm nghe.
- Tâu bệ hạ, không được.
- Vì lý do nào?
- Tâu bệ hạ, chốn cung đình thâm nghiêm trang trọng, có nhiều nghi thức phiền phức, thần dân không dám phạm thượng.
- Khanh chớ nói như thế, bữa hôm trước khanh trông thấy trẫm còn không đứng dậy chào, bây giờ đừng e ngại gì cả.
- Tâu bệ hạ, người cư sĩ tại gia mà vượt quá phận sự của mình đảm nhiệm làm phận sự của Tăng thì mang lỗi. Xin bệ hạ hãy cho triệu thỉnh một bậc xuất gia vào đây thuyết pháp.
Quốc vương phán: “Lành thay, thôi khanh đi đi.”
Cho phép cận sự nam đi rồi, quốc vương ngự đến yết kiến Đức Thế Tôn và yêu cầu:
- Bạch Ngài, hoàng hậu Mallikā và hoàng hậu Vāsabhakhattiya ngỏ lời muốn ôn nhuần các bài pháp. Xin thỉnh Ngài với năm trăm Tỳ khưu thường nhật vào hoàng cung thuyết giảng cho họ nghe.
- Tâu đức vua, chư Phật không bao giờ đến mãi một nơi nào.
- Bạch Ngài, nếu vậy xin Ngài phái một vị Tỳ khưu khác cũng được.
Đức Bổn Sư bèn giao trọng trách ấy cho Đại đức Ānanda. Đại đức hằng ngày vào thâm cung giảng dạy kinh điển cho hai hoàng hậu. Trong hai bà, bà Mallikā chăm chỉ học tập nên thuộc lòng được các kinh tụng. Bà Vāsabhakhattiya trái lại không chăm chỉ học tập cho nên không thể thuộc lòng được các kinh tụng. Một hôm, Đức Bổn Sư phán hỏi Đại đức:
- Nầy Ānanda! Hai tín nữ ấy có ôn thuần kinh pháp hay không?
- Bạch Ngài, có.
- Người nào chăm chỉ học tập?
- Bạch Ngài, hoàng hậu Mallikā chăm chỉ học tập cho nên có thể nhập tâm được các bài kinh tụng một cách hoàn toàn. Còn bà quyến thuộc của Ngài không chăm chỉ học tập nên không thể nhập tâm kinh tụng một cách mỹ mãn.
Nghe Đại đức trình bày, Đức Bổn Sư kết luận:
- Nầy Ānanda! Pháp của ta thuyết giảng kẻ nào không nghe, không học, không tập, không thuyết thì không được kết quả gì. Ví như thứ hoa hữu sắc vô hương. Còn kẻ nào ráng nghe, ráng học, ráng tập, ráng thuyết thì sẽ gặt hái nhiều kết quả, hưởng được phước báu to tát.
Nói rồi Đức Bổn Sư ngâm hai bài kệ sau đây:
51. “Yathā’pi ruciraṃ pupphaṃ,
vaṇṇavantaṃ agandhakaṃ;
Evaṃ subhāsitā vācā,
aphalā hoti akubbato.”
51. “Như hoa sắc đẹp có thừa,
Mùi thơm chẳng có thì chưa quí gì?
Lời lành thuyết để mà chi?
Nếu không cố gắng thực thi việc lành.”
52. “Yathā’pi ruciraṃ pupphaṃ,
vaṇṇavantaṃ sagandhakaṃ;
Evaṃ subhāsitā vācā,
saphalā hoti sakubbato.”
52. “Như hoa tươi tốt trên cành,
Sắc hương thắm đượm lịch thanh đủ mùi.
Lời lành nếu đã thuyết rồi,
Làm lành kết quả an vui thấy liền.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ, Phạn ngữ ruciraṃ nghĩa là sáng sủa, đẹp đẽ, tươi tốt.
Vaṇṇavantaṃ: Là có đầy đủ màu sắc.
Agandhakaṃ: Là không có hương thơm, như nhiều loại hoa ở rừng núi, trừ ra hoa lài, hoa sứ, hoa mẫu đơn.
Evaṃ subhāsitā vācā: Lời lành ở đây là Phật ngôn trong Tam tạng Pháp bảo, ví như loài hoa hữu sắc vô hương. Cũng như loại hoa vô hương nầy nếu có giắt, đeo trên thân mình cũng không thể tiết ra mùi thơm được. Các câu Phật ngôn cũng thế, ai không kính cẩn nghe, không kính cẩn thọ trì, tức là không làm điều đáng làm thì không có mùi thinh hương, thọ hương, hành hương, không có kết quả. Do đó, Phật dạy câu:
Lời lành thuyết để mà chi?
Nếu không cố gắng thực thi việc lành.
Sandhagankaṃ: Là có mùi thơm, không như tai nấm, hoa lục bình, hoa rau muống… Cũng như thế ấy, ai mang, giắt những thứ hoa thơm trên mình thì thân mình xông ra mùi hương thơm tho dễ chịu, như người thực hành theo Phật ngôn trong Tam tạng Pháp bảo, tức là kính cẩn nghe, kính cẩn thọ trì, là làm việc nên làm thì sẽ gặt hái được nhiều phước báu vậy.
*
Bài kệ vừa dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, kỳ dư thính chúng đều được hưởng sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Tản Thủ đa văn lại khéo hành,
Tại gia đắc quả đáng nêu danh.
Thấy vua, kỉnh Phật không rời chỗ,
Trọng pháp, nhường Tăng chẳng hợm mình.
Mạt Lê Viên, hoa đủ sắc hương,
Phật ngôn học tập hiểu tinh tường.
Dày công kính cẩn hành không mỏi,
Đáng được đời sau mãi tán dương!
Hòa Tát Ba thì chẳng dụng công,
Như hoa có sắc thiếu hương nồng.
Uổng mang tên tuổi Hoàng gia Thích,
Pháp học, hành chi cũng bất thông…”
DỨT TÍCH THIỆN NAM CHATTAPĀṆI
51. Mere sweet words which never practises, are like flowers without fragrance.
51. Chỉ nói những lời ôn hòa mà ta không thực hành cũng giống như những thứ hoa không có hương thơm.
51. Yathā’pi ruciraṃ pupphaṃ,
vaṇṇavantaṃ agandhakaṃ;
Evaṃ subhāsitā vācā,
aphalā hoti akubbato. (4:8)
51. Just as a gorgeous blossom
brilliant but un scented,
so fruitless the well-spoken words
of one who does not act.
52. Sweet words which are put into practice are like flowers, beautiful, colourful and fragrant.
52. Những lời nói êm dịu được thực hành cũng như các thứ hoa tươi đẹp, đủ màu sắc và hương thơm.
52. Yathāpi ruciraṃ pupphaṃ,
vaṇṇvantaṃ sagandhakaṃ;
Evaṃ subhāsitā vācā,
saphalā hoti sakubbato. (4:9)
52. Just as a gorgeous blossom
brilliant and sweet-scented,
so fruitful the well-spoken words
of one who acts as well.
----
IV. 8 - Tích ĐẠI TÍN NỮ THIỆN CHI
(Visākhāvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 53)
53. “Yathā’pi puppharāsimhā,
kayirā mālāguṇe bahū;
Evaṃ jātena maccena,
kattabbaṃ kusalaṃ bahuṃ.”
53. “Như hoa từ một đống,
Kết được nhiều tràng hoa,
Từ thân người tạm sống,
Nhiều thiện sự sanh ra.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Đông Phương Tự (Pubbārāma), đề cập đến bà Visākhā (Thiện Chi).
Tương truyền rằng: Bà Visākhā là con gái của bà Sumanadevī. Bà nầy là vợ chánh thất của Trưởng giả Dhanañjaya (Hộ Tài Thắng), ông nầy là con của Trưởng giả Meṇḍaka (Miên Dương) ở thành Bhaddiya, trong xứ Aṅgaraṭṭha (Ương Già).
Lúc bà Visākhā mới lên bảy tuổi thì Đức Bổn Sư lãnh đạo đại chúng Tỳ khưu ngự vào thành Bhaddiya, vì Ngài nhận thấy nơi đây có nhiều người hội đủ căn lành, có thể chứng đắc đạo quả như ông Bà la môn Sela (Nham Thạch) chẳng hạn.
Vào thời kỳ ấy, gia chủ Meṇḍaka là người giàu có nhất trong số năm vị đại phúc (Pañcamahāpuñña) ở thành đô, vừa được vua phong chức Trưởng giả (Seṭṭhī). Nhà ngũ đại phúc Meṇḍaka cưới được vợ chánh thất tên là Candapadumā (Nguyệt Liên), sanh được người con trưởng nam tên là Dhanañjaya có nàng dâu là nàng Sumanadevī, có được người nô bộc là Puṇṇa (Viên Mãn). Trên toàn lãnh thổ của vua Bimbisāra không phải chỉ có ông Meṇḍaka là bậc đại phú gia mà còn có bốn người khác nữa, cũng là bậc đại phú gia phú hữu tứ hải (amitabhogā). Đó là ông Joṭika, Jāṭila, Meṇḍako Puṇṇaka và Kākavalliyo (Ô Nha Cát Đằng).
Trong năm nhà đại Trưởng giả nầy, ông Meṇḍaka biết tin là Đức Thập Lực đã ngự đến gần nhà, bèn gọi cô cháu gái là nàng Visākhā con gái của ông Trưởng giả Dhanañjaya, bảo rằng:
- Nầy cháu, hôm nay là ngày hạnh phúc của cháu, và cũng là ngày hạnh phúc của ông nữa, cháu hãy dắt dẫn năm trăm cháu gái khác, ngồi lái năm trăm chiếc xe có năm trăm nữ tỳ theo hầu, đi cung nghinh Đấng Thập Lực.
Cô bé vâng lời đáp: “Lành thay!”.
Hướng đạo đoàn xe một cách thông thạo, đi đến chỗ xe không còn đi được nữa, cô Visākhā xuống xe đi bộ vào gần Đức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài rồi đứng qua một bên.
Khi ấy, do duyên lành cô đã gieo từ kiếp quá khứ, Đức Bổn Sư thuyết pháp cho cô nghe. Nghe dứt thời pháp cô Visākhā cùng năm trăm cô bé đều đắc quả Tu Đà Hườn.
Ông Trưởng giả Meṇḍaka đến yết kiến Đức Bổn Sư khi được nghe pháp của Đức Thế Tôn cũng đắc quả Tu Đà Hườn, ông thỉnh cầu được trai Tăng ngày mai. Hôm sau, tại tư thất của ông, ông đã khoản đãi Đại đức Tăng có Đức Phật làm chủ tọa bằng những thực phẩm ngon lành, loại cứng và loại mềm. Đại lễ Trai Tăng nầy kéo dài suốt nửa tháng, ngày nào cũng thịnh soạn như vậy cả.
Đức Bổn Sư lưu lại gần thành Bhaddiya cho tới lúc Ngài xét là vừa phải rồi mới rời khỏi nơi đó.
Thời bấy giờ, hai quốc vương Bimbisāra và Pasenadikosala có tình á nghị (anh em bạn rể) với nhau, cho nên một hôm đức vua Pasenadi nghĩ thầm: “Trong nước của Bimbisāra có đến năm nhà đại Trưởng giả phú hữu vô lượng (amitabhogā), còn trong nước quả nhân, một nhà cũng không có. Vậy để quả nhân sang viếng vua Bimbisāra mà xin thỉnh bớt một nhà đại Trưởng giả mới được.”
Thế rồi quốc vương ngự giá sang qua nước bạn, trong khi tương hội với vua Bimbisāra, đức vua Bimbisāra hỏi á hoàng đệ rằng:
- Á hoàng đệ sang viếng quả nhân có việc chi chăng?
- Trong nước của hoàng huynh có đến năm nhà đại phúc phú hữu vô lượng cư trú, hoàng đệ muốn có một nhà như vậy trong nước mình, nên mới sang đây cậy hoàng huynh cho đệ xin thỉnh bớt một vị.
- Những nhà thế gia vọng tộc, quả nhân không thể bắt buộc họ di tản được.
- Nếu không được nhà nào hết thì tiểu đệ sẽ không về nước.
Khi ấy, vua Bimbisāra cho nhóm các đại thần lại thương nghị, rồi phán rằng:
- Việc di chuyển ngũ đại gia, nhất là Trưởng giả Joṭika chẳng khác nào phải di chuyển quả địa cầu. Duy có Trưởng giả Meṇḍaka có người trưởng nam là Trưởng giả Dhanañjaya, may ra có thể di chuyển được. Vậy thì, á hoàng đệ hãy chờ trẫm cho triệu ông ấy vào triều hỏi ý rồi sẽ trả lời dứt khoát.
Nói rồi vua Bimbisāra cho nội thị thỉnh Trưởng giả Dhanañjaya vào triều và phán rằng:
- Nầy hiền khanh! Quốc vương Kosala ngỏ ý muốn thỉnh một đại Trưởng giả đem về nước, vậy hiền khanh khá mau lên đường đi với quốc vương.
- Tâu bệ hạ! Nếu lệnh bệ hạ sai thì thần ắt phải đi.
- Nếu vậy, hiền khanh hãy lo chuẩn bị khởi hành cho sớm.
Trưởng giả Dhanañjaya lo về nhà sắp xếp các việc cần yếu, rồi dắt cả vợ con gia đình theo vua Pasenadikosala.
Quốc vương Bimbisāra ban nhiều tặng phẩm trọng hậu, sai đại thần đưa vua Pasenadi về nước.
Đoàn lữ hành đi được một ngày đêm, đến một địa phận nọ, có đầy đủ tiện nghi thì đình bộ nghỉ ngơi.
Khi ấy, Trưởng giả Dhanañjaya hỏi vua Pasenadi rằng:
- Tâu bệ hạ! Đây thuộc quốc độ nào?
- Thuộc quốc độ của trẫm đấy Trưởng giả.
- Từ đây đến Sāvatthī còn bao xa?
- Độ bảy do tuần.
- Tâu bệ hạ! Ở kinh thành thì dân cư trù mật, mà gia nhân quyến thuộc của hạ thần thì đông đảo quá, nếu lịnh bệ hạ chuẩn tấu, thì hạ thần xin lưu ngụ nơi đây.
- Lành thay!
Sau khi phê chuẩn, quốc vương truyền lịnh sửa sang kiến thiết địa phương nầy thành một đô thị, ân tứ cho Trưởng giả Dhanañjaya, xong rồi Ngài mới về triều. Vì đại gia đình di tản đến nơi đây vào lúc chiều tối cho nên thành phố được mệnh danh là Sāketa (Mộ Đáo thành).
Thời ấy, nơi thành Sāvatthī có cậu công tử là con ông Trưởng giả Migāra (Migāraseṭṭhi), tên là Puṇṇavaḍḍhana (Mãn Hưng), công tử đến tuổi trưởng thành, hai ông bà bảo với công tử:
- Con à! Con liệu coi có chỗ nào ưng ý thì nói, để cha mẹ lo vợ cho con.
- Thưa ba má, con không muốn có vợ chút nào cả.
- Con à! Con đừng ở vậy không nên, trai không lập gia đình thì không có con trai để nối dõi tông đường.
Thấy song thân nhọc lòng nói mãi:
- Thôi thì, chừng nào ba má tìm được một thiếu nữ nào có ngũ mỹ câu hữu (Pañcakaḷyānasāmannāgataṃ) thì con sẽ vâng lời cha mẹ.
- Con à, ngũ mỹ câu hữu là những gì vậy con?
- Tóc tốt, thịt tốt, xương tốt, da tốt, tuổi xuân tốt (lẽ thường tóc của những nữ nhân hữu phúc mảnh và mướt, khi xả ra buông thỏng xuống lai y nội, ngọn tóc lại uốn cong ngược trở lên, giống như đuôi con công, đó là tóc tốt (Kesākaḷyāna).
Môi đỏ như trái Bimba (Tần loa) tươi nhuận, mềm mại, đầy đặn nhưng thanh tú, đó là thịt tốt (Maṃsakaḷyāna).
Hai hàm răng trắng, không có kẽ hở, rất đẹp và đều như chuỗi kim cương do thợ ngọc khéo kết, mỗi khi cười thì long lanh như ốc xà cừ. Đó là xương tốt (Aṭṭhikaḷyāna).
Làn da tự nhiên không tô phấn sáp mà mịn màng tươi tắn, không có vết thẹo, bớt đen hoặc nút ruồi, nếu đen thì như hoa sen xanh, còn trắng thì như hoa Kaṇṇikā, đó là da tốt (Chavikakaḷyāna).
Dầu sanh nở mười lần con cũng như gái một con, không mất nhan sắc tuổi thanh xuân, đó là tuổi xuân tốt (Vayakaḷyāna).
Sau khi công tử đưa ra yêu sách như thế, ông bà Trưởng giả lập tức thỉnh một trăm lẻ tám vị Bà la môn đến nhà, đãi ăn long trọng, xong rồi mới hỏi rằng:
- Thưa các Ngài, mỹ nữ có ngũ mỹ câu hữu có tìm được chăng?
- Thưa có.
- Nếu vậy, xin quí vị vui lòng ra công tìm thiếu nữ có mỹ dung như thế giúp chúng tôi.
Ông bà Trưởng giả giao rất nhiều tiền cho những người đi tìm nàng dâu tương lai và đinh ninh dặn dò rằng:
- Khi nào được việc quí vị trở về, chúng tôi xin hậu tạ. Bây giờ cứ xin quí vị hãy ráng sức tìm cho gặp được thiếu nữ ngũ mỹ câu hữu như thế. Khi nào tìm được, quí vị hãy giao vòng nầy cho cô ấy đeo làm lễ vật cầu hôn.
Ông Trưởng giả giao cho họ một cái vòng kim hoa trị giá một trăm ngàn đồng vàng (Kahāpaṇa) và giục họ lên đường.
Các ông mai đi chu du khắp các tỉnh thành, đô thị lớn nhỏ, không tìm gặp được thiếu nữ nào có ngũ mỹ câu hữu, họ quay trở về, đi đến thành Sāketa, nhằm ngày khai sáng thành nầy, họ nghĩ thầm: “Hôm nay chắc công việc tầm người của chúng ta có kết quả.”
Tương truyền rằng trong thành nầy mỗi năm đều có lễ hội kỷ niệm ngày khai sáng thành phố. Vào ngày lễ, tất cả dân chúng, cho đến những nàng tiểu thư khuê các, bất xuất khuê phòng, những gia đình tịnh cư cũng đều ra khỏi nhà, dắt theo đoàn tùy tùng, đầu trần chân không đi bộ xuống bờ sông.
Ngày nầy, các thiếu niên dầu là vương tôn công tử thuộc dòng Sát Đế Lỵ, cũng ra đứng nơi ngã ba đường hay ngã tư, chờ gặp các tiểu thơ đồng trang lứa hợp ý đi qua, đặng ném hoa kén vợ.
Tám vị Bà la môn cũng vào đứng trong ký túc xá ở gần bờ sông. Lúc ấy, tiểu thư Visākhā tuổi vừa cập kê, mình đeo giắt nhiều loại nữ trang, đang dẫn năm trăm thiếu nữ đi tắm sông, cũng vừa đi đến đó. Thình lình mây đen kéo tới, rồi thì mưa lớn, cả năm trăm thiếu nữ lật đật kéo nhau đi vào ký túc xá tránh mưa. Chỉ riêng tiểu thư Visākhā thong thả bước vào ký túc xá, y phục và các trang sức đều đẫm ướt nước mưa, các ông Bà la môn nhìn thấy tiểu thư hội đủ bốn mỹ đức, muốn thử xem răng của nàng, nên giả vờ nói chuyện lớn tiếng với nhau rằng: “Con gái của ta lười quá, chồng nào vô phước mắc phải cô nầy chắc cháo cũng không có mà húp.”
Nghe vậy, tiểu thư Visākhā hỏi mấy ông khách lạ:
- Chẳng hay quí ông muốn ám chỉ ai thế?
- Chúng tôi nói cô đó mà.
Tiểu thư dùng lời ôn tồn, ngọt dịu nói như rót mật, hỏi lại: “Vì lý do nào mà quí ông nói tôi như thế?”.
- Đoàn thiếu nữ tùy tùng của cô không bị ướt y phục, đồ vật, nhờ lanh chân chạy vào ký túc xá, còn cô thì đủng đa đủng đỉnh, không lanh lẹ chạy vào đụt mưa, y phục nữ trang đều ướt mem, cho nên chúng tôi mới nói cô đó.
- Xin quí ông đừng nói như thế, tôi mạnh khỏe hơn các cô ấy. Vả lại, tôi không hối hả chạy vào đây vì những lý do chánh đáng.
- Cô nói sao?
- Thưa quí ông, đối với bốn hạng chúng sanh, dáng đi mau lẹ xem không đẹp, ngoài ra còn có một lý do khác nữa.
- Bốn hạng người nào mà dáng đi lanh lẹ coi không đẹp đâu hở cô?
- Thưa ông, quốc vương trong lễ gia miện, long thể trang sức đầy châu báu, mà xắn vén triều phục, bước đi lanh lẹ giữa sân rồng thì coi không đẹp, thế nào cũng bị thiên hạ chỉ trích rằng: Đại vương gì mà chạy lẹ quá như người gia trưởng vậy. Nếu quốc vương giữ dáng đi chậm rãi coi mới đẹp.
Thớt tượng hạnh phúc (Maṅgala) của quốc vương, đã được trang phục chỉnh tề mà chạy đi lanh lẹ coi cũng không đẹp, như thế ắt hẳn bị người chê trách, bảo rằng: Loài voi có tướng đi uyển chuyển coi mới đẹp.
Hàng xuất gia mà có tướng đi lanh lẹ coi cũng không được như thế, ắt người chê trách, bảo rằng: Ông Sa môn nầy sao chạy lẹ quá như là người cư sĩ vậy, nếu ông ta đi thong thả thì coi mới đẹp.
Hàng phụ nữ có dáng đi lanh lẹ coi cũng không đẹp được, thiên hạ sẽ quở trách một cách hợp lý là: Phụ nữ nầy làm gì mà chạy quá lẹ như nam nhân vậy. Phụ nữ có dáng đi khoan thai như thường thì coi mới được.
Đó là bốn hạng chúng sanh mà dáng đi lanh lẹ coi không được đó quí ông.
- Ngoài ra, còn lý do nào khác nữa vậy cô?
- Thưa quí ông, các bậc phụ mẫu nuôi dưỡng con cái, ráng gìn giữ cho con mình tay chân được lành lặn. Vì chúng tôi là những món hàng để bán, cha mẹ nuôi cho đến lớn, chờ đàng trai đến là gả tống chúng tôi đi. Nếu trong khi hấp tấp vội vàng, chúng tôi vướng vấp lai y phục, té ngã xuống đất mà bị gãy tay hay gãy chân. Như vậy có phải là trở nên một gánh nặng cho gia đình chăng? Thà là để cho y phục bị ướt cùng với đồ tư trang, rồi sau sẽ giặt phơi khô. Đó là lý do khiến cho tôi suy nghĩ đắn đo, rồi tôi mới không chạy, thưa quí ông.
Trong lúc tiểu thư nói, tám ông Bà la môn thấy được hai hàm răng đều đặn tốt đẹp của tiểu thư, thì nghĩ thầm:
- Thiếu nữ nầy có đủ tư cách như vầy chúng ta chưa từng gặp.
Họ bèn tán dương tiểu thư và nói:
- Tiểu thư biện luận thật là đúng lý.
Thế rồi, các ông mai đeo tặng phẩm là chiếc vòng kim hoa cho tiểu thư. Tiểu thư bèn hỏi:
- Chẳng hay quí ông từ thành phố nào đến đây?
- Từ thành Sāvatthī, thưa tiểu thư.
- Vị Trưởng giả mà quí ông đại diện tên là chi?
- Là ông Trưởng giả Migāra, thưa tiểu thư.
- Trưởng nam của ông Trưởng giả tên là chi?
- Là Puṇṇavaḍḍhana công tử, thưa tiểu thư.
Tiểu thư nhận lời cầu hôn vì thấy dòng dõi của Puṇṇavaḍḍhana cũng môn đăng hộ đối với dòng dõi nhà mình, tiểu thư nhắn tin về cho phụ thân:
- Xin cho kiệu xa đến rước con.
Lúc trước, tiểu thư đi bộ ra khỏi nhà, nhưng từ khi nhận chiếc vòng kim hoa đeo lên cổ rồi thì không được tự do đi bộ như thế nữa.
Các tiểu thư vọng tộc đi bằng kiệu xa nhỏ nhẹ, còn những thiếu nữ hầu trèo lên thứ xe nhỏ thường hoặc là cầm lọng hoặc là lấy quạt che phía trên đầu, bằng chẳng vậy thì các cô lấy y choàng phủ lên vai.
Ông Trưởng giả Dhanañjaya gởi đến cho tiểu thư năm trăm cỗ xe, tiểu thư cùng với các thị nữ đồng lên xe trở về nhà. Tám ông Bà la môn cũng đi theo một lượt.
Khi thấy các ông mai, ông Dhanañjaya hỏi:
- Quí khách từ đâu lại đây?
- Thưa Trưởng giả, từ thành Sāvatthī.
- Trưởng giả thành ấy tên là chi?
- Thưa là Migāraseṭṭhi.
- Con trai ông tên là gì?
- Thưa tên là Puṇṇavaḍḍhana công tử.
- Gia sản của ông ấy được bao nhiêu?
- Thưa Trưởng giả được bốn trăm triệu đồng vàng.
- Bấy nhiêu đó mà so sánh với gia sản nhà ta thì đàng trai còn thua xa lắm. Kể ra cũng chưa đủ tiền phấn sáp cho con gái ta, chớ đừng nói chi đến tiền khác. Tuy nhiên, một khi gặp chỗ xứng đáng cho con gái mình nương tựa thì còn so hơn tính thiệt mà làm gì.
Nói rồi, ông Dhanañjaya nhận lời cầu hôn của các vị Bà la môn, ông cầm các ông mai ở lại khoản đãi trong hai ngày rồi tiễn chân các ông trở về thành Sāvatthī.
Khi về đến kinh thành, họ báo tin mừng cho Trưởng giả Migāra: “Chúng tôi đã tìm được nàng dâu có đủ ngũ mỹ đức.”
- Nàng ấy là con nhà ai?
- Là ái nữ của Trưởng giả Dhanañjaya.
Nghe vậy, Trưởng giả Migāra nghĩ thầm: “Ta may mắn được dâu con nhà vọng tộc. Vậy ta nên cưới đem về cho gấp.”
Ông vào trình với quốc vương để đi Sāketa, lo việc hôn nhân cho trưởng tử.
Quốc vương phán rằng:
- Đại gia tộc ấy là do trẫm đã sang viếng vua Bimbisāra, thỉnh được đưa về ngụ nơi Sāketa. Quả nhân cần phải ưu đãi, quí trọng, vậy để quả nhân cùng đi với khanh.
Ông Trưởng giả Migāra vâng lời, đáp: “Lành thay, tâu bệ hạ.” Đoạn ông trở về nhà, thảo ngay một bức thư gởi cho bá hộ Dhanañjaya, lời lẽ vắn tắt như vầy: “Khi bỉ nhân đến sẽ có đức vua cùng đến và quân gia rầm rộ đông đảo, hằng bấy nhiêu người cần phải thù tiếp, tiên sinh liệu có thể lo kham hay không ?”.
Ông Dhanañjaya phúc thư rằng: “Dầu cho có mười vị quốc vương đến cũng tốt vậy.”
Thế là, trọn cả kinh đô rộng lớn như thế, ngoại trừ những người phải trông nom nhà cửa, còn tất cả bao nhiêu cư dân, ông Migāra đều cho đi theo dự lễ thành hôn. Đến một địa điểm cách Sāketa nửa do tuần, ông Migāra lựa chỗ cắm trại, rồi gởi thư báo tin cho đàng gái: “Chúng tôi đến.”
Ông Dhanañjaya cho người mang nhiều lễ vật đến đãi sui gia, rồi gọi con gái đến hỏi ý kiến rằng:
- Nầy con, nghe nói cha chồng của con cùng các vương gia xứ Kosala đến đây. Vậy con thử nghĩ: Trong các lâu đài của ta, nên tiếp đãi cha chồng con trong tòa lâu đài nào, quốc vương tại lâu đài nào, chư Tiểu vương tại ngôi nào?
(Tiểu thư là một bậc hiền minh, có trí tuệ sáng suốt, quyết định mau lẹ chớp nhoáng, nhờ nàng đã phát nguyện từ một trăm ngàn kiếp trái đất về trước.).
Khi nghe phụ thân hỏi, tiểu thư bèn đáp:
- Cha hãy tiếp đãi cha chồng của con ở ngôi nọ, quốc vương ở ngôi nọ, các tiểu vương thì ở những ngôi kia.
Chỉ dẫn cho phụ thân xong rồi, tiểu thư cho gọi các nô tỳ gia đinh đến phân phát công việc:
- Bao nhiêu đây hãy lo cơm nước đãi đằng quốc vương, bao nhiêu đây hãy lo đãi các tiểu vương… Ngoài ra các người cũng phải lo săn sóc voi, ngựa ăn uống đàng hoàng tử tế, phải lo cho các tượng nô, mã phu theo hầu quốc vương, để họ được rảnh rang mà dự lễ nữa…
- Tại sao vậy?
- Đừng để cho một ai có lời phiền trách, như nói: “Chúng ta đi dự lễ cưới của tiểu thư Visākhā mà chẳng có được chút gì vui thú, vì mắc lo giữ ngựa chăn voi, không đi đâu được hết.”
Trong ngày ấy, thân phụ của tiểu thư Visākhā cho rước năm trăm thợ kim hoàn đến tư thất, đặt khoán cho họ: “Hãy làm cho con gái ta một sợi dây chuyền thật lớn như cái áo dài.” Rồi ông giao cho thợ một trăm ngàn đồng vàng (Nikkha), đủ số lượng bạc và kim cương… trân châu, san hô, ngọc thạch để cẩn theo kiểu mẫu…
Quốc vương ở lại vài ba ngày, rồi sai cận thần mang chiếu chỉ cho ông Trưởng giả Dhanañjaya:
- Khanh không thể đảm nhận trọng trách cung cấp cho quả nhân cùng với tất cả binh gia tùy giá lâu dài được. Vậy hiền khanh khá chọn ngày lành tháng tốt làm lễ vu qui đi.
Trưởng giả Dhanañjaya vội vàng gởi sớ phúc đáp quốc vương:
- Bây giờ đang đầu mùa mưa, trọn bốn tháng nầy, sự lưu thông sẽ bị gián đoạn. Tất cả những nhu yếu phẩm của đạo quân tùy giá, bất cứ món chi bệ hạ cần đến, hạ thần xin gánh chịu hết; bao giờ hạ thần tiễn biệt, chừng ấy bệ hạ sẽ ngự giá đăng trình.
Từ đó trở đi, thành Sāketa luôn luôn tưng bừng rộn rịp như trong những ngày tết vậy, từ quốc vương cho đến quân dân không sót một ai, tất cả đều được cung cấp đầy đủ vật dụng như tràng hoa, vật thơm, y phục, thuốc men… Ai ai cũng nghĩ rằng: “Trưởng giả hậu đãi chúng ta thật thạnh tình.”
Ba tháng đã qua như thế, sợi dây chuyền vàng nạm ngọc vẫn chưa làm xong, các nữ giám thị, nữ công nhân đầu bếp thưa với Trưởng giả Dhanañjaya:
- Mọi công việc đều trôi chảy, không chi rắc rối cả, nhưng củi gần hết, không đủ chụm để nấu ăn đãi binh lính trong tháng tới.
- Các người hãy đi khắp thành, xem những chuồng voi, chuồng ngựa, chuồng bò nào mục cũ, và những trại xiêu vẹo tới tuổi rồi thì cứ việc giở xuống hết lấy làm củi chụm.
Thứ nhiên liệu nầy chỉ xài được có nửa tháng, các nữ giám thị lại bẩm cho Trưởng giả biết để liệu định.
- Trong mùa nầy không làm cách nào kiếm được củi, thôi thì các ngươi hãy mở kho vải ra, lấy vải thô xấu quấn bó làm đuốc, đem tẩm vào các thùng dầu chai để nấu ăn thế cho củi vậy.
Các nữ giám thị vâng lời chủ làm y như thế trong nửa tháng. Như thế là trọn bốn tháng mùa mưa, món nữ trang của tiểu thư cũng làm xong.
Món trang sức đặc biệt nầy, thợ cẩn đến bốn gáo (Naḷi) kim cương, mười một gáo trân châu, hai mươi hai gáo san hô, ba mươi ba gáo ngọc ma ni bảo châu, như thế là nó chứa hết bao nhiêu thứ bảo châu nầy, bảo châu nọ. Thợ không dùng chỉ thường, mà dùng sợi chỉ làm bằng bạc để kết, nếu thắt nó lại phía trên rồi thả thòng xuống thì đến bàn chân. Ở nhiều nơi thợ kết những nút bằng vàng, khuy thì bằng bạc để gài cho chắc, trên đầu, hai nút ở hai tay, một nút ngay yết hầu, hai nút ở đầu gối, hai nút ở chỗ cánh chỏ, một nút trước ngực, và một nút chỗ eo lưng.
Trong món nữ trang y như cái áo nầy, thợ có làm một con Khổng Tước (Công) đang múa, cánh phải có năm trăm cái lông đều bằng vàng ròng, cánh trái có năm trăm cái lông cũng toàn là vàng ròng, mỏ công bằng san hô, mắt bằng bảo châu, chỗ cổ và đuôi cũng vậy, đuôi công có năm trăm hình mặt trời, chân công bằng bạc.
Món nữ trang nầy khi tiểu thư đội lên đầu, trong giống hệt như con Khổng Tước đứng trên chót núi đang múa thật vậy.
Tiếng reo của ngàn cái lông có hình mặt trời nghe du dương như tiếng nhạc thiên thai vang rền như tiếng ngũ âm. Khi đến gần trông thật rõ mới biết không phải là chim thật.
Vật liệu dùng làm món trang sức nầy trị giá đến chín mươi triệu và tiền công thợ là một trăm ngàn Kahāpaṇa.
(Do phước báu nào mà tiểu thư làm chủ được món nữ trang nầy? Tương truyền rằng: “Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa tiểu thư đã cúng dường y và vải may y đến hai muôn Tỳ khưu, nàng dâng luôn cả kim chỉ màu nhuộm để cho chư Tăng tự ý sử dụng. Do phước cúng dường y phục nầy mà tiểu thư được sợi dây chuyền to lớn quý giá nầy. Phụ nữ dâng y thì được phát sanh nữ trang to quí như thế, còn nam nhân khi xuất gia thì có y bát sẵn, do thần thông phát sanh.)
Trưởng giả Dhanañjaya sửa soạn tư trang cho tiểu thư trong bốn tháng như thế, mà còn cho thêm tài sản để làm của hồi môn, đem theo về nhà chồng: năm trăm cỗ xe bò chở đầy tiền vàng, năm trăm cỗ chén quí, dĩa quí bằng vàng, năm trăm cỗ chén dĩa bạc, năm trăm cỗ mâm thau, năm trăm cỗ dầu sữa, năm trăm cỗ đường mía, năm trăm cỗ mâm đồng đen, năm trăm cỗ tơ lụa hàng vải, năm trăm cỗ sanh tô, năm trăm cỗ gạo ngon, năm trăm cỗ nông cụ như lưỡi cày, lưỡi cuốc… Người ta nói rằng: Ông Trưởng giả muốn cho con gái mình về nhà chồng khỏi phải lo thiếu thốn món nầy món nọ, phải đi chạy mượn của nhà khác, nên cho đủ thứ nông cụ như thế!
Ông Trưởng giả còn cho một trăm chiếc xe kiệu trên mỗi chiếc xe đều có ba nàng tỳ nữ, trang sức lộng lẫy để theo phục dịch tiểu thư. Ông dặn tất cả nữ tỳ hãy lo tắm rửa, cho ăn uống và trang điểm cho tiểu thư.
Khi ấy ông còn tính: “Ta sẽ cho con gái ta nhiều bò cái.”, ông cho gọi gia đinh đến và bảo: “Nè mấy đứa bây đi mở cửa chuồng bò nhỏ ra, rồi cách xa ba dặm đường, lấy ba cái trống đứng đó và đứng thành hai hàng hai bên, chừa khoảng trống ở giữa một dặm đường, giữ đừng cho bò cái chạy tản lạc bậy bạ. Đứng xong rồi nổi trống hiệu lên.”
Các gia đinh chăn bò vâng lịnh làm y theo như vậy, đàn bò cái ra khỏi chuồng, đi được một dặm thì họ nổi trống, và khi đàn bò đi được ba dặm, họ lại nổi trống báo hiệu lần thứ ba, và chặn bò trong chuồng lại. Trên khoảng đường dài ba dặm (gāvuta) rộng một trăm bốn mươi hắc (usabha) đàn bò cái đứng chật ních, con nọ đụng vai con kia.
Ông Trưởng giả ra lịnh: “Bấy nhiêu bò cái ngoài nầy cho tiểu thư đủ rồi, thôi bây giờ hãy đóng cửa chuồng lại.”
Trong lúc gia đinh vừa đóng cửa chuồng, do quả phước của tiểu thư, những con bò cái tơ khỏe và nhiều con bò mẹ khác đua nhau nhảy qua cửa cổng thoát ra ngoài, các gia đinh chặn cách nào cũng không được. Nên sẩy chuồng khoảng sáu mươi ngàn con bò đực và sáu mươi ngàn con bò mẹ dẫn theo cũng ngần ấy bò lứa (Do nhân nào cho quả phước khiến cho tiểu thư được thêm bấy nhiêu bò cái đó? Do quả phước cúng dường vật thực mà Tăng đã ngăn cản. Tương truyền rằng: Trong thời giáo pháp của Đức Chánh Biến Tri Kassapa, tiểu thư là Công chúa thứ bảy của vua Kikī, mỹ danh Saṅghadāsī (Tăng Tỳ), có cúng dường năm món ngưu vị đến hai mươi ngàn vị Tỳ khưu. Trong khi ấy có những vị Tỳ khưu và Sa di trẻ tuổi đậy nắp bát lại không nhận nữa, nói rằng: “Thôi, thôi”, nhưng Công chúa vẫn nói ép: “Món nầy ngon lắm, món nầy ngọt lắm.” và dưng cho bằng được. Do phước báu của việc lành đó, khiến cho mấy muôn con bò cái dầu bị ngăn cản cũng cứ nhảy tràn ra.).
Khi Trưởng giả chia gia tài cho tiểu thư bấy nhiêu đó, thì bà Sumanadevī bảo rằng:
- Tất cả mọi thứ ông lo chu đáo rồi, nhưng còn tôi trai tớ gái, kẻ ăn người ở trong nhà sao ông không lo cho nó?
- Bởi vì tôi muốn biết kẻ nào ưa cùng kẻ nào không ưa con gái mình. Tôi không thích cái lối tống cổ đưa đi nếu họ không muốn đi. Vậy đến bữa đưa dâu lên xe hoa, ta sẽ hỏi tất cả gia nhân “Ai muốn theo tiểu thư thì cứ đi. Ai muốn ở lại thì cứ ở lại chớ ta không cấm cản chi đâu.”
Khi đã định ngày cho con gái xuất giá, ông Trưởng giả ngồi trong thư phòng, cho tiểu thư ngồi gần một bên dặn dò, dạy dỗ rằng:
- Nầy con! Con gái về nhà chồng thì phải biết làm tròn bổn phận dâu con, đối xử với thân quyến bên chồng phải giữ nề nếp con nhà gia giáo…
Ông Migāra ngồi trong gian phòng bên cạnh cũng nghe được những lời của ông Trưởng giả Dhanañjaya dạy con như thế. Ông Dhanañjaya còn ban huấn từ cho tiểu thư như vầy:
- Nầy con! Con ở nhà chồng thì:
1. Không nên đem lửa trong nhà ra ngoài.
2. Không nên đem lửa bên ngoài vào nhà.
3. Không nên cho đến kẻ không đáng cho.
4. Nên cho đến kẻ nào đáng cho.
5. Nên cho đến kẻ cho và cả kẻ không cho.
6. Nên ngồi cách an vui.
7. Nên ăn cách an vui.
8. Nên ngủ cách an vui.
9. Nên coi chừng lửa.
10. Nên lễ bái chư Thiên trong nhà.
Sau khi ban thập điều gia huấn cho tiểu thư Visākhā. Ngày hôm sau, Trưởng giả Dhanañjaya triệu thỉnh các tướng lãnh chỉ huy đoàn quân hộ giá đến chứng minh, rồi ông đứng giữa đó, bảo tám vị Trưởng lão gia tộc làm giám hộ rằng:
- Nếu con ta đến nơi, có ai tố cáo nó lỗi lầm chi, các ông hãy nên làm cho ra lẽ.
Nói rồi, Trưởng giả Dhanañjaya đeo lên cho tiểu thư món nữ trang là sợi dây chuyền to lớn trị giá chín mươi triệu, cho tiểu thư năm trăm bốn mươi triệu đồng tiền vàng là tiền mua mật ong để tắm gội. Đoạn ông sai người thắng xe đưa ông với tiểu thư đi khắp châu thành Sāketa, đánh trống truyền rao cho dân làm công trong mười bốn làng của ông: “Ai muốn đi theo con gái ta thì cứ đi.”
Dân làng nghe rao, đồng nói: “Nay tiểu chủ của ta ra đi, ta còn ở lại đây mà làm gì?”. Thế là tất cả dân cư trong mười bốn làng ra đi hết, không còn một người nào ở lại.
Trưởng giả Dhanañjaya dâng, biếu nhiều tặng phẩm đến quốc vương cùng Trưởng giả Migāra, đi theo đưa tiễn kiệu hoa cùng các tân khách một đoạn đường rồi mới trở lại.
Ông Trưởng giả Migāra ngồi trên cỗ xe đi sau cùng, trông thấy đoàn người đi theo đông đảo, bèn hỏi:
- Đám người nầy là ai?
- Họ là những tôi trai tớ gái và người làm công của tiểu thư, dâu của ông đó.
- Họ đông quá, ai mà nuôi cho nổi, hãy đánh đuổi họ chạy bớt đi, còn ai không chịu chạy thì cho họ theo.
Tiểu thư Visākhā liền bảo họ rằng:
- Hãy khoan, đừng ngăn cản họ, đoàn người nầy sẽ lo cơm nước cho binh lính.
Nghe vậy, Trưởng giả Migāra bảo rằng: “Nầy con, nhà ta không cần dùng những người ấy, ai đâu mà nuôi họ.”
Thế rồi, ông lấy đất cục, gậy gộc liệng họ và đánh đuổi họ chạy đi bớt, chỉ còn giữ lại một số ít, không chạy đi và nói: “Bấy nhiêu đây cũng đủ dùng rồi.” Đoạn tiếp tục lên đường.
Khi đến cổng thành Sāvatthī, tiểu thư Visākhā nghĩ thầm: “Ta sẽ ngồi trong xe bít bùng hay là sẽ đứng trên xe nhỏ mà vào thành?”. Rồi tiểu thư nghĩ rằng: “Nếu ta ngồi trong xe bít bùng mà vào thành thì phẩm giá món trang sức quí giá nầy chẳng một ai thấy hết.”, tiểu thư bèn đứng trên một cỗ xe nhỏ nhẹ mà đi vào thành để cho toàn dân trong thành đều trông thấy tiểu thư hết.
Dân thành Sāvatthī trông thấy tài sản của tiểu thư Visākhā đều nói: “Nghe nói rằng cô dâu là nàng Visākhā, nàng đã đẹp như thế lại giàu quá mức như vậy. Thật là xứng đáng hết sức.”
Ngày về nhà chồng, tiểu thư Visākhā đã biểu dương tài sản to lớn của mình như thế đó. Ngày ấy, toàn dân chúng trong thành đều gửi quà tùy theo sức của mình mà tặng cô dâu mới, vì họ nghĩ rằng: “Lúc đến Sāketa, thành của Trưởng giả Dhanañjaya, chúng ta được Trưởng giả tiếp đãi trọng hậu.”
Nhận được tặng phẩm của các nhà gửi đến, tiểu thư liền hoàn lại bằng cách trao đổi quà tặng với các nhà. Tiểu thư khôn khéo gởi quà biếu cho toàn dân trong thành tùy theo tuổi tác và gia thế của họ với những lời lẽ trìu mến ngọt ngào như những thân nhân: “Đây là quà của thân mẫu tôi, đây là quà của thân phụ tôi, đây là quà của anh tôi, đây là quà của chị tôi…”.
Lúc chạng vạng tối con ngựa cái trắng của nàng đẻ con, tiểu thư sai bọn nữ tỳ đốt đuốc soi đường đi xuống chuồng ngựa, lấy nước ấm tắm rửa sạch sẽ cho nó, thoa dầu khử phong cho nó rồi mới trở về chỗ ngụ.
Mặc dầu ông Trưởng giả Migāra ở gần chùa nhưng lúc cưới vợ cho con trai, ông chẳng hề lưu ý đến Đức Như Lai cùng chư Tăng. Đã từ lâu rồi, ông đặt niềm tin vào nhóm đạo sĩ lõa thể.
Một ngày nọ, ông dự định cúng dường đến các vị Đại đức của ông, ông cho nấu cơm trắng với sữa tươi rặc ròng trong hàng trăm cái nồi mới, rồi thỉnh năm trăm vị đạo sĩ lõa thể đến nhà, khi họ đã vào nhà rồi, ông cho gọi tiểu thư Visākhā:
- Con dâu của ta, hãy đến và đảnh lễ các vị A La Hán.
Nghe tiếng A La Hán, nàng Visākhā rất mừng rỡ vì nàng là nữ Thinh Văn đã đắc Tu Đà Hườn.
Tiểu thư đến ngay phòng các đạo sĩ đang ăn, trông thấy họ, nàng trách cha chồng rằng:
- Những người nầy không biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi như thế, họ không phải là những vị A La Hán đâu. Tại sao cha lại gọi con đến đây?
Tiểu thư bỏ trở về tư thất.
Nhóm đạo sĩ lõa thể trông thấy tiểu thư có thái độ như thế, đồng loạt quở trách nặng nề ông Migāra:
- Nầy gia chủ, tại sao ông đưa về nhà con tiện tỳ hèn mạt đệ tử của Sa môn Gotama, là kẻ khác đạo của chúng ta. Ông hãy mau lôi cổ, tống nó ra khỏi nhà cho rồi.
Ông Migāra nghĩ thầm: “Dâu ta là con nhà thế gia vọng tộc không thể lôi kéo đuổi xô theo lời các Ngài đây được.”
Trưởng giả đành nói cho xuôi chuyện:
- Bạch các Ngài! Bọn trẻ tuổi làm chi có ý thức được, chỉ là bọn vô ý thức. Xin các Ngài làm thinh bỏ qua cho.
Sau khi tiễn đưa các tu sĩ lõa thể, ông Migāra ngồi trên một cái ghế rất đắt tiền, ăn cơm trắng nấu bằng mật ong pha ít nước đựng trong một cái chén bằng vàng. Ngay khi ấy, một vị Đại đức hạnh Đầu đà thường đi khất thực, đi vào cổng nhà ông Trưởng giả, đang đứng quạt hầu cha chồng, nàng Visākhā trông thấy vị Đại đức, bèn đứng nép qua bên để cha chồng nhìn thấy vị Đại đức, chớ tiểu thư không muốn chỉ. Nhưng Trưởng giả là người kém trí, tuy thấy vị Đại đức nhưng làm như không thấy, chỉ cúi đầu xuống ăn như thường.
Tiểu thư biết rằng cha chồng mình trông thấy vị Đại đức nhưng không thấy lộ vẻ gì cả, bèn bạch rằng:
- Bạch Ngài! Xin đi nơi khác, cha tôi đang ăn vật thực cũ (Purārakaṃ).
Lần trước nghe tiểu thư miệt thị nhóm Nigantha (Ni Kiền Tử), ông Migāra còn nhịn được, nhưng lần nầy nghe nói ông ăn đồ ăn cũ, ông dừng tay lại không ăn nữa và bảo:
- Hãy lấy chén cơm nầy đem đổ đi và lôi con nhỏ đó ra khỏi nhà ta ngay lập tức. May mà cưới nó về chưa bao lâu mà nó đã dám bảo cha chồng nó ăn đồ dơ như bây giờ đây.
Lúc bấy giờ, gia nhân trong nhà đều là người của tiểu thư thì có ai dám đến gần nàng nắm tay hoặc nắm chân nàng, cũng không ai dám mở miệng nói lời chi cả.
Nghe cha chồng bảo vậy, tiểu thư Visākhā đáp rằng:
- Thưa cha, bấy nhiêu đó chưa đủ cho con ra khỏi nhà đâu, con không phải là hạng nữ tỳ ở bến tắm mà cha đem về đâu, con là con gái có cha mẹ đàng hoàng đều còn sanh tiền cả. Con được cưới hỏi đủ lễ đem về, không thể ra đi vì chuyện không đáng tội. Vì lẽ nầy mà khi xuất giá, cha con đã mời tám vị Trưởng lão đến làm giám hộ cho con và nói: “Nếu con gái tôi có bị tố cáo vì lỗi lầm chi thì các ông hãy làm cho ra lẽ minh bạch.”, cha con đã giao phó con cho mấy vị kỳ lão xét đoán, vậy thì cha hãy cho mời mấy ông ấy đến đây phân xử việc nầy mới được.
Ông Trưởng giả suy nghĩ: “Con nầy nói phải.”, ông cho mời tám vị kỳ lão đến, trình bày:
- Con nhỏ nầy, trong khi tôi đang ngồi ăn cơm trong ngày lễ cơm trắng nấu với sữa rặc ròng, đựng trong chén bằng vàng, mà nó dám nói tôi: “Ăn đồ dơ.” Xin các Ngài hãy buộc tội nó, và đuổi nó ra khỏi nhà giùm tôi.
- Có đúng như lời ông nói không, tiểu thư?
- Cháu không bao giờ nói với ý như thế. Trong lúc cha chồng đang ăn, có vị Đại đức trì bình khất thực đến đứng trước cửa nhà, cha chồng cháu đang ăn cơm trắng nấu rặc sữa, không lưu ý đến vị ấy, cháu nghĩ: “Trong kiếp hiện tại cha chồng ta không tạo phước mới, mà chỉ ăn toàn phước cũ không mà thôi.” Cháu nói với ý nghĩa nầy, như thế cháu không có tội chi cả.
- Thưa Trưởng giả, nó nói như thế thì không có lỗi, cháu chúng tôi nói đúng lý. Tại sao ông lại giận hờn nó mà chi.
- Thưa quí vị, việc ấy tôi cũng cho là vô tội đi, nhưng có việc nầy, một đêm nọ nó dắt tôi trai tớ gái đi vòng ra phía sau nhà…
- Ông nói thế có đúng như vậy không cháu?
- Thưa các bác, cháu ra đi không vì lẽ gì bậy bạ, nguyên vì con ngựa của cháu đẻ con trong chuồng nhà nầy. Cháu nghĩ: “Mình biết tin mà ngồi không chẳng làm gì hết thì không phải cách.” Cháu có bảo đốt đuốc soi đường rồi đi với mấy con tỳ nữ xuống săn sóc cho con ngựa cái mới sanh con. Làm như thế, cháu có tội chi đâu.
- Thưa quí vị, việc nầy kể là vô tội cũng được. Nhưng còn việc nầy nữa, khi con nầy sắp về đây, cha nó có dạy mười điều bằng thứ tiếng lóng, cho nên tôi không hiểu được ý nghĩa ra sao. Tôi muốn nó giải thích cho tôi nghe rõ rệt, chẳng hạn như cha nó bảo rằng: “Không nên đem lửa trong nhà ra ngoài.” Có thể nào nhà chúng tôi không cho nhà ở hai bên cạnh mồi lửa được ư?
- Ông nói thế có đúng không cháu?
- Thưa các bác, cha cháu không có ý muốn nói như thế, mà người muốn nói như vầy: Con ơi, dầu cho con có nhìn thấy chỗ xấu của chồng và cha mẹ chồng con, thì giữ kín trong nhà chớ để lọt ra ngoài cho thiên hạ biết. Quả thật không có thứ lửa nào nóng như thế cả.
- Thưa quí vị, việc ấy có thể là được đi. Nhưng cha nó còn dạy rằng: “Không nên đem lửa bên ngoài vào nhà.”, làm sao không có thể lấy lửa từ ngoài đem vào, nếu rủi như nhà tắt hết cả lửa?
- Lời ông nói có đúng không vậy cháu?
- Thưa các bác, cha cháu không có ý nói như thế đâu. Người muốn dạy cháu như vầy: “Nếu như trong những nhà lân cận, người nữ hoặc người nam nói xấu chồng hay vợ hoặc cha mẹ chồng, mình nghe rồi không nên đem về học lại, những người đó đã nói xấu anh chị như thế.” Không có lửa nào bằng thứ lửa ấy cả.
- Như thế trong cái lý nầy, cháu chúng tôi không có lỗi.
- Cũng như mấy câu trên, các câu kế được tiểu thư giảng giải lần lượt như sau: Khi cha nàng nói: “Nên cho đến người đáng cho.”, nghĩa là nên cho đến người nào mà sau nầy khi thọ lãnh được đồ vật còn biết đền đáp, cho trở lại (những người nào mượn đồ đạc, dùng rồi đem trả lại tử tế thì nên cho họ mượn).
Câu: “Không nên cho đến người không cho.”, có nghĩa là không nên cho đến những người nào mà sau khi thọ lãnh đồ vật xin được, không biết đền đáp, cho trở lại (những người nào mượn đồ đạc, dùng rồi không đem trả lại thì không nên cho họ mượn).
Câu: “Nên cho đến người cho và người không cho.”, có nghĩa là đối với thân bằng quyến thuộc nghèo khó, dầu cho họ có thể trả được hay không cũng nên cho họ mượn (nên giúp đỡ họ).
Câu: “Ngồi cách an vui.”, có nghĩa là khi đang ngồi mà thấy chồng hoặc cha mẹ chồng thì phải đứng dậy chào, không nên ngồi nữa.
Câu: “Ăn cách an vui.”, có nghĩa là trước bữa ăn phải lo cơm nước cho chồng và cha mẹ chồng ăn trước, lại phải trông coi tất cả người trong nhà có ai thiếu đủ gì không, rồi mới nên tự mình ăn.
Câu: “Ngủ cách an vui.”, có nghĩa là không nên đi ngủ trước chồng và cha mẹ chồng, phải lo kiểm soát trong nhà, trông coi cửa nẻo, đề phòng người ăn kẻ ở có sai sót việc chi không, sau rồi tự mình mới lên giường.
Câu: “Nên giữ chừng lửa.”, nghĩa là nên coi chồng và cha mẹ chồng cũng như là lửa, cũng như là rắn chúa trong khi tiếp xúc phải lưu tâm cẩn thận.
Câu: “Nên lễ bái chư Thiên trong nhà.”, có nghĩa là nên cung kính chồng và cha mẹ chồng như là chư Thiên.
Nghe tiểu thư giải xong nghĩa lý của mười điều gia huấn, ông Migāra cúi xuống làm thinh, không nói lời nào trách cứ được nữa.
Khi ấy các vị bô lão hỏi: “Thưa Trưởng giả, cháu gái của chúng tôi có còn làm lỗi gì nữa chăng?”.
- Thưa quí vị, không.
- Nó không lầm lỗi thì tại sao Ngài ra lịnh đuổi nó ra khỏi nhà?
Nghe được lời nầy, tiểu thư Visākhā bèn nói:
- Thưa các bác, ban đầu nghe lời cha chồng cháu đuổi cháu đi, nếu cháu bỏ đi liền thì không phải cách, vì khi cháu xuất giá, cha cháu có đặt cách cháu dưới quyền giám hộ của các bác. Nay các bác đã biết rõ là trong việc nầy, cháu không có lầm lỗi chi tất cả, thì bây giờ cháu ra khỏi nhà nầy là phải cách lắm.
Nói rồi, tiểu thư cho gọi các tôi trai tớ gái bảo họ chuẩn bị đồ đạc xe cộ đặng lên đường.
Khi ấy Trưởng giả liền phân chứng cùng tám vị kỳ lão và năn nỉ cô dâu rằng:
- Con à! Vì cha không biết xét nên đã nói oan cho con, con hãy thứ lỗi cho cha đi.
- Thưa cha, nếu cha có lỗi gì đáng xóa bỏ thì con xóa bỏ hết. Ngược lại, con chỉ xin cha chấp thuận cho con vầy: Vì con là con gái của một gia tộc có đức tin trong sạch với Phật pháp, không muốn sống cách biệt với chư Đại đức Tăng, nếu cha vui lòng cho con được hộ độ chư Tăng thì con sẽ ở lại đây.
- Nầy con cứ tự tiện lo việc hộ độ các ông Sa môn đi.
Được lời cha chồng cho quyền tự do, tiểu thư bèn cho người đi thỉnh Đấng Thập Lực ngày hôm sau đến nhà thọ thực ngay tại tư gia của Trưởng giả Migāra. Các đạo sĩ lõa thể được tin Đức Bổn Sư đến thọ lãnh vật thực tại nhà của ông Migāra, bèn ráp nhau đến ngồi xung quanh tư thất của ông.
Sau khi xối nước khai mạc lễ Trai Tăng, tiểu thư Visākhā gởi thư cho cha chồng: “Tất cả lễ vật đều sắp đặt xong, xin thỉnh cha đến sớt bát cúng dường đến Đấng Thập Lực.”
Khi ấy các du sĩ lõa thể liền ngăn cản ông Trưởng giả, nói rằng: “Nầy gia chủ, ông đừng đi đến chỗ Sa môn Gotama.”
Ông Trưởng giả phải viết thư trả lời rằng: “Dâu của cha cứ việc lo cúng dường sớt bát một mình cũng được.”
Nàng Visākhā đứng trông nom việc sớt bát Đại đức Tăng có Đức Phật là vị Tăng trưởng. Khi các Ngài xong bữa, nàng lại nhắn tin cha chồng đến nghe thuyết pháp.
Khi ấy, ông Trưởng giả nói với nhóm lõa thể ngoại đạo rằng: “Bây giờ mà không đến đó thì bất lịch sự lắm.”
Thấy ông Trưởng giả muốn đi nghe pháp và năn nỉ nhiều lượt, nhóm đạo sĩ lõa thể nói:
- Thôi được, nếu ông muốn đi nghe pháp của Sa môn Gotama thì hãy đến ngồi bên ngoài bức rèm mà nghe.
Nhóm đạo sĩ lõa thể liền lấy rèm bao quanh chỗ thuyết pháp, ông Trưởng giả đến ngồi bên ngoài rèm. Đức Bổn Sư nghĩ thầm: “Dầu cho ông có ngồi bên ngoài rèm, hoặc là ngoài tấm vách, hoặc là ngồi bên kia dãy núi hay ngoài địa cầu nầy, hay ngoài thế giới Ta bà đi nữa, Ta là Phật thì Ta vẫn khiến cho ông nghe được Pháp âm của Ta.”
Thế rồi, như một người lực sĩ nắm lấy cây Diêm phù to lớn, lắc mạnh, như trời mưa một đám mưa lớn bất diệt, Đức Bổn Sư bắt đầu thuyết lên tuần tự pháp.
Trong lúc Đức Chánh Biến Tri đang thuyết pháp, thì dầu cho người đứng phía trước, đứng phía sau, đứng cách xa cả trăm ngàn do tuần, đứng tận trên tầng trời Sắc cứu cánh, ai cũng cho rằng: “Đức Bổn Sư vì ta mà thuyết pháp, mỗi người đều cảm thấy y như Đức Bổn Sư chiếu cố đến mình và y như mình đang chuyện trò tâm sự vậy, có thể nói: “ Chư Phật ví như mặt trăng giữa trời, tất cả chúng sanh ở dưới đất trông lên đều thấy hình như mặt trăng ở trên đầu mình. Cùng như thế ấy, người đứng nơi nào cũng trông thấy như mình đang đứng trước Đức Phật vậy. Đó là do hạnh nguyện Bố thí Ba la mật mà Đức Bổn Sư đã hoàn thành viên mãn, như Ngài đã tự cắt đầu khôi ngô tuấn tú của Ngài, đã móc cặp mắt sáng như sao băng, đã rứt quả tim, đã dứt tình thâm thí Hoàng tử Jāli, Công chúa Kaṇhā, và Hoàng hậu Maddī, để có thể hoàn thành quả vị Phật Toàn Giác, thuyết pháp độ sanh.
Trong lúc Đức Bổn Sư thuyết tuần tự pháp thoại, có lớp có lang, càng nghe càng thấy cởi mở, ông Trưởng giả ngồi bên ngoài bức rèm cảm thông bằng cả ngàn lý lẽ, nên chứng đắc quả vị Dự Lưu đi đôi với đức tin bất thối, có lòng tin trọn vẹn đối với Tam Bảo. Ông liền vén rèm bước vào nhà, kê miệng ngậm vú nàng dâu và tôn nàng lên làm mẹ mình: “Từ giờ trở đi, người là mẹ của tôi.”
Kể từ đó, nàng Visākhā được mệnh danh là Migāramātā, về sau khi nàng có con trai, đặt tên con là Migāratissa.
Ông Trưởng giả nhả vú nàng dâu ra, rồi đến nằm mọp đầu dưới chân Đức Thế Tôn, đôi tay mơn trớn và miệng hun hít đôi bàn chân của Ngài, nói rằng: “Bạch Ngài, con tên là Migāra, bạch Ngài, con tên là Migāra.”
Sau khi tự xưng tên ba lần như thầy thế, Trưởng giả nói tiếp:
- Bạch Thế Tôn, trong kiếp nầy con có được hai lần đại phúc, nhờ nàng dâu mà con được thoát khỏi mọi khổ cảnh ác thú đạo. Nàng dâu của con đến nhà nầy mang theo sự lợi ích, sự tấn hóa, sự an vui đến con.
Nói rồi, ông ngâm lên kệ ngôn rằng:
“Sohaṃ ajjā pajānāmi,
yattha dinnaṃ mahapphalaṃ;
Atthāya vata me bhaddā,
sunisā gharamāgatāti.”
Lược dịch:
“Hôm nay con biết rành,
Cúng Phật đại quả sanh,
Lợi ích con nhiều thật,
Nhờ cưới được dâu lành.”
Qua ngày sau, tiểu thư Visākhā lại tái thỉnh Đức Bổn Sư. Nhờ vậy mà mẹ chồng của nàng cũng chứng được Sơ quả trong ngày thứ hai ấy. Từ đó trở đi, ngôi nhà của tiểu thư luôn luôn mở rộng đối với Phật giáo.
Từ đó, ông Trưởng giả nghĩ thầm: “Ta có nhiều cách để biếu dâu ta những tặng vật. Quả thật vậy, món nữ trang của nó thật nặng nề, không thể mang theo luôn được. Ta sẽ làm cho nó món nữ trang vừa phải, có thể đeo luôn cả ngày lẫn đêm trong mọi oai nghi.”
Ông mướn thợ kim hoàn làm một món nữ trang tên là Ghanamaṭṭhaka (Phủ Đầu), trị giá hàng trăm ngàn đồng vàng, khi món nữ trang vừa xong, ông thỉnh Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm Tăng trưởng, đến nhà ông, ông kính cẩn dâng thực phẩm cúng dường, đoạn cho người tắm gội tiểu thư Visākhā bằng mười sáu nồi nước thơm, rồi để tiểu thư đứng trước mặt Đức Thế Tôn mà đeo cho nàng món nữ trang mới, và bảo tiểu thư đảnh lễ Đức Bổn Sư. Đức Thế Tôn sau khi phúc chúc xong, Ngài trở về chùa.
Từ ấy trở đi, nàng Visākhā vẫn tiếp tục tạo được nhiều thiện nghiệp, nhứt là năng bố thí, bà đã xin Đức Bổn Sư ban cho bà tám đặc ân:
1. Dâng y đến Tăng suốt đời.
2. Để bát Tăng đến Sāvatthī.
3. Để bát Tăng rời Sāvatthī.
4. Để bát Tỳ khưu bịnh.
5. Để bát Tỳ khưu nuôi bịnh.
6. Dâng thuốc đến Tỳ khưu bịnh.
7. Dâng cháo sáng đến Tăng.
8. Dâng y tắm mưa đến Tỳ khưu Ni.
Thinh danh của bà ngày càng tăng trưởng cũng như số con cháu của bà vậy. Tương truyền rằng: Bà có đến hai mươi người con, mười trai và mười gái, mỗi người con của bà cũng có hai mươi người con như thế, và mỗi đứa cháu của bà cũng có hai mươi người con như thế. Tổng cộng con và cháu của bà là tám ngàn bốn trăm hai mươi người, bà thọ được một trăm hai mươi tuổi. Trên đầu bà chẳng hề có được một sợi tóc bạc, trông bà lúc nào cũng như cô gái mười sáu tuổi, có khi bà đi chùa dắt theo cả đoàn con cháu, nhiều người trông thấy, hỏi nhau rằng: “Trong đám nầy, ai là bà Visākhā?”. Những người đang đi gặp bà đang đi thì nghĩ rằng: “Bây giờ ta hãy đi thong thả, đi như bà của chúng ta đi, như vậy coi mới đẹp.”, những người trông thấy bà đứng, nằm hoặc ngồi thì nghĩ rằng: “Bây giờ ta hãy ngồi thong thả như bà ấy, coi mới đẹp.”, chưa có ai thốt lên lời chê bà một oai nghi nào trong bốn oai nghi cả. Bà có sức mạnh gấp năm lần con đại tượng.
Quốc vương nghe đồn bà Visākhā có sức mạnh gấp năm con đại tượng, bèn ngự giá đến chùa của bà để thính pháp, đến khi trở về, quốc vương muốn thử xem sức mạnh của bà, nên khiến quân thả con tượng ra, con tượng giơ vòi lên cao, nhắm ngay bà Visākhā tiến tới. Trong nhóm năm trăm nữ nhân theo hầu bà Visākhā, có một số kinh hoàng bỏ chạy, một số ôm lấy chân bà, bà hỏi: “Cái gì thế?”.
Họ đáp: “Quốc vương muốn thử sức mạnh của bà nên cho thả tượng ra đó.”
Bà Visākhā thấy con voi thì nghĩ thầm: “Việc gì mà ta phải bỏ chạy, để ta bắt nó lại. Nhưng nếu ta dùng cả sức ra chận bắt nó, chắc nó phải chết.”
Thế là, bà chỉ dùng hai ngón tay kẹp cứng cái vòi, bắt con tượng đứng lại, con tượng vùng vẫy nhưng rút vòi ra không nổi, rồi nằm xuống nền sân ngự. Đại chúng hoan hô vang dậy.
Bà Visākhā và đoàn phụ nữ theo hầu đều an toàn trở về nhà.
Thời bấy giờ, trong thành Sāvatthī chỉ có bà Visākhā là có nhiều con trai và cháu trai nhất, con cháu của bà đều mạnh khỏe, nên bà được xem là người có hạnh phúc tối thắng, trong số hằng ngàn con cháu ấy, chẳng một ai chết yểu cả.
Dân thành Sāvatthī, trong các đám tiệc lễ cưới bao giờ cũng mời bà Visākhā đến dự trước nhất.
Một hôm nọ, nhân dịp một lễ hội, bà Visākhā mang theo cả món trang sức nổi tiếng đi dự lễ hội, rồi bà lại đi chùa nghe pháp, khi đến chùa bà Visākhā cởi chiếc trang sức lộng lẫy quí giá ấy, giao cho đứa tớ gái mang.
Đọan nầy có kinh ghi chép rằng: Thời ấy, trong thành Sāvatthī có lễ hội, nhiều người sửa soạn trang điểm lộng lẫy rồi đi chùa, bà Visākhā cũng trang điểm lộng lẫy đi lễ hội, rồi bà đi chùa, khi thấy bà tháo gỡ món trang sức lộng lẫy ấy, bỏ vào chiếc y Uất Đà La Tăng (vai trái), bó cột lại cho đàng hoàng rồi giao cho đứa tớ gái:
- Nầy con ở đây giữ cái nầy cho bà nghe.
Tương truyền rằng, khi đến chùa bà tự nghĩ thầm: “Mình đeo món trang sức quí giá nầy từ trên đầu xuống tới chân, đi vào chùa là không phải cách.”, cho nên bà cởi ra, bó lại và trao cho cô tớ gái có sức mạnh gấp năm lần con tượng mà bà là chủ nhân của cô, do theo phước báu của bà. Mạnh như thế nó mới mang nổi món nữ trang như thế, bà dặn nó:
- Nầy con, hãy cầm giữ món nữ trang nầy, bà vào bái yết Đức Bổn Sư rồi đeo vào.
Sau khi giao phó món nữ trang nặng nề quí giá ấy cho cô tớ gái, bà đeo chiếc Phủ Đầu, rồi vào gần Đức Bổn Sư ngồi thính pháp, đến cuối thời pháp bà đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi từ chỗ ngồi đứng lên đi ra, đứa tớ gái bỏ quên món nữ trang quí giá ấy ở trong chùa, đi theo bà mà bà cũng không nhớ nhắc cô ta, khi thiện tín nghe pháp trở về hết, nếu có vật chi bỏ quên trong chùa thì Đại đức Ānanda có phận sự phải lấy đem cất, về sau trả lại cho sở hữu chủ. Vì thế, khi nhìn thấy gói trang sức bỏ quên ấy, Đại đức bạch lên cho Đức Bổn Sư biết:
- Bạch Ngài! Bà Visākhā ra về có bỏ quên món trang sức nầy lại đây.
- Ông hãy dẹp nó qua một bên đi, nầy Ānanda.
Đại đức mang món trang sức ấy treo cất tại chỗ lối đi bên cầu thang.
Bà Visākhā nói với bà Suppiyā, hai bà cùng đi rảo trong vòng đất chùa, để tìm xem có chư Tỳ khưu nào mới đến, hoặc sắp đi xa, hoặc đau yếu… ngỏ hầu lo sắp đặt việc hộ độ cho kịp giờ. Thường thường khi thấy hai bà tín nữ đi trong vòng đất chùa, các Tỳ khưu trẻ cùng các Sa di cần dùng thuốc trị bịnh như bơ, sữa, mật, đường, dầu, đều đem bát đến để nhận. Hôm ấy, chư Sư cũng làm như thế.
Trông thấy một vị Tỳ khưu bịnh, bà Suppiyā bạch hỏi:
- Đại đức cần dùng món chi?
- Nước cốt thịt.
- Dạ được, để đệ tử dâng cho Đại đức.-Nàng Suppiyā đáp.
Qua ngày sau, không kiếm được thịt tam tịnh, nàng Suppiyā cắt thịt bắp vế mình, gởi đến vị Tỳ khưu bịnh ấy. Rồi nhờ đức tin trong sạch nơi Đức Phật, thân thể bà lành lặn nguyên vẹn lại như cũ.
Bà Visākhā sau khi thăm viếng các Tỳ khưu bịnh, Tỳ khưu trẻ cùng với các Sa di, bà tách ra đi bằng một lối đi cổng khác, đứng sát cánh cửa chùa bảo cô tớ gái:
- Nầy con, hãy mang món trang sức cho ta đeo vào.
Khi ấy, cô tớ gái biết là sắp đi về, mới chợt nhớ mình đã bỏ quên món nữ trang trong chùa, cô bảo rằng:
- Bẩm bà, con bỏ quên rồi.
- Thế thì con hãy vào lấy đem ra đây, nhưng nếu Đại đức Ānanda cất giữ rồi, thì thôi con đừng đòi lại, kể như bà dâng cúng đến Đại đức rồi.
Người ta nói là bà Visākhā biết được việc Đại đức Ānanda có phận sự cất giùm đồ đạc của thiện tín bỏ quên, nên bà dặn cô tớ gái như thế.
Thấy cô nữ tỳ đến, Đại đức hỏi: “Con vào có việc chi?”.
- Dạ con bỏ quên món nữ trang của bà chủ, nên con trở vào lấy nó.
- Sư để nó ở lối lên cầu thang kia, con lại đó lấy đi.
- Bạch Đại đức, chủ con có dặn rằng: “Nếu vật ấy đã được Đại đức đụng tay vào rồi thì thôi, con không nên lấy lại.”
Nói rồi, cô nữ tỳ trở ra với tay không.
- Thế nào con?
Nghe bà Visākhā hỏi, cô nữ tỳ thuật lại mọi sự.
- Nầy con, món nữ trang mà Đại đức đã đụng tay vào, bà sẽ không đeo để chưng diện nữa, bà sẽ dứt bỏ để cúng dường Đại đức. Nhưng để chư Tăng gìn giữ nó thì khó khăn cho các Ngài, để bà bán nó đổi lấy vật dụng hợp với lẽ đạo, đem đến cúng dường chư Tăng. Vậy con hãy trở vào lấy nó đem ra cho bà.
Cô nữ tỳ đi lấy món trang sức đem ra, bà Visākhā không đeo nó nữa, bà cho gọi thợ kim hoàn đến để đánh giá, thợ nói:
- Món trang sức nầy trị giá chín mươi chín triệu, thêm một trăm ngàn đồng vàng tiền công.
Nghe vậy, bà Visākhā bảo để món trang sức ấy trên xe:
- Vậy thì các ông hãy bán nó giùm tôi đi.
Nhưng không ai xuất ra món tiền lớn để mua món nữ trang nầy cho nổi. Thật vậy, phụ nữ có sức mang nổi món nữ trang nầy khó kiếm được lắm. Trên hoàn cầu vào thời ấy chỉ có ba nàng đeo nổi món nữ trang ấy, đó là bà Visākhā, nàng Mallikā vợ của Bandhula và tiểu thư Mạt Lỵ con của Trưởng giả ở thành Bārāṇasī, vì vậy, bà Visākhā phải xuất ra số tiền ấy để mua lại món nữ trang của chính mình là chín mươi chín triệu và một trăm ngàn đồng vàng. Đoạn bà cho thắng xe bò, cho chở tiền mang đến chùa, vào đảnh lễ Đức Bổn Sư, bạch rằng:
- Bạch Ngài! Đại đức Ānanda đã đụng tay vào món trang sức rồi, thì con không thể đeo được nữa, con định bán nó để mua vật dụng cúng dường cho hợp lẽ đạo, nhưng đem bán ra thì không ai mua nổi, thành ra con mua trở lại. Vậy với số tiền đúng theo giá trị của nó, con nên mua món gì để cúng dường, Bạch Ngài?
- Nầy Visākhā, nếu nàng cất được chỗ ngụ của Tăng chúng ở ngoài cửa thành phía Đông thì phải cách lắm.
Nàng Visākhā hoan hỷ đáp: “Bạch Ngài, phải cách lắm.”
Đoạn bà xuất ra chín mươi triệu mua đất, chín mươi triệu để xây cất chùa. Một ngày nọ, lúc trời gần sáng, Đức Thế Tôn quan sát thế gian, thấy công tử Bhaddiya, nguyên là một chư Thiên hạ sanh vào gia tộc của Trưởng giả trong thành Bhaddiya, công tử là người có duyên lành đáng được tiếp độ, cho nên sau khi thọ thực nơi nhà Trưởng giả Anāthapiṇḍika, Ngài đi ngay về phía cửa thành đô. Theo lệ thường, khi Đức Bổn Sư thọ thực nơi nhà của bà Visākhā thì Ngài ra cổng thành phía Nam và ngự về Jetavana, còn nếu Ngài thọ thực tại nhà ông Anāthapiṇḍika thì ngự ra cổng thành phía Đông, ngự về Đông Phương Tự (Pubbārāma). Những người thấy Đức Bổn Sư ngự ra cửa Bắc, thì biết rằng: “Chắc Ngài sắp đi vân du.”
Trong ngày ấy, bà Visākhā nghe tin Đức Bổn Sư ngự ra cửa Bắc, thì vội vàng theo đón Ngài, đảnh lễ xong bạch hỏi rằng:
- Bạch Ngài, có phải Ngài định đi vân du phải chăng?
- Phải đó, nầy Visākhā.
- Bạch Ngài, con đã dứt bỏ bao nhiêu tiền của để cất chùa dâng Ngài. Xin Ngài hãy trở lại chùa, bạch Ngài.
- Nầy Visākhā, chuyến đi nầy ta không trở lại.
Bà Visākhā suy nghĩ rằng: “Hẳn là Đức Thế Tôn thấy điều chi có đủ nhân duyên trong chuyến đi nầy.”
Bà Visākhā liền yêu cầu:
- Bạch Ngài, vậy xin Ngài cho bớt một vị Tỳ khưu rành rẽ Phật sự trở lại chùa con, rồi Ngài hãy đi.
- Nầy Visākhā, nàng ưng thỉnh vị Tỳ khưu nào thì xin thỉnh bát của vị ấy đi.
Mặc dầu yêu mến Đại đức Ānanda hơn vị nào hết, nhưng bà xin thỉnh bát của Đại đức Moggallāna, vì bà nghĩ rằng: “Đại đức Moggallāna có thần thông, nhờ có Ngài công việc của ta sẽ nhẹ nhàng, dễ dãi.”
Đại đức nhìn Đức Bổn Sư, Ngài phán bảo rằng:
- Nầy Moggallāna, ông hãy dắt năm trăm Tỳ khưu quay lại đi.
Đại đức vâng lời, làm theo lịnh Đức Thế Tôn.
Do nhờ thần thông của Đại đức, mặc dầu số cây và đá cần dùng cách xa sáu mươi do tuần, những người đi trong ngày hôm ấy đều mang về thật nhiều đá to và cây lớn mà khỏi phải ra công chất lên xe bò cho cực khổ, tổn thương. Không bao lâu, họ kiến tạo được một tòa nhà lầu hai tầng, tầng dưới có năm trăm căn, tầng trên có năm trăm căn phòng. Thành ra tòa lâu đài có một ngàn căn phòng, tòa lâu đài được xây cất trên một miếng đất trống, đứng trơ trọi giữa trời, xem không đẹp, thế là bà Visākhā cho cất thêm xung quanh năm trăm cái thiền thất, năm trăm ngôi nhà nhỏ, năm trăm ngôi nhà dài.
Đức Thế Tôn đi vân du hết chín tháng, Ngài mới trở lại thành Sāvatthī, công việc kiến tạo Tịnh thất của bà Visākhā vừa hoàn tất sau chín tháng ấy.
Trên nóc lầu, bà Visākhā cho gắn sáu mươi hình nhân đội ghè nước bằng vàng ròng đặc. Khi nghe Đức Bổn Sư ngự về Jetavana, bà ra khỏi thành nghinh tiếp Ngài, rước về chùa của mình và nhận được lời Ngài chuẩn hứa:
- Bạch Ngài! Trong bốn tháng nầy, xin Ngài đem cả Tỳ khưu Tăng về đây ở, con sẽ cất lâu đài.
Đức Phật nhận lời, từ đó về sau bà Visākhā cúng dường Tỳ khưu Tăng có Đức Phật là Tăng trưởng tại ngôi chùa của bà. Khi ấy, có một cô bạn gái của bà ôm tấm vải đáng giá một ngàn đồng vàng, đến hỏi bà: “Bạn à! Tôi muốn trải tấm vải nầy làm thảm trải nho nhỏ trong lâu đài của bạn, vậy bạn chỉ chỗ cho tôi trải.”
- Lành thay, nầy bạn, nếu tôi nói là không có chỗ nào trống thì bạn nghĩ là tôi không muốn cho bạn có dịp làm phước, vậy bạn tự mình đi xem khắp cả ngàn căn phòng trong tòa lâu đài, để kiếm chỗ trải thảm đi.
Bà bạn Visākhā ôm tấm vải một ngàn đồng vàng đi hết phòng nọ phòng kia, ngó không thấy chỗ nào còn nền trống: “Ta không được hùn phước trong tòa lâu đài nầy.”, bà buồn tủi phận mình, đứng khóc một mình tại một chỗ nọ.
Khi ấy, Đại đức Ānanda thấy bà đang khóc, bèn hỏi:
- Cớ sao nàng khóc?
Bà thuật lại hết sự tình, Đại đức khuyên rằng:
- Bà chớ nên buồn, ta sẽ chỉ chỗ cho nàng trải. Bà hãy trải tấm vải nầy làm thảm chùi chân tại chân cầu thang. Trước khi lên lầu, chư Tăng rửa chân xong, sẽ chùi lên tấm thảm nầy cho ráo nước rồi mới đi lên, như thế bà được quả phước lớn lắm.
Nghe nói rằng, bà Visākhā còn bỏ sót chổ ấy vì không để ý đến nơi đó. Bà Visākhā để bát hộ độ chư Tăng có Đức Phật là vị Tăng trưởng suốt cả bốn tháng trong ngôi chùa mới, đến ngày cuối cùng, bà cúng dường y vai trái và y nội đến Đại đức Tăng, những y nầy có giá trị là hằng ngàn đồng vàng. Tất cả chư Tăng đều được cúng dường một bát đầy thuốc ngừa bịnh (bhesajjā), tổng cộng số tiền làm phước cúng dường là chín mươi triệu, như thế, nếu tính chín mươi triệu tiền mua đất, chín mươi triệu cất chùa và chín mươi triệu tiền cúng dường đại lễ, thì bà Visākhā đã xuất ra hai trăm bảy mươi triệu để làm phước thí trong Phật giáo. Là một nữ nhân trong một gia đình tà kiến khi trước, mà bà đã khéo chuyển gia đình chồng trở về chánh pháp, làm được đại thí như thế đó, ngoài bà Visākhā ra không có một ai khác nữa.
Ngày mà Đông Phương Đại Tự hoàn tất, khi bóng chiều đã tàn, bà Visākhā đã cầm đầu con cháu đông đúc của bà nhiễu quanh ngôi chùa mới. Bà nghĩ: “Điều nầy, điều nọ, ta đã nguyện ước xưa nguyện kia, ngày nay tất cả đều được thành tựu viên mãn.”
Bằng giọng du dương, bà cảm hứng ngâm lên kệ ngôn rằng:
1. “Kadāhaṃ navapāsādaṃ,
sudhāmattikalepanaṃ;
Vihāradānaṃ dassāmi,
saṅkappo mayha pūrito.”
1. “Chừng cất xong lâu đài,
Tô thạch cao trong ngoài,
Ta sẽ dâng chùa mới
Nguyện ta mãn từ nay.”
2. “Kadāhaṃ mañcapīṭhañca,
bhisibimbohanāni ca;
Senāsanabhaṇḍaṃ dassāmi,
saṅkappo mayha pūrito.”
2. “Chừng có giường ghế dài,
Gối đủ thứ trong ngoài,
Ta sẽ dâng chỗ ngụ,
Nguyện ta mãn từ nay.”
3. “Kadāhaṃ salākabhattaṃ,
sucimaṃsūpasecanaṃ;
Bhojanadānaṃ dassāmi,
saṅkappo mayha pūrito.”
3. “Chừng rút thẻ sớt bát,
Cơm trắng trộn thịt nạc,
Ta sẽ cúng Trai Tăng,
Nguyện ta nay thành đạt.”
4. “Kadāhaṃ kāsikavatthaṃ,
khomakappāsikāni ca;
Cīvaradānaṃ dassāmi,
saṅkappo mayha pūrito.”
4. “Chừng có vải Ca Thi,
Vải li nông, vải chỉ,
Ta sẽ cúng dường y,
Nguyện nay ta hoàn mỹ.”
5. “Kadāhaṃ sappinavanītaṃ,
madhutelañca phāṇitam;
Bhesajjadānaṃ dassāmi,
saṅkappo mayhan pūrito.”
5. “Chừng có sanh tô lạc,
Mật ong với đường dầu,
Ta sẽ dưng giải khát,
Nay ta mãn nguyện cầu.”
Chư Tỳ khưu nghe tiếng ngâm kệ của bà Visākhā liền bạch với Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài, từ bấy lâu nay chúng con chưa hề nghe bà Visākhā ngâm kệ. Hôm nay sao bà dắt cả đoàn con cháu nhiễu vòng quanh tòa lâu đài, vừa đi vừa ca hát như thế, có phải là tâm bà nổi sân hay nổi điên rồi không.
Đức Bổn Sư đáp: “Nầy các Tỳ khưu, không phải con gái ta ca hát đâu, vì thấy bao nhiêu nguyện ước của mình đã thành tựu mỹ mãn, nó hoan hỷ thỏa thích nên vừa đi vừa ngâm kệ ngẫu hứng đó.”
Chư Tăng bạch hỏi: “Bạch Ngài, bà ấy phát nguyện từ bao giờ mà nay được thành tựu?”.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư phán: “Nầy các Tỳ khưu, các ông hãy lắng nghe.”
- Chúng con nghe đây, bạch Ngài.
Đức Bổn Sư liền dẫn tích đời quá khứ:
“Nầy các Tỳ khưu, cách đây một trăm ngàn kappa, có Đức Phật hồng danh là Padumuttara giáng thế. Tuổi thọ của Ngài là một trăm ngàn năm, Ngài có một trăm ngàn đệ tử Lậu Tận, kinh đô là Haṃsavatī (Nga Thành), phụ vương Ngài là Sunanda, mẫu hậu của Ngài là Sujātādevī. Trong số các đại thí chủ của Ngài, có bà đại thí chủ là một tín nữ xin được tám đặc ân, được nhận làm mẹ nuôi của Ngài, cung phụng cho Ngài bốn món vật dụng, sáng chiều hai lượt đến hầu Ngài, bà luôn luôn đi chùa với một cô bạn, cô nầy thấy bà chuyện trò thân mật với Đức Phật và được Ngài quí mến thì nghĩ thầm: “Không biết bà làm cách nào mà được chư Phật sủng ái, quí mến như vậy?”. Rồi cô hỏi Đức Bổn Sư: “Bạch Ngài, bà đó là chi của Ngài ?”.
- Bà là trưởng ban hộ Tăng.
- Bạch Ngài, bà đã làm gì mà được chức vụ trưởng hộ Tăng?
- Bà đã từng phát nguyện được địa vị nầy từ một trăm ngàn đại kiếp trở về trước.
- Bạch Ngài! Bây giờ con phát nguyện thì có được không ?
- Có thể được.
- Thế thì con xin thỉnh Ngài cùng với một trăm ngàn Tỳ khưu đến thọ thực tại nhà con liên tiếp bảy ngày.
Đức Bổn Sư im lặng nhận lời.
Sau bảy ngày Trai Tăng, trong ngày chót, bà dâng y vai trái và y nội xong, đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi mọp bên chân Ngài mà phát nguyện rằng:
- Bạch Ngài! Do phước của Đại lễ Trai Tăng nầy, con không ước nguyện điều chi khác hơn là: Sau nầy, con sẽ được gặp vị Chánh Đẳng Giác thời vị lai, và sau khi yêu cầu sẽ được ban tám đặc ân, được nhận làm mẹ nuôi, cúng dường bốn món vật dụng, có thể trở nên trưởng ban hộ Tăng bên phái nữ trong ngày vị lai.
Đức Bổn Sư tự hỏi: “Lời nguyện của tín nữ nầy sẽ thành tựu hay không ?”. Ngài liền quán sát vị lai một trăm ngàn kiếp, thấy rằng sẽ có vị Chánh Đẳng Giác giáng thế, có hồng danh là Gotama. Đến thời ấy, con sẽ là cô tín nữ tên là Visākhā, sẽ được Đức Phật ấy ban cho tám đặc ân, được đứng địa vị mẹ nuôi và sẽ trở nên trưởng ban hộ Tăng bên phái nữ để cúng dường tứ vật dụng.
Cũng như tài sản của ai thì người ấy phải được hưởng, cô tín nữ ấy về sau đã được đắc kỳ sở nguyện vậy.
Cô ấy vẫn tiếp tục làm phước cho tới khi hết tuổi thọ, thác xuống và sanh lên cõi trời và luân chuyển lên xuống hai cõi nhân thiên, cho đến thời kỳ Đức Chánh Biến Tri Kassapa, cô thọ sanh là Công chúa Saṅghadāsī, là con gái thứ bảy của vua Kikī trong xứ Kāsi. Sau khi xuất gia, Công chúa cùng với mấy chị chồng hằng tạo thêm nhiều phước, nhất là bố thí cúng dường, xong rồi mới quì bên chân Đức Chánh Biến Tri Kassapa, nguyện rằng: “Trong kiếp vị lai, xin cho con gặp Đức Phật như Ngài, sẽ ban cho con tám đặc ân và lập làm mẹ nuôi, đứng đầu tất cả các nữ thí chủ lo việc dâng cúng tứ vật dụng.” Từ kiếp ấy Công chúa Saṅghadāsī luân chuyển lên xuống hai cõi nhân thiên, cho đến kiếp hiện tại, thọ sanh làm con gái Trưởng giả Dhanañjaya, là trưởng nam của đại Trưởng giả Meṇḍaka, và đã tạo nhiều phước nghiệp trong Giáo Pháp của Ta đây.”
Như thế, nầy các Tỳ khưu, không phải con gái của Ta ca hát vì lý do khác, nhưng vì thấy bổn nguyện đã thành tựu, cho nên cao hứng ngâm kệ ngẫu hứng đó thôi.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết một thời pháp và kết luận rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Một người thợ làm tràng hoa thiện nghệ, sau khi góp các thứ hoa được dồn thành đống lớn, rồi từ đó lấy ra kết làm nhiều tràng hoa kiểu mẫu khác nhau như thế nào thì Visākhā lưu tâm làm các việc lành cũng như thế ấy.
Đoạn Đức Bổn Sư thuyết kệ rằng:
53. “Yathā’pi puppharāsimhā,
kayirā mālāguṇe bahū;
Evaṃ jātena maccena,
kattabbaṃ kusalaṃ bahuṃ.”
53. “Như từ một đống hoa riêng,
Nhiều tràng hoa được thợ liên kết thành.
Từ thân người được phát sanh,
Biết bao nhiêu việc phước lành cho ta.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn ngữ, tiếng Puppharāsimhā là nói do từ một đống đủ các loại hoa.
Kayirā: Là có thể làm ra.
Mālāguṇe bahū: Là các hoa có cuống dính chung, được tách rời ra để kết lại thành nhiều kiểu tràng hoa.
Maccena: Tất cả chúng sanh đều không thoát khỏi bàn tay tử thần. Ta mong được sanh làm con người khá nên tạo nhiều nghiệp lành như bố thí, dâng y chẳng hạn.
Trong bài kệ, Đức Phật dùng tiếng đống hoa (Puppharāsī) cho ta thấy là rất nhiều hoa, chất cả đống, quả nhiên nếu ít hoa thì thợ làm tràng hoa thiện nghệ không kết thành nhiều tràng hoa được. Còn người không thiện nghệ, dầu cho có nhiều hoa hay ít hoa cũng chẳng làm được chi cả, cho nên cần phải có nhiều hoa và người thợ lành nghề mới có thể làm nhiều tràng hoa được. Cũng như thế, một người có ít đức tin mà lại ít của cải thì không thể làm phước được. Người có đức tin dồi dào mà ít của cải cũng khó làm phước. Chỉ có người có đức tin nhiều, của cải dồi dào thì người ấy mới có thể tạo được nhiều phước lành. Và người đầy đủ khả năng như thế chính là bà Visākhā mà Đức Phật đã đề cập đến trong bài kệ:
“Như từ một đống hoa riêng,
Nhiều tràng hoa được thợ liên kết thành.
Từ thân người được phát sanh,
Biết bao nhiêu việc phước lành do ta.”
*
Bài kệ vừa dứt nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Dự Lưu quả. Đại chúng thính pháp cũng hưởng được nhiều lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Tín nữ đứng đầu có Thiện Chi,
Đức tin sản nghiệp mấy ai bì,
Cất chùa hộ Phật nuôi Tăng chúng,
Thính pháp khuyên cha giữ giới qui.
Thuở bé đã thành Sơ thánh quả,
Khi già chưa mất nét xuân thì,
Con đàn cháu lũ đều khương thọ,
Phước lộc ba đời chẳng thể suy.
DỨT TÍCH BÀ VISĀKHĀ
53. All mortals must do plentiful good deeds like making garlands out of a mass of flowers.
53. Mọi người cần phải làm nhiều thiện sự như kết thành nhiều vòng hoa từ đống hoa.
53. Yathāpi puppharāsimhā,
kayirā mālāguṇe bahū;
Evaṃ jātena maccena,
kattabbaṃ kusalaṃ bahuṃ. (4:10)
53. As from a mass of flowers
many a garland may be made,
so by one born mortal
should many good deeds be done.
----
IV. 9 - Tích ĐẠI ĐỨC ĀNANDA VẤN ĐẠO
(Ānandattherapañhavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 54-55)
54. “Na pupphagando paṭivātam eti,
na candanaṃ tagaramallikā vā;
Satañ ca gandho paṭivātam eti,
sabbā disā sappuriso pavāyati.”
54. “Ngược lại chiều gió thổi,
Hương hoa không bay nổi,
Dầu là Đa già la,
Chiên đàn, Mạt lỵ hoa,
Chỉ có hương Giới đức,
Khắp phương trời bay xa.”
55. “Candanaṃ tagaraṃ vā’pi,
uppalaṃ atha vassikī;
Etesaṃ gandhajātānaṃ,
sīlagandho anuttaro.”
55. “Chiên đàn, Đa già la,
Thanh liên, Vũ quí hoa,
Sánh các hương hoa ấy,
Giới hương vô thượng vậy.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự gần thành Sāvatthī, để giải đáp câu hỏi của Đại đức Ānanda.
Tương truyền rằng: Một buổi chiều nọ, Đại đức ngồi nơi thanh vắng, bỗng tự nghĩ rằng Đức Thế Tôn có nói: “Căn hương (thọ), tâm hương và hương hoa là ba thứ hương cao thượng.” Nhưng ba thứ hương ấy chỉ bay theo chiều gió chớ không có hương nào mà bay ngược gió cả. Không biết có loại hương nào mà bay xuôi gió, bay ngược gió cũng được, hay bay cả hai chiều gió đều được cả chăng?
Rồi Đại đức lại tính thầm: “Ta cần gì suy nghĩ tìm tòi cho mất công, để về hỏi Đức Bổn Sư là hơn.”
Thế rồi, Đại đức về nơi cư ngụ của Đức Bổn Sư và bạch hỏi Ngài. Đoạn nầy trong kinh có ghi chép rằng: Khi ấy trong buổi chiều, Đại đức Ānanda từ chỗ tịnh cư đứng dậy, về gần Đức Thế Tôn. Sau khi đến gần bèn bạch với Đức Thế Tôn :
- Bạch Ngài, có ba thứ hương, mà hương của nó chỉ bay thuận theo chiều gió, chớ không bay nghịch chiều gió. Thế nào là ba? Hương của rễ, hương của lõi và hương của hoa là ba giống có hương, mà hương nó chỉ bay thuận theo chiều gió, chớ không bay nghịch chiều gió. Bạch Ngài, chẳng hay có giống hương nào mà hương của nó bay thuận chiều gió, nghịch chiều gió, hay bay thuận và nghịch theo chiều gió được chăng?
Khi ấy, Đức Thế Tôn đáp rằng:
- Nầy Ānanda! Có giống hương mà hương của nó dầu gặp gió xuôi, gió ngược cũng đều bay được cả.
- Bạch Ngài! Thế nào là có giống hương mà hương của nó dầu gặp gió xuôi, gió ngược hay cả gió xuôi gió ngược đều được cả.
- Nầy Ānanda! Ở đây nơi thôn quê hay thành thị nào có một nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say, là người có Giới đức là người có thiện pháp. Tâm đã dứt bỏ sự bỏn xẻn, sự nhiễm ô. Tuy còn tại gia mà có tâm dứt bỏ, xả thí, thỏa thích trong sự bố thí không nhơ bợn, biết thông cảm đến người xin, hoan hỷ chia sớt vật thí đến tất cả mọi người. Thì từ nơi thôn quê hay thành thị đó, cho đến các phương hướng, chư Sa môn và Bà la môn hằng ca tụng rằng: “Nơi chốn thôn quê hay thành thị nọ, có nữ nhân ấy hoặc nam nhân ấy là người quy y Phật… hoan hỷ chia sớt vật thí đến tất cả mọi người.” Chư Thiên và nhân loại cũng hằng ca tụng rằng: “Nơi chốn thôn quê hoặc thành thị đó, có nữ nhân ấy, có nam nhân ấy là người quy y Phật… hoan hỷ chia sớt vật thí đến tất cả mọi người.” Nầy Ānanda, đó là giống hương mà hương của nó bay xuôi chiều gió, bay ngược chiều gió, bay xuôi lẫn ngược chiều gió vậy.
Giải xong, Đức Bổn Sư thuyết lên hai bài kệ:
54. “Na pupphagando paṭivātam eti,
na candanaṃ tagaramallikā vā;
Satañ ca gandho paṭivātam eti,
sabbā disā sappuriso pavāyati.”
54. “Ngược chiều gió, các hương hoa,
Chiên đàn, Mạt lỵ, Già la bặt đường.
Ngược chiều gió chỉ có hương,
Của người Giới đức muôn phương lan tràn.”
55. “Candanaṃ tagaraṃ vā’pi,
uppalaṃ atha vassikī;
Etesaṃ gandhajātānaṃ,
sīlagandho anuttaro.”
55. “Đa già la với Chiên đàn,
Thanh liên, Vũ quí, các hàng hoa vương.
Dầu thơm cho mấy cũng nhường,
Thứ hương Giới đức là hương tuyệt trần.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn ngữ, câu đầu có nghĩa là không có hương hoa nào bay ngược chiều gió, như trên cung trời Đao Lợi có cây Pāricchattakarukkha, thân cao và tàng rộng hàng trăm do tuần, hoa của nó phát ra ánh sáng rơi xa năm mươi do tuần, hương hoa lan xa hàng trăm do tuần. Tuy nhiên nó chỉ bay theo chiều gió mà thôi, còn ngược gió thì dầu gần như nửa ngón tay nó cũng không thể bay được. Tất cả các hương hoa đều không thể bay ngược chiều gió như thế cả.
Candanaṃ: Viết cho đủ là candanagandho nghĩa là hương của Chiên đàn.
Tagaramallikā vā: Cũng đề cập đến hương của Đa già la, Mạt lỵ.
Quả thật, dầu cho hương của các thứ có tiếng là thơm nhất, như là Chiên đàn đỏ, Đa già la, Mạt lỵ hoa chẳng hạn, cũng chỉ bay xuôi chiều gió chớ không bay ngược chiều gió bao giờ cả.
Satañ ca gandho: Chỉ có hương của người Giới đức là hương của các bậc Thinh Văn đệ tử Phật Toàn Giác và Độc Giác mới bay được ngược gió. Tại sao vậy?
Sabbā disā sappuriso pavāyati: Tại vì tiếng thơm Giới đức của các bậc Thinh Văn, những người Thánh thiện lan truyền đi khắp các phương hướng, cho nên có thể nói là mùi hương Giới đức bay ngược chiều gió. Do đó, Đức Phật đã dùng từ ngữ Paṭivātameti.
Vassikī: là Vũ quí, Vũ sanh, tức là loại hoa thơm như lan, huệ.
Etesaṃ: Câu chót có nghĩa là nếu đem so sánh có giống nào mùi thơm như Chiên đàn chẳng hạn, với những bậc Thánh thiện có Giới đức là mùi thơm thì Giới hương là vô thượng, vô tỷ, vô song vậy (anuttaro asadiso appaṭibhāgo).
*
Khi thời pháp chấm dứt, nhiều Tỳ khưu thành đạt chánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả. Đại chúng cũng hưởng được sự lợi ích nhờ nghe pháp.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Đại Đức Nan Đa muốn biết rằng:
Hương bay ngược gió có cùng chăng?
Chiều tà tạm lánh nơi cô tịch,
Trở gót đi tìm Đức Vạn Năng.
Phật dạy: “Hương sanh có thứ nầy,
Ngược chiều gió thổi chẳng ngừng bay,
Là hương Giới đức cao vô tỷ,
Hương của trầm hoa chẳng sánh tày.”
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC ĀNANDA VẤN ĐẠO
54. Scent of flower or sandal goes not against the wind. But fragrance of virtue blows everywhere.
54. Hương của Tagara hay chiên đàn (trầm) không bay ngược làn gió. Nhưng hương của đức hạnh bay khắp mọi nơi.
54. Na pupphagandho paṭivatam eti,
na candanaṃ tagaramallikā vā;
Satañca gandho paṭivātam eti,
sabbā disā sappuriso pavāyati. (4:11)
54. The fragrance of flowers drifts with the mind
as sandalwood, jasmine or lavender
The fragrance of virtue o’ersweeps the wind,
all pervasive is virtue of the good.
55. Of all fragrances like that of sandal, lavender and jasmine, fragrance of vitue is supreme.
55. Trong tất cả các mùi hương chiên đàn, tagara hay vũ quý (hoa lài) hương đức hạnh là tối thượng.
55. Candanaṃ tagaraṃ vā’pi,
uppalaṃ atha vassikī;
Etesaṃ gandhajātānaṃ,
sīlagandho anuttaro. (4:12)
55. Sandalwood or lavender,
lotus or the jasmine great,
of these many fragrances
virtue’s fragrance is supreme.
----
IV. 10 - Tích ĐẠI ĐỨC MAHĀKASSAPA ĐƯỢC VUA TRỜI ĐỂ BÁT
(Mahākassapattherapiṇḍapātadānavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 56)
56. “Appamatto ayaṃ gandho,
yā’yaṃ tagaracandanī;
Yo ca sīlavataṃ gandho,
vāti devesu uttamo”.
56. “Đa già la, Chiên đàn,
Hương nầy ít giá trị,
Hương Giới đức lan tràn,
Thấu rõ trời vô tỷ.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Trúc Lâm (Veḷuvana) đề cập đến Đại đức Mahākassapa được đức Đế Thích để bát.
Thật vậy, một hôm sau bảy ngày Thiền Diệt, Đại đức xuất định, rời chỗ tịnh cư để đi vào thành Vương Xá đi bát từng nhà.
Trong khi ấy, năm trăm ngọc nữ là cung phi của Đức Thiên Vương Đế Thích rủ nhau: “Chúng ta hãy để bát cúng dường Đại đức.” Rồi họ mang theo năm trăm vắt cơm sữa, xuống đứng đón đường Đại đức và đồng hỏi:
- Bạch Ngài, xin Ngài thọ lãnh vắt cơm nầy rồi hãy đi, xin Ngài tế độ chúng con.
- Các cô hãy tránh đường cho ta đi độ những người khốn khó.
- Bạch Ngài, xin Ngài đừng xua đuổi chúng con, xin Ngài từ bi tế độ chúng con.
Đại đức biết họ là năm trăm Thiên nữ, nên một mực từ chối, nhưng họ không chịu tránh đường, cứ theo van xin mãi. Đại đức thầm bảo họ: “Mấy cô thật không biết tự lượng. Hãy tránh đi chỗ khác đi.” Nói rồi Đại đức búng ngón tay kêu thành tiếng. Nghe tiếng búng tay của Đại đức các ngọc nữ đều cứng mình, không thể diên trì ở đó được nữa nên đồng chạy trở về thiên đình. Đức Đế Thích hỏi: “Các nàng đi đâu về đó?”.
- Tâu Thiên vương! Chúng em thấy Đại đức Mahākassapa vừa xuất đại định nên rủ nhau xuống để bát cúng dường Đại đức rồi về đây.
- Các nàng có để bát được chăng?
- Đại đức không chịu thọ.
- Ngài bảo sao?
- Tâu Thiên vương! Đại đức bảo: “Để ta tiếp độ những người khốn khó.”
- Các nàng đi với lối trang phục như thế nào?
- Tâu Thiên vương, cũng y như thế nầy.
Đức Đế Thích chê rằng: “Sang như các nàng, để bát Đại đức thì làm sao Đại đức chịu nhận.”
Đế Thích tự mình cũng muốn để bát, nên Đức Thiên vương hóa làm ông lão thợ dệt già lụm cụm, răng rụng, tóc sương, gần đất xa trời. Thiên hậu Sujātā cũng hóa thành một bà lão tuổi tác cũng già nua như thế. Đức Đế Thích hóa hiện một con đường dẫn đến chỗ ngụ là mái tranh tồi tàn, trong đó là hai ông bà già đang kéo chỉ.
Đại đức Mahākassapa đang đi vào thành tìm người khốn khó để tế độ, vừa đến ngoài cổng thành trông thấy con đường, có mái chòi tranh, hai ông bà lão nghèo khổ đang ở đó. Khi ấy Đế Thích đang giăng chỉ, còn Thiên hậu thì quấn chỉ đã se thành cuộn.
Đại đức suy nghĩ: “Hai người nầy tuổi tác đã già mà còn làm việc lao động, chắc chắn trong thành nầy không có ai nghèo khổ hơn họ, dầu họ chỉ chừng một vá cơm, ta cũng nên tế độ thọ dụng cho họ có phước.” Đại đức đi đến cửa nhà của hai ông bà.
Đức Đế Thích thấy Đại đức đi đến bèn bảo Thiên hậu:
- Nầy ái khanh, Đại đức của chúng ta đã đến rồi kia, khanh cứ ngồi làm thinh, giả đò như không thấy Đại đức, để ta nói gạt Đại đức đặng mình để bát Ngài nghe.
Đại đức đến đứng trước cửa nhà, hai ông bà làm như không thấy Đại đức, cứ chăm chỉ lo làm công việc của mình, một lát sau mới đi vào nhà. Bây giờ, Đế Thích mới bảo vợ:
- Trước cửa nhà mình in như có vị Đại đức đứng, bà coi có phải vậy chăng?
- Thôi, ông hãy ra xem đi ông à!
Đức Đế Thích ra khỏi nhà, gieo năm vóc xuống đảnh lễ Đại đức, hai tay gác lên đầu gối nói rằng:
- Chà khổ dữ a! Không mấy thuở mà Đại đức Mahākassapa của ta quang lâm đến tệ xá, bà ở trong nhà có món chi chút đỉnh không hả?
Nàng Sujātā làm ra vẻ lẩm cẩm, chậm chạp trả lời rằng:
- Có ông à!
Đức Đế Thích không nói xả giao: “Bạch Ngài, có vui lòng nhận thực phẩm ngon lành không?”, mà chỉ rước bát Ngài, nói:
- Xin Ngài hãy tế độ chúng tôi.
Đại đức thầm nghĩ: “Mấy người nầy chỉ để một nắm rau hay cám, ta cũng sẽ thọ cho họ có phước.”, rồi đưa bát ra.
Đức Đế Thích vào trong nhà, bới cơm trong nồi ra đổ đầy bát, rồi đem trao qua tay của Đại đức. Cơm của Đế Thích để bát có cả canh và thức ăn, mùi thơm ngon lan ra khắp cả thành Rājagaha.
Lúc bấy giờ, Đại đức nghĩ rằng: “Người nầy coi bộ nghèo khó, để bát đồ cao quí như là đồ ăn của Đức Đế Thích, ai đây há?”.
Khi quán xét biết rõ là Đức Thiên vương ở cung trời Đao Lợi. Đại đức trách rằng: “Nghiệp của Thiên vương tạo đây nặng lắm, không khác nào cướp phước của kẻ nghèo khó. Thật vậy, kẻ nào nghèo khổ thế mấy, nhưng hôm nay đặt bát cho ta thì nhất định phải chiếm được địa vị, Đô đốc hay Trưởng giả chẳng sai.
- Bạch Ngài, không có ai nghèo khổ hơn trẫm cả.
- Có lý nào mà Thiên vương nghèo khổ trong khi Thiên vương làm chúa tể cả hai cõi trời.
- Bạch Ngài, quả thật như thế, là vì trẫm tạo nghiệp lành nhằm thời kỳ chưa có Phật. Còn ba vị Thiên vương như Cūḷaratha (Tiểu Xa), Mahāratha (Đại Xa) và Anekavaṇṇa (Đa Sắc) nhờ tạo nghiệp lành trong thời Đức Phật hiện tại giáng thế. Khi sanh lên Thiên cung, gần cung của trẫm thì có oai lực bằng nhau và đều thắng xa trẫm về vẻ huy hoàng xán lạn. Quả thật, gần ba vị ấy thì ngôi sao của trẫm trở nên lu mờ, đen tối, trẫm phải dắt cả đoàn cung phi ngọc nữ kiếm đường thoát thân, chạy vào tư cung. Ánh sáng từ mình họ chiếu ra bao trùm ngọc thể của trẫm, còn ánh sáng từ ngọc thể của trẫm chiếu ra không thấu tới mình họ. Vậy thì ai là người khốn khổ hơn trẫm, bạch Ngài?
- Dầu vậy mặc lòng, từ rày về sau, Thiên vương đừng gạt bần Tăng mà để bát nữa nhé!
- Bạch Ngài, gạt Ngài để bát như thế, trẫm có được phước lành hay chăng?
- Có được đạo hữu à!
- Nếu vậy thì tạo nghiệp lành là bổn phận của trẫm, bạch Ngài.
Nói rồi, đức Đế Thích đảnh lễ Đại đức, dắt nàng Sujātā nhiễu quanh Đại đức rồi bay bổng lên hư không, cất tiếng cao hứng reo rằng: “Ôi sự bố thí, bố thí Ba la mật nơi Đức Mahākassapa trường tồn âm chất.”
Trong Tam Tạng kinh có nhiều chỗ chép rằng:
Một thời, Đức Thế Tôn trú tại Veḷuvana, trong vùng nuôi sóc, gần thành Rājagaha.
Trong thuở ấy, Đại đức Mahākassapa an cư trong động Pipphaliguhā (Lạc Tiêu), ngồi kiết già nhập định suốt bảy đêm ngày, khi mãn hạn bảy ngày, Đại đức Mahākassapa mới xuất định, khi đã xuất định, Đại đức Mahākassapa nghĩ rằng: “Ta hãy vào khất thực trong thành Rājagaha.”
Ngay lúc đó, độ năm trăm nàng Thiên nữ cố gắng muốn để bát cúng dường đến Đại đức Mahākassapa, khi ấy Đại đức Mahākassapa từ khước sự cúng dường của năm trăm thiên nữ, xong rồi Ngài sửa soạn đắp y mang bát vào thành Rājagaha để khất thực.
Ngay lúc bấy giờ, Đức Đế Thích (Sakka) có ý muốn để bát cúng dường Đại đức Mahākassapa, hóa ra người thợ dệt đang se chỉ, nàng Sujātā là công chúa A tu la đang quay xe.
Khi ấy Đại đức Mahākassapa đi ngay đến nhà của Đế Thích Hoàn Nhân. Khi thấy Đại đức Mahākassapa đi từ phía xa lại, đức Đế Thích đi ra khỏi nhà để tiếp đón, rước lấy bát để đem vào nhà, xúc cơm trong nồi đơm đầy bát rồi dâng cúng đến Đại đức Mahākassapa, cơm trong bát có nhiều canh và các món phụ tùng.
Khi ấy, Đại đức Mahākassapa tự nghĩ: “Chúng sanh nầy lài ai mà có thần thông oai lực như thế nầy?”. Rồi Đại đức Mahākassapa lại nghĩ: “Đây chắc là Đế Thích Hoàn Nhân.”
Sau khi hiểu biết như vậy, Đại đức nói với Đế Thích Hoàn Nhân rằng: “Việc của Thiên vương đã làm hôm nay rồi thì thôi, đừng làm như vậy nữa đa.”
- Bạch Đại đức Mahākassapa, chúng tôi cũng còn thiếu phước, chúng tôi cũng phải tạo phước vậy.
Nói rồi, đức Đế Thích đảnh lễ Đại đức Mahākassapa, nhiễu quanh Ngài đoạn bay bổng lên hư không giữa trời, cao hứng thốt lên ba lần câu nói sau đây:
“Ôi! Sự bố thí, bố thí Ba la mật nơi Đại đức Mahākassapa trường tồn âm chất!
Ôi! Sự bố thí, bố thí Ba la mật nơi Đại đức Mahākassapa trường tồn âm chất!
Ôi! Sự bố thí, bố thí Ba la mật nơi Đại đức Mahākassapa trường tồn âm chất!”.
Pāli:
“Aho dānaṃ paramadānaṃ kassape supatiṭṭhi tanti.”
Đức Thế Tôn đứng trong chùa, nghe tiếng của Thiên vương reo lên như vậy, bèn kêu chư Tỳ khưu và bảo rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, hãy nhìn coi Đế Thích Hoàn Nhân, ông ta cao hứng ca ngâm rồi bay đi trên hư không kìa.
- Ông ta làm gì mà cao hứng vậy bạch Ngài?
- Gạt được Kassapa con trai ta, để bát cúng dường rồi, ông ta thỏa thích, vừa đi vừa cao hứng ngâm nga.
- Bạch Ngài, làm sao mà ông ta biết là nên để bát cúng dường cho Đại đức?
- Nầy các Tỳ khưu, Tỳ khưu thọ pháp Đầu đà hằng đi khất thực như con trai ta, thì chư Thiên hay nhân loại gì cũng đều thương mến cả.
Nói rồi, chính Ngài cũng ngẫu hứng ngâm nga.
Trong kinh chỉ ghi chép có bấy nhiêu thôi.
Do nhờ thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, Đức Thế Tôn nghe được Đế Thích, sau khi bay bổng lên không ở giữa trời cao hứng reo lên ba lần:
“Ôi! Sự bố thí, bố thí Ba la mật nơi Đại đức Mahākassapa trường tồn âm chất!
Ôi! Sự bố thí, bố thí Ba la mật nơi Đại đức Mahākassapa trường tồn âm chất!
Ôi! Sự bố thí, bố thí Ba la mật nơi Đại đức Mahākassapa trường tồn âm chất!”.
Thế rồi, sau khi hiểu rõ chuyện nầy, Đức Thế Tôn cao hứng thốt lời ngẫu hứng sau đây:
“Piṇḍapātikassa bhikkhuno
attabharassa anaññaposino
Devā pihayanti tādino
upasantassa sadā satīmatoti.”
“Tỳ khưu nguyện giữ hạnh trì bình,
Xin chẳng nuôi ai, đủ miệng mình,
Người vậy chư Thiên hằng cảm mến,
Tâm thường thanh thản, trí viên minh.”
Sau bài kệ ngẫu hứng, Đức Thế Tôn phán bảo rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, đức Đế Thích sở dĩ để bát cúng dường con trai ta, chẳng qua vì mộ hương Giới đức vậy.
Rồi Ngài thuyết lên kệ Pháp Cú:
56. “Appamatto ayaṃ gandho,
yā’yaṃ tagaracandanī;
Yo ca sīlavataṃ gandho,
vāti devesu uttamo”.
56. “Đa già la với Chiên đàn,
Hương nầy chưa mấy cao sang trên đời.
Hương người Giới đức tuyệt vời,
Xông lên thấu các cõi trời cao siêu.”
*
CHÚ GIẢI:
Trên đây, tiếng appamatto nghĩa là nhỏ nhen, ít oi.
Yo ca sīlavantaṃ: Nghĩa là Giới hương nào của người Giới đức, không phải ít giá trị như hương Đa già là, như Chiên đàn đó đâu, mà nó có sức bay lan thật xa vậy.
Vāti devesu uttamo: Nghĩa là quí giá, cao cả không hương nào bằng, và tỏa rộng ra khắp cả các nơi, kể cả các cảnh giới của chư Thiên và nhân loại.
*
Khi thời pháp chấm dứt, nhiều Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả, đại chúng thính pháp đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ca Diếp Ma Ha định tế bần,
Độ nhằm Đế Thích giả cùng nhân,
Mới hay trời cũng tranh làm phước,
Kẻo sống thua người thấy tủi thân.
Bằng tâm dối gạt giúp cho người,
Phước cũng mười phân đủ trọn mười,
Chỉ tội chú nghèo chưa biết mặt,
Hụt làm bá hộ một phen chơi.
Đi bát hằng ngày Phật vẫn khen,
Nhưng mà chịu cực phải cho quen,
Bằng không sẽ thấy buồn trong ruột,
Bỏ hạnh Tỳ khưu chẳng trống kèn.
DỨT TÍCH VUA TRỜI ĐẾ THÍCH ĐỂ BÁT ĐẠI ĐỨC MAHĀKASSAPA
56. The fragrance of the virtuous wafts even among the gods. All others fall short of that.
56. Hương đức hạnh bay đến tận Chư thiên. Các loài hương khác đều thiếu đặc tính nầy.
56. Appamatto ayaṃ gandho,
yā’yaṃ tagaracandanī;
Yo ca sīlavataṃ gandho,
vāti devesu uttamo. (4:13)
56. Faint is this fragrance
of lavender and sandalwood,
but fragrance of the virtuous
soars sublime amongst the gods.
----
IV. 11 - Tích ĐẠI ĐỨC CỒ ĐIỆT VIÊN TỊCH
(Godhikattheraparinibbānavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 57)
57. “Tesaṃ sampannasīlānaṃ,
appamādavihārinaṃ;
Sammadaññā vimuttānaṃ,
Māro maggaṃ na vindati.”
57. “Những người đủ Giới đức,
Vững tâm không phóng dật,
Chánh trí thoát lao lung,
Ma chẳng thấy hành tung.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự trong Veḷuvana (Trúc Lâm), gần thành Rājagaha (Vương Xá), đề cập đến sự viên tịch của Đại đức Godhika (Cồ Điệt).
Thời ấy, Đại đức Godhika an cư nơi làng Kālasilā (Hắc Nham) trên sườn núi Isigili (Ẩn Sĩ), nhờ chuyên cần tinh tấn hành đạo một mình, nên chứng đạt trên tâm giải thoát tạm thời (Sāmāyikaṃ cetovimuttiṃ). Nhưng bị một chứng bịnh kinh niên làm cho sa sút, mất pháp đã chứng.
Đại đức hành thiền lần thứ nhì, lần ba cho đến lần thứ sáu cũng không chứng đắc pháp thiền đã mất, đến lần thứ bảy, Đại đức bỗng phát khởi ý nghĩ: “Ta đã sáu lần rớt ra khỏi đề mục thiền. Hành giả mà rớt ra khỏi thiền thì cảnh giới tái sanh kể như bất định. Vậy bây giờ ta phải dùng đến lưỡi dao mới được.”
Thế rồi, Đại đức lấy con dao cạo tóc lên, nằm trên giường định cắt đứt cuống họng.
Ma vương biết được tâm niệm của Đại đức, thì nghĩ rằng: “Tỳ khưu nầy có ý muốn lấy dao, lấy dao rồi lại muốn tận diệt mạng sống của mình. Ông ấy mà an tâm vào Minh sát tuệ thì chắc là phải đắc A La Hán quả. Nếu ta đứng ra cản ông ấy thì chắc ông ấy chẳng chịu nghe lời ta, chi bằng ta cậy mượn Đức Bổn Sư cản ngăn ông ấy.”
Ma vương liền hóa thân thành một khách lạ, đến gần Đức Bổn Sư, đọc lên kệ ngôn như vầy:
“Mahāvīra mahāpaññā,
iddhiyā yasasā jala;
Sabbaverabhayātīta,
pāde vandāmi cakkhuma.
Sāvako te mahāvīra,
maraṇaṃ maraṇābhibhū;
Ākaṅkhati cetayati,
taṃ nisedha jutindhara.
Kathaṃ hi bhagavā tuyhaṃ,
sāvako sāsane rato;
Appattamānaso sekho,
kālaṃ kayirā janesutāti.
Tasmiṃ khaṇe therena,
satthaṃ āharitaṃ hoti.”
Lược dịch:
“Kính bạch Đức Đại Hùng Đại Trí,
Bậc uy danh lừng lẫy khắp nơi,
Bậc đã qua oán cụ biển đời,
Bậc Hữu Nhãn, tôi thời đảnh lễ.
Bậc Đại Hùng, trong hàng môn đệ,
Của Ngài từng áp chế tử thần,
Có Thinh Văn muốn lìa trần,
Bạch Ngài tráng hệ, Ngài cần cản ngăn.
Trong đạo Ngài, Thinh Văn vui vẻ,
Bạch Thế Tôn, sao kẻ chán đời,
Không lo tu tập đến nơi,
Lại toan tự vận, Ngài thời biết cho.
Giây phút nầy tôi lo Đại đức,
Đã lấy dao để dứt mạng căn.”
Đức Bổn Sư biết rõ: “Người nầy là Ma vương”, nên Ngài đáp lời bằng bài kệ rằng:
“Evaṃ hi dhīrā kubbanti,
nāvakaṅkhanti jīvitaṃ;
Samūlaṃ taṇhaṃ abbuyha,
Godhiko parinibbutoti.”
“Quả thật kẻ hiền năng làm thế,
Chẳng duy trì mạng sống để thừa,
Ái dục nhổ gốc chẳng chừa,
Cồ Điệt đã nhập Vô Dư Níp Bàn.”
Kế đó, Đức Thế Tôn cùng với nhiều Tỳ khưu ngự đến bên giường, chỗ Đại đức Godhika nằm với lưỡi dao cắt cổ.
Trong khi ấy, ác ma muốn biết: “Thức tái sanh của Đại đức nầy trú nơi đâu?” nên liền hóa ra một luồng khói đen tỏa đi các hướng để tìm tâm thức của Đại đức.
Đức Thế Tôn chỉ làn khói đen cho chư Tỳ khưu thấy và bảo rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, đó là ác ma đi tìm kiếm tâm thức của Godhika, nó tự hỏi: “Tâm thức của Ngài Godhika đang trú nơi đâu?”. Nầy các Tỳ khưu! Tỳ khưu Godhika đã Vô Dư Níp Bàn rồi, cho nên tâm thức không còn trú nơi đâu nữa vậy.
Dầu là Ma vương, y cũng không thể tìm thấy tâm thức của Ngài Godhika. Hắn liền hiện hình là một thanh niên, tay ôm cây đàn Tỳ bà vàng lợt, đến gần Đức Bổn Sư hỏi rằng:
“Uddhaṃ adho ca tiriyaṃ,
disā anudisā svahaṃ;
Anvesaṃ nādhigacchāmi,
Godhiko so kuhiṃ gatoti.”
Lược dịch:
“Đường lên xuống bằng ngang hay dọc,
Khắp hướng phương, xó hóc gần xa,
Tôi tìm không gặp ông ta,
Chẳng hay Cồ Điệt đi qua cõi nào?”
Đức Bổn Sư đọc kệ đáp rằng:
“Yo dhīro dhitisampanno,
Jhāyī jhānarato sadā;
Ahorattaṃ anuyuñjaṃ,
Jīvitaṃ anikāmayaṃ.
Jetvāna maccuno senaṃ,
Anāgantvā punabbhavaṃ;
Samūlaṃ taṇhaṃ abbhuyha,
Godhiko parinibbutoti.”
Lược dịch:
“Người trí tuệ, hùng hào cương nghị,
Hằng vui thiền, mến vị vui thiền,
Đêm ngày mải miết cần chuyên,
Không tham mạng sống cần chuyên dài dòng
Thắng phục được binh ròng thần chết,
Đường tái sanh đã hết bước đi,
Ái dục bứng gốc còn chi,
Cồ Điệt đã nhập Vô Dư Níp Bàn.
Nghe vậy, Ác Ma đứng thở than tiếc rẻ,
Không vũng lầy, khỏi té xuống sâu,
Từ đây bất hạnh khổ sầu,
Dạ xoa vội biến đi đâu mất liền.”
Tuy nhiên, Đức Bổn Sư cũng còn nói tiếp rằng:
- Nầy ác ma, ngươi đừng luống công đi tìm chỗ tái sanh của Godhika làm chi vô ích. Quả thật, dầu có một trăm hay một ngàn kẻ như ngươi đi tìm kiếm nữa cũng chẳng thấy được.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết kệ Pháp Cú:
57. “Tesaṃ sampannasīlānaṃ,
appamādavihārinaṃ;
Sammadaññā vimuttānaṃ,
Māro maggaṃ na vindati.”
57. “Những người Giới đức đủ điều,
Vững tâm những ngã theo chiều buông lung,
Chánh trí giải thoát tột cùng,
Ma vương có thấu hành tung bao giờ.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng tesaṃ trên đây chỉ những người đã Vô Dư Níp Bàn, tâm thức chẳng còn trú vào chỗ nào nữa cả, y như Đại đức Godhika vậy.
Sampannasīlānaṃ: Nghĩa là đầy đủ Giới đức.
Appamādavihārinaṃ: Nghĩa là những người có tâm an vui, trú trong sự chuyên cần, không phóng dật, tức là những người có pháp ghi nhớ (gọi là Chánh niệm) đến sự lợi ích to lớn là Níp Bàn.
Sammadaññā vimuttānaṃ: Chánh trí giải thoát, là có trí hiểu biết về nhân (hetu), pháp (naya), lý (kāraṇa) của sự giải thoát. Những người giải thoát lại được dứt trừ phiền não theo năm pháp:
1. Tadaṅgavimutti: Giải thoát tạm thời, do quán xét.
2. Vikkhambhanavimutti: Giải thoát năm pháp che lấp (pháp cái) của thiền định, gọi là áp chế giải thoát.
3. Samucchedavimutti: Giải thoát do đạo tuệ, gọi là đoạn trừ giải thoát.
4. Paṭippassaddhivimutti: Giải thoát do đắc quả.
5. Nissaraṇavimutti: Giải thoát do Vô Dư Níp Bàn.
Māro maggaṃ na vindati: Đối với những bậc đại Lậu Tận như thế, thì tất cả các chỗ của các Ngài đi trên con đường đạo, Ma vương chẳng biết chẳng thấy, chẳng đến được giai đoạn nào cả.
*
Thời pháp vừa dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Sơ quả. Đại chúng thính pháp cũng đều được hưởng nhiều lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Tâm chứng từng cao, kế sụt liền,
Bởi Ngài Cồ Điệt bịnh kinh niên,
Sáu phen sức đẩy không vào định,
Một nhát dao đưa mới đắc thiền.
Quyết chí thân tàn thành quả Thánh,
Nguyện đi nước lớn rạng danh hiền,
Ma vương ngũ uẩn, Ma phiền não,
Hết biết đường theo phải lặng yên.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC GODHIKA VIÊN TỊCH
57. Of the diligent and the virtuous totally freed through wisdom, death never tracks the path.
57. Thần chết không bao giờ tìm thấy con đường của những người đức hạnh tinh cần được giải thoát hoàn toàn nhờ trí tuệ.
57. Tesaṃ sampannasīlānaṃ,
appamādavihārinaṃ;
Sammadaññā vimuttānaṃ,
māro maggaṃ na vindati. (4:14)
57. Of those with perfect virtue
who dwell in heedfulness,
freed by Final Knowledge
Māra cannot know their path.
----
IV. 12 - Tích ÔNG OÁN TRÁCH THÍ
(Garahadinnavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 58-59)
58. “Yathā saṅkāradhānasmiṃ
ujjhitasmiṃ mahāpathe
Padumaṃ tattha jāyetha
sucigandhaṃ manoramaṃ.”
58. “Như từ đống rác đen,
Vứt trên bờ đại lộ,
Mọc lên một đóa sen,
Sạch thơm ai cũng mộ.”
59. “Evaṃ saṅkārabhūtesu
andhabhūte puthujjane
Atirocati paññāya
Sammāsambuddhasāvako.”
59. “Từ chúng sanh như rác,
Phàm tục và ngu si,
Sáng ngời với tuệ giác,
Đệ tử đấng Toàn Tri.”
Hai bài kệ nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết pháp ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến một đệ tử của nhóm ngoại đạo Nigantha (Ni Kiền Tử: Ly Hệ Giả), tên là Garahadinna (Oán Trách Thí).
Thời bấy giờ, trong thành Sāvatthī có hai người bạn là ông Sirigutta (Thủ Danh Dự) và ông Garahadinna (Oán Trách Thí). Ông Sirigutta là một cận sự nam, Garahadinna lại là đệ tử của nhóm ngoại đạo Ly Hệ Giả (Nigantha), các du sĩ ngoại đạo nầy thường xúi bảo ông Garahadinna rằng:
- Ông vốn là bạn của Sirigutta, sao ông không chỉ dạy ông ấy rằng: “Bạn theo Sa môn Gotama làm chi? Theo đạo ông ta bạn có được lợi ích chi?”, ông nên khuyến dụ ông ấy đến nghe chúng ta thuyết pháp.
Vâng theo lời thầy, ông Garahadinna thường lân la gần gũi với ông Sirigutta. Những lúc hai người đứng hoặc ngồi chung, ông khuyên bạn như vầy:
- Bạn à! Bạn theo Sa môn Gotama làm chi? Theo ông ấy bạn có lợi ích gì? Sao bạn không tìm đến cúng dường các Đại đức của tôi?
Mặc dầu nghe bạn nhắc nhở như thế trong nhiều ngày, ông Sirigutta vẫn làm thinh bỏ qua.
Nhưng một hôm, ông Sirigutta hỏi ông Garahadinna:
- Nầy bạn, bạn thường đến chơi với tôi, trong lúc đứng hoặc ngồi chung, bạn hay nhắc nhở tôi rằng: “Theo đạo của Sa môn Gotama bạn sẽ được lợi ích gì? Bạn hãy đến cúng dường chư Đại đức của tôi.” Thưa bạn, xin lỗi bạn đừng buồn. Đối với tôi các Đại đức của bạn nào có biết chi đâu.
- Thôi thôi bạn ơi, bạn đừng có nói vậy. Chư Đại đức của tôi thì có gì mà chẳng hiểu biết. Các Ngài thông suốt tất cả nghiệp do thân, khẩu, ý trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Các Ngài biết trước việc nào sẽ xảy ra cùng không xảy ra, việc nào có thể cùng không thể được.
- Bạn nói chắc không?
- Dạ thưa bạn, chắc chớ.
- Nếu quả vậy thì bạn tệ thật. Từ bấy lâu nay sao bạn không chỉ rõ giùm tôi việc đó. Đến hôm nay tôi mới biết oai lực tuệ giác của các Đại đức bạn à, tôi nhờ bạn thay mặt tôi đi thỉnh giùm chư Đại đức đến đây để tôi cúng dường.
Ông Garahadinna bèn đến chùa của nhóm Nigantha, đảnh lễ các thầy và bạch rằng: “Bạn tôi là Sirigutta xin thỉnh chư Đại đức ngày mai đến nhà ông ấy.”
- Chính ông Sirigutta nói với ông phải không?
- Dạ phải, bạch chư Đại đức.
Nhóm ngoại đạo vui mừng hớn hở bảo nhau:
- Chúng ta bây giờ thấy khỏe rồi, chỉ có việc nằm ngủ mà thôi. Hễ được Sirigutta tin tưởng nơi chúng ta rồi, thì từ này về sau có thứ lễ vật nào mà chúng ta chẳng có được.
Chỗ ở của ông Sirigutta rất lớn và rộng, trong khuôn đất đó nơi có khoảng trống giữa hai ngôi nhà, ông cho đào một cái mương dài rồi lấy sình non và phân lấp đầy mương bằng mặt đất. Ngoài hai đầu mương, ông cho đóng hai cây cừ ló đầu lên, cột dây giăng dài trên đường mương, đoạn ông cho sắp ghế thành một hàng, chân trước ghế nằm trên mép mương trước, chân ghế sau nằm gá lên đường dây, như thế, người ngồi trên ghế sẽ bật ngửa ra sau, té chỏng gọng, muốn che giấu cái đường mương, ông cho trải thảm phủ lên hàng ghế. Phía sau nhà, ông cho sắp nhiều cái khạp không, lấy lá chuối và vải cũ bịt miệng khạp, đoạn lấy cháo, cơm, bơ, đường, bánh vụn trây trét bên ngoài. Sáng hôm sau, ông Garahadinna lật đật đến nhà bạn thật sớm và hỏi:
- Lễ vật cúng chư Đại đức đã sẵn sàng chưa?
- Đàng hoàng hết cả rồi bạn à.
- Đâu để tôi coi thử coi.
- Trong mấy cái khạp đó, đây là khạp đựng cháo, kia là khạp đựng cơm, những khạp đó bơ, khạp đường, khạp bánh đủ thứ…Ghế ngồi cũng đã sắp sẵn cả rồi.
Ông Garahadinna nói: “Lành thay”, rồi ông ra đi, khi ông vừa đi ra thì năm trăm du sĩ Nigantha cũng vừa đi đến.
Ông Sirigutta ra khỏi nhà, gieo năm vóc xuống lễ chào các Nigantha, đứng dậy chắp tay nguyện thầm rằng: “Nghe nói quí Ngài quán trí quá khứ, vị lai, việc gì cũng biết, chính người hộ độ cho quí Ngài đã nói với tôi như thế. Nếu quả thật quí Ngài toàn tri thì quí Ngài đừng vào nhà tôi, vì khi quí Ngài vào nhà tôi, Ngài nào té xuống mương phẩn thì sẽ lấy cây khệnh.”
Nguyện rồi, ông Sirigutta dặn nhỏ các gia đinh: “Các ngươi biết cách sắp đặt ghế ngồi như thế nào rồi. Vậy các người hãy chực chờ bên mép mương phía sau ghế đặng rút mấy tấm thảm, đừng cho dính đồ dơ.”
Đoạn ông lên tiến thỉnh Nigantha:
- Bạch Ngài, xin thỉnh quí Ngài vào trong nầy.
Nhóm Nigantha vào tới trong sân, định ngồi lên ghế đã được trải sẵn tọa cụ. Nhưng các gia đinh ngăn lại rằng:
- Bạch các Ngài chậm lại một chút, xin đừng ngồi liền như thế.
- Tại sao vậy?
- Vào nhà chúng tôi, các Ngài nên biết phận sự của mình trước rồi hãy ngồi sau.
- Phải làm phận sự chi ạ, hỡi đạo hữu?
- Mỗi Ngài nên vào đứng trước chỗ của mình đều đủ hết cả rồi, chừng ấy mới ngồi xuống một lượt.
Đây là các gia đinh nghe lời dặn của chủ, cho họ lọt xuống mương đồng loạt, đừng cho họ ngồi lẻ tẻ.
Các Nigantha đáp: “Lành thay!”, trong tâm họ nghĩ rằng: “Chúng ta nên làm y theo lời chỉ dẫn của các nhân viên nầy.”
Khi ấy, các gia đinh bảo họ:
- Bạch Ngài, xin các Ngài hãy ngồi xuống cho thật lẹ.
Khi nhóm Nigantha vừa dợm ngồi xuống cho thì các gia đinh rút hết tấm thảm lót, trước khi đít các tu sĩ đụng tới ghế, mấy vị ấy vô tình đồng ngồi xuống một lượt, những chân ghế trên sợi dây tuột ra lún xuống, nhóm ngoại đạo ngồi không vững té ngửa ra sau, lọt xuống mương phẩn. Thấy họ té xuống mương sình trộn phẩn, ông Sirigutta khiến gia đinh:
- Bây đóng cửa lại, hễ ông nào dưới mương bò lên thì hỏi: “Tại sao ông không tiên tri quá khứ, vị lai?” và khệnh cho ông ta mấy hèo.
Sau khi cho các Nigantha một trận no đòn, chủ nhà mới bảo gia đinh mở cổng thả họ ra. Họ tranh nhau chạy thoát thân, không dè Sirigutta đã khiến gia đinh tráng một lớp phẩn bẩy lầy trên mặt đường đi làm cho đường trở nên trơn trợt. Thành ra bọn ngoại đạo còn té lên té xuống nhiều keo, chủ nhà còn nói đưa đẩy họ đi: “Thôi bấy nhiêu đó đã đủ cho các ông rồi nhé.” Bị một vố quá đau, các Nigantha kéo nhau đến trước nhà Garahadinna, vừa đi vừa khóc:
- Ông ám hại chúng tôi, ông ám hại chúng tôi.
Nhìn thấy sự thảm hại nhục nhã của các thầy mình, ông Garahadinna nổi giận, nguyền rủa Sirigutta: “Ông nầy tới số rồi, cho nên mới dám đánh đập làm hại các vị Đại đức của ta, là những bậc Ứng Cúng, là những phước điền mà chư Thiên trên sáu cõi trời cùng hoan hỷ lễ bái cúng dường.”
Kế đến, ông Garahadinna đệ sớ lên đức vua, xin Ngài phạt vạ ông Sirigutta một ngàn đồng vàng. Đức vua hạ chiếu cho vời Sirigutta đến, ông vào triều đảnh lễ Đức vua, xong tâu rằng: “Tâu bệ hạ, thần mong ân bệ hạ xét đoán công minh rồi hãy phạt, để tránh sự võ đoán bất công.”
- Trẫm sẽ xét xử rồi mới kết án.
- Lành thay, tâu bệ hạ, xin bệ hạ xử án.
- Vậy thì sự việc thế nào, khanh hãy tâu ngay đi.
- Tâu bệ hạ! Bạn của tôi là đệ tử nhóm Nigantha, thường ngày đến nhà tôi, thừa dịp đứng hay ngồi chung dụ rằng, như nói: “Bạn ơi, bạn theo Sa môn Gotama làm chi, bạn nào có được lợi ích gì?”.
Và ông Sirigutta đem mọi sự việc đã qua trình tấu một hồi, đoạn nói tiếp:
- Tâu bệ hạ, nếu trong việc nầy, bệ hạ thấy kẻ hạ thần đáng tội, thì bệ hạ hãy xử phạt đúng theo luật nước.
Quốc vương nhìn ông Garahadinna và phán hỏi:
- Lời khai của bạn ông, khanh nghe có đúng sự thật không ?
- Tâu bệ hạ, đúng sự thật.
- Mấy ông ngu dốt, vô minh như thế mà khanh tôn xưng là sư phụ, đi tới đâu cũng ca ngợi các Ngài biết hết tất cả. Tại sao khanh lại còn mong dụ hoặc Thinh Văn của đấng Như Lai, khanh đã kêu nài đòi xử phạt thì khanh phải chịu hình phạt.
Thế là, ông Garahadinna bị thất kiện mất cả tiền ký quỹ một ngàn đồng. Chẳng khác nào bị đánh đòn, đuổi đi như các Đại đức của ông ta. (Ông Burlinhgame dịch là: Ông ấy bị vua hành phạt, còn các Đại đức của ông bị đánh đòn trục xuất.)
Căm tức vì thua bạn, từ ngày ấy cho đến nửa tháng sau, ông ta lánh mặt không chuyện vãn với ông Sirigutta, ông nói thầm: “Hành động như thế thì ta không hợp lý. Ta nên báo hại các thầy tổ của ông ấy mà trả đũa thì hơn.”
Ông nhân buổi bãi triều, đến giả lả với Sirigutta và kêu: “Bạn Sirigutta ơi!”
- Dạ, có chuyện chi đó bạn?
- Thân bằng quyến thuộc cũng có khi cãi lẫy tranh chấp nhau. Sao gặp tôi bạn chẳng nói năng chi cả. Tại sao bạn lại đối xử với tôi như thế?
- Nầy bạn, tại vì bạn không chuyện trò cùng tôi, thì tôi mới không nói chuyện. Nhưng dầu giữa hai ta có điều chi xích mích, chúng ta không lẽ đoạn giao tình nghĩa bạn bè.
Từ đó về sau, hai người lân la, thân mật, cùng ngồi và đứng gần bên nhau.
Cho đến một hôm, ông Sirigutta bảo ông Garahadinna:
- Bạn theo nhóm Nigantha nào có được lợi ích gì? Sao bạn không Quy y với Đức Bổn Sư, hoặc là để bát cúng dường Đại đức Tăng có phải là quý hơn không?
Ông Garahadinna chỉ chờ mong có thế, nên khi nghe bạn mở lời, chẳng khác nào gãi nhằm chỗ ngứa của mình. Ông bèn hỏi Sirigutta: “Chẳng hay Lịnh Tôn Sư Ngài biết được cái gì?”.
- Nầy bạn ơi! Bạn đừng nên hỏi như thế, Đức Bổn Sư chẳng có cái gì mà Ngài chẳng biết. Ngài thông suốt cả quá khứ, hiện tại, vị lai, Ngài phân tích tâm của tất cả các chúng sanh ra làm mười sáu chập liên tiếp.
- Vậy mà tôi không được biết. Tại sao bấy lâu nay bạn không tỏ thật cho tôi hay. Thôi thì, bạn làm ơn đi thỉnh Đức Bổn Sư giùm tôi, ngày mai tôi sẽ để bát. Xin Đức Tôn Sư cùng với năm trăm vị Tỳ khưu đến nhà tôi thọ thực.
Ông Sirigutta đi đến chỗ ngụ của Đức Bổn Sư đảnh lễ Ngài rồi bạch rằng:
- Bạch Ngài, bạn con là ông Garahadinna nhờ con đến thỉnh Ngài và năm trăm vị Tỳ khưu, ngày mai đến thọ bát cơm của ông ta. Hôm trước con có trác các vị Đại đức của ông ta một vố nặng, hôm nay con không biết có phải ông ta định trả đũa hay là ông ta thật tâm trong sạch đặt bát chư Tăng. Xin Ngài hãy minh xét, nếu hợp lẽ đạo thì Ngài nhận, còn bằng không thì thôi.
Đức Bổn Sư quán xét: “Garahadinna định làm gì Như Lai đây?”, Ngài thấy rằng: “Ở chỗ sân trống giữa hai ngôi nhà, ông cho đào một hầm rộng lớn, cho đem độ tám mươi cỗ xe bò củi khô chất đầy hố, rồi châm lửa đốt. Định tâm rằng: “ Khi Như Lai rơi xuống hầm lửa thì ông sẽ chỉ trích.” Rồi Đức Bổn Sư quán thêm nữa rằng: “Do nhân duyên như thế, Như Lai có cần ngự đến hay không?”, Ngài thấy rằng: “Như Lai sẽ bước chân lên hầm lửa, tấm đệm che giấu miệng hố sẽ biến mất, lộ ra hầm lửa, từ đó lộ ra đóa liên hoa lớn bằng bánh xe. Khi ấy, Như Lai bước lên cánh sen đi trên hầm lửa vào ngự lên Bảo tọa, các Tỳ khưu cũng theo lối ấy mà đến chỗ ngồi. Đại chúng sẽ tụ tập đông đảo, giữa hội trường Như Lai đọc kệ phúc chúc. Dứt bài kệ sẽ có tám mươi lẻ bốn ngàn chúng sanh sẽ giác ngộ Chánh Pháp. Cả Sirigutta và Garahadinna cũng đạt được Thánh quả đầu tiên, mỗi người sẽ xuất kho vàng của mình ra mà gieo vào giáo pháp. Như Lai nên đi đến tế độ ông Garahadinna vậy.”
Quán xét xong rồi, Đức Bổn Sư nhận lời đi thọ bát. Khi biết Đức Bổn Sư đã nhận lời, Sirigutta trở về báo tin cho Garahadinna biết và dặn rằng: “Bạn hãy lo sắp đặt những lễ vật thượng phẩm đế cúng dường đấng Như Lai.”
Garahadinna đáp: “Cảm ơn bạn, tôi bây giờ phải biết làm thế nào coi cho được chứ.”
Chờ bạn ra về rồi, ông lập tức bảo gia nhân đào một cái hầm rộng lớn, đem tám mươi xe bò củi chất đầy hầm, châm lửa đốt, gắn ống thổi bể (bhasitā) thổi suốt đêm cho củi cháy thành than đỏ. Trên miệng hầm, ông lót ván mỏng, rồi phủ đệm lên che kín, lấy phân bò thoa trét coi như nền tráng. Ở một phía ông bảo làm một lối đi, trên mặt hầm, ông cho gác những đòn tay nhỏ yếu và cũng che đậy không cho thấy dấu. Ông tưởng tượng rằng: “Làm vậy, khi họ bước chân lên để đi qua, thế nào mấy cây đòn tay cũng gãy và họ cũng té lộn nhào xuống dưới hầm lửa.”
Phía sau nhà ông, ông cũng sắp nhiều khạp không, làm theo cách của Sirigutta lúc trước, các chỗ ngồi ông cũng bảo sửa soạn như thế.
Sáng hôm sau, Sirigutta đến nhà bạn thật sớm, nói rằng:
- Bạn ơi! Lễ vật bạn lo đã xong chưa?
- Xong cả rồi bạn à.
- Bạn để đâu?
- Mời bạn vào đây coi với tôi.
Ông Garahadinna chỉ cho bạn coi các lễ vật mình đã sắp đặt theo cách của Sirigutta bữa trước. Sirigutta tán thành: “Lành thay!”. Lúc dấy, dân chúng tụ hội rất đông, người tà kiến mà phát tâm thỉnh Đức Bổn Sư thì bao giờ thiên hạ cũng tụ hội đông đảo như thế. Nhóm tà kiến rủ nhau đi cho đông, để xem: “Sa môn sẽ bị mất mặt.” (vippakra), còn nhóm chánh kiến cũng rủ nhau đi cho đông, vì “Hôm nay Đức Bổn Sư sẽ thuyết một thời pháp lớn. Chúng ta sẽ được chứng kiến thần oai đại lực của Đức Phật.”
Ngày ấy, Đức Bổn Sư cùng với năm trăm Tỳ khưu ngự đến trước cổng nhà ông Garahadinna. Ông nầy ra khỏi nhà, gieo năm vóc xuống đảnh lễ Ngài, đoạn đứng trước mặt Ngài chấp tay nguyện thầm rằng: “Bạch Ngài, nghe đồn rằng Ngài biết việc quá khứ, hiện tại, vị lai, phân tích được tâm chúng sanh ra làm mười sáu chập. Chính Thiện tín ruột của Ngài đã khoe với tôi như thế. Nếu quả thật Ngài tiên tri thì Ngài không vào nhà tôi. Vì Ngài vào nhà tôi chẳng có cơm cháo chi ráo… Tất cả các Ngài lọt xuống hầm lửa rồi thì tôi sẽ chỉ trích cho mà coi…”.
Nguyện thầm rồi, Garahadinna rước lấy bát của Đức Bổn Sư miệng nói: “Xin thỉnh Thế Tôn vào.”, nhưng ông ta tiếp theo liền: “Bạch Ngài, Ngài nên biết trước cách thức vào nhà tôi rồi hãy vào.”
- Cách thức sao đạo hữu?
- Các Ngài đi vào từng vị một, vị trước vào chỗ ngồi, vị sau mới nên tiếp theo.
Trong thâm tâm ông Garahadinna tính như vậy: “Hễ cùng đi vào một lượt, người đi đầu lọt xuống hầm lửa, rồi thì mấy vị sau thấy sẽ không đi tới nữa. Đi riêng lẻ từng người, họ sẽ sa đọa hết và ta sẽ chê trách họ.”
Đức Bổn Sư đáp: “Lành thay!”, đoạn Ngài cùng đi vào một lượt với Garahadinna. Đi đến chỗ hầm lửa, Garahadinna đứng tránh qua một bên, nói: “Xin thỉnh Ngài đi trước.”
Đức Bổn Sư đưa chân lên ngay miệng hầm lửa, chiếc đệm phủ trên mặt biến mất, ván lót nứt ra, để lộ ra một hầm lửa đỏ, rồi từ bên dưới mọc ra những đóa hoa sen to như bánh xe, Đức Thế Tôn bước lên những cánh hoa sen đi qua hầm lửa, vào ngự lên Phật bảo tọa đã được soạn sẵn. Chư Tăng cũng theo lối ấy vào, ngồi lên các ghế ngồi.
Garahadinna tự nhiên nghe trong mình nóng nảy như bị lửa thiêu đốt, ông liền chạy tìm Sirigutta và kêu cứu:
- Ngài ơi! Ngài làm ơn cứu giùm tôi.
- Cái chi vậy?
- Năm trăm Tỳ khưu đã vào trong nhà mà cháo cơm gì chẳng có chi ráo. Tôi biết làm sao bây giờ?
- Chớ hôm qua đến nay bạn đã làm gì?
- Ở khoảng giữa hai ngôi nhà, tôi đã cho đào một cái hầm chứa đầy than đỏ, chờ mấy Ngài té xuống đó thì tôi sẽ chê trách. Cái hầm lửa giờ đây mọc lên toàn những cánh hoa sen. Tất cả Tỳ khưu đều bước lên những cánh hoa sen đi vào, ngồi trên những chỗ ngồi được soạn sẵn. Bây giờ, tôi làm gì đây?
- Ủa! Tôi nhớ ban sáng bạn đã chỉ cho tôi thấy, đây là những khạp cháo, kia là những khạp cơm… Đủ cả rồi mà.
- Thưa bạn, tôi nói dối đấy, mấy khạp ấy đều trống trơn cả.
- Không sao, bạn ra giở mấy khạp cháo, khạp cơm ấy ra coi lại đi.
Ngay lúc ấy, những khạp nào mà Garahadinna nói dối là khạp cháo thì đều đầy cháo, những khạp nào mà ông nói là cơm thì đầy cơm… Thấy oai lực đặc biệt hiển nhiên của Đấng Bổn Sư, Garahadinna phát sanh phỉ lạc khắp mình. Trong tâm hết sức trong sạch tin tưởng, ông cung kính sớt bát hộ độ chư Đại đức Tăng có Đức Phật là vị Tăng trưởng, khi các Ngài dùng xong bữa, ông ta thỉnh bát của Đức Bổn Sư để yêu cầu Ngài thuyết kinh phúc chúc.
Sau bài kinh hoan hỷ phước báu của thí chủ, Đức Bổn Sư dạy rằng: “Những chúng sanh nầy do không có pháp nhãn nên không nhận thức được ân đức của Phật Pháp và chư Tăng đệ tử của Ta. Người không có tuệ nhãn, Ta gọi là kẻ mù, người có trí tuệ, Ta gọi kẻ ấy là người sáng mắt.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết lên hai bài kệ:
58. “Yathā saṅkāradhānasmiṃ,
ujjhitasmiṃ mahāpathe;
Padumaṃ tattha jāyetha,
sucigandhaṃ manoramaṃ.”
58. “Như từ đống rác bùn nhơ,
Vứt lên đại lộ không ngờ mọc ra,
Đóa sen thanh khiết nõn nà,
Mùi hương thơm ngát, trẻ già cũng ham.”
59. “Evaṃ saṅkārabhūtesu,
andhabhūte puthujjane;
Atirocati paññāya,
Sammāsambuddhasāvako.”
59. “Từ nơi nhân chứng tục phàm,
Tối tăm mê muội như giam dưới bùn
Thinh Văn của đấng Đại hùng,
Nêu cao đuốc tuệ, soi cùng thế gian.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ, Phạn ngữ saṅkāradhānasmiṃ: Nghĩa là trong đống rác dơ.
Ujjhitasmiṃ mahāpathe: Nghĩa là đồ bỏ trên đại lộ.
Sucigandhaṃ: tức là surabhigandhaṃ, nghĩa là hương thơm ngào ngạt.
Manoramaṃ: là có ý ưa thích nơi đó.
Saṅkārabhūtesu: nghĩa là những chúng sinh cặn bả cũng như rác vậy.
Puthujjane: Là phàm phu ám chỉ cho những người còn bị phiền não chi phối là phần đông nhân loại trên thế gian.
Bài này Đức Phật dạy rằng: Cũng như đống rác dơ dáy vứt trên đại lộ, tuy là đáng kinh tởm, gớm ghê nhưng đóa hoa sen từ đó mọc lên, lại thơm tho, thanh khiết, dầu cho quan quyền, vua chúa cũng ưa thích, mến chuộng, ai cũng đẹp ý muốn cài, giắt nó lên đầu của mình. Cũng như thế, đám chúng sanh phàm phu xuất thân từ nơi bần tiện như nơi đống rác, trong đại chúng vô trí tuệ, mù quáng có những người nhờ tuệ lực của mình, thấy tội lỗi ngũ trần dục lạc và phước báu của hạnh xuất gia, bèn lìa nhà đi tu theo hạnh không nhà, cố gắng hành đạo theo Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, trở nên bậc Tỳ khưu lậu tận. Thánh đệ tử của Đức Chánh Biến Tri vượt qua khỏi đám chúng sanh phàm phu ngu muội chói sáng rực rỡ.
*
Bài pháp chấm dứt thì tám muôn bốn ngàn chúng sanh giác ngộ chánh pháp, Garahadinna và Sirigutta đều chứng đắc Tu Đà Hườn quả. Hai người, về sau mang hết của cải của mình, xuất ra để phục vụ đạo pháp.
Đức Bổn Sư từ Phật bảo tọa đứng dậy, ngự về chùa. Lúc xế chiều, chư Tỳ khưu câu hội tại giảng đường, đề khởi pháp luận như vậy: “Ôi! Huyền diệu thay là oai lực của chư Phật. Sức nóng như hầm lửa đầy than nóng, lửa đỏ đến thế, phải nhường chỗ cho những cánh hoa sen mọc lên.”
Đức Bổn Sư ngự đến phán hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các ông câu hội thảo luận đề tài gì thế?”.
- Bạch Ngài, việc nầy đây…
Nghe đáp, Đức Bổn Sư dạy rằng: “Nầy chư Tỳ khưu! Việc hôm nay Ta khiến được hoa sen mọc lên từ trong hầm lửa đỏ, không có chi là huyền diệu vì Ta đã thành Phật. Trước kia còn là Bồ tát, Ta cũng đã từng khiến cho cánh sen mọc như thế rồi.”
Chư Tỳ khưu yêu cầu:
- Bạch Ngài, việc ấy có từ bao giờ, xin Ngài chỉ dạy cho chúng con.
Theo lời cầu xin của chư Tăng, Đức Bổn Sư thuyết giảng Kinh Bổn Sanh “Hầm lửa đỏ” (Khadīraṅgārajātaka), rồi Ngài ngâm kệ:
“Kāmaṃ patāmi nirayaṃ,
uddhaṃpādo avaṃsiro,
Nānariyaṃ karissāmi
handa piṇḍaṃ paṭiggahā'ti.”
“Ta sa địa ngục ngũ trần,
Thất điên bát đảo, giở chân chẳng rồi,
Ta quyết không như kẻ tồi,
Lấy cái ống nhổ làm nồi đựng cơm.”
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Trách Thí đề cao phái ngoại môn,
Thủ Danh vì bạn phá “mê hồn”,
Một mương phẩn, đợi người thiếu trí,
Vài miếng đòn, đưa kẻ dại ngôn.
Chẳng cọp sao ham kêu tiếng cọp,
Là chồn phải chịu ló đuôi chồn,
Từ đây thêm rạng đèn Chánh giác,
Đại chúng qui đầu Đức Thế Tôn.
DỨT TÍCH ÔNG GARAHADINNA
58. Just as a fragrant and lovely lotus may blossom forth out of a garbage-heap on the roadside…
58. Như hoa sen tươi đẹp và thơm ngát có thể nở ra từ đống rác bên vệ đường.
58. “Yathā saṅkāradhānasmiṃ,
ujjhitasmiṃ mahāpathe;
Padumaṃ tattha jāyetha,
sucigandhaṃ manoramaṃ.” (4:15)
58. As beside the highroad
where rubbish in a pit is flung
there flourishes the lotus bloom
fragrant and the mind’s delight.
59. Likewise in this worldy mess, the disciple outshines the blinded worldlings by his wisdom.
59. Cũng vậy, giữa cảnh đời trần tục, vị đệ tử Phật với trí tuệ sáng ngời vượt lên những kẻ phàm phu mê muội.
59. Evaṃ saṅkārabhūtesu,
andhabhūte puthujjane;
Atirocati paññāya,
Sammāsambuddhasāvako. (4:16)
59. So among rubbish-beings,
common humans blind-become,
the Perfect Buddha’s pupil
outshines with wisdom bright.
DỨT PHẨM HOA
----
V. PHẨM NGU NHƠN (BĀLAVAGGA)
16 bài kệ: Pháp Cú số 60-75.
15 tích truyện.
----
V. 1 - Tích TRAI NGHÈO CÓ VỢ ĐẸP
(Aññatarapurisavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp cú số 60)
60. “Dīghā jāgarato ratti,
dīghaṃ santassa yojanaṃ;
Dīgho bālānaṃ saṃsāro,
saddhammaṃ avijānataṃ.”
60. “Đêm dài đối kẻ thức,
Dặm dài đối kẻ nhọc,
Đường sanh tử rất dài,
Đối kẻ dốt Chánh pháp.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến một thanh niên nọ và đức vua Pasenadi Kosala.
Tương truyền rằng: Nhân một ngày quốc lễ, quốc vương Pasenadikosala vận đại triều phục, ngự lên một thớt bạch tượng thuần sắc, tên là Puṇḍarīkā (Bạch Liên), ngự du một vòng kinh thành với đoàn quân hộ giá tiền hô hậu ủng, đầy đủ vẻ uy nghi tráng lệ của bậc Đế vương.
Quần chúng đi xem lễ đông nghẹt các nẻo đường, tiếng nói cười nhộn nhịp, náo nhiệt. Họ bị quân dọn đường lấy đất, đá và gậy gộc đánh đuổi, tuy bị chạy tán loạn nhưng họ vẫn ngoái cổ lại nhìn. (Người ta nói rằng: Sở dĩ nhà vua được vinh hiển, tột bực như thế, là do sự bố thí đầy đủ duyên trong quá khứ.)
Ngày ấy, vợ một chàng thanh niên nghèo khổ nọ, nàng đang đứng trên tầng thượng của một tòa nhà bảy tầng, nghe tiếng có đức vua ngự qua thì mở một cửa sổ nhìn xuống, ngay lúc quốc vương cũng vừa ngước nhìn lên. Thiếu phụ vội thụt vào, đóng cửa sổ lại. Quốc vương nhìn theo ngơ ngẩn, như đang mong đợi mặt trăng rằm vừa khuất sau áng mây đen. Tương tư một đóa hoa hèn, lòng quốc vương cảm thấy nóng nảy bồn chồn, ngồi chẳng vững trên lưng tượng, Ngài đốc thúc cuộc diễu hành quanh thành phố cho mau chấm dứt.
Về đến cung đình, quốc vương phán hỏi một cận thần thân tín: “Lúc nãy, tại chỗ đó khanh có trông thấy tòa lâu đài mà trẫm nhìn lên không?”.
- Tâu bệ hạ, có thấy.
- Trong lâu đài ấy, khanh có trông thấy một nữ nhân không?
- Tâu bệ hạ, thần có thấy.
- Vậy khanh hãy đến đó hỏi nàng ấy có chồng chưa?
Viên hầu cận thân tín đi, rồi trở về tâu lại cho đức vua biết rằng: “Nàng ấy đã có chồng.” Quốc vương bèn ra lịnh:
- Vậy khanh hãy triệu chồng nàng ấy vào triều cho ta.
Vị quan vâng lịnh đức vua, gặp chành thanh niên nghèo khổ, bảo rằng: “Lại đây bạn ơi, đức vua triệu bạn vào triều.”
Thanh niên nghĩ thầm: “Việc nầy e có liên quan đến vợ ta.” Không dám trái lệnh vua, thanh niên vào triều bái đức vua rồi đứng chờ.
Đức vua phán hỏi thanh niên: “Trẫm phong cho khanh làm thị vệ quân.”
- Muôn tâu bệ hạ, thần không dám nhận lãnh chức đó. Xin cho thần ở ngoài hành nghề, đóng thuế cho bệ hạ, thần chỉ quen với lối sống bình dân.
- Trẫm không cần đến tiền khanh đóng thuế. Kể từ nay về sau khanh hãy theo hầu trẫm.
Quốc vương ban cho thanh niên bộ võ phục, một lưỡi gươm và một cái khiên (mộc). Thanh niên nghĩ: “Nếu mình có điều chi sơ xuất với đức vua thì phạm tội khi quân, chẳng khỏi chết chém. Ta phải lo sợ mới được.”
Vì sợ tội chết, thanh niên siêng năng hầu hạ đức vua.
Quốc vương không tìm được lầm lỗi nào của thanh niên, thì lòng mong hưởng dục lạc lại càng tăng trưởng, nghĩ thầm: “Phải tìm cớ buộc tội hắn thì trẫm ngồi làm vua mới yên.”
Quốc vương liền triệu thanh niên đến và phán rằng:
- Nầy khanh, khanh hãy đi đến một địa điểm ấy, cách đây độ một do tuần, xuống sông hái nhiều hoa sen xanh và trắng, móc lấy đất đỏ như màu mặt trời bình minh, đem về đây vào buổi chiều cho kịp trẫm tắm. Nếu khanh để trì hoãn, không về kịp lúc ấy, trẫm cứ luật mà gia hình.
(Người ta bảo rằng: “Thị vệ quân là chức thấp kém nhất trong bốn hạng tôi đòi. Quả nhiên, hạng làm mướn ăn tiền chẳng hạn, có thể lấy cớ đau bịnh, mệt mỏi mà xin nghỉ được. Còn thị vệ thì không được phép nghỉ, hễ lịnh vua sai khiến là phải thi hành chớ không được khoái thác.) Thanh niên suy nghĩ: “Nhất định là ta phải đi đến đó. Nhưng hoa sen xanh, trắng cùng đất đỏ như mặt trời bình minh chỉ có cảnh giới Long Vương, còn trên thế giới nhân gian ta biết tìm lấy ở đâu cho được.”
Càng suy nghĩ, càng sợ tội chết, thanh niên về nhà bảo vợ:
- Mình ơi! Cơm nấu chín chưa?
- Dạ thưa, mới vừa bắc lên nấu mình à!
Thanh niên không chờ cơm chín, liền nhấc xuống bảo vợ lấy vá xúc cơm chưa ráo nước, đổ vào giỏ, chan thêm canh nóng vào, rồi mang theo cất bước lên đường. Trong lúc đi đường cơm cũng vừa chín.
Thanh niên sớt riêng ra một phần lớn, không rớ tay đến, chỉ ăn chút ít còn lại. Khi đang ăn, thấy một lữ khách đi đến, thanh niên nói: “Tôi sớt ra, chỉ ăn có chút ít, phần cơm này tôi không đụng đến, ông hãy lấy dùng đi.”
Khách lấy cơm dùng. Thanh niên độ xong bữa, còn chừa lại một nắm cơm đem bỏ xuống nước, rửa mặt súc miệng, la lớn rằng: “Cầu xin Long vương, Kim sí điểu và chư Thiên ngự nơi thủy quốc này hãy nghe tôi nói đây: Quốc vương ra lịnh khiến tôi thi hành việc nầy. Là đến đây lấy cho được sen xanh, sen trắng cùng với đất màu đỏ như mặt trời bình minh đem về triều. Tôi đã bố thí cơm cho người lữ hành được ngàn phần phước, tôi đã bố thí cơm cho cá dưới nước được một trăm phần phước nữa. Tất cả bấy nhiêu phước báu tôi xin chia hết cho các Ngài. Xin các Ngài hãy đem hoa sen xanh, hoa sen trắng và đất màu đỏ mặt trời bình minh đến cho tôi.”
Thanh niên la lớn đủ ba lần như vậy. Long vương là chúa rồng ngự tại nơi đó, nghe tiếng của thanh niên:
- Chú em nói gì thế?
Thanh niên lặp lại y như trước.
- Chú hãy chia phước cho ta với.-Ông lão nói.
- Tôi xin chia phước đến ông, thanh niên đáp.
Sau khi bảo thanh niên chia phước hai ba lần như vậy rồi, Long vương đem hoa sen xanh, trắng và đất mặt trời màu bình mình tặng lại thanh niên.
Trong khi ấy, quốc vương tính thầm rằng: “Người đời có nhiều kẻ giỏi chú thuật. Nếu như gã ấy dùng pháp thuật mà kiếm được các món ấy, thì mưu cơ của trẫm không thể thành tựu.” Đức vua liền cho đóng kín tất cả cửa vào thành.
Sau khi kiếm được hoa sen xanh, trắng cùng với đất đỏ, thanh niên vội quay về cho kịp giờ đức vua tắm gội, nhưng cửa thành đã bế chặt, không thể vào thành được. Thanh niên yêu cầu tiếp xúc với thủ môn quan và bảo: “Mở cửa ra.”
- Không thể mở cửa được. Đức vua đã xuống chiếu truyền lịnh đóng hết các cửa thành Sāvatthī.
- Ta là Khâm sai (rajadūta) của đức vua. Hãy mở cửa cho ta vào.
Thanh niên nói gì thì nói, các quan giữ cửa thành vẫn không mở cửa.
Không vào được, thanh niên ngẫm nghĩ: “Bây giờ chắc hẳn mạng căn của ta đã tuyệt. Ta phải làm sao đây?”.
Thanh niên đặt cục đất đỏ lên đầu cổng thành, cắm mấy cành hoa lên cục đất, rồi cất tiếng la lớn lên rằng: “Hỡi dân cư ngụ trong kinh thành! Xin các vị hãy biết rằng việc nầy: Đức vua sai tôi đi công cán, tôi đã thi hành xong. Bây giờ đức vua cố ý ngăn trở không cho tôi vào, để có cớ mà giết tôi.” La to ba lần như thế, thanh niên lại nghĩ: “Ta đi đâu bây giờ? À! Chư Tỳ khưu có tiếng là từ tâm, vậy ta hãy vào ngủ nhờ trong chùa.”
Quả thật những chúng sanh như thanh niên nầy, trong thời kỳ an vui không bao giờ nghĩ tưởng đến chư Tỳ khưu đâu, chỉ khi nào lâm vấp cảnh khổ rồi mới có ý muốn đi chùa. Thanh niên tự nghĩ: “Ta không còn chỗ nào khác để nương nhờ.”, bèn đi vào chùa, kiếm một chỗ tiện nghi để nằm ngủ.
Đêm ấy trong hoàng cung, quốc vương không sao an giấc điệp, vì hình bóng của thiếu phụ vẫn ám ảnh tâm tư. Quốc vương chỉ mong trời mau sáng để xử tử thanh niên, ngõ hầu đoạt vợ của chàng.
Cũng trong giờ đêm tăm tối ấy, dưới địa ngục đồng sôi, rộng khoảng sáu mươi do tuần, có bốn thanh niên bị đọa lạc xuống đó, đang bị nấu trong chảo dầu sôi, nổi lên chìm xuống như những hạt gạo. Từ trên miệng chảo chìm xuống đến tận đáy trải qua một thời gian là ba muôn năm, lại trải qua ba muôn năm khác mới trồi lên tới miệng chảo. Bốn chàng ngóc đầu lên, thấy được nhau, mỗi chàng định nói bài kệ nhưng không nói kịp, mỗi chàng chỉ nói kịp một tiếng rồi lại bị chìm xuống, lộn đầu rơi xuống đáy chảo.
Đang băn khoăn, thao thức, vào lúc nửa đêm, quốc vương mộng nghe được bốn tiếng la của tội nhân dưới địa ngục ấy, thì giựt mình kinh sợ, lo lắng tự nghĩ: “Đây chắc là điềm báo cho trẫm hoặc hoàng hậu sẽ băng hà, hay là ngai vàng sẽ đổ nát…”. Thế là suốt đêm hôm ấy, quốc vương không sao chợp mắt được.
Mặt trời vừa mọc, quốc vương cho triệu vị Quân sư vào triều và phán hỏi:
- Thưa quân sư, vào khoảng giữa đêm hôm nay, trẫm nghe có tiếng la thật lớn, rất đáng kinh sợ. Trẫm không biết đó là điềm báo sự tai hại đến ngai vàng, đến hoàng hậu hay đến chính bản thân trẫm. Cho nên trẫm mới triệu quân sư vào đây.
- Tâu đại vương, đại vương nghe được những tiếng gì?
- Thưa quân sư, trẫm nghe được bốn tiếng rời rạc là Du, Sa, Na, So. Xin Quân sư hãy giải rộng nghĩa lý của những chữ nầy.
Vị quân sư Bà la môn như người đi trong đêm tối, chẳng nhận ra đường lối nào cả. Sợ thú thật mình không biết thì chứng tỏ mình là kẻ bất tài, sẽ mất cả uy tín và bổng lộc, ông ta bèn kêu bướng rằng: “Tâu đại vương, điềm nầy hệ trọng lắm.”
- Thưa Quân sư, điềm chi vậy?
- Đó là điềm tai họa có liên quan đến thọ mạng của đại vương.
Quốc vương nghe lời bàn ẩu, tưởng chắc thật, càng thêm lo sợ bội phần, phán hỏi ông Bà la môn:
- Thưa Quân sư, có cách chi ngăn ngừa tai họa ấy được chăng?
- Tâu đại vương, có. Xin đại vương hãy bình tâm đừng có lo sợ. Hạ thần thông suốt Tam Phệ Đà (Veda) mà.
- Cần phải làm gì để tránh tai họa?
- Tâu bệ hạ, phải hi sinh người và vật, mỗi thứ là một trăm để cúng tế thì bệ hạ sẽ tăng thêm tuổi thọ.
- Quân sư cần những gì?
- Trăm con voi, trăm con ngựa, trăm bò đực, trăm bò cái, trăm dê đực, trăm dê cái, trăm gà trống, trăm con heo, trăm đồng nam và trăm đồng nữ.
Như thế là, cứ mỗi loại chúng sanh, ông Bà la môn xin đức vua cho cắt đủ trăm, vì ông nghĩ rằng: “Nếu ta xin bệ hạ bắt dân chúng nạp thú rừng thì họ nói là ta có ý bắt để ăn thịt.” nên ông mới xin đức vua cho bắt cả voi, ngựa và người vậy.
Quốc vương nghĩ thầm: “Trẫm phải tiên bảo kỳ thân, tự mình lo bảo tồn sanh mạng mới được.”
Vua bèn hạ lịnh: “Bắt tất cả chúng sanh cho mau.” Lịnh trên ban xuống, cấp dưới lập tức thừa hành, bắt vật hy sinh nhiều hơn con số đã ấn định.
Trong kinh liên quan đến xứ Kosala, có đoạn liên quan đến việc ấy như sau: “Thời ấy, quốc vương Pasenadikosala dự định cử hành đại lễ bằng sinh vật có năm trăm con bò đực, năm trăm bò cái, năm trăm dê đực, năm trăm dê cái, tất cả đều bị bắt cột chung chỗ xây cột tế, còn những nô lệ nam, nữ, những kẻ phục dịch, công nhân của đức vua bị hăm dọa sợ đòn, mặt đầy nước mắt, vừa khóc vừa lo sắp đặt công việc tế lễ.”
Dân chúng thương tiếc quyến thuộc của mình đã bị bắt, mạnh ai nấy khóc than kể lể, tiếng kêu la ồn ào, hỗn độn, nghe như quả địa cầu có tri giác cũng biết xót xa vậy.
Khi ấy, hoàng hậu Mallikā nghe tiếng dân chúng kêu la, bèn vào triều kiến đức vua và hỏi rằng:
- Tâu đại vương, đại vương vẫn còn nguyên vẹn, đầy đủ lục căn, mà sao thần thiếp trông đại vương có vẻ bơ phờ hốc hác như thế?
- Ái hậu Mallikā, hậu không hay biết rằng: “Trẫm muốn điếc con ráy rồi sao?”.
- Tâu bệ hạ, việc chi vậy?
- Ban đêm, trẫm nghe được những tiếng quái gở như vậy, trẫm cho triệu quân sư vào hỏi thì quân sư cho biết đó là điềm tai hại đến tánh mạng của trẫm, phải cúng tế người vật, mỗi thứ là một trăm thì trẫm mới được trường thọ. Trẫm nghe lời quân sư để bảo tồn mạng sống, nên ra lịnh tìm bắt cho đủ tế vật để hy sinh.
Nghe vậy, hoàng hậu Mallikā nói rằng:
- Tây đại vương! Đại vương thật là mù quáng, si mê. Dầu sao đại vương cũng là bậc ăn trên ngồi trước, là chúa thiên hạ, hưởng lộc nhiều hơn cả mọi người, có lý nào đại vương có trí kém cỏi như thế.
- Sao hậu lại nói vậy?
- Tại sao đại vương nghe chi lời của tên Bà la môn mù quáng, ngu si, tự mình muốn sống lại gây sự chết chóc cho kẻ khác, gieo rắc sự khổ sầu thảm khốc cho dân chúng như vầy? Trong chùa Jetavana gần đây, có Đức Bổn Sư đang ngự, Ngài là bậc Đại hùng, Đại lực, là Thầy của chư Thiên và nhơn loại. Các việc quá khứ, hiện tại, vị lai Ngài thông suốt cả. Đại vương nên đến học hỏi nơi Ngài.
Khi ấy, đức vua liền ngự lên chiếc loan xa nhỏ, cùng đi với hoàng hậu Mallikā đến chùa. Trong tâm còn lo sợ chết, nên chẳng nói năng chi được hết. Quốc vương chỉ đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi ngồi nép vào một bên.
Đức Bổn Sư mở lời, hỏi rằng:
- Kìa đại vương từ cõi trời hay cõi nào đến đây?
Quốc vương nghe vậy cũng làm thinh, không trả lời. Hoàng hậu Mallikā bèn đem mọi sự trình bạch lên Đức Thế Tôn:
- Bạch Ngài, đức vua nói rằng vào khoảng giữa đêm có nghe những tiếng quái dị, hỏi quân sư thì ông ấy cho biết là có điềm tai họa đến sinh mạng của đức vua. Nếu muốn ngăn ngừa phải bắt vật hy sinh mỗi thứ là một trăm, cắt cổ lấy huyết tế thần thì sẽ được trường thọ. Quốc vương đã sai bắt nhiều chúng sanh, vì vậy con hướng dẫn đức vua đến đây.
- Hoàng hậu nói thế có đúng không hở đại vương?
- Bạch Ngài, đúng thế.
- Đại vương đã nghe thấy những tiếng gì?
Quốc vương bèn nhắc lại những tiếng mà mình đã nghe. Đức Như Lai nghe vừa dứt lời, thì đã hiểu rõ mọi sự như làn chớp xẹt một cách nhanh lẹ. Ngài bèn vỗ an đức vua: “Đại vương chớ có sợ hãi. Chẳng có việc chi tai hại đến đại vương cả, những chúng sanh tạo ác nghiệp muốn tỏ bày nỗi thống khổ của chính mình nên mới nói lên như thế đó.”
- Bạch Ngài, bọn họ đã làm gì?
Để giải rõ những nghiệp báo của bốn chúng sanh ấy, Đức Thế Tôn phán rằng: “Thế thì đại vương hãy lắng nghe.”
Nói rồi, Ngài dẫn tích như sau:
Thời quá khứ, lúc tuổi thọ của loài người là hai muôn năm thì Đức Thế Tôn có hồng danh Kassapa giáng thế, Ngài cùng với hai muôn vị A la hán vân du khắp nơi, rồi ngự đến thành Bārāṇasī. Dân chúng trong thành rủ nhau, từ hai ba người hay đông hơn nữa, cùng họp nhau luân phiên để bát cúng dường thực phẩm đến các khách Tăng.
Thời bấy giờ, trong thành Bārāṇasī có bốn vị công tử là con nhà Trưởng giả, nhà nào cũng có tài sản lên đến bốn trăm triệu đồng vàng. Họ giao du với nhau rất thân mật, họ thường hỏi nhau: “Nhà ta giàu có, tiền của ta để làm gì?”.
Trong thời Đức Phật đang tại thế, Ngài đang vân du khắp nơi, chúng ta hãy bố thí, cúng dường, tôn thờ, lễ bái, hãy thọ trì Tam quy Ngũ giới… không có cậu nào đề nghị như thế cả. Một cậu thì nói lên rằng: “Uống rượu nồng, ăn thịt béo rồi chúng ta sẽ thả rong chơi, đời sống chúng ta như thế cũng là thú vị lắm rồi.” Cậu khác nói: “Phải đó, gạo thơm ngon như hoa ngọc lan, với nhiều món sơn hào hải vị, ta ăn rồi thả đi chơi.”
Cậu thứ ba thì bảo: “Ta bảo đầu bếp nấu món cà ri thập cẩm có đủ thứ gia vị, ăn rồi ta sẽ đi chơi.”
Cậu thứ tư lại có ý kiến: “Nầy các bạn, ta sẽ chẳng nấu cơm nước chi ráo, ta sẽ đem tiền của ra cho thế thường, chẳng có nữ nhân nào lại chẳng ham tiền, hễ ta vãi tiền ra cám dỗ mua chuộc thì vợ con nhà ai mà thoát khỏi tay ta.”
- Hay! Hay!...
Tất cả bốn cậu đều chấp thuận đề nghị nầy, từ đó về sau hễ thấy phụ nữ có sắc đẹp thì họ bỏ tiền ra quyến rũ làm cho phải thất tiết mới nghe. Họ phạm tội gian dâm như thế trong hai muôn năm, đến lúc chết bị sa xuống đại địa ngục A tỳ. Họ bị thiêu đốt trong đó suốt một thời gian không có Phật. Khi mạng chung do quả dư sót, họ lại sanh lên địa ngục đồng sôi, có bề sâu là sáu mươi do tuần, từ trên miệng chảo chìm mãi xuống đáy là ba muôn năm, rồi trải qua ba muôn năm nữa mới trồi đầu lên miệng chảo. Họ muốn nói nguyên một bài kệ mà nói không kịp, chỉ kịp mở miệng la lên có một tiếng rồi lộn chìm xuống đáy chảo. Đại vương hãy nói, đại vương nghe trước được tiếng gì?
- Bạch Ngài, tiếng DU.
Quốc vương chỉ nói ra vỏn vẹn có một tiếng vắn tắt mà Đức Bổn Sư bổ túc thành bài kệ như sau:
1. “Dujjīvitamajīvimhā,
yesanno na dadāmha se;
Vijjamānesu bhogesu,
dīpaṃ nākamha attanoti.”
1. “Xưa ta sống nhuốc nhơ,
Chẳng bố thí bao giờ,
Tuy có nhiều tiền của,
Không tạo chỗ nương nhờ.”
Sau khi giải nghĩa bài kệ trên cho quốc vương hiểu, Đức Bổn Sư hỏi tiếp:
- Tâu đại vương, lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư đại vương nghe được những tiếng gì?
- Bạch Thế Tôn, nghe được những tiếng nầy…
Cứ mỗi lần đức vua đáp lời, Đức Bổn Sư lại bổ túc thêm thành ba bài kệ, theo thứ tự như sau:
2. “Saṭṭhivassasahassāni,
paripuṇṇāni sabbaso;
Niraye paccamānānaṃ,
kadā anto bhavissati.”
2. “Ta ở sáu muôn năm,
Tròn đủ, nếu không lầm,
Trong địa ngục thọ khổ,
Chừng nào hết bị cầm.”
3. “Natthi anto kuto anto,
na anto paṭidissati;
Tadā hi pakataṃ pāpaṃ,
mama tuyhañca mārisā.”
3. “Không hết cũng không cùng,
Không thấy chỗ cáo chung,
Bởi xưa ta tạo ác,
Tôi cùng với các ông.”
4. “Sohaṃ nūna ito gantvā,
yoniṃ laddhāna mānusiṃ;
Vadaññū sīlasampanno,
kāhāmi kusalaṃ bahunti.”
4. “Nếu tôi được thoát thân,
Đầu thai làm thế nhân,
Hiểu biết giữ đủ giới,
Tạo thiện pháp nhiều lần.”
Lần lượt đọc ba bài kệ và giải thích nghĩa lý xong, Đức Bổn Sư tiếp lời rằng:
- Tâu đại vương, bốn chàng khổ đó, mỗi chàng đọc một bài kệ, mà đọc không kịp, chỉ mở miệng nói được một tiếng thôi, rồi chìm trở xuống trong lòng chảo vậy.
(Kể từ khi quốc vương Pasenadikosala nghe tiếng của bốn chúng sanh địa ngục ấy, cho đến nay đã hơn hai mươi lăm thế kỷ mà họ cũng vẫn còn đang chìm xuống mãi mãi như thế.).
Nghe dứt thời pháp, đức vua phát sanh đại kinh cảm, đức vua nghĩ thầm: “Nghiệp tà dâm quả thật là nặng nề thay! Đức Thế Tôn bảo rằng bọn họ bị thiêu đốt trong lòng địa ngục suốt khoảng thời gian không có Phật, mãn kiếp lại tái sanh vào địa ngục đồng sôi, bị nấu luộc sáu muôn năm như vậy, không biết đến thời gian nào mới được thoát khổ? Trẫm đây cũng có tâm tà vạy, yêu thương vợ kẻ khác, đến nỗi trằn trọc suốt đêm ngủ không an giấc. Từ bây giờ trở đi, trẫm quyết sẽ không nuôi ý niệm tà dâm nữa.”
Nghĩ rồi, quốc vương bạch Đức Như Lai:
- Bạch Ngài, hôm nay trẫm mới biết là đêm dài.
Thanh niên là cựu thị vệ quân, đang ngồi nơi hội trường nghe mấy lời của đức vua, trong tâm nghĩ: “Ta gặp được cơ hội may mắn rồi.” Thanh niên bèn bạch với Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài, đức vua hôm nay mới thấy đêm dài bấy nhiêu đó, còn con ngày hôm qua chính con đã biết là dặm đường dài.
Đức Bổn Sư so sánh hai câu nói của hai người, rồi bảo rằng:
- Đêm dài đối với một số người, dặm dài đối với một số người, con đường luân hồi dài đối với kẻ ngu si.
Nhân đó, Đức Thế Tôn thuyết lên một thời pháp, rồi Ngài kết luận bằng bài kệ rằng:
60. “Dīghā jāgarato ratti,
dīghaṃ santassa yojanaṃ;
Dīgho bālānaṃ saṃsāro,
saddhammaṃ avijānataṃ.”
60. “Đêm dài vì giấc chẳng an,
Dặm dài chìm nổi, lại càng thấy xa,
Đường đời vạn nẻo quan hà,
Kẻ dốt Chánh pháp, chậm qua luân hồi.”
*
CHÚ THÍCH:
Tiếng Dīghā trên đây nghĩa là dài. Thường thì một đêm có ba canh (theo bên Ấn Độ thời xưa), nhưng đối với người thao thức cầm canh thì thấy như là đêm dài gấp đôi gấp ba vậy.
Đêm không thấy dài đối với người chỉ biết ăn no ngủ kỹ, mặt trời lên cao mà còn lăn qua trở lại trên giường. Người đại lãn ăn đồ (mahākusito) cao lương mỹ vị, nằm ngủ chỗ sang trọng, người toại hưởng ngũ trần cũng chẳng biết rằng đêm dài.
Hành giả tinh cần hành thiền suốt đêm, vị Pháp sư thuyết pháp và thính giả ngồi trong hội trường, người bị bịnh hành như nhức đầu, nhức răng chẳng hạn, hoặc người thọ khổ vì bị thương như đứt tay chân, là lữ khách dạ hành mới biết đêm dài.
Yojanaṃ: Là do tuần, dài bằng bốn dặm (độ mười sáu cây số), nhưng đối với khách lữ hành mệt mỏi thì thấy như là dài gấp đôi, gấp ba lận. Quả nhiên, khách đi đường xa cả ngày đã mệt nhừ, mà thấy hành trình còn thăm thẳm, gặp ai cũng hỏi: “Thôn, xã ở phía trước, cách đây còn bao xa?”, nghe đáp: “Một do tuần.”, khách ráng đi một lát lại hỏi người khác, người nầy cũng đáp “Một do tuần.”, khách hỏi đi hỏi lại, hết người này đến người kia, họ đều đáp: “Một do tuần.” Khách thấy chán ngán than rằng: “Cha! Một do tuần! Sao mà dài như thế?”. Và người ấy thấy dài gấp đôi, gấp ba lúc bình thường.
Bālānaṃ: Là những kẻ ngu si, không biết đến sự lợi ích (tức là Níp Bàn) trong đời nầy và kiếp sau, những kẻ ngu si không thể chấm dứt cái vòng luân hồi được. Những người nào thông hiểu Chánh Pháp (Sadhamma) nhứt là ba mươi bảy nhân sanh Bồ đề (Sattatiṃsa Bodhipakkhiya) những người ấy mới tận cùng con đường sanh tử được, còn đối với những kẻ dốt Chánh Pháp thì con đường nầy dài vô tận. Vả lại, đặc tính của nó bao giờ cũng vậy, cho nên mới gọi là dài. Đề cập đến nó, có Phật ngôn rằng: “Anamataggoyaṃ bhikkhave saṃsāro pubbā kotiṃ na paññāyatīti.”-“Nầy các Tỳ khưu! Đường luân hồi vốn vô thủy, khởi điểm của nó không thể thấy được.”
Đối với những người ngu si không thể tận cùng con đường sanh tử, thì thấy nó dài hết sức dài.
*
Thời pháp vừa dứt, thanh niên chứng đắc quả Nhập lưu, ngoài ra nhiều người khác cũng chứng đắc Thánh quả, nhứt là Nhập Lưu. Đại chúng thính pháp cũng hưởng được lợi ích.
Quốc vương đảnh lễ Đức Bổn Sư, ngự về nơi cây trụ cột chúng sanh là tế vật, truyền quân mở trói, phóng thích cả người lẫn vật đã bị bắt chuẩn bị hy sinh.
Cả bọn nam, nữ được thả tự do ấy, được tắm gội sạch sẽ, rồi ai trở về nhà nấy. Lúc đi đường, họ ca tụng công ơn của hoàng hậu Mallikā, nói rằng:
- Chúng mình còn được sống sót ngày nào, cũng là nhờ ơn cứu tử của hoàng hậu Mallikā.
Chiều hôm ấy, chư Tỳ khưu câu hội nơi giảng pháp đường, khởi lên pháp luận như sau: “Hiền trí thay bà Mallikā nầy. Nhờ có trí tuệ, bà đã cứu tử huờn sanh cho bấy nhiêu người và vật như thế.”
Đức Bổn Sư ngự đến giảng đường, phán hỏi: “Nầy chư Tỳ khưu ! Hôm nay các ông thảo luận về việc chi vậy?”.
- Bạch Thế Tôn, việc như vầy…
Đức Bổn Sư bảo rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, chẳng phải chỉ bây giờ nàng Mallikā dùng trí tuệ của mình mà cứu tử cho nhiều người, thuở xưa nàng cũng đã từng như thế, đã cứu mạng nhiều người lắm rồi.
Để minh chứng việc nầy, Đức Bổn Sư thuật lại tiền tích như sau:
Thời quá khứ, có vị hoàng tử xứ Bārāṇasī, đi đến gốc một cây đa, khấn vái thọ thần hóa sanh nơi cây ấy rằng: “Cầu xin Thiên vương chứng giám. Trong cõi Diêm Phù nầy có một trăm lẻ một quốc vương và một trăm lẻ một hoàng hậu. Nếu khi phụ hoàng tôi thăng hà mà tôi được kế vị ngai vàng, tôi sẽ lấy huyết cổ của họ mà cúng tế Thiên vương.”
Khi vua cha thăng hà, thái tử ấy được tôn vương, nghĩ rằng: “Do nhờ Thiên vương phù hộ, mà trẫm được lên ngôi cửu ngũ. Vậy trẫm phải lo việc trả lễ hoàn nguyện.”
Tân vương bèn cử đại đội hùng binh, ngự giá thân chinh, đánh chiếm một nước láng giềng, bắt được đức vua và hoàng hậu, rồi mang theo đi đánh chiếm nước khác, lần lượt bắt được tất cả các đức vua và hoàng hậu của một trăm lẻ một nước.
Đại vương Bārāṇasī đem tất cả đến gốc cây đa, chỉ trừ một mình bà hoàng hậu của vua Uggasena (Kiêu Binh) tên là Dhammadinnā (Pháp Thí) được miễn vì đang hoàn thai.
Đại vương sai quân lính quét dọn quanh gốc cây đa, tính rằng: “Để cho bấy nhiêu người đây uống độc dược rồi ta sẽ hành quyết họ.”
Vị Thọ thần nơi gốc cây đa nghĩ rằng: “Quốc vương nầy đã cho rằng nhờ ta phù trợ mà chiến thắng, bắt được bấy nhiêu đức vua cùng hoàng hậu, nên định lấy máu của họ mà cúng tế ta. Nếu để cho quốc vương nầy hành quyết họ thì giòng giống vua chúa trên cõi Diêm Phù phải bị tiêu diệt, mà gốc cây đa cũng bị lem ố. Ta có thể nào ngăn trở được cuộc lưu huyết nầy chăng?”.
Sau khi quán xét, biết mình không đủ khả năng, vị Thọ thần lại đi tìm vị chư Thiên khác, nhưng khắp thế giới Ta bà, gặp vị chư Thiên nào, vị ấy cũng đều khước từ cả.
Vị Thọ thần đến cầu cứu nơi Tứ Đại Thiên Vương, các vị nầy cũng kinh sợ thối thác rằng: “Chúng tôi không đủ quyền năng, Ngài hãy tìm vị nào mà phước báu cùng trí tuệ cao trội hơn chúng tôi mà sở cậy.”
Thọ thần bèn lên cung trời Đao Lợi vấn kế nơi đức Đế Thích và nói khích rằng: “Tâu Thiên vương, nếu Ngài cứ ngồi khoanh tay không chịu can thiệp thì ắt là giòng giống vua chúa phải tận diệt. Xin Ngài tế độ, chở che cho họ.”
Đức Đế Thích đáp: “Chính trẫm cũng không làm sao ngăn trở được việc nầy. Nhưng để trẫm bày cách cho khanh.”
Phán rồi, đức Đế Thích dạy rằng: “Bây giờ khanh hãy trở về vận y phục toàn màu đỏ cho quốc vương dễ ngó thấy, rồi khanh hiện hình từ trong thân cây bước ra, đứng trước mặt đức vua. Khi đức vua thấy khanh, ắt nghĩ rằng: “Vị chư Thiên của trẫm đến rồi kia. Để trẫm yêu cầu Ngài chậm lại một giây phút.”
Chờ cho đức vua xin điều nầy, điều nọ xong, khanh hãy bảo rằng: “Quốc vương trước có hứa với ta là sẽ bắt đủ một trăm lẻ một đức vua và một trăm lẻ một hoàng hậu đem đến cây nầy lấy máu cổ mà cúng tế ta để trả lễ. Hiện nay các vua thì đủ mà thiếu một vị hoàng hậu của vua Uggasena. Ta không nhận lễ của người dối trá như quốc vương đâu.”
Khanh nói như thế, khi đức vua nghe được sẽ cho bắt hoàng hậu Dhammadinnā đến, hoàng hậu sẽ thuyết pháp thức tỉnh quốc vương và cứu thoát cho bấy nhiêu nhân mạng.
Đức Đế Thích chỉ bày cách thức cho vị Thọ thần. Vị này y theo kế ấy mà thi hành. Quả nhiên, đức vua khiến bắt luôn hoàng hậu Dhammadinnā đem đến gốc cây đa. Hoàng hậu Dhammadinnā đến nơi, nàng đi đến đảnh lễ chồng, là vị vua ngồi phía sau cùng của các vua chư hầu.
Đức vua cả giận, bắt lỗi hoàng hậu Dhammadinnā rằng:
- Trẫm là đàn anh lớn nhất nơi đây, sao nàng không đảnh lễ, lại đi đảnh lễ nhà vua đàn em tất cả vậy?
Hoàng hậu bình tĩnh trả lời rằng:
- Thiếp có gì trực thuộc nơi đại vương đâu? Đức vua này là phu quân của thiếp, đã ban cho thiếp danh quyền tước lộc, mà bảo thiếp đừng đảnh lễ để đi đảnh lễ đại vương, thì nghĩa là sao?
Vị Thọ thần hiện ra, tán dương hoàng hậu Dhammadinnā:
- Đúng như thế nàng ạ! Đúng như thế.
Đoạn Thọ thần cúng dường nàng một nắm hoa.
Quốc vương lại hỏi rằng:
- Thế nàng không đảnh lễ trẫm thì thôi. Còn vị ban cho Trẫm vương quyền là chư Thiên có đại oai lực như thế, sao nàng không đảnh lễ?
- Tâu đại vương, sở dĩ đại vương bắt được các vua chư hầu đó là do công lao phước đức của đại vương, chớ nào phải vị chư Thiên bắt nạp cho đại vương đâu?
Lần thứ hai, vị Thọ thần lại tán dương: “Phải lắm nàng à.”, rồi Thọ thần lại dâng cho hoàng hậu nắm hoa thứ hai.
Khi ấy, hoàng hậu Dhammadinnā lại nói tiếp:
- Đại vương cho rằng vị chư Thiên nầy đã bắt các chư hầu mà nạp cho đại vương ư. Hiện giờ đây, tàng cây phía bên trái của vị chư Thiên của đại vương đã bị cháy, tại sao vị chư Thiên không dập tắt lửa được, nếu vị ấy có thần oai đại lực?
Lần thứ ba, Thọ thần lại hiện ra khen: “Đúng lắm, nàng à! Phải lắm nàng à.”, và lại dâng thêm một nắm hoa như trước.
Đang đứng nói, bỗng nhiên hoàng hậu cất tiếng khóc, rồi lại cười. Khi ấy, quốc vương lấy làm lạ hỏi:
- Bộ nàng điên rồi hay sao?
- Tại sao bệ hạ lại nói như thế? Những người như thiếp không phải là điên đâu!
- Không điên thì tại sao nàng lại khóc, rồi lại cười khan như thế?
- Tâu đại vương, đại vương hãy nghe đây: Trong quá khứ thiếp sanh làm con gái của một gia đình gia giáo, đến khi xuất giá theo về nhà chồng. Nhận thấy người bạn của chồng đến chơi, muốn làm cơm đãi khách, thiếp đưa tiền bảo tớ gái đi mua thịt, nó đi rồi trở về bảo: “Không có thịt.” Nghe vậy, thiếp bắt con dê cái đem ra phía sau nhà, đè xuống chặt đầu làm cơm đãi khách. Vì tội chặt đầu con dê cái, thiếp bị hình phạt trong địa ngục, do quả còn dư sót, thiếp bị chặt đầu nhiều lần bằng số lông con dê mà đền tội như vậy. Còn đại vương sát hại bấy nhiêu mạng người nầy thì không biết đời nào mới thoát khỏi tội khổ? Vì nhớ tưởng đến nỗi đau khổ to lớn của đại vương mà thiếp khóc lên như vậy.
Nói rồi hoàng hậu ngâm kệ rằng:
“Ekissā kaṇṭhaṃ chinditvā,
lomagaṇanāya paccisaṃ;
Bahunnaṃ kaṇṭhe chetvāna,
kathaṃ kāhasi khattiyāti.”
“Thiếp chặt cổ một con dê cái,
Bằng số lông kiếp phải thọ hình,
Chặt cổ quá nhiều chúng sanh,
Làm sao thoát khổ tội tình, đại vương?”
- Còn nàng cười là vì sao?
- Tâu đại vương! Thiếp cười vì biết rằng: Chỉ còn đền tội một lần nữa là thiếp được thoát khổ.
Lần thứ tư, vị Thọ thần hoan hô: “Phải lắm nàng à.”, và Thọ thần lại dâng hoàng hậu Dhammadinnā một nắm hoa nữa.
Quốc vương thở dài than rằng: “Ôi nghiệp của trẫm nặng lắm thay. Theo lời nàng nói, nàng chỉ giết một con dê cái mà bị đọa địa ngục thọ khổ rồi, do nghiệp còn dư sót, khi tái sanh trở lại còn phải chịu bị chặt đầu trong số kiếp nhiều bằng số lông dê ấy. Huống chi giờ đây, trẫm sát hại biết bao nhiêu người, thì biết đến bao giờ trẫm mới đạt đến an vui được.”
Quốc vương liền đích thân mở trói, thả các vua chư hầu rồi đảnh lễ các vị vua cao niên, chắp tay xá các vị trẻ tuổi, cầu xin tất cả hãy tha lỗi cho mình. Đoạn sắp đặt tiễn đưa mỗi vị trở về nguyên quốc.
Sau khi thuyết dứt tích nầy, Đức Bổn Sư kết luận:
- Như thế, nầy các Tỳ khưu, không phải chỉ bây giờ hoàng hậu Mallikā mới đem trí tuệ của mình ra áp dụng mà cứu tử đại chúng đâu. Xưa kia nàng cũng từng cứu tử như thế rồi.
Đoạn Đức Bổn Sư dẫn giải thêm rằng: Quốc vương Bārāṇasī lúc xưa, nay là đức vua Pasenadikosala, hoàng hậu Dhammadinnā nay chính là nàng Mallikā, vị Thọ thần nay chính là Như Lai vậy.
Dẫn giải xong, Đức Bổn Sư lại thuyết pháp thoại, rồi nhắc nhở chư Tăng rằng: “Nầy các Tỳ khưu! Tội sát sanh quả là điều chẳng nên làm, thật vậy, những kẻ sát sanh hằng khóc lóc, thở than vĩnh kiếp.”
Rồi Đức Bổn Sư ngâm lên kệ ngôn sau đây:
“Evañce sattā jāneyyuṃ,
dukkhāyaṃ jātisambhavo;
Na pāṇo pāṇinaṃ haññe,
pāṇaghātī hi socatīti.”
“Chúng sanh nên biết rành như thế,
Sanh mạng nầy chẳng dễ được đâu,
Đừng ham sát hại lẫn nhau,
Vì kẻ háo sát hằng đau khổ hoài.”
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Thân nghèo có vợ sắc tươi xinh,
Báo hại chàng trai suýt lụy mình,
Trướng gấm hầu vua, e vạn tử,
Dặm đường kiếm vật, khó toàn sanh.
Vào chùa tạm lánh cơn tai biến,
Gặp Phật liền tan mối hận tình,
Cố sát, tà dâm nghe đã rõ,
Ngàn đau, muôn khổ, tội nên kinh.
DỨT TÍCH CHÀNH THANH NIÊN CÓ VỢ ĐẸP
60. To the sleepless, night is long; to the weary, the league; to the ignorant the cycle of existence.
60. Đêm dài đối với những người không ngủ, dặm đường dài đối với người mệt mỏi và vòng luân hồi dài đối với người ngu si.
60. Dīghā jāgarato ratti,
dīghaṃ santassa yojanaṃ;
Dīgho bālānaṃ saṃsāro,
saddhammaṃ avijānataṃ. (5:1)
60. Long is the night for the sleepless,
Long is the league for the weary one;
Samsara's way is long for fools
Who know not the Dhamma True.
----
V. 2 - Tích ĐỆ TỬ CỦA ĐẠI ĐỨC MA HA CA DIẾP
(Mahākassapattherassa saddhivihārikavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 61)
61. “Carañce nādhigaccheyya,
seyyaṃ sadisamattano;
Ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā,
natthi bāle sahāyatā.”
61. “Nếu chẳng được chung đường,
Người hơn hoặc tương đương,
Thà quyết đi độc chiếc.
Kẻ ngu không chỗ nương.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự an gần thành Sāvatthī, đề cập đến một đệ tử của Đại đức Mahākassapa.
Câu chuyện nầy phát khởi từ thành Rājagaha (Tàu âm là La Duyệt Kỳ).
Tương truyền rằng: Thuở ấy, Đại đức nương náu trong động Pipphaliguhā (Lạt Tiêu), phụ cận thành Rājagaha, Ngài có được hai đệ tử theo hầu.
Trong hai vị, một vị thì chăm làm phận sự đàng hoàng, tử tế, còn vị kia thì xảo trá, thường mạo nhận công việc của bạn như là của chính mình làm. Như khi biết bạn sắp đặt nước rửa mặt, cây chà răng xong rồi, thì ông mau chân đến bạch với Đại đức trước rằng: “Bạch Ngài, nước rửa mặt, cây chà răng đã sẵn rồi, xin thỉnh Ngài đi rửa mặt.” Đến giờ Đại đức rửa chân hoặc tắm gội chẳng hạn, ông ta cũng đi thỉnh Đại đức như thế đó.
Vị đệ tử siêng năng làm phận sự, thấy vậy nghĩ rằng: “Ông nầy luôn cướp công lao của ta, làm Đại đức ngỡ lầm là của ông. Ta phải làm cho ông bỏ tật ấy mới được.”
Đến xế chiều, vị kia ngủ dậy, thấy hơi nước nóng xông ra, nghĩ rằng: “Chắc có nước sôi nấu sẵn để trong nhà tắm.”, có ngờ đâu khi ông lười biếng, ăn rồi đi ngủ, vị siêng năng nấu nước tắm, châm đầy bình, giấu phía sau phòng tắm, chỉ chừa lại trong nồi độ gáo nước sôi đủ cho có hơi nước bay ra thôi.
Thế nên, vị lười biếng đi đến bạch với Đại đức: “Xin thỉnh Ngài đi tắm.” Nói rồi, ông ta cùng với Đại đức đi vào nhà tắm.
Không thấy có nước, Đại đức hỏi: “Nước ở đâu, đạo hữu?”.
Vị ấy liền đi vào nhà nấu nước, đưa vá vào nồi nước, mới biết là nồi không, bèn xách bình đi ra giếng, vừa đi vừa cằn nhằn: “Hãy coi đó, thứ đồ mất dạy, nó bắc cái nồi không lên bếp rồi bỏ đi đâu mất. Làm mình tưởng có sẵn nước trong nhà tắm, mới đi thỉnh Đại đức.”
Khi ấy, vị đệ tử siêng năng xách cái bình nước nóng giấu sau nhà tắm, đem vào nhà tắm. Đại đức nghĩ: “Ông sư trẻ nói: Nước nấu sẵn rồi, để trong nhà tắm, thỉnh Ngài đi tắm, mà giờ đây lại vừa xách bình đi múc nước vừa cằn nhằn, thế là nghĩa làm sao?”.
Đợi vị ấy trở lại, Đại đức bảo ông ngồi đàng hoàng, rồi ban huấn từ rằng:
- Nầy đạo hữu, phàm là Tỳ khưu thì việc nào có làm mới nhận là của mình làm, bằng không thì thôi. Còn ông, ông đã nói với ta: “Trong nhà tắm đã có nước sẵn, thỉnh Ngài đi tắm.” Nhưng ta vào thì đứng chờ, còn ông thì xách bình vừa đi ra vừa cằn nhằn. Người xuất gia không nên làm như thế.
Vị đệ tử nói thầm: “Ai mà coi, Ngài Đại đức mà còn làm như vậy đó. Vì vấn đề nước tắm mà Ngài rầy ta nặng nề như thế.” Ông giận thầy tế độ, nên hôm sau không đi khất thực với Đại đức.
Đại đức cùng với đệ tử kia đi đến một địa phương nọ. Trong lúc vắng Đại đức, vị đệ tử cứng đầu, vị ấy đi đến nhà của người hộ độ Đại đức. Chủ nhà hỏi:
- Bạch Ngài, Đại đức đâu rồi?
- Đại đức trong mình không được khỏe nên còn ngồi trong chùa.
- Bạch Ngài, tôi phải làm gì bây giờ đây?
- Ông hãy đặt bát dâng cho Đại đức những thực phẩm có tên như vầy… như vầy…
Tỳ khưu ấy giả cách đi bát về nuôi thầy, nên nói món gì thì chủ nhà lo tìm đủ món ấy rồi để bát cúng dường. Ông ta đi nửa đường, kiếm chỗ ngồi ăn hết rồi mới đi về chùa.
Ở địa phương nơi Đại đức đến, người ta dâng cho Đại đức lá y lớn, bằng vải nhuyễn rất tốt. Đại đức cho lại vị đệ tử theo mình. Ông nầy mừng rỡ lấy chiếc y mới đắp lên mình.
Qua hôm sau, Đại đức đến nhà người hộ độ của mình. Chủ nhà bạch lại rằng:
- Bạch Ngài! Nghe nói Ngài không được khỏe trong mình, chúng con có sắp đặt thực phẩm theo lời chỉ dẫn của ông Tỳ khưu trẻ và gởi ông đem về dâng Ngài. Chẳng hay Ngài dùng rồi, nghe có khỏe trong mình chưa?
Đại đức nghe vậy, Ngài làm thinh. Đại đức về đến chùa, khi vị ấy đảnh lễ Ngài xong, Đại đức dạy rằng:
- Nầy đạo hữu! Nghe nói ngày hôm qua ông đã làm việc như vậy. Những người xuất gia không nên ăn, dùng những thực phẩm mà mình quán thấy không hợp lẽ đạo như vậy.
Bị rầy lần nầy, ông đệ tử giận lắm, bèn cột oan trái với Đại đức: “Bữa hôm trước về vụ nước, Ngài đã cho ta là kẻ láo xược, ngày hôm nay thực phẩm mà Thiện tín hộ độ của Ngài dâng ta, ta đã ăn hết rồi. Ngài còn bảo là phải quán xét rồi mới nên thọ dụng. Được y mới tốt, Ngài cho riêng đệ tử theo hầu Ngài. Ôi! Nghiệp của Ngài nặng lắm thay! Đã đối xử khắc nghiệt với ta thì ta cũng sẽ biết cách mà đối phó lại vậy.”
Hôm sau, thừa lúc Đại đức đi vào làng, ông Sư ấy ở lại một mình nơi chùa, lấy gậy đập bể hết các đồ vật dụng của Đại đức, lại nổi lửa đốt cái cốc lá của Đại đức. Còn món nào không thể cháy, ông ta lấy chày vồ đập bể ra rồi bỏ đi luôn. Về sau, ông ta chết bị đọa xuống địa ngục Vô Gián (Avīci).
Đại chúng khởi lên bàn tán việc nầy như vầy: “Nghe nói đệ tử của Đại đức không chịu đựng nổi sự giáo hóa của Đại đức, nổi xung lên đã đốt cháy cái thảo am của Đại đức và bỏ đi mất rồi.” Sau đó, có một Tỳ khưu rời thành Rājagaha đến thành Sāvatthī, đi vào Tịnh xá Jetavana để yết kiến Đức Bổn Sư. Khi vị nầy đảnh lễ xong, Đức Bổn Sư tiếp chuyện thân hữu, rồi hỏi rằng: “Ông từ đâu về đây?”.
- Bạch Ngài, con từ thành Rājagaha đến đây.
- Kassapa con trai ta có được dễ chịu chăng?
- Bạch Ngài, được dễ chịu. Tuy nhiên có một vị đệ tử của Ngài đã chẳng nghe lời giáo huấn của Đại đức, mà còn sanh tâm thù hận, nổi lửa đốt cháy thảo am của Đại đức rồi bỏ đi mất.
Đức Bổn Sư minh định rằng: “Không phải chỉ bây giờ ông ấy mới căm thù khi được nghe lời giáo hóa đâu. Xưa kia, ông cũng đã từng căm thù như thế rồi. Không phải chỉ bây giờ ông ta mới phá cốc đâu, xưa kia ông ta cũng đã từng phá hoại như thế ấy rồi.” Đoạn Đức Bổn Sư tiếp theo thuật lại tiền tích của ông đệ tử ngỗ nghịch.
Thuở xưa, dưới triều đại của vua Brahmadatta, đóng đô tại kinh thành Bārāṇasī. Trong miền núi Tuyết Lãnh, có một con sáo trú ẩn trong ổ của nó làm.
Một hôm, trong lúc mưa giông, một con khỉ rét run lập cập, mon men đi vào miền núi ấy. Sáo thấy khỉ bèn hót lên bài kệ rằng:
“Manussasseva te sīsaṃ,
hatthapādā ca vānara;
Atha kena nu vaṇṇena,
agārante na vijjatīti.”
“Anh có đầu giống người,
Đủ tay chân, khỉ ơi,
Sao không làm nhà ở,
Để lang thang ngoài trời.”
Khỉ ta nghĩ thầm: “Dầu ta có đủ tay chân, nhưng ta còn thiếu trí tuệ sáng suốt để kiến tạo nhà.”
Muốn nói cho sáo biết việc nầy, khỉ cũng hú lên kệ rằng:
“Manussasseva me sīsaṃ,
hatthapādā ca siṅgila;
Yāhu seṭṭhā manussesu,
sāme paññā na vijjatīti.”
“Ta có đầu giống người,
Đủ tay chân sáo ơi!
Nhưng ta thiếu trí tuệ,
Phải thua kém người đời.”
Câu chuyện đối đáp về nhà ở giữa cầm và thú, ban đầu còn êm ái, nhưng lần lần đi đến chỗ gay cấn. Sáo liền nói lên hai bài kệ trách khỉ rằng:
“Anavaṭṭhitacittassa,
lahucittassa dubbhino;
Niccaṃ addhuvasīlassa,
sukhabhāvo na vijjati.”
“Người có tâm bất an,
Nóng nảy gây oan trái,
Thường bôn chôn liếng khỉ,
Không vui vẻ hân hoan.”
“So karassānubhāvaṃ tvaṃ,
tvaṃ vītivattassu sīliyaṃ;
Sītavātaparittāṇaṃ,
karassu kuṭikaṃ kapīti.”
“Tự nâng cao giá trị,
Thời giờ đừng lãng phí,
Anh nên cất cái chòi,
Gió rét có nơi nghỉ.”
Con khỉ tức giận nói rằng: “Con nầy dám chê ta là kẻ có tâm bất an, có tâm nóng nảy, ưa gây oan trái và thường bôn chôn. Bây giờ, ta hãy cho nó thấy sự ưa gây oan trái của ta một lần cho nó tởn.” Khỉ ta liền bứt phá tan hoang ổ của con sáo. Con sáo thấy động ổ, vội thoát ra ngoài rồi bay mất.
Sau khi thuyết xong tích nầy, Đức Bổn Sư dẫn giải rằng: “Con khỉ lúc trước nay là vị Tỳ khưu phá cốc thầy tế độ, còn con sáo nay là Mahākassapa vậy.”
Để kết luận, Đức Bổn Sư lập lại rằng:
- Như thế, nầy các Tỳ khưu, không phải bây giờ người giáo huấn mà bị phá hoại chỗ ngụ của người. Còn con trai của ta là Mahākassapa mà ở chung với kẻ ngu si như thế, thà là ở một mình đơn chiếc còn hơn.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết kệ rằng:
61. “Carañce nādhigaccheyya,
seyyaṃ sadisamattano;
Ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā,
natthi bāle sahāyatā.”
61. “Ví như chẳng được kết đôi,
Với người cao hoặc bằng ngôi thứ mình.
Thà rằng quyết chí độc hành,
Kẻ ngu chẳng phải bạn lành thâm giao.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng Caraṃ trên đây nghĩa là đi, chỉ một trong bốn oai nghi, được dùng một cách vắn tắt, phải hiểu rộng ra là “đi tìm bạn lành”.
Seyyaṃ sadisamattano: Là nếu không gặp được người nào cao hơn mình hoặc ngang hàng mình về phương diện Giới, Định, Tuệ.
Ekacariyaṃ: Thà là đi một mình. Quả thật vậy, kết bạn với người cao thì Giới hạnh càng thêm tăng tiến, kết bạn với người bằng thì Giới hạnh không suy giảm, còn kết bạn với kẻ kém hèn, khi ở chung, ăn chung, làm việc chung thì Giới hạnh lần lần bị thua sút. Có Phật ngôn rằng: “Evarūpo puggalo na sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo aññatra anuddayā aññatra anukampāti.”-“Kẻ nam tử như vậy ta không nên thân cận, không nên giao du, không nên liên kết, trừ ra vì lòng thương xót muốn tế độ.” Cho nên nếu vì lòng bi mẫn ta thấy rằng: Được nương theo ta, thanh niên nầy sẽ tăng trưởng Giới hạnh. Rồi ta đối đãi tử tế mà không cầu mong sự đền đáp chút nào, nếu ta làm được như vậy thì rất tốt, bằng không được như vậy thà ở một mình tốt hơn.
Daḷhaṃ kayirā: Là nơi cô tịch một mình kiên cố, bền bỉ trú tâm trong bốn oai nghi như là bạn đồng cư. Tại sao vậy?
Natthi bāle sahāyatā: Không có tình bạn nơi kẻ ngu. Tiếng sahāyatā (tình bạn) được dùng với nghĩa phần Tiểu giới, phần Trung giới, phần Đại giới, mười đề luận (kathāvatthūni), mười ba chi pháp Đầu đà (dhutaṅga), Pháp Minh sát, bốn Đạo, bốn Quả, ba cái Minh (vijjā), sáu cái Thông (abhiñña). Những Giới đức trên đây không có nơi kẻ ngu si.
*
Khi thời pháp chấm dứt, vị Tỳ khưu khách chứng đắc Tu Đà Hườn quả. Các vị khác cũng có nhiều vị chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả. Đại chúng thính pháp đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Đại đức Ma Ha Ca Diếp dạy kẻ ngu,
Không ơn thì chớ, lại sanh thù,
Mưu cơ sắp sẵn liền thiêu cốc,
Thủ đoạn hành xong, vội rút dù.
Bạc nghĩa đã đành sa cảnh khổ,
Vong tình còn chịu phí đời tu,
Kiếp xưa là khỉ, nay người ngợm,
Xác đổi nhưng mà trí vẫn lu.
DỨT TÍCH ĐỆ TỬ CỦA ĐẠI ĐỨC MA HA CA DIẾP
61. If one finds no equal or superior for company, a solitary career is commendable
61. Nếu ta không tìm được người bạn bằng mình hoặc hơn mình, thì nên sống đơn độc là tốt nhất.
61. Carañce nādhigaccheyya,
seyyaṃ sadisamattano;
Ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā,
natthi bāle sahāyatā. (5:2)
61. If a wayfarer fails to find
one better or equal,
steadfast he should fare alone
for a fool's no fellowship.
----
V. 3 - Tích TRƯỞNG GIẢ A NAN
(Ānandaseṭṭhivatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 62)
62. “Puttā m’atthi dhanaṃ m’atthi,
iti bālo vihaññati;
Attā hi attano natthi,
kuto puttā kuto dhanaṃ.”
62. “Ta có con, có của,
Kẻ ngu cứ lo âu,
Bản thân không tự chủ,
Nào con đâu, của đâu.”
Kệ Pháp Cú nầy Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự gần thành Sāvatthī, đề cập đến ông Trưởng giả Ānan (A Nan).
Tương truyền rằng: Thời ấy trong thành Sāvatthī, có vị Trưởng giả tên là Ānan, có đại gia sản đến tám trăm triệu đồng vàng, nhưng lại có tiếng là Đại Hà Tiện.
Cứ mỗi kỳ nửa tháng, ông ta nhóm họp thân quyến một lần, rồi trước mắt mọi người trong gia tộc ông gọi công tử Mūlasiri (Tiền Tài) là con trai ông, nhắc nhở rằng:
- Chớ nên cho rằng tám trăm triệu đồng đây là nhiều rồi. Dầu có của cũng chẳng nên bố thí. Hãy ráng làm cho tiền của sanh lên mãi, dầu một đồng cũng chẳng nên tiêu phí mà hao hụt gia tài.
Ông nhắc nhở con trai ba lần như thế. Kế đó, ông đọc luôn bốn câu kệ:
“Añjanānaṃ khayaṃ disvā,
upacikānañca ācayaṃ;
Madhūnañca samāhāraṃ,
paṇḍito gharamāvaseti.”
Lược dịch:
“Thấy những giọt thuốc hư,
Mới góp chứa vào ổ,
Cơm với chút mật dư,
Hiền sĩ ngồi nhà độ.”
Thời gian sau, không kịp chỉ năm hầm lớn tài sản của mình cho con biết, ông Trưởng giả Ānan hà tiện nhưng rất tự mãn ấy qua đời. Tâm thức của ông tái sanh vào lòng một phụ nữ Chiên đà la (Caṇḍāla: giai cấp cùng đinh của Ấn Độ thời xưa) cư ngụ trong một làng nhỏ ngoài cổng thành Sāvatthī.
Quốc vương hay tin ông Anan từ trần, bèn triệu công tử Mūlasiri vào bệ kiến, rồi phong chức Trưởng giả cho công tử.
Một ngàn gia đình Chiên đà la vẫn cùng nhau làm thuê, làm mướn chung quanh để sống qua ngày. Nhưng từ lúc ông Trưởng giả hà tiện tái sanh vào giòng họ thì họ không còn tìm được việc làm như trước nữa, dầu chỉ là một việc làm được trả công bằng bữa cơm, họ bàn rằng: “Chúng ta ngày nay đi xin việc làm để kiếm ăn cũng không có, chắc là trong bộ lạc của chúng ta có những kẻ xui xẻo (Kāḷakaṇṇī) ở chung.” Họ bèn chia làm hai nhóm, lựa chọn lần đầu để loại ra kẻ hắc vận. Khi loại đến cặp vợ chồng là cha mẹ của đứa bé ấy, thì họ biết rằng: “Trong gia đình nầy có kẻ xui xẻo sanh ra.” Họ bèn đuổi mẹ của ông ta ra khỏi bộ lạc.
Phụ nữ nầy còn đang mang thai ngày nào là còn vất vả ngày ấy, đi xin việc làm sống lây lất cho đến lúc sanh ra đứa con trai, đứa bé nầy tay chân vẹo vọ, mắt lé, mũi và miệng đều không nằm đúng vị trí thông thường. Với hình dung cổ quái như ngạ quỉ, trông nó xấu không thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, mẹ nó cũng không bỏ rơi nó. Tình thương của người mẹ đối với đứa con ruột do mình sanh ra quả thật là đậm đà mãnh liệt.
Phụ nữ nuôi đứa con nầy cũng gặp nhiều khó khăn, ngày nào bà đem nó theo là ngày ấy bà chẳng được chút chi cả. Còn bỏ nó lại nhà đi một mình thì ngày ấy bà tìm được việc làm có lương.
Đến khi đứa bé trọng tuổi, có thể ôm bát đi xin ăn, tự nuôi mạng sống được thì bà mẹ trao cho đứa con cái bát và bảo:
- Con à, cha mẹ vì con mà phải đau khổ ê chề, bây giờ không nuôi nổi con nữa. Trong thành nầy, người ta có thí cơm cho những người bần cùng hành khất. Vậy con hãy vào đó đi xin ăn mà nuôi mạng.
Nói rồi, bà mẹ thả con đi một mình.
Lần theo từng nhà đi xin ăn, đứa bé đi đến xóm, nơi nó ở trong tiền kiếp là Trưởng giả Anan. Đến đây, thấy lại được cảnh cũ, nó nhớ lại được chuyện xưa, bèn xăm xăm đi ngay vào nhà của nó. Qua ba từng cửa cổng, không một ai lưu ý đến nó, đến từng cổng thứ tư, đứa con trai nhỏ của Trưởng giả Mūlasiri trông thấy nó, hoảng sợ khóc thét lên.
Khi ấy, các gia đinh của ông Trưởng giả đuổi nó:
- Đi ra, đồ hắc ám.
Họ còn đánh đập và ôm đứa bé ăn mày ném lên đống rác. Bấy giờ, Đức Bổn Sư cùng với Đại đức Ānanda là vị Sa môn thị giả, ngự đi trì bình, cũng vừa đến nơi đó. Ngài nhìn Đại đức, Đại đức bạch hỏi nguyên do. Ngài giải rõ câu chuyện tái sanh của ông Trưởng giả Ānan hà tiện.
Đại đức bảo gia đinh đi mời Trưởng giả Mūlasiri đến. Đại chúng thấy lạ nên tụ lại xem rất đông.
Đức Bổn Sư gọi Trưởng giả Mūlasiri và hỏi:
- Ông có biết đứa bé ấy chăng?
- Thưa, tôi không biết.
Đức Bổn Sư chỉ ngay rằng: “Nó là Trưởng giả Ānan, cha của ông kiếp trước đó!”.
Thấy Trưởng giả Mūlasiri chưa tin lời, Đức Bổn Sư bảo đứa bé ăn mày:
- Nầy Trưởng giả Ānan, ông hãy chỉ chỗ năm hầm đại tài sản đã chôn cho con trai ông đi.
Sau khi đứa bé chỉ năm hầm của chôn giấu, ông Mūlasiri hết sức tin tưởng nơi Đức Bổn Sư, nên ông xin quy y với Ngài.
Đức Bổn Sư nhân cơ hội ấy, thuyết pháp đến ông Mūlasiri, rồi Ngài đọc lên kệ ngôn rằng:
62. “Puttā m’atthi dhanaṃ m’atthi,
iti bālo vihaññati;
Attā hi attano natthi,
kuto puttā kuto dhanaṃ.”
62. “Người ngu chấp ngã, tự hào,
Đây con, đây của, ta đào tạo ra,
Nhưng không biết chính mình ta,
Còn không tự chủ, huống là của, con.”
*
CHÚ GIẢI:
Hai câu đầu: Puttā me atthi dhanaṃ me atthi, iti bālo vihaññati: Nghĩa là ta có của, có con, kẻ ngu do lòng luyến ái của, luyến ái con mà lo âu, phiền muộn, khổ tâm, khổ vì sợ “con ta chết”, khổ vì “con ta đang chết”, khổ vì “con ta sẽ chết”. Đối với của cải cũng vậy, thành ra sáu trường hợp phải khổ tâm. Người có con, phải lo nuôi con hằng ngày, lo ngày đêm, lo trên đường bộ, trên đường thủy, cố gắng cách nào cũng không hết chuyện lo. Người muốn có của cải phải lo bươn chải làm ăn, buôn bán, dầu hành nghề gì cũng không khỏi lo.
Attā hi attano natthi: Tự mình còn làm chủ không được, như bao nhiêu nỗi khổ đã giải ở trên, mình không thể đổi trở thành vui sướng được. Lúc lâm chung mình cũng không tự chủ được, nằm trên giường thọ khổ, lúc hấp hối một mình, chẳng khác nào bị màn lưới lửa bao vây thiêu đốt, gân cốt dường như tan nát, rã rời, dầu cho có ai mở mắt nhìn thấy cái khổ lúc sắp bước sanh cảnh giới khác, rồi nhìn lại kiếp hiện tại, chăm sóc o bế xác thân, mỗi ngày tắm gội nó đôi ba lần, nuôi cơm ba lần, trang điểm hương hoa đủ thứ cho nó suốt đời đi nữa, cũng không làm cho nó vị tình, nhớ ơn cấp dưỡng mà giảm bớt khổ cho ta được.
Bản thân còn không phải của mình, vì mình không tự chủ tức là không làm chủ được xác thân như đã giải rồi, thì Kuto puttā kuto dhanaṃ nào là con, nào là của có thể làm được gì để giảm khổ cho ta được?
Như Trưởng giả Ānan chẳng hề bố thí cho ai chút gì, bao nhiêu tài sản gom góp giao lại cho con, mà con và của có làm chi được trong tiền kiếp, lúc ông sắp lâm chung. Vì trong kiếp hiện tại, khi ông chịu hậu quả khổ sở như vậy, mà con đâu? Của đâu? Sao không chia sớt sự khổ cho ông, sao không chia vui cho ông?
*
Thời pháp vừa dứt, tám muôn bốn ngàn chúng sanh giác ngộ Chánh Pháp. Đại chúng dự thính cũng được hưởng lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Bá hộ mãn đời bị tái sanh,
Làm tên xui xẻo cấp cùng đinh,
Từ trong bụng mẹ đà mang khổ,
Tận cửa nhà con vẫn thọ hình,
Mắt mũi dường ma, ai chẳng gớm,
Hình dung tợ quỉ, cháu còn kinh,
Vâng lời Phật, chỉ hầm chôn của,
Mới được đoàn viên, phụ tử tình.
DỨT TÍCH TRƯỞNG GIẢ A NAN
62. The unwise man prides over his children and his wealth. But he has not even himself.
62. Người ngu si kiêu hãnh về con cái và tài sản. Nhưng ngay cả tự thân người ấy cũng không có.
62. Puttā m’atthi dhanaṃ m’atthi,
iti bālo vihaññati;
Attā hi attano natthi,
kuto puttā kuto dhanaṃ. (5:3)
62. “Sons have I, wealth have I”,
thus the fool is fretful.
He himself is not his own,
how then are sons, how wealth?
----
V. 4 - Tích NGƯỜI ĐIẾM MÓC TÚI
(Gaṇḍhibhedakacoravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 63)
63. “Yo bālo maññati bālyaṃ,
paṇḍito vā'pi tena so;
Bālo ca paṇḍitamānī,
sa ve bālo’ti vuccati.”
63. “Ngu mà tự biết ngu,
Người vậy ắt thành trí,
Ngu mà tưởng mình trí,
Thật đáng gọi là ngu.”
Kệ Pháp Cú nầy Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana, đề cập đến một tên móc túi.
Tương truyền rằng: Thời ấy có hai người bạn, cùng đi với đại chúng đến chùa Jetavana để nghe thuyết pháp. Một người chăm chỉ theo dõi thời pháp, một người để ý xem cái gì trộm được thì lấy ngay.
Người nghe pháp chứng đắc quả Dự lưu. Người kia thì rút được một món tiền của người vô ý.
Tên móc túi ở nhà, ngày nào cũng ăn uống sung sướng thỏa thê, còn bạn của anh ta thì cửa nhà có hơi bẩn chật. Thấy vậy, kẻ trộm đạo hỏi rằng:
- Hai vợ chồng anh là người thông minh, trí tuệ, sao không làm cho ra tiền để ăn tiêu, để chi mà thiếu trước hụt sau vậy.
Vị Thánh Thinh Văn nghĩ thầm: “Anh nầy quả thật là người ngu si mà lại tự cho mình là bậc hiền trí.” Rồi vị ấy rủ các quyến thuộc cùng đi đến chùa Jetavana, thuật lại việc nầy với Đức Bổn Sư.
Đức Bổn Sư thuyết pháp cho họ nghe, rồi Ngài ngâm lên kệ:
63. “Yo bālo maññati bālyaṃ,
paṇḍito vā'pi tena so;
Bālo ca paṇḍitamānī,
sa ve bālo’ti vuccati.”
63. “Ngu mà tự nghĩ mình khôn,
Thật là ngu đặc, không còn biết chi.
Ngu mà tự biết mình si,
Cũng là người trí, không suy nghĩ lầm.”
*
CHÚ GIẢI:
Câu Yo bālo maññati bālyaṃ nghĩa là: Người nào ngu dốt kém trí tuệ, tự mình có ý nghĩ rằng: “Ta là kẻ ngu dốt” người đó tuy ngu nhưng biết nhận thức đúng trạng thái ngu dốt của mình: Nghĩa là do lẽ đó mà người ấy (tena kāraṇena so puggalo) Paṇḍito vā'pi: Cũng bằng như bậc hiền trí vậy. Quả nhiên, nhờ biết rằng: “Ta là kẻ ngu” người ấy lân la thân cận với bậc đáng thân cận, là bậc hiền trí để tìm cách mở mang trí tuệ. Nhờ cố gắng học hỏi, ghi nhớ những lời giáo huấn, hàng ngày ôn tập các điều đã học, về sau sẽ thành bậc hiền trí hoặc là cao hơn thầy mình.
Sa ve bālo’ti: Người nào ngu mà có ý nghĩ rằng: “Ta là người quảng kiến đa văn, thuyết pháp lưu loát, rành rẽ Tạng Luật, nguyện giữ hạnh Đầu đà, không có ai sánh bằng”. Vì tự cho mình là bậc hiền trí nên không tìm lân la thân cận với bậc hiền trí nào khác, không chịu học thêm Tam Tạng, không chịu tiến hành các pháp thiền Chỉ Quán, thiên chấp một cách ngu xuẩn. Đức Thế Tôn cho rằng: “Thật đáng gọi là người ngu.”
*
Đức Bổn Sư vừa thuyết dứt bài pháp, những quyến thuộc của vị Thánh Thinh Văn chứng đắc Tu Đà Hườn quả một lượt với hàng đại chúng.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Hằng ngày móc túi để sanh nhai,
Nhà cửa trang hoàng chẳng kém ai,
Liếc mắt nhìn sang anh bạn khó,
Chê anh hữu trí, lại vô tài.
Bậc trí thà cam chịu cảnh nghèo,
Ai giàu phi nghĩa chẳng đua theo,
Cùng nhau dắt dẫn trên đường chánh,
Dốc núi dầu cao cũng cứ trèo.
DỨT TÍCH NGƯỜI ĐIẾM MÓC TÚI
63. An unwise man who knows he’s a fool is a wise man thereby. Knowing it not he's truly a fool.
63. Người ngu biết mình ngu, do đó thành người trí, người mà không biết điều ấy, quả thật đó là người ngu.
63. Yo bālo maññati bālyaṃ,
paṇḍito vā'pi tena so;
Bālo ca paṇḍitamānī,
sa ve bālo’ti vuccati. (5:4)
63. Conceiving so his foolishness
The fool is thereby wise,
While "fool" is called that fool
Conceited that he's wise.
----
V. 5 - Tích ĐẠI ĐỨC ƯU ĐÀ DI
(Udāyitheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 64)
64. “Yāvajīvam’pi ce bālo,
paṇḍitaṃ payirupāsati;
Na so dhammaṃ vijānāti,
dabbī sūparasaṃ yathā.”
64. “Người ngu dầu suốt đời,
Thân cận bậc hiền minh,
Chẳng hiểu Pháp đến nơi,
Như muỗng đối vị canh.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Udāyi (Ưu Đà Di).
Tương truyền rằng: Thừa lúc các vị cao Tăng đi vắng, Đại đức thường vào giảng đường, ngồi lên pháp tọa, vì thế, một hôm những Tỳ khưu ở xa mới tới trông thấy Đại đức ngỡ rằng: “Vị nầy chắc là bậc cao Tăng, nghe nhiều học rộng.” cho nên đến nhờ Đại đức giảng giải về Pháp số như Ngũ uẩn chẳng hạn. Té ra Đại đức không biết gì ráo. Chư Tăng bèn trách rằng: “Ông sư đó là ai? Ở chung chùa với Đức Phật làm chi mà Ngũ uẩn, Tứ đại, Lục căn gì hỏi ổng cũng không biết hết?”. Đoạn chư Tăng đem việc ấy bạch lên Đức Như Lai.
Đức Bổn Sư nhân dịp đó, thuyết pháp cho chư Tăng nghe, rồi đọc lên kệ ngôn:
64. “Yāvajīvam’pi ce bālo,
paṇḍitaṃ payirupāsati;
Na so dhammaṃ vijānāti,
dabbī sūparasaṃ yathā.”
64. “Người ngu gần bậc cao thâm,
Suốt đời cũng chẳng nhập tâm pháp mầu.
Muỗng nào biết nếm vị đâu,
Dầu cho vẫn nhúng ngập đầu trong canh.”
*
CHÚ GIẢI:
Bālo: Là người ngu dốt mà không chịu học hỏi, thật đáng gọi là người ngu. Theo như lời của Đức Phật, dầu cho cả đời gần gũi, thân cận bậc trí tuệ cũng không thuộc được ít nhiều Phật ngôn trong Tam Tạng, hoặc là không phân biệt rành rẽ rằng: “Đây là chỗ Tịnh cư, đây là chỗ hành đạo (ācāro), đây là chỗ khất thực (gocaro). Điều nầy phạm giới, điều nầy không phạm giới, việc nầy nên làm theo, việc nầy chẳng nên làm theo. Việc nầy phải hành, việc nầy phải tự mình chứng nghiệm…”.
Dabbī sūparasaṃ yathā: Như muỗng đối với vị canh. Quả thật cái muỗng nằm trong tô canh có nhiều gia vị, cho tới cạn hết tô canh đi nữa, cũng không nếm được mùi vị của canh là mặn hay chua, hay là lạt, đắng, hay là cay…hoặc ngon hay dở như thế nào thì người ngu dốt suốt đời ở bên cạnh người trí cũng không biết được các pháp đã giải ở trên, cũng như thế ấy.
*
Đến cuối thời pháp, tâm của chư khách Tăng giải thoát hết mọi lậu hoặc.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Sống gần bên Phật suốt đời ông,
Kinh Luật không rành, đạo chẳng thông,
Pháp tọa lên ngồi cao ngất ngưởng,
Chư Tăng vấn nạn cứ chồng ngồng.
Phật ví ông như cái muỗng sành,
Hằng ngày vẫn tẩm, nhúng trong canh,
Nhưng vì thiếu hẳn phần tri giác,
Mùi vị làm sao có thể sanh?
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC ƯU ĐÀ DI
64. The unwise misses the Dhamma though close to the wise, like a spoon misses flavour of food.
64. Người ngu không biết Chánh pháp dù ở gần người trí, cũng như cái muỗng không biết vị thức ăn.
64. Yāvajīvam’pi ce bālo,
paṇḍitaṃ payirupāsati;
Na so dhammaṃ vijānāti,
dabbī sūparasaṃ yathā. (5:5)
64. Though all through life the fool
might wait upon the wise,
no more Dhamma can he sense
than spoon the taste of soup.
----
V. 6 - Tích NHÓM TỲ KHƯU BẠT ĐỀ
(Pāṭheyyakabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 65)
65. “Muhuttamapi ce viññū,
paṇḍitaṃ payirupāsati;
Khippaṃ dhammaṃ vijānāti,
jivhā sūparasaṃ yathā.”
65. “Người trí dầu một khắc,
Gần gũi bậc hiền minh,
Cũng hiểu pháp tức khắc,
Như lưỡi nếm vị canh.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana, đề cập đến ba mươi vị Tỳ khưu trong xứ Pāṭheyyaka (Bạt Đề).
Quả vậy, những Tỳ khưu ấy nguyên là những công tử quý tộc, nhân khi đi tìm một cô gái giang hồ, gặp Đức Thế Tôn trong khu rừng Kappāsikavanasaṇḍa (Miện Hoa Lâm). Lần đầu tiên được nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, tất cả đều chứng đắc quả bậc thấp và đều xuất gia Thiện lai Tỳ khưu, tự nhiên có đầy đủ y bát do thần thông của Ngài. Sau khi thọ mười ba chi pháp Đầu đà, hành đạo một thời gian khá lâu, chư Tỳ khưu ấy trở về gần Đức Bổn Sư, được nghe bài pháp về con đường sanh tử vô thủy (Anamataggadhamma) liền chứng đắc quả A La Hán ngay tại chỗ ngồi.
Khi biết được việc nầy, chư Tăng câu hội trong giảng đường, đề khởi Pháp thoại rằng: “Ôi! Quả thật, các Tỳ khưu nầy thông hiểu giáo pháp mau vậy thay.”
Nghe lời bình luận của chư Tăng, Đức Bổn Sư giải thêm rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Không phải chỉ trong kiếp hiện tại, mà trong kiếp quá khứ, ba mươi vị Tỳ khưu nầy cũng đã là những bạn bè, nhờ nghe pháp của Tuṇḍila (Tuân Đề La) mà nhận thức ngay được Chánh pháp, nên đã thọ trì Ngũ giới, nhờ đó mà ngày nay chứng đắc A La Hán quả ngay tại chỗ ngồi như thế.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết kệ rằng:
65. “Muhuttamapi ce viññū,
paṇḍitaṃ payirupāsati;
Khippaṃ dhammaṃ vijānāti,
jivhā sūparasaṃ yathā.”
65. “Người khôn gần bậc hiền minh,
Chỉ trong khoảnh khắc hiểu rành lý chơn.
Lưỡi kia chỉ nếm một lần,
Vị mùi canh đã biệt phân rõ ràng.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn ngữ Viññū là người khôn, người trí, đồng nghĩa với tiếng Paṇḍita. Người khôn đã có căn bản trí tuệ, khi được gần gũi với các bậc trí tuệ khác, thì học hỏi rất mau lẹ, không bao lâu đã thông hiểu Kinh, Luật, Luận, thọ trì đề mục Minh Sát, tinh tấn hành thiền chứng đắc Đạo Quả. Cũng như người có lưỡi lành mạnh, sạch sẽ, khi muốn biết vị của một món gì thì để nó lên trên lưỡi mà nếm, tức khắc biết ngay vị của nó là ngọt, mặn hay thế nào, thì người trí cũng mau biết pháp Siêu thế như thế ấy.
*
Khi thời pháp chấm dứt, rất nhiều Tỳ khưu chứng đắc quả A La Hán.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ba mươi vị trước có tu rồi,
Nay chứng Vô Sanh tại chỗ ngồi,
Phước đã tạo nhiều, duyên đã đủ,
Bằng không há dễ được cao ngôi.
Phật ví Thánh Tăng tựa lưỡi lành,
Chỉ cần được nếm một lần canh,
Do nhờ có sẵn phần tri giác,
Mùi vị đương nhiên phải phát sanh.
DỨT TÍCH NHÓM TỲ KHƯU BẠT ĐỀ
65. The wise speedily gathers the Dhamma from the wise like the tongue the flavour of food.
65. Người trí nhanh chóng hiểu Chánh pháp từ bậc trí, giống như cái lưỡi biết vị thức ăn.
65. Muhuttamapi ce viññū,
paṇḍitaṃ payirupāsati;
Khippaṃ dhammaṃ vijānāti,
jivhā sūparasaṃ yathā. (5:6)
65. Though briefly one intelligent
might wait upon the wise,
quickly Dhamma he can sense
as tongue the taste of soup.
----
V. 7 - Tích ÔNG THIỆN GIÁC CÙI
(Suppabuddhakuṭṭhivatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 66)
66. “Caranti bālā dummedhā,
amitten’eva attanā;
Karontā pāpakaṃ kammaṃ,
yaṃ hoti kaṭukapphalaṃ.”
66. “Kẻ vô trí, kẻ ngu,
Với kẻ nghịch cùng đi,
Là ác nghiệp đã tạo,
Để chịu quả đắng cay.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Veḷuvana, đề cập đến ông Thiện Giác cùi (Suppabuddhakuṭṭhi).
Đây chỉ là một đoạn trích trong sự tích của ông Suppabuddha (Kinh Udāna), kể từ khi ông gặp Đức Bổn Sư về sau mà thôi.
Quả nhiên, khi ông Suppabuddha cùi, ngồi ngoài vòng của cử tọa, nghe pháp do Đức Thế Tôn thuyết xong, chứng đắc quả Tu Đà Hườn, ông muốn bạch rõ sự chứng đắc của mình với Đức Bổn Sư, nhưng ông không dám rẽ lối giữa hàng tứ chúng mà đi vào chùa, cho nên ông chờ đại chúng đảnh lễ Đức Bổn Sư ra về hết rồi, ông sẽ đi.
Trong giây phút ông còn trì hoãn, Thiên Vương Đế Thích biết rằng: “Suppabuddha nầy có ý định bạch lên Đức Bổn Sư sự chứng quả Nhập Lưu của mình.”
Thiên Vương định thử thách ông Suppabuddha bèn hiện ra đứng trên hư không, cho ông ta thấy và bảo rằng: “Nầy ông Suppabuddha! Người là kẻ bần cùng, là kẻ khốn khó, ta sẽ ban cho người một kho tàng vô biên vô lượng nếu ngươi chịu nói Phật không phải là Phật, Pháp không phải là Pháp, Tăng không phải là Tăng. Ta hết quy y Phật, ta hết quy y Pháp, ta hết quy y Tăng.”
Nghe vậy, ông Suppabuddha hỏi: “Ông là ai?”
- “Ta là Đế Thích” - Vua Trời đáp.
- Hỡi ông mù quáng ngu si, không biết xấu hổ, những lời của ông thốt ra với tôi đó, nghe không hợp lý chút nào. Ông cho rằng tôi là kẻ khốn khó, kẻ bần cùng, kẻ hành khất, nhưng tôi không hề chịu cảnh khốn khó, bần cùng đâu. Tôi đã đạt đến cảnh an vui, tôi là bậc có đại tài sản.
“Saddhādhanaṃ sīladhanaṃ,
hirī ottappiyaṃ dhanaṃ;
Sutadhanañca cāgo ca,
paññā ve sattamaṃ dhanaṃ.
Yassa ete dhanā atthi,
itthiyā purisassa vā;
Adaliddoti taṃ āhu,
amoghaṃ tassa jīvitaṃ.”
“Tín, giới, tàm, quý, văn, thí, tuệ,
Bảy thứ tài sản kể trên đây,
Ai mà có được đủ đầy,
Dầu nam hay nữ, người nầy chẳng nên.
Lấy tiếng “vô sản” gọi tên,
Đời nầy chẳng phải hư hèn rỗng không.”
Bảy Thánh sản nầy tôi đều có đủ. Những ai có đủ bảy thứ Thánh sản nầy, thì chư Phật Toàn Giác hoặc chư Phật Độc Giác và Thinh Văn Giác không bao giờ gọi họ là kẻ bần cùng vô sản cả.
Nghe dứt lời đối đáp của ông Thiện Giác cùi, Đức Đế Thích bèn từ giã ông ở khoảng giữa đường, đến chỗ ngự của Đức Bổn Sư và thuật lại tất cả những lời biện giải của ông ấy. Đức Bổn Sư bèn phán rằng:
- Nầy Đế Thích, dầu cho một trăm hay một ngàn người như ông, cũng không thể nào bảo Suppabuddha phủ nhận Phật, Pháp, Tăng cho được.
Ông Suppabuddha cũng tự mình đến đảnh lễ Đức Bổn Sư. Sau khi trả lời những câu hỏi thân thiện xả giao của Ngài, ông bèn đem việc mình được đắc quả Tu Đà Hườn bạch lên, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi.
Ông đi không bao lâu thì bị con bò cái tơ húc chết dọc đường.
Nghe nói rằng: Con bò cái ấy là một nữ Dạ xoa, hóa hiện ra để báo oán. Nó đã từng hóa làm bò cái húc chết bốn người là Ngài Bāhiyadārucīriya, Ngài Pukkusāti, Ngài Tambadāṭhika (Đao phủ râu đỏ) và Ngài Suppabuddha.
Tương truyền rằng: Vào thời quá khứ, bốn vị ấy là bốn vị công tử, một hôm có dắt theo một nàng kỹ nữ đi dạo chơi trong hoa viên, họ vui thú cùng nhau trọn ngày, khi chiều xuống, bốn công tử bàn tính cùng nhau rằng: “Chỗ nầy vắng vẻ, không có ai lai vãng, nàng nầy đã đập đổ chúng ta với thù lao là một ngàn đồng vàng. Ta hãy giết chết cô ta, để khỏi trả một ngàn đồng vàng và thâu đoạt hết những trang sức mà cô ta mang trên mình đi.”
Cô gái giang hồ nghe được việc mưu sát của bốn công tử ấy, nghĩ rằng: “Những kẻ vô sỉ nầy đã cùng ta hoan lạc, bây giờ lại muốn giết chết ta. Ta sẽ biết cách đối phó với họ.”
Khi bị họ sắp hạ sát, cô nguyện rằng: “Bốn tên nầy giết ta như thế nào, chết rồi ta nguyện làm Dạ xoa để có thể giết họ trở lại mà báo thù nầy.” Do nhân ấy mà nữ Dạ xoa ấy đã hóa làm bò cái húc chết cả bốn người, trong đó có Suppabuddha.
Nhiều Tỳ khưu đem việc Suppabuddha vừa từ trần bạch lên Đức Bổn Sư và hỏi: “Ông ấy nay sanh về đâu? Do nhân gì mà Suppabuddha bị bịnh cùi?”.
Đức Bổn Sư giải rằng: “Ông đã đắc quả Dự lưu và sanh về cõi Đao Lợi. Có một kiếp ông gặp Đức Phật Độc Giác Tagarasikhi, ông đã phun nước bọt lên mình Đức Phật, nên khi mệnh chung phải thọ khổ rất lâu ở cõi địa ngục và quả của nghiệp còn dư sót nên kiếp nầy mang bịnh cùi phun lở lói.”
Đức Bổn Sư kết luận rằng: “Nầy các Tỳ khưu, những chúng sanh ấy đi lang thang trên con đường hành ác, tự mình tạo nghiệp và tự mình hứng chịu hậu quả đắng cay như thế.”
Đoạn Đức Bổn Sư thuyết thêm một thời pháp cao thượng, rồi đọc lên kệ ngôn rằng:
66. “Caranti bālā dummedhā,
amitten’eva attanā;
Karontā pāpakaṃ kammaṃ,
yaṃ hoti kaṭukapphalaṃ.”
66. “Người ngu, vô trí chung đàng,
Với kẻ thù địch mưu toan hại mình,
Là nghiệp ác lúc bình sinh,
Hậu quả cay đắng tự mình mà ra.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng Caranti nghĩa là đi, là một trong bốn oai nghi, theo nghĩa thông thường. Ở đây nghĩa là tạo nghiệp bất thiện.
Bālā: Những kẻ ngu là những kẻ không biết được sự lợi ích lớn trong kiếp nầy và kiếp sau.
Dummedhā: Những kẻ thiểu trí và vô trí tuệ.
Amitten’eva: Như là những kẻ thù nghịch.
Kaṭukapphalaṃ: Là quả cay đắng, khổ sở cùng cực.
*
Đến cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là quả Dự lưu.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Khoa học ngày nay nói bịnh phong,
Sanh ra vì bị nhiễm vi trùng,
Tích xưa có chuyện chàng Thiện Giác,
Khạc nhổ lên thân Đức Đại Hùng.
Do mình tạo nghiệp quả mình mang,
Nghiệp ác không rời kẻ ác gian,
Chỉ đợi thời cơ là trổ quả,
Mới hay thù địch vẫn chung đàng.”
DỨT TÍCH ÔNG THIỆN GIÁC CÙI
66. The unwise of committing crimes of evil consequences live as enemies to themselves.
66. Người ngu phạm tội lỗi đưa đến ác quả, cũng như kẻ thù làm hại bản thân mình.
66. Caranti bālā dummedhā,
amitten’eva attanā;
Karontā pāpakaṃ kammaṃ,
yaṃ hoti kaṭukapphalaṃ. (5:7)
66. Fools of feeble wisdom fare
enemies to themselves,
making evil kamma
which is of bitter fruit.
----
V. 8 - Tích NGƯỜI NÔNG PHU MẮC NẠN
(Kassakavatthu)
-----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 67)
67. “Na taṃ kammaṃ kataṃ sādhu,
yaṃ katvā anutappati;
Yassa assumukho rodaṃ,
vipākaṃ paṭisevati.”
67. “Nghiệp nào mà không hay
Làm xong hối tiếc ngay
Mặt đầy lệ than khóc
Chịu quả khổ đắng cay.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến người nông phu.
Tương truyền rằng: Người ấy đang cày một thửa ruộng cách thành Sāvatthī không xa. Lúc ấy có một nhóm trộm đạo, do theo một con kênh nước, đi vào trong thành, đào một đường hầm đột nhập vào một gia đình Trưởng giả, chúng tóm thâu rất nhiều vàng bạc, rồi theo con kênh mà thoát ra ngoài.
Một tên trộm lừa đồng bọn, giấu đi một ngàn đồng vàng, bỏ vào một cái túi trước khi bọn chúng đến tại thửa ruộng để phân chia tài vật. Lúc mang tài vật của mình đi, tên trộm ấy làm rơi túi tiền ngàn đồng vàng ra khỏi bọc mà không hay biết.
Ngày ấy, vào lúc sáng tinh sương, Đức Bổn Sư quán sát thế gian, thấy hình ảnh của nông phu lọt vào giác võng của Ngài. Ngài tự hỏi: “Sắp có việc chi đây?”. Quán thêm nữa, Ngài thấy rằng: “Người nông phu nầy sẽ đi cày vào buổi sáng. Những tài chủ theo dấu kẻ trộm, tìm được túi tiền vàng trong thửa ruộng của y và sẽ bắt oan người vô tội. Ngoài ta ra không ai mục chứng được việc ấy. Vả lại, người nông dân nầy có duyên lành đắc đạo quả Tu Đà Hườn. Vậy ta nên đến đó.”
Người nông phu trông thấy Đức Bổn Sư ngự đến cùng với Đại đức Ānanda là vị thị giả hầu Ngài. Y liền bỏ cày, đi đến đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi tiếp tục cày ruộng.
Đức Bổn Sư chẳng nói chi với người nông phu, Ngài đưa Đại đức Ānanda đi đến nơi túi tiền vàng rớt, nằm dưới đất, chỉ cho Đại đức trông thấy và bảo:
- Nầy Ānanda! Ông có thấy con rắn độc không?
- Bạch Ngài! Con có thấy con độc xà ghê tởm.
Nghe mấy lời đối đáp giữa Đức Bổn Sư và Đại đức Ānanda người nông dân nghĩ thầm: “Mình tới số hay chưa mà nghe nói có con rắn độc lai vãng nơi đây vậy kìa?”.
Khi Đức Bổn Sư đi khỏi, người nông phu định giết chết con độc xà, bèn cầm gậy đi đến túi tiền, thấy nó thì nghĩ: “Chắc Đức Bổn Sư đã ám chỉ vật nầy đấy.” Y liền lượm cái túi tiền lên, đem trở lại ruộng cày, vụng về đặt nó xuống một bên, che đậy sơ sài rồi tiếp tục cày ruộng.
Lúc trời rực sáng, những người trong ngôi nhà bị trộm, biết mình mất đồ, bèn men theo dấu chân đi lần đến chỗ thửa ruộng của người nông phu. Nơi đó, họ gặp được nơi bọn trộm chia tài vật và thấy có dấu chân người nông phu. Theo dấu, họ moi đất lên, tìm thấy túi tiền vàng dưới đất. Họ phủi sạch bụi, lấy cái túi lên rồi mắng chửi, đánh đập người nông phu, bảo rằng:
- Mầy đào trộm của người ta, rồi giả vờ ra đi cày hả?
Họ bắt anh dân cày giải đến quốc vương để định tội. Quốc vương nghe xong câu chuyện trộm đồ có tang chứng, bèn hạ lịnh mang anh ta ra tử hình. Võ đao quân bắt trói ké anh ta, lấy roi quất vào người rồi dẫn y ra pháp trường.
Trong lúc bị đòn roi, anh ta vừa đi vừa nói luôn miệng: “Nầy Ānanda, ông có thấy con rắn độc không? Bạch Ngài, con thấy con độc xà ghê gớm!”.
Võ đao quân hỏi: “Chú mầy lặp đi lặp lại những lời đối thoại như thế để làm gì?”.
- Bao giờ đến gặp đức vua tôi sẽ nói.
Nghe vậy, võ đao quân giải tội nhân đến sân rồng, và tâu lên đức vua việc ấy. Quốc vương phán hỏi:
- Tại sao ngươi lại nói như thế?
- Tâu bệ hạ, con không phải là kẻ trộm.
Nói rồi, anh thuật lại mọi sự cho đức vua nghe, từ lúc nói đến cày ruộng cho tới khi bị bắt. Nghe xong, đức vua phán rằng:
- Nầy khanh, khanh quả là bậc trượng phu quân tử, cho nên Đức Bổn Sư mới làm nhân chứng, nếu hành phạt khanh thì không hợp lý. Trẫm sẽ biết nên hành động thế nào cho hợp lý.
Chiều hôm ấy, quốc vương dắt người dân cày đến bái yết Đức Bổn Sư, đoạn hỏi rằng:
- Bạch Ngài, Ngài có ngự du với Đại đức Ānanda đến thửa ruộng cày của người nông phu nầy phải chăng?
- Phải, tâu đại vương.
- Nơi đó, Ngài đã thấy vật chi?
- Tâu đại vương, thấy cái túi tiền vàng.
- Lúc thấy nó, Ngài đã phán dạy chi?
- Nầy đại vương, Như Lai đã nói như vầy…
- Bạch Ngài, nếu người nầy không viện Ngài ra làm nhân chứng thì chắc sẽ không toàn mạng, nhờ có những lời đối đáp giữa Ngài và Đại đức Ānanda mà hắn mới được tồn sanh.
Nghe quốc vương nói vậy, Đức Bổn Sư đáp:
- Phải đó, tâu đại vương, Như Lai đã nói lên bấy nhiêu lời rồi mới đi. Lẽ thường, đối với bậc trí tuệ, nghiệp nào hễ đã làm rồi, về sau phải ăn năn hối hận thì chẳng nên làm.
Đề cập đến việc nầy, Đức Bổn Sư thuyết lên thời pháp, đoạn Ngài thuyết lên kệ ngôn:
67. “Na taṃ kammaṃ kataṃ sādhu,
yaṃ katvā anutappati;
Yassa assumukho rodaṃ,
vipākaṃ paṭisevati.”
67. “Nghiệp nào là nghiệp ác tà,
Làm xong hối tiếc, lệ sa dầm dề,
Mặt mày nhăn nhó ủ ê,
Thọ ngay quả báo nặng nề đắng cay.”
*
CHÚ GIẢI:
Yaṃ katvā: Nghiệp nào mà khi làm xong, nó có thể đưa mình đến khổ cảnh, như sa địa ngục chẳng hạn và mỗi khi nhớ lại thì ăn năn hối tiếc, nghiệp ấy chớ khá làm, vì nó không tốt, không đẹp, không êm dịu đâu.
Yassa assumukho: Nghiệp ấy có hậu quả là sẽ khóc lóc than van với bộ mặt đầm đìa nước mắt.
*
Khi dứt thời pháp, cận sự nam là người nông phu đắc Tu Đà Hườn quả. Những Tỳ khưu hiện diện cũng có nhiều vị chứng đắc Thánh quả, nhứt là quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Nông phu lượm ví rớt bên đường,
Vạ gió ai ngờ lại phải mang,
May có Đức Thầy làm chứng giúp,
Bằng không uổng kiếp, chịu hàm oan.
Bị lính đánh đòn chẳng thở than,
Tự mình mình biết thật vô can,
Người ngay mắc nạn cam lòng nhẫn,
Nhờ Phật từ bi mới mạng toàn.
DỨT TÍCH NGƯỜI NÔNG PHU MẮC NẠN
67. That action which is likely to make one repent later, is not good action at all.
67. Các hành động nào có thể làm cho ta ăn năn về sau, tất nhiên không phải là Thiện nghiệp.
67. Na taṃ kammaṃ kataṃ sādhu,
yaṃ katvā anutappati;
Yassa assumukho rodaṃ,
vipākaṃ paṭisevati. (5:8)
67. That kamma’s not well-made
from which there is remorse,
of which one senses the result
with weeping and a tear-stained face.
----
V. 9 - Tích ÔNG HÀNG HOA HẢO Ý
(Sumanamālākāravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 68)
68. “Tañca kammaṃ kataṃ sādhu,
yaṃ katvā nānutappati;
Yassa patīto sumano,
vipākaṃ paṭisevatīti.”
68. “Nghiệp nào là nghiệp lành,
Làm xong chẳng hối quá,
Tâm thỏa thích hân hoan,
Thọ hưởng ngay thiện quả.”
Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự tại Veḷuvana, đề cập đến người kết tràng hoa, tên là Sumana (Hảo Ý).
Tương truyền rằng: Ông Sumana mỗi ngày từ sáng sớm phải đem nạp cho đức vua Bimbisāra tám vòng hoa Sumanī (Tố Hinh) và nhận tiền ân tứ là tám đồng tiền vàng (kahāpaṇa). Ông vẫn thi hành việc ấy đều đặn. Cho đến một hôm, khi ông Sumana mang hoa đi vào thành nội thì Đức Thế Tôn cũng đang ngự vào thành Rājagaha để khất thực, có dẫn theo đại chúng Tỳ khưu. Từ kim thân, Ngài phóng hào quang sáu màu rực rỡ, biểu lộ thần oai lực của một đấng Chánh Đẳng Giác (Có những lúc Đức Thế Tôn khuất lấp hào quang lục sắc dưới bộ y vàng, giống như vị Sư Đầu đà đang đi khất thực, chẳng hạn như khi Ngài vượt quãng đường xa ba mươi do tuần để đón đường tướng cướp Ahiṃsa (tức Aṅgulimāla). Hoặc cũng như lúc ngự vào hoàng cung Kapilavatthu, Ngài cũng phóng ra sáu đạo hào quang.).
Trong ngày nầy cũng thế, từ kim thân tỏa ra hào quang lục sắc, biểu lộ thần oai đại lực của một đấng Chí Tôn, trong lúc Ngài ngự vào thành Rājagaha.
Khi trông thấy tướng mạo quang minh của Đức Thế Tôn quí giá dường châu báu, ông Sumana nhìn kỹ thấy được ba mươi hai tướng tốt và tám mươi phụ tướng của bậc đại nhân đều có đầy đủ nơi Ngài, ông phát tâm trong sạch, nghĩ rằng: “Ta lấy chi để dâng lên Đức Thầy đây?”. Thấy mình chẳng có vật chi khác ngoài mấy tràng hoa ông nghĩ thầm: “Ta sẽ dâng cúng Đức Thầy những đóa hoa nầy.” Kế đó, ông tự hỏi lấy mình: “Hoa nầy là phẩm vật hàng ngày phải nạp vào cung vua, nếu như hôm nay vua không nhận được hoa, đức vua sẽ giam cầm, sẽ xử tử hoặc sẽ lưu đày ta thì sao?”. Nhưng rồi ông quả quyết tự nhủ rằng: “Thôi thà là ta liều để đức vua xử tử hoặc lưu đày chi cũng được. Xét cho kỹ, dầu đức vua có dung dưỡng ta, thì Ngài cũng chỉ ban cho ta tài sản quí nhất là mạng sống trong kiếp nầy mà thôi. Còn nếu ta cúng dường Đức Bổn Sư thì chắc chắn ta sẽ được nhiều sự lợi ích, sự bình an trong hằng mấy mươi triệu kiếp trái đất, không sai chạy vậy.”
Sau khi nhất định dứt bỏ sanh mạng để cúng dường Đức Như Lai, ông Sumana còn tự thúc hối rằng: “Ta hãy cúng dường ngay bây giờ, kẻo để trì hoãn e cái tâm trong sạch của ta nó lui sụt.” Thế là, ông hết sức hoan hỷ, thỏa thích dâng cúng tám vòng hoa lên Đức Thế Tôn. Lần thứ nhất, ông tung hai vòng hoa nhắm phía trên đầu Đức Thế Tôn mà vung tới, những hoa ấy xòe ra như tàng lọng rồi đứng lơ lửng trên không. Ông lại tung tiếp hai vòng hoa nữa ở bên phải, những cánh hoa lại kết thành bức màn hoa che phía tay phải của Đức Thế Tôn. Ông Sumana tung hai vòng hoa thứ ba thì những cánh hoa sa xuống làm tấm màn che phía sau lưng Đức Thế Tôn. Và lần thứ tư, ông tung hai vòng hoa cuối, thì hoa nở thành màn hoa che bên tay trái của Đức Bổn Sư. Như thế, tám vòng hoa được chia làm bốn chỗ chung quanh kim thân đấng Như Lai và chừa trống phía trước như cánh cửa ngõ vậy.
Các cọng hoa đều quay vào trong với nhau, chỉ phô các cánh hoa ra làm mặt, màu trắng sáng như những chiếc dĩa bạc bao quanh kim thân Đức Bổn Sư. Khi Ngài cất bước đi, tuy là giống vô tri nhưng hoa dường như cũng có tâm sùng kính ái mộ, không rời xa Đức Thế Tôn, chúng quấn quít đi theo. Khi Ngài dừng chân thì chúng cũng đứng lại. Từ kim thân Ngài phát ra ngàn lằn điện quang. Cả bốn phía trước, sau, phải, trái và trên đầu Ngài đều phát ra quang tuyến như nhau. Những tia sáng nầy chẳng có tia nào chạy lãng ra xa. Tất cả đều nhiễu quanh Đức Thế Tôn ba vòng rồi nhập lại thành những cây ánh sáng bằng cỡ cây thốt nốt còn tơ, đoạn chạy trước vẹt đường làm cho cả kinh thành đều náo động.
Trong số một trăm tám mươi triệu dân chúng, chín mươi triệu ở trong thành và chín mươi triệu ở ngoài, dầu là nam hay nữ, không một ai không mang vật thực để bát và ra khỏi nhà. Quần chúng reo vang như tiếng sư tử rống, vừa ve vẫy hàng ngàn khúc lụa, tỏ vẻ hoan nghênh cùng đi theo tiếp rước Đức Bổn Sư. Chỉ trong giây lát, tin Đức Thầy thị hiện thần thông, làm hiển lộ công đức cúng dường của người bán hoa được lan truyền khắp cả kinh thành rộng ba phần tư do tuần, y như có người mang trống đi cổ động vậy.
Khi ấy, ông bán hoa nghe khắp châu thân tràn đầy năm thứ phỉ lạc, ông từ từ nối gót theo Đức Như Lai, đi vào vòng hào quang của Ngài như lặn xuống một hồ nước thơm ngon mát mẻ (manosilārase). Đoạn ông thốt lời tán dương Đức Bổn Sư, đảnh lễ cáo biệt Ngài và phủi sạch hai tay không, trở gót về nhà.
Khi ấy vợ ông hỏi rằng: “Hoa đâu?”.
- Tôi đã cúng dường Đức Bổn Sư rồi.
- Nếu vậy, lỡ vua bắt tội thì làm sao?
- Dầu vua có xử tử hoặc lưu đày chi cũng đành, tôi nguyện thí bỏ thân mạng mà cúng dường Đức Bổn Sư, cho nên chia tất cả số hoa làm tám vòng hoa dâng cúng như vầy, như vầy… Còn đại chúng lúc ấy cũng phát lên reo hò đi theo sau Đức Bổn Sư, làm cho trong thành vang rền hàng ngàn tiếng hoan hô như vậy…
Sau khi nghe hết câu chuyện Đức Phật thị hiện thần thông như thế, người vợ ngu si mù quáng, đã chẳng phát tín tâm trong sạch, mà còn trách cứ chồng rằng: “Các quốc vương hùng mạnh thường hay bạo ngược, một khi bị chọc giận, các Ngài có thể gia hình nhiều hình phạt nặng nề như xuống lịnh chặt tay, chặt chân chẳng hạn. Tội lỗi của ông làm thì tôi cũng phải bị liên can không ít.”
Nói rồi, bà vợ của ông Sumana dắt hết những đứa con trai vào triều, xin bệ kiến đức vua. Quốc vương phán hỏi:
- Nàng kia, nàng muốn tâu xin việc chi?
- Tâu đại vương! Chồng của con đã mang số hoa phải đem nạp đại vương ngày hôm nay, lại cúng dường hết đến Đức Bổn Sư, rồi đi tay không trở về nhà. Con hỏi: “Hoa đâu?” thì ông ấy đáp lời như thế, như thế. Con rầy ông rằng: “Thường thường các đức vua hay có tính hung bạo, một khi đã nổi trận lôi đình, ắt là các Ngài bắt tội, hình phạt ta bằng nhiều cách như là chặt cả tay lẫn chân chẳng hạn. Tội của ông làm mà tôi cũng bị vạ lây.” Nói rồi, con từ bỏ ổng và đến đây ngay. Công việc dâng hoa đến Phật do chính ông làm, thì dầu có phước cũng chỉ có riêng ông ấy nhờ, còn như có tội thì cũng chỉ mình riêng ông gánh chịu, chớ con với chồng con đã đoạn tuyệt nhau rồi. Mong ân đại vương minh xét cho con nhờ.
Quốc vương là vị Thánh Thinh Văn, lúc gặp Đức Phật lần đầu tiên, Ngài đã đắc quả Tu Đà Hườn, có đức tin kiên cố trong Chánh pháp. Vừa nghe qua mấy lời của vợ ông Sumana, đức vua nghĩ: “Ôi! Nữ nhân nầy thật là mù quáng ngu si làm sao, thấy ân Đức Phật phi thường như thế mà chẳng phát tâm trong sạch tin tưởng nơi Ngài.”
Quốc vương giả cách nổi giận, phán hỏi rằng:
- Nàng nói sao? Chồng nàng đã mang số hoa phải nộp cho trẫm mà cúng dường Đức Phật hết rồi phải không?
- Tâu đại vương, phải!
- Con từ bỏ hắn ta là phải lắm. Kẻ nào đem hoa của trẫm mà cúng dường, trẫm sẽ liệu cách mà đối xử với hắn.
Sau khi truyền lệnh cho nữ nhân ấy ra về, quốc vương vội vàng ngự đi đón Đức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài xong rồi, cùng đi bách bộ với Ngài.
Đức Bổn Sư hiểu rõ tâm trạng của đức vua, cho nên Ngài ngự hành diễu qua đại lộ chánh trong kinh thành, tiến về phía hoàng cung. Đến trước ngọ môn, quốc vương xin rước bát của Đức Bổn Sư, ngỏ ý muốn thỉnh Ngài nhập vào vương điện. Nhưng Đức Thầy dừng chân nơi sân ngự trước đền, rút tọa cụ ra.
Quốc vương hội ý, bèn lập tức truyền lịnh cho dân thợ hãy gấp rút dựng lên một cái trại nghỉ mát cho mau.
Đức Bổn Sư an tọa nơi đó cùng với Tỳ khưu Tăng. Tại sao Ngài không ngự vào đền vua? Theo truyền ngôn thì Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Nếu Như Lai ngự vào trong đền, thì đại chúng bên ngoài sẽ không thấy được Như Lai. Như thế thì công đức của người dâng hoa không được hiển dương. Như Lai an tọa nơi sân ngự như vầy, đại chúng sẽ ngắm xem mãn nhãn và công đức của người dâng hoa sẽ được hiển dương.”
(Quả thật, chỉ có chư Phật mới biểu dương công đức của các bậc hữu ân như thế, chớ thường nhân trong khi tán tụng công đức của các bậc hữu ân thì tiết kiệm từng lời nói.”).
Khi ấy, bốn bức màn hoa đứng ở bốn phía, đại chúng lũ lượt đi theo Đức Thế Tôn đến chỗ ngự.
Quốc vương chăm lo dâng cúng những thực phẩm ngon quí đến Tỳ khưu Tăng, có Đức Phật làm tọa chủ.
Sau bữa ngọ, Ngài thuyết kinh phúc chúc thí chủ xong rồi, Đức Bổn Sư ngự trở về Veḷuvana. Cũng như lúc đến, bốn bức màn hoa lại che phủ kín thân vào đại chúng lại rần rộ theo tiễn chân Ngài, tiếng hoan hô vang rền như tiếng sư tử rống.
Quốc vương cũng ngự đưa Đức Bổn Sư một quãng đường, đoạn đảnh lễ cáo biệt Ngài mà trở lại hoàng cung. Khi ấy, đức vua cho đòi ông Sumana vào triều phán hỏi:
- Nhà ngươi đã nói gì khi cúng dường Đức Bổn Sư những hoa tươi mà ngươi phải nạp cho trẫm?
- Tâu đại vương, con đã nguyện hi sinh tánh mạng mà cúng dường Đức Bổn Sư, nên nói rằng: “Dầu đức vua có lấy luật gia hình hoặc giết bỏ, hoặc tù đày chi con cũng cam tâm.”
Quốc vương ban khen rằng: “Khanh quả là một bậc đại Trượng phu (Mahāpuriso).” Phán rồi, đức vua ân thưởng cho ông Sumana tám voi, tám ngựa cùng với nhiều tôi trai, tớ gái, tám y phục trang trí cực kỳ sang trọng và tám ngàn đồng vàng, tám cung nữ điểm trang lộng lẫy được phóng thích khỏi hoàng cung để về làm vợ Sumana. Quốc vương còn cấp thêm cho ông tám làng trù phú để thu thuế nữa. Nói tóm lại là ông Sumana được ban thưởng trọng hậu đủ mọi thứ, mỗi thứ là tám lần như vậy.
Được mục kích chuyện nầy, Đại đức Ānanda nghĩ rằng: “Từ sáng sớm đến giờ đã được hưởng hàng ngàn tiếng hoan hô, và được đại chúng phất lụa đón đưa nồng nhiệt trong ngày hôm nay như thế. Không biết ông Sumana sẽ được hưởng Dị thục quả (vipāka) nào nữa trong ngày vị lai?”.
Đại đức Ānanda bạch hỏi Đức Thế Tôn. Ngài bèn giải rằng:
- Nầy Ānanda, ông chớ suy tư cho rằng nghiệp lành của ông bán hoa đây là nhỏ nhen. Ông ấy đã dám hy sinh tánh mạng để cúng dường ta. Do nhờ có tâm trong sạch với ta như thế mà ông khỏi khổ cảnh trong hằng trăm kappa (kiếp trái đất).
Pāli:
“Kappānaṃ satasahassaṃ,
duggatiṃ na gamissati;
Ṭhatvā devamanussesu,
phalaṃ etassa kammuno.
Pacchā paccekasambuddho,
sumano nāma bhavissati.”
“Trong hằng ngàn kappa,
Khổ cảnh khỏi đọa sa,
Hưởng nhơn thiên phước báu,
Do quả nghiệp vừa tạo,
Sau thành Phật Bích Chi,
Danh Hảo ý vẫn y.”
Khi Đức Bổn Sư an ngự về chùa, Ngài ngự vào Hương thất thì những cánh hoa kia rơi xuống nằm tại ngưỡng cửa.
Chiều hôm ấy, trong Luận Pháp Đường, chư Tỳ khưu khởi lên pháp thoại như vầy: “Ôi! Thật là huyền diệu hy hữu thay, nghiệp lành của Sumana dám hy sinh tính mạng để dâng hoa đến Đức Phật hiện tại, mà trong khoảnh khắc hưởng được đủ thứ bổng lộc như thế.”
Đức Bổn Sư từ hương thất ngự ra, đi kinh hành rồi Ngài ngự đến Luận pháp đường, ngồi an tọa trên Phật Bảo Tọa. Ngài phán hỏi: “Nầy chư Tỳ khưu! Hôm nay các ông đang ngồi luận bàn về việc chi đó?”.
- Bạch Ngài, chuyện như vầy, như vầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư xác nhận rằng: “Phải đó, các Tỳ khưu, nghiệp nào mà khi làm xong ta không ăn năn hối hận, mà còn phát tâm thỏa thích hân hoan mỗi khi ta nhớ lại nó, thì nghiệp đó là nghiệp tốt cần nên làm vậy.”
Tiếp theo, Đức Thế Tôn thuyết lên một thời pháp để giải rộng thêm nghĩa lý, đoạn Ngài kết luận bằng bài kệ nầy:
68. “Tañca kammaṃ kataṃ sādhu,
yaṃ katvā nānutappati;
Yassa patīto sumano,
vipākaṃ paṭisevatīti.”
68. “Nghiệp nào là nghiệp tốt hay,
Làm xong chẳng chút mảy may hận phiền,
Nghiệp nào Hảo Ý vui yên,
Thọ ngay phước báu tùy duyên hợp thời.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong kệ ngôn Phạn ngữ trên đây, câu thứ hai Yaṃ katvā ám chỉ nghiệp nào mà sau khi làm xong ta không bị lương tâm cắn rứt hay đau khổ, buồn phiền vì nó, mà trái lại ta còn được tái sanh về nhàn cảnh, mà hưởng phước báo Nhơn Thiên, hoặc hưởng quả Níp Bàn.
Yassa patīto sumano: Sau khi đắc Đạo hoặc hưởng quả của phước báo, mỗi lần nhớ lại nghiệp cũ, tâm lại thỏa thích hoan hỷ, vui vẻ thêm lên (Trong câu nầy có hàm tên ông bán hoa là Sumano (Hảo Ý) là nhân vật điển hình cho loại thiện nghiệp nầy vậy.).
Vipākaṃ paṭisevati: Hễ Hảo Ý được thỏa mãn rồi, từ đó mới phát sanh quả Dị thục của Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ vậy.
Taṃ kammaṃ kataṃ sādhu: Nghiệp ấy là nghiệp nên làm vì nó tốt đẹp, trong sạch. (Đây là câu kết luận, nhưng trong bài kệ nầy được đặt lên hàng đầu, có lẽ vì Đức Thế Tôn muốn biểu dương thiện nghiệp của người thợ bán hoa Sumana để làm gương cho mọi người bắt chước vậy.)
*
Thời pháp vừa chấm dứt, tám muôn bốn ngàn chúng sanh được tỏ ngộ Chánh Pháp.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Hảo Ý dâng hoa chẳng hận phiền,
Liều thân đại thí nguyện gieo duyên,
Phật cho hiển lộ phần công đức,
Vua khiến vinh thăng chỗ lợi quyền.
Hiện tại nghiệp lành sanh phước lớn,
Tương lai quả chánh đợi người hiền,
Ai ngờ bỏ cả mà được cả,
Mãn kiếp sanh nhàn sướng tợ tiên.
DỨT TÍCH ÔNG BÁN HOA SUMANA
68. Deeds whose results one faces with glee without remorse, are good deeds indeed.
68. Các nghiệp nào có kết quả làm ta sung sướng, không ăn năn, tất nhiên là Thiện nghiệp.
68. Tañca kammaṃ kataṃ sādhu,
yaṃ katvā nānutappati;
Yassa patīto sumano,
vipākaṃ paṭisevati. (5:9)
68. But well-made is that kamma
which done brings no remorse,
of which one senses the result
with glad mind and with joy.
----
V. 10 - Tích NỮ THÁNH UPPALAVAṆṆĀ
(Uppalavaṇṇātherīvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 69)
69. “Madhu’vā maññatī bālo,
yāva pāpaṃ na paccati;
Yadā ca paccatī pāpaṃ,
attha (bālo) dukkhaṃ nigacchatīti.”
69. “Người ngu tưởng mật ngọt,
Khi ác quả chưa mùi,
Đến chừng quả thuần thục,
Phải chịu khổ không thôi.”
Kệ ngôn nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự an tại Jetavana, đề cập đến nàng Thánh nữ Uppalavaṇṇā (Thanh Liên Sắc).
Tương truyền rằng: Nàng Uppalavaṇṇā đã từng phát đại nguyện dưới chân Đức Phật Padumuttara và tiếp tục gieo trồng vào ruộng phước trong hằng trăm ngàn đại kiếp. Sau khi luân hồi lên xuống các cõi trời, người, trong thời Đức Phật hiện tại, nàng tái sanh vào một gia đình Trưởng giả ở trong thành Sāvatthī. Cô được cha mẹ đặt tên là Uppalavaṇṇā, vì da mặt cô tuy đen nhưng mịn màng, tươi tắn, thanh lịch như cánh sen xanh phong nhụy. Đến tuổi cặp kê, cô được các vương tôn, công tử nhà quyền quí, danh vọng trong cõi Diêm phù mang lễ vật đến cầu hôn.
Trưởng giả là thân phụ của cô không dứt khoát hồi hôn, từ chối một ai, nhưng ông tự nghĩ: “Ta không thể nhận lời, chiều theo ý muốn của tất cả những nầy. Vậy ta phải lập ra một phương thế.”
Ông cho gọi tiểu thư đến và hỏi:
- Nầy con, con có thể xuất gia được chăng?
Trưởng giả vừa dứt lời, nàng Uppalavaṇṇā nghe trong đầu cô bừng nóng, như có dầu sôi trăm dạo, nên cô đáp lại ngay:
- Thưa cha, con sẽ xuất gia.
Trưởng giả liền thết tiệc linh đình để làm lễ tiễn đưa con gái, rồi đưa nàng đến chùa của Tỳ khưu Ni (Bhikkhunūpassayaṃ), cho nàng xuất gia Tỳ khưu Ni.
Xuất gia không bao lâu, nàng Uppalavaṇṇā chứng quả A La Hán Hôm ấy, nhằm phiên nàng quét dọn, sửa soạn chỗ làm lễ Phát Lồ sám hối của Tăng Ni.
Sau khi quét tước xong chỗ kiết giới, nàng đốt đèn lên, nàng nhìn lại ngọn đèn làm đối tượng cho đề mục thiền, đắc luôn quả vị A La Hán với Tuệ Phân Tích và các Thắng trí thần thông (abhiññā).
Thời gian sau, nàng Uppalavaṇṇā đi vân du, rồi đi vào rừng Manh Lâm (Andhavana) hành đạo. Lúc bấy giờ chưa có học giới cấm Tỳ khưu Ni ngụ trong rừng.
Khi ấy, nhiều người phát tâm cất cốc cho nàng, bên trong có kê giường, bên ngoài có màn che bốn phía. Nàng đi vào thành Sāvatthī khất thực rồi đi trở ra.
Một thanh niên tên là Nanda, vốn là anh em cô cậu của nàng Uppalavaṇṇā (Mātulaputto), đã nặng tình luyến ái nàng từ khi nàng còn ở gia đình. Nay hay tin nàng trở lại kinh thành, chàng ta thừa lúc nàng chưa về, lẻn đến rừng Andhavanna, lén vào trong cốc của nàng, núp dưới gầm giường.
Khi nàng về đến lều, vào trong đóng cửa lại, vừa lên ngồi trên giường thì thanh niên Nanda từ gầm giường chun ra, trèo lên giường. Nàng la lên: “Đồ ngu, đừng có liều mạng. Đồ ngu, đừng có liều mạng.” Bất chấp sự kháng cự của người nữ Ni, thanh niên dùng cường lực cưỡng hiếp vị Thánh nữ cho thỏa lòng dục vọng rồi y bỏ chạy đi.
Khi ấy, địa đại dường như không chịu nổi tội ác nặng nề của chàng thanh niên Nanda, nên nứt đôi, chàng ta sa vào nơi đất nứt, bị đọa vào đại địa ngục A Tỳ (Mahāvīci).
Nữ ni Uppalavaṇṇā muốn cho tâm mình khỏi tắc trách bèn đem chuyện nầy trình lên Giáo Hội Tỳ khưu Ni. Chư Ni bạch lại chư Tăng và chư Tăng bạch trình lên Đức Bổn Sư.
Nghe vậy, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ khưu đến phán dạy:
- Nầy các Tỳ khưu! Đối với hàng tứ chúng là Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, nếu kẻ ngu nào gây ra ác nghiệp thì dầu cho kẻ ấy có vui sướng thỏa mãn được chút ít chi, cũng ví như người nếm qua hương vị ngọt ngào của chất đường và mật chẳng hạn.
Tiếp theo đây, Đức Bổn Sư thuyết lên thời pháp rồi đọc kệ ngôn rằng:
69. “Madhu’vā maññatī bālo,
yāva pāpaṃ na paccati;
Yadā ca paccatī pāpaṃ,
attha (bālo) dukkhaṃ nigacchati.”
69. “Khi quả ác nghiệp chưa mùi,
Người ngu lầm tưởng yên vui mật đường.
Đến giờ quả chín như thường,
Người ngu mới thấy chán chường khổ đau.”
*
CHÚ GIẢI:
Madhuvā: Câu kệ Pāli thứ nhất có ý nói việc làm tội lỗi của người ngu vui sướng thỏa thích như là ăn kẹo ngọt, như mật, như đường. Đây là trường hợp của thanh niên Nanda nghĩ tưởng sái quấy như vậy.
Yāva: Trong lúc mà…
Pāpaṃ na paccati: Quả ác dị thục chưa trổ, chưa chín trong kiếp nầy hoặc trong những kiếp về sau thì người ngu vẫn còn tưởng như trên.
Yadā: Đến chừng hưởng ác quả, đã làm bằng cách thế nầy thế nọ, đến thời trổ quả chín mùi hoặc trong kiếp nầy hoặc trong kiếp sau thì kẻ ác phải chịu khổ thọ hình như ở hỏa ngục chẳng hạn.
Attha bālo dukkhaṃ nigacchati: Khi ấy kẻ ngu đi đến khổ cảnh, là phải bị khổ, bị thọ khổ như vậy.
*
Khi thời pháp chấm dứt, nhiều vị chứng đắc Thánh quả, nhứt là Tu Đà Hườn quả.
Vào thời khác, đại chúng Tỳ khưu cùng nhau luận đạo trong phòng Pháp hội, đề xướng Pháp thoại như vầy: “Dầu là bậc Lậu Tận (Khīṇāsavā), theo ý tôi nghĩ, các Ngài cũng còn thọ hưởng dục lạc, vui thích ngũ trần, chớ chẳng lẽ làm ngơ. Thật thế, các Ngài đâu phải là bọng cây hay gò mối gì cho cam. Thân thể các Ngài cũng biết thọ hưởng dục lạc, vui thích ngũ trần…”.
Đức Thế Tôn ngự đến phán hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các ông ngồi luận việc chi?”.
Khi nghe đáp: “Bạch Ngài, việc như vầy, như vầy…”, Đức Bổn Sư đính chính rằng: “Nầy các Tỳ khưu, các bậc Lậu Tận (A La Hán) không vui thích ngũ trần, không thọ hưởng dục lạc. Thật thế, như trên mặt những lá sen, nước rơi xuống không thấm ướt, không ứ đọng mà tuột đi luôn và trên đầu mũi kim, hột cải không thể đeo dính, đứng vững được mà phải lăn tuột đi. Cũng như thế ấy, trong tâm bậc Lậu Tận, dục lạc ngũ trần không đeo dính và không ứ đọng lại được.”
Đến đây, Đức Bổn Sư thuyết pháp giải rộng thêm nghĩa lý rồi Ngài kết luận bằng câu kệ Pháp Cú sau đây:
“Vāri pokkharapatt’eva,
āraggeriva sāsapo;
Yo na lippati kāmesu,
tam ahaṃ brūmi brāhmaṇanti.”
Lược dịch:
“Như nước giọt lá sen,
Hột cải gác đầu kim,
Người không nhiễm dục lạc,
Ta gọi Bà la môn.”
Bài kệ nầy nghĩa lý rõ rệt, phù hợp với phẩm Bà la môn, nên về sau được sắp chung vào phẩm ấy.
Nhân dịp nầy, Đức Bổn Sư triệu thỉnh quốc vương Pasenadikosala đến và đề nghị rằng:
- Tâu đại vương! Trong giáo pháp nầy có bao nhiêu công tử thì cũng có bấy nhiêu tiểu thư, đều là con nhà gia giáo vọng tộc, đã từ bỏ quyến thuộc đông đảo và tài sản dồi dào mà xuất gia hành đạo, cư ngụ trong rừng. Khi ngụ trong rừng, các nữ tu ấy hằng bị các thanh niên ác quấy, đê hèn, manh tâm làm khó, đôi khi còn gây tai hại, làm hư hỏng phạm hạnh nữa là khác.
Vì thế, cần phải xây cất chỗ ngụ cho Tỳ khưu ni ở trong vòng kinh thành.
Quốc vương đáp: “Lành thay.”, rồi vâng theo lời đề nghị của Đức Thế Tôn, khiến quan quân kiến thiết một cảnh già lam riêng biệt cho Giáo Hội Tỳ khưu Ni trên một địa điểm trong vòng thành đô.
Từ đó về sau, các Tỳ khưu ni chỉ cư ngụ trong vòng đô thành mà thôi.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Thanh Liên Sắc quí mấy ai bì,
Chẳng khứng làm dâu, khứng đắp y,
Lửa đỏ thiền tâm hơn nữ tử,
Rừng xanh phạm hạnh quá nam nhi.
Từ hôn đã cắt duyên trần tục,
Đắc quả còn mang nợ thiếu thì…
Hỷ Lạc nài hoa, say mật ngọt,
Ngờ đâu đất sụp, dạo A Tỳ.
DỨT TÍCH THÁNH NỮ UPPALAVAṆṆĀ
69. The unwise thinks evil deeds are sweet till they ripen not. As they ripen he’s plunged in grief.
69. Người ngu tưởng ác nghiệp là ngọt ngào khi chúng chưa chín mùi. Khi ác nghiệp chín mùi, kẻ ấy tràn ngập khổ đau.
69. Madhu’vā maññatī bālo,
yāva pāpaṃ na paccati;
Yadā ca paccatī pāpaṃ,
attha bālo dukkhaṃ nigacchati. (5:10)
69. When evil kamma’s immature
the fool thinks it is honeyed,
but when the evil has matured
then to the fool comes dukkha.
----
V. 11 - Tích JAMBŪKĀJĪVAKA
(Jambūkājīvakavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 70)
70. “Māse māse kusaggena,
bālo bhuñjeyya bhojanaṃ;
Na so saṅkhātadhammānaṃ,
kalaṃ agghati soḷasiṃ.”
70. “Tháng tháng chỉ dùng cơm,
Vít bằng đầu cỏ thơm,
Người ngu không bì kịp,
Một phần mười sáu pháp,
Người chứng đắc lý chơn.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự an tại Veḷuvana, đề cập đến tu sĩ ngoại đạo Jambūka (Hào Cẩu).
Tương truyền rằng: Thuở xưa vào thời Đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, trong một làng nọ có ông Trưởng giả (Kuṭumbiko) phát tâm cất chùa, thỉnh một vị Tỳ khưu ở đó làm trụ trì và thường xuyên hộ độ bốn món vật dụng. Vị trụ trì nầy mỗi ngày đến thọ thực nơi nhà của người đại tín gia hộ độ.
Một hôm, có vị Thánh Tăng Lậu Tận đi trì bình khất thực, đến đứng trước nhà của Trưởng giả. Phú ông nhìn thấy vẻ thanh bần thoát tục, kham nhẫn của bậc thanh tịnh thì phát tâm trong sạch, cung thỉnh vị Thánh Tăng vào nhà, trân trọng dâng cúng các món thực phẩm thượng vị.
Kế đó, gia chủ cúng dường một khăn choàng lớn và bạch:
- Bạch Ngài, xin Ngài nhuộm khăn choàng nầy rồi làm y nội mà mặc.
Và gia chủ còn thỉnh cầu thêm rằng: “Bạch Ngài! Tóc Ngài khá dài, để con gọi thợ cạo đến phủi sạch cho Ngài. Thỉnh Ngài về chùa trước rồi con sẽ cho người đem giường nằm đến dưng Ngài liền bây giờ.”
Vị trụ trì vẫn đến thọ thực nơi nhà tín chủ hằng ngày, trông thấy ông ta quí trọng vị Sư mới đến như vậy thì không phát tâm trong sạch tùy hỷ chút nào. “Ông chủ nầy mới vừa gặp mặt vị Sư kia mà đã dâng cúng trọng thể dường ấy, còn mình đến nơi nhà ông ta mỗi ngày mà ông ta chớ hề dâng cúng lễ vật cho mình.”, vị sư trụ trì nghĩ thầm như vậy, nhưng chẳng nói ra, trở về chùa. Vị khách Tăng cũng theo chân vị trụ trì về chùa, nhuộm khăn choàng của thí chủ dâng cúng, rồi đắp làm y nội.
Phú Trưởng giả rước thợ cạo đến phủi tóc cho vị sư trì bình, cho người khiêng giường nằm đến lót kê đàng hoàng rồi thỉnh rằng:
- Bạch Ngài, xin Ngài tự tiện nằm nghỉ trên giường nầy.
Trước khi ra về, chủ nhân còn thỉnh cả hai vị Đại đức ngày mai đến nhà mình thọ bát.
Thấy gia chủ tỏ vẻ hâm mộ vị khách Tăng và săn sóc vị ấy, vị trụ trì không dằn được lòng ganh tị. Chiều hôm ấy, ông ta đích thân vào tận phòng của vị A La Hán và nhục mạ Ngài bằng bốn điều như vầy: “Nầy đạo hữu tân đáo! Đạo hữu không nên đến thọ thực nơi nhà của phú Trưởng giả, thà đạo hữu ăn phẩn dơ còn hơn. Đạo hữu không nên để cho thợ cạo đến cạo tóc, thà đạo hữu lấy lá thốt nốt mà cạo còn hơn. Đạo hữu không nên mặc y, cứ ở trần truồng là hơn. Không nên nằm trên giường của thí chủ kê lót, thà đạo hữu nằm dưới đất còn hơn.”
Bị người đồng đạo xỉ mạ, vị Đại đức im lặng, tự nghĩ: “Không nên để cho kẻ ngu nầy vì ta mà phải sa đọa.” Sáng hôm sau, Ngài thức dậy thật sớm, bỏ chùa ra đi vân du ta bà, chớ không theo lời thỉnh cầu mà đến nhà thí chủ thọ thực.
Sáng hôm ấy, vị trụ trì cũng dậy sớm, lo việc công phu lễ bái sớm trong chùa. Đến giờ đi bát, không thấy vị khách Tăng đâu cả, ông ta nói:
- Ông Sư khách nầy, đến giờ vẫn còn ngủ. Ta phải gõ kẻng đánh thức ông ta dậy.
Sau khi lấy đầu móng tay gõ vào kẻng cho có chừng, vị trụ trì ôm bát đi vào làng một mình.
Khi ấy, phú Trưởng giả đã chuẩn bị lễ vật cúng dường, còn đang ngóng trông hai vị Đại đức, thấy vị trụ trì đến, phú ông hỏi: “Bạch Ngài, còn vị khách Tăng đi đâu mà chưa đến?”.
- Nầy đạo hữu, thôi đừng nhắc đến vị Đại đức của ông nữa. Hôm qua, ở đây trở về chùa, ông ta vào nằm luôn trong lều, cho tới sáng hôm nay, tôi dậy quét chùa, xách nước uống, nước xài đầy cả, châm đầy vào các lu khạp. Tiếng khua động, cả đến tiếng kẻng báo giờ đi lấy bát, ông ta cũng chẳng nghe biết chi.
Vốn là bậc trí thức, phú ông ngẫm nghĩ: “Vị Đại đức nầy có oai nghi tế hạnh dường ấy, mà bảo rằng còn ngủ đến giờ nầy thì không có lý. Chắc chắn là vì thấy ta cúng dường trọng thể đến Ngài mà vị trụ trì có buông lời chi xúc phạm đến Ngài chăng?”.
Nhưng phú Trưởng giả vẫn một mực cung kính để bát hộ độ vị trụ trì và khi vị nầy xong bữa, ông xin bát đem rửa thật sạch, rồi sớt đầy bát bằng đồ cao lương mỹ vị và bạch rằng:
- Bạch Ngài, nếu Ngài về gặp vị Đại đức, xin Ngài hoan hỷ sớt bát cơm nầy cúng dường Ngài Đại đức dùm con.
Vị trụ trì nhận lãnh bát cơm, nghĩ thầm: “Nếu ông ta thọ dụng bát cơm nầy, thế nào ông ta cũng sẽ lưu luyến ở mãi nơi đây chẳng sai.”
Về đến nửa đường, vị trụ trì dốc bát đổ sạch bát cơm canh, rồi đi thẳng về lều của vị khách Tăng, nhưng nhìn tìm không thấy vị ấy.
Mặc dù đã tu hạnh Sa môn trong thời gian là hai muôn năm (vīsativassasahassāni), sau khi đã tạo ác nghiệp nặng nề như vậy, thiện pháp của vị Tỳ khưu nầy cũng không đủ sức cứu nổi ông ta. Khi mãn tuổi thọ, ông bị sa vào địa ngục Vô Gián (Avīci) thọ khổ khốc liệt suốt cả một thời gian không có vị Phật. Mãi đến thời Đức Phật hiện tại giáng lâm, ông được tái sanh làm người trong một gia tộc dư ăn dư để (bahu annapāne), cư ngụ trong thành Rājagaha.
Tuy là con nhà khá giả, nhưng từ lúc biết đi cậu bé không bao giờ chịu nằm giường, cũng không chịu ăn cơm, chỉ ăn ròng đồ xú uế do thân mình phóng ra.
Đến tuổi trưởng thành, ông cũng không chịu mặc y phục, cứ ở trần truồng mà đi lang thang, ngủ thì vẫn nằm dưới đất và ăn thì nhai lại những đồ mà mình đại tiện ra.
Khi ấy, cha mẹ ông buồn phiền chán nản, vì ông không thể giáo hóa được, nên bàn tính cùng nhau:
- Thằng nầy chắc cốt tử của nó không phải là con nhà mình, cho nên không biết xấu hổ chi hết. Có lẽ nó hạp với phái tu sĩ Ājīvaka (phái lõa thể).
Thế rồi, hai ông bà đem ông ta cho đứt nhóm ngoại đạo lõa thể, yêu cầu họ cho ông xuất gia nhập đạo.
Phái nầy cho Jambūka xuất gia theo nghi lễ của họ, để cậu đứng dưới một cái mương sâu tới cần cổ, bắt hai tấm ván đè trên vai cậu ta, rồi ngồi trên tấm ván ấy, dùng sóng lá thốt nốt mà cạo đầu của cậu.
Sau đó, cha mẹ cậu thỉnh các tu sĩ Ājīvaka ngày mai đến nhà mình thọ thực, rồi đồng cáo thối.
Ngày hôm sau, nhóm du sĩ lõa thể bảo Jambūka:
- Lại đây, chúng ta cùng nhau đi vào làng.
Tu sĩ mới nầy không chịu đi, nói: “Xin các Ngài cứ đi đi, còn tôi xin được ở lại giữ chùa.”
Nhóm tu sĩ ấy năn nỉ nhiều lần không được bèn ra đi. Khi ấy, Jambūka bèn mở cửa cầu tiêu, tuột xuống hầm cầu, hai tay bốc phẩn vắt thành từng vắt mà ăn. Các tu sĩ Ājīvaka ở trong làng gửi cơm canh về cho Jambūka, nhưng ông ta không thọ lãnh. Khi họ nài ép, ông ta mới trả lời rằng:
- Tôi khỏi cần vật thực nầy, vì tôi có được phần ăn rồi.
- Phần ăn ở đâu mà có?
- Chỉ ở gần đây chứ không xa đâu.
Qua ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư, mỗi khi đi vào làng, nhóm Ājīvaka đều rủ ông ta nhiều lượt, nhưng ông vẫn một mực từ chối không chịu đi, bảo rằng: “Xin cho tôi ở lại chùa.”
Thái độ kỳ hoặc của Jambūka làm cho nhóm tu sĩ ngoại đạo sanh nghi: “Ông đạo nầy hằng ngày không chịu đi vào làng, mà vật thực ta gửi về cho ông, ông cũng chẳng ăn, cứ nói: “Tôi ở đây có phần ăn rồi.” Chúng ta phải rình coi cho biết ông ở lại chùa làm cái gì mới được.”
Thế là, hôm sau khi đi vào làng, họ giao cho hai người ở lại núp xem Jambūka làm cái chi. Cũng như mấy ngày trước, khi thấy nhóm đồng đạo đi vắng hết, Jambūka tuột xuống hầm cầu ăn phẩn, không ngờ bị lộ tẩy, hai tu sĩ nọ bắt được hành động xấu xa của Jambūka, bèn thuật lại cho cả nhóm nghe. Tất cả đều đồng tình rằng: “Chao ôi! Việc nầy thật là tồi tệ quá lắm. Giá như các Thinh Văn của Sa môn Gotama hay biết rằng: “Các tu sĩ Ājīvaka thường ngày ăn phẩn, và truyền bá tin nầy ra thì thật là nhục nhã cho chúng ta. Tên Jambūka nầy không xứng đáng danh là một tu sĩ Ājīvaka chút nào.”
Thế rồi, nhóm tu sĩ ngoại đạo tuyên bố trục xuất Jambūka ra khỏi nhóm mình.
Trong một cánh đồng, chỗ đại chúng phóng uế tự do, có một tảng đá bằng phẳng, trên mặt đá có lỗ trũng xuống rất lớn, đại chúng ưa đại tiện xuống nơi đó. Sau khi bị đuổi ra khỏi chùa, Jambūkājīvaka đi đến gần tảng đá ấy, chờ đêm xuống ra bóc phẩn mà ăn. Ban ngày khi thấy dạng đại chúng đi phóng uế thì ông lấy tay vịn tảng đá và đứng một chân, còn chân kia giơ lên tỳ vào đầu gối chân đứng, miệng thì hả ra, hướng về phía có gió.
Đại chúng thấy vậy, đến gần đảnh lễ ông ta, họ nói:
- Bạch Đại đức, sao Ngài đứng hả miệng như thế?
- Ta lấy gió làm cơm, chớ không có độ vật thực chi khác hết.
- Bạch Ngài, còn tại sao Ngài chỉ đứng có một chân, còn chân kia rút lên tỳ vào đầu gối chân đứng như vậy?
- Bần đạo tu khổ hạnh dị thường lắm, nếu đứng cả hai chân xuống đất thì quả đất sẽ rúng động. Cho nên bần đạo chỉ đứng có một chân còn chân kia co lên như thế. Quả thật ta phải đứng mãi mãi chứ không nằm ngồi bao giờ cả.
Thế thường con người hễ nghe ai già hàm lợi khẩu, nhiều lời biện thuyết thì tin nghe theo. Cho nên đại chúng bảo nhau: “Ôi thật là phi thường, những nhà tu khổ hạnh đến mức ấy, từ trước đến giờ ta chưa từng gặp gỡ vị nào như thế.”
Nhân dân trong hai xứ Aṅga (Ương Già) và Magadha xôn xao, náo động, nườm nượp kéo nhau đến đảnh lễ tu sĩ Jambūka, và hàng tháng mang nhiều lễ vật trọng hậu đến cúng dường ông, nhưng ông ta không thọ lãnh lễ vật của ai hết, bảo rằng:
- Ta chỉ lấy gió làm cơm, chớ không độ vật thực nào khác. Nếu ta ăn món chi khác, sợ hư hỏng, lui sụt hạnh khổ hạnh của ta đi chăng?
Nhiều người cứ theo nài nỉ: “Bạch Đại đức, xin Ngài thương xót tế độ chúng con. Được bậc tu khổ hạnh như Ngài thọ lễ cúng dường thì chúng con mới mong thành tựu sự lợi ích, sự bình an lâu dài đó, bạch Ngài.”
Thấy đại chúng cầu khẩn thái quá, tu sĩ Jambūka cũng phải xiêu lòng, thọ lãnh chút ít bơ, đường, sữa, mật… và nói: “Mấy thứ nầy không gọi là vật thực chi khác, thôi ta thọ lãnh cho cư gia bá tánh được sự lợi ích, sự bình an mà trở về nhà.”
Nói rồi, ông ta lấy đầu ngọn cỏ thơm (kusagga) vít mỗi thứ một chút để lên chót lưỡi nếm cho có vị rồi ra dấu cho thí chủ đi về.
Tu sĩ Jambūka đã trải qua năm mươi lăm năm với nếp sống khổ hạnh dị thường như thế, là luôn luôn trần truồng, ăn phẩn, nhổ tóc và nằm trên đất.
Theo thông lệ, chư Phật hằng quán xét khắp thế gian vào lúc sáng tinh sương. Vì thế, một hôm trong khi Đức Thế Tôn quan sát khắp cõi Diêm Phù Đề vào buổi trời hừng sáng, thì hình ảnh của tu sĩ Jambūka lọt vào giác võng của Ngài. Quán thêm nữa, Đức Thế Tôn thấy rằng tu sĩ ấy có duyên lành chứng A La Hán với Tuệ phân tích. Câu chuyện Ngài tế độ ông ta sẽ được diễn tiến như sau:
Trước tiên, Jambūka sẽ làm như vậy, như vậy, Đức Thầy sẽ thuyết lên một bài kệ, khi bài kệ chấm dứt, tám muôn bốn ngàn chúng sanh sẽ giác ngộ Chánh Pháp. Nhờ nương theo Ngài gia giáo nầy mà đại chúng đạt đến hạnh phúc cao thượng vậy.
Sau khi biết rõ như thế rồi, ngày ấy Đức Bổn Sư vào thành Rājagaha khất thực. Trên đường về chùa, Ngài bảo Đại đức Ānanda:
- Nầy Ānanda! Như Lai sẽ đi đến chỗ ngụ của Jambūkājīvaka.
- Bạch Ngài, Ngài sẽ ngự hành đến chỗ như vậy hay sao?
- Phải đó, Như Lai sẽ đi đến chỗ như vậy.
Nói rồi, Đức Bổn Sư ngự đi ngay đến chỗ ngụ của Jambūka nhằm lúc buổi xế chiều.
Chư Thiên suy nghĩ rằng: “Chiều nay Đức Bổn Sư ngự đến chỗ của Jambūkājīvaka, mà chỗ ở của ông ta là một tảng đá, ngập tràn rác rến dơ dáy, là chỗ thiên hạ đại tiện hết sức uế trược. Vậy ta cần làm mưa gột rửa chỗ ấy.”
Nghĩ rồi, chư Thiên dùng thần lực làm cho mưa xuống tức khắc, dội rửa tảng đá bằng cho sạch sẽ tinh khiết. Kế đó, lại có đám mưa hoa ngũ sắc rơi xuống trên mặt thạch bàn. Đến chiều, Đức Thiên Nhơn Sư đến chỗ ngụ của Jambūkājīvaka, Ngài cất tiếng gọi: “Jambūka.”
Jambūka nghĩ thầm: “Không biết ông nầy là ai mà gọi xách mé tên ta như vậy.” Ông hỏi “Ai đó?”.
- Như Lai đây, Jambūka ạ.
- Ông Đại Sa môn muốn nói chi?
- Ông hoan hỷ cho Như Lai tạm ngụ đêm nay ở đây nhé.
- Ở đây không có chỗ nghỉ, ông Đại Sa môn à.
- Nầy Jambūka, ông đừng nên chia rẽ như vậy. Hãy hoan hỷ cho Như Lai nghỉ nhờ một đêm. Phàm là bậc xuất gia thì tập hợp với bậc xuất gia, người thế tập hợp với người thế và thú vật thì tập hợp với thú.
- Vậy ông có phải là bậc xuất gia chăng?
- Cố nhiên ta là bậc xuất gia.
- Nếu ông là bậc xuất gia, thì bát cơm, bầu nước, những vật tùy thân của bậc xuất gia sao ông không có ?
- Ta có đủ hết, nhưng mang theo làm chi nhiều thứ kềnh càng, đi đứng bất tiện. Ta để nơi kín đáo, khi nào đi bát mới mang theo.
Jambūka nổi giận rằng:
- Nếu thế, ông chỉ mang theo khi đi bát mà thôi à ?
Đức Thế Tôn ôn tồn bảo:
- Nầy Jambūka, đừng nóng nảy. Hãy chỉ chỗ cho Như Lai nghỉ đi.
- Nầy ông Đại Sa môn, ta đã nói: Ở đây không có chỗ nghỉ rồi mà.
Đức Bổn Sư đưa tay chỉ một sườn núi cách đó, nơi trú của Jambūka chẳng bao xa và hỏi: “Ai ở nơi sườn núi đó?”.
- Không ai cả, ông Đại Sa môn à.
- Thế thì, ông hoan hỷ cho Như Lai nghỉ ở đó nghe.
- Nơi đó thì tùy ý ông liệu định, ông Đại Sa môn.
Đức Bổn Sư mang tọa cụ trải nơi sườn núi xong, ngự tọa nơi đó. Đêm hôm ấy, trong canh đầu Tứ Đại Thiên Vương từ bốn hướng phóng ra bốn đạo hào quang, rồi nhập chung lại, bay đến hầu Đức Thế Tôn. Jambūka trông thấy ánh sáng tự hỏi: “Ánh sáng gì đây?”. Trong canh giữa có Đức Đế Thích ngự đến, Jambūka trông thấy Ngài thì nghĩ thầm: “Ông nào vậy?”. Trong canh cuối là Đức Đại Phạm Thiên ngự đến, mỗi ngón tay của Ngài phát ra một đạo hào quang có thể soi sáng cả cõi Ta bà. Cả mười ngón tay phát ra mười đạo hào quang có thể soi cả mười phương thế giới, cho nên khi ấy toàn thể khu rừng chỗ Đức Bổn Sư ngự tọa sáng rực như một đám cháy lớn. Thấy Đại Phạm Thiên, Jambūka tự hỏi: “Ông nầy là ai vậy?”.
Sáng sớm hôm sau, Jambūka đi đến chỗ ngự của Đức Thế Tôn, chào hỏi thân thiện rồi đứng nép một bên, hỏi Ngài rằng:
- Nầy ông Đại Sa môn, hồi đầu hôm có ông nào mà hào quang chói sáng cả bốn góc trời đến chỗ của ông vậy?
- Đó là Tứ Đại Thiên Vương.
- Mấy ổng đến chi vậy?
- Đến để hầu hạ Như Lai.
- Nói vậy thì ông cao thượng hơn cả Tứ Đại Thiên Vương hay sao?
- Phải đó Jambūka, Như Lai quả thật là vị Tối Thượng Vương (atirāja) trên hết các vì vua.
- Còn lúc canh giữa, ông nào đến vậy?
- Thiên Vương Đế Thích.
- Ông đến chi vậy?
- Đến để hầu hạ Như Lai.
- Nói vậy, ông cũng cao thượng hơn Thiên Vương Đế Thích nữa sao?
- Phải đó, Jambūka. Như Lai cao thượng hơn cả Đế Thích. Ông ta là người nuôi bịnh và hầu hạ cơm nước, thuốc men của Như Lai cũng như vị Sa di vậy.
- Còn trong canh chót, ông nào đến mà hào quang chói sáng khắp cả khu rừng vậy?
- Ông đó là Đại Phạm Thiên mà các thầy tế lễ như các thầy Bà la môn trên cõi thế đều nương nhờ kính ngưỡng, và mỗi khi trợt té, mấy ổng thường niệm: “Nam mô Đại Phạm Thiên.” đó.
- Nói vậy, ông còn cao thượng hơn Đại Phạm Thiên nữa sao?
- Phải đó Jambūka! Như Lai quả là vị tối thượng Phạm Thiên, trên tất cả Đại Phạm Thiên.
- Chà! Ông Đại Sa môn thật là bậc phi thường. Ta ở nơi đây ròng rã năm mươi năm rồi, mà trong mấy ông đó không một ông nào đến để hầu hạ ta cả. Mặc dầu suốt cả thời gian dài đăng đẳng ta tu khổ hạnh, lấy gió làm vật thực, mà cũng chưa được mấy ông ấy đến hầu hạ như đối với ông bao giờ.
Khi ấy Đức Bổn Sư bảo:
- Nầy Jambūka! Nhà ngươi quen thói dối gạt đại chúng mù quáng si mê, bây giờ định dối gạt cả Như Lai nữa sao? Trong thời gian năm mươi năm qua, ngươi há đã chẳng lấy phẩn làm cơm, lấy đất làm giường, lấy da mẹ đẻ làm y phục, lấy sống lá thốt nốt làm đồ nhổ tóc hay sao? Thế mà ngươi dám lừa dối thiên hạ nói rằng: “Ta chỉ lấy gió làm cơm, đứng mãi một chân chớ không ngồi, nằm chi cả.” Trong quá khứ, ngươi đã có kiến thức đê hèn, nên hiện tại phải chịu ăn phẩn, nằm đất, lõa thể và nhổ tóc bằng sóng thốt nốt trong bấy nhiêu lâu. Vậy mà giờ đây ngươi còn cố chấp các thứ tà kiến tội lỗi đê hèn ấy mãi ư?
- Trước kia ta đã tạo nghiệp gì đâu, ông Đại Sa môn?
Khi ấy Đức Bổn Sư mới chỉ rõ tiền nghiệp của Jambūka cho ông ta biết.
Nghe Đức Thầy giải đến đâu, Jambūka phát sanh kinh cảm đến đó, hết sức ghê sợ và hổ thẹn tội lỗi của mình. Ông băn khoăn hối hận. Ngay khi ấy, Đức Thế Tôn ném cái choàng tắm (Udakasātaka) xuống, bố thí cho ông ta. Ông vận y rồi, đứng lên đảnh lễ Đức Thầy và ngồi xuống một bên.
Bấy giờ, Đức Bổn Sư mới đem tuần tự pháp thoại mà thuyết cho Jambūka nghe. Nghe dứt thời pháp, ông chứng đắc A La Hán quả với Tuệ phân tích, bèn cúi xuống đảnh lễ Đức Tôn Sư, đoạn đứng lên ngỏ lời xin Ngài cho ông xuất gia và cho thọ luôn Cụ túc giới.
Như thế là từ đây, bao nhiêu nghiệp báo tiền khiên của Tỳ khưu nầy đã hết sạch. Tội mạt sát vị Đại đức Lậu Tận bằng bốn thô ác ngữ của ông trong thời quá khứ đã làm cho địa đại rộng khoảng hai do tuần phải rúng động. Sau khi mạng chung, ông đã bị thiêu đốt trong địa ngục A Tỳ, quả dư sót khiến ông thọ khổ trong năm mươi lăm năm qua, đến nay mới chấm dứt. Còn phần phước ông đã tạo bằng sự thực hành Sa môn Pháp trong hai muôn năm trước không vì tội kia mà hư hoại, cho nên Đức Bổn Sư đưa thẳng cánh tay mặt của Ngài ra, phán bảo:
- Thiện lai Tỳ khưu! Lại đây Tỳ khưu, ông hãy thực hành phạm hạnh đi.
Ngay lúc ấy, ông Jambūka mất hẳn hình dáng người cư sĩ. Trông ông có vẻ nghiêm trang đạo mạo như Đại đức có sáu mươi tuổi hạ, có đầy đủ tám món vật dụng Sa môn (y, bát, dây lưng, dao cạo, ống đựng kim, bình lọc nước).
Dân chúng trong hai xứ Aṅga và Magadha đều nghe danh của Jambūka, nên ngày nào cũng mang lễ vật đến cúng dường ông. Sáng hôm ấy, khi họ đến trông thấy Đức Như Lai thì phân vân tự hỏi: “Không biết Đại đức Jambūka của mình với Sa môn Gotama, ai lớn hơn ai?”. Rồi họ tự giải đáp rằng: “Nếu như Sa môn Gotama lớn hơn thì Đại đức của mình phải đi đến chỗ của ông ta. Đằng nầy, Sa môn Gotama đi đến tìm Đại đức của mình thì chắc hẳn là Đại đức của mình lớn hơn rồi vậy.”
Đức Bổn Sư hiểu rõ tư tưởng của đại chúng, bèn phán:
- Nầy Jambūka! Ông hãy đoạn nghi cho tín đồ của ông đi.
- Bạch Ngài, con cũng định làm như vậy.
Rồi Ngài Jambūka nhập vào Tứ thiền, đoạn đứng dậy bay bổng lên cao cỡ khoảng cây thốt nốt, tuyên bố rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là Đức Tôn Sư còn con là Thinh Văn đệ tử của Ngài.
Nói rồi, từ trên hư không ông đáp xuống đảnh lễ Ngài, đoạn bay lên cao độ hai cây thốt nốt, cao khoảng ba cây thốt nốt…cho đến lần cuối cao khoảng bảy cây thốt nốt, tuyên bố lên như trước, đoạn hạ xuống đảnh lễ Đức Thế Tôn, cho đại chúng biết mình là Thinh Văn của Đức Thế Tôn.
Thấy vậy, đại chúng nghĩ thầm: “Ôi! Ân đức của Đức Phật thật là vô thượng, phi thường.”
Nhân lúc quần chúng phát tâm tín ngưỡng, Đức Bổn Sư thuyết pháp để phá chấp tà kiến của họ, Ngài bảo:
- Tỳ khưu nầy, bấy lâu nay cho rằng mình ở đây hành đạo cao thượng(papacaraṇa), cho nên lễ vật của các người đem dâng cúng, ông chỉ lấy ngọn cỏ thơm, vít một chút để lên chót lưỡi mà thôi. Nhưng cho dầu lúc trước, ông có tu hành khổ hạnh như thế cả trăm năm đi nữa, việc làm ấy của ông chẳng có giá trị bằng một phần mười sáu của người hiểu thông chân lý nhịn ăn một bữa cơm vì có tâm nghi ngại sợ ô nhiễm phạm hạnh của mình.
Tiếp theo, Đức Bổn Sư thuyết pháp, giải rộng thêm, rồi đọc lên kệ ngôn rằng:
70. “Māse māse kusaggena,
bālo bhuñjeyya bhojanaṃ;
Na so saṅkhātadhammānaṃ,
kalaṃ agghati soḷasinti.”
70. “Người ngu tháng tháng như nhau,
Ăn chút vật thực bằng đầu cỏ thơm.
So người chứng đắc pháp chơn,
Một phần mười sáu không hơn được mà.”
*
CHÚ GIẢI:
Theo nghĩa lý bài kệ trên, người ngu (bālo) không thông hiểu chánh pháp, đã xuất gia tu theo tà giáo ngoại đạo, không tôn trọng giới luật chẳng hạn. Cho nên mới nghĩ rằng: “Ta quyết tu khổ hạnh cho đến mức rốt ráo.” Thế rồi tháng nầy tháng khác, người ấy chỉ thọ thực chút ít bằng đầu ngọn cỏ thơm, nhưng dầu ép xác như thế cả một trăm năm, công phu của người ấy cũng không có giá trị bằng một phần mười sáu của người chứng đắc chơn lý.
Saṅkhātadhamme: Pháp Giác ngộ tức là pháp tri kiến (ñātadhammo), pháp Quán xét (tūlitadhammo), ở tầng dưới có pháp Giác ngộ của bậc Tu Đà Hườn, còn ở tầng trên có pháp của bậc Lậu Tận, là pháp bậc Thánh nhân, mà người ngu không thể bì kịp một phần mười sáu của các bậc ấy.
Nếu đem so sánh: Tác ý (cetanā) của những người ngu ráng hành khổ hạnh như vậy suốt cả một trăm năm, với tác ý của bậc Giác ngộ chơn lý chịu nhịn một bữa ăn để cho tâm mình khỏi tắc trách, hối hận thì tác ý trước tuy có lâu dài, nhưng giá trị cũng chẳng bằng một phần mười sáu của tác ý sau vậy.
Vả lại, nếu đem quả phước do tác ý của người chứng ngộ chơn lý mà chia ra làm mười sáu phần nhỏ nữa, thì một phần nhỏ của quả phước nầy cũng còn to lớn gấp bội công phu khổ hạnh của người ngu kia.
*
Khi Đức Bổn Sư chấm dứt pháp thoại, có đến bốn muôn tám ngàn chúng sanh giác ngộ chân lý.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Hành khổ mong cho thoát khổ sầu,
Tu theo tà kiến, khổ thêm lâu,
Ăn dơ, lấy bụi thay quần áo,
Ngủ đất, dùng cây nạo tóc râu.
Quả ác trổ qua ngày cuối chót,
Căn lành nhớ lại hạnh ban đầu,
Ngồi nghe Phật thuyết kinh tuần tự,
Hào Cẩu Tỳ khưu đắc đạo mầu.
DỨT TÍCH JAMBŪKĀJĪVAKA
70. Senseless austerities of reduced eating are not worth a fragment of grasping the Dhamma.
70. Những Pháp khổ hạnh nhịn ăn ngu xuẩn không có giá trị bằng một ít kiến thức của người hiểu Chánh pháp.
70. Māse māse kusaggena,
bālo bhuñjetha bhojanaṃ;
Na so saṅkhātadhammānaṃ,
kalaṃ agghati soḷasiṃ. (5:11)
70. Month after month with blady-grass tip
the fool may take his food;
he's not worth the slightest bit
of one who Dhamma knows.
----
V. 12 - Tích NGẠ QUỈ MÌNH RẮN
(Ahipetavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 71)
71. “Na hi pāpaṃ kataṃ kammaṃ,
sajju khīraṃ’va muccati;
Ḍahantaṃ bālamanveti,
bhasmācchanno’va pāvako.”
71. “Nghiệp ác như sữa bò,
Mới vắt chưa nổi dậy,
Như lửa ngún dưới tro,
Ngầm theo đốt kẻ quấy.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Veḷuvana, đề cập đến con ngạ quỉ mình rắn (ahipeta).
Quả nhiên, một ngày nọ, Đại đức Lakkhaṇa (Thiện Tướng), nguyên là một trong số cả ngàn cựu đạo sĩ hỏa giáo (Jatila) rủ Đại đức Moggallāna cùng đi vào thành Rājagaha khất thực. Trong lúc hai Ngài từ trên núi Gijjhakūṭa (Kỳ Xà Quật) đi xuống. Đại đức Moggallāna trông thấy con ngạ quỉ mình rắn nên mỉm cười. Đại đức Lakkhaṇa vì không có thiên nhãn, nên ngạc nhiên hỏi:
- Vì cớ chi mà đạo hữu mỉm cười?
- Thưa đạo hữu, bây giờ không phải là lúc trả lời câu hỏi của đạo hữu, đạo hữu hãy hỏi tôi khi nào chúng ta giáp mặt Đức Thế Tôn.
Sau khi đi bát vào trong thành Rājagaha trở ra, hai bạn đồng đạo đến đảnh lễ Đức Thế Tôn. Ngồi yên chỗ xong, Đại đức Lakkhaṇa liền hỏi rằng:
- Nầy đạo hữu Moggallāna! Lúc ở trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, thấy bạn mỉm cười, tôi có hỏi cho rõ nguyên do, bạn bảo rằng: Nên hỏi bạn trước mặt Đức Thế Tôn. Vậy bây giờ bạn hãy giải rõ việc ấy đi.
Đại đức Moggallāna liền đáp:
- Thưa đạo hữu, buổi sáng nay tôi có mỉm cười khi trông thấy con ngạ quỉ mình rắn. Con quỉ dị hình nầy, đầu giống như đầu người, còn thân thì suôn đuột giống như mình rắn (ahipeta), bề dài của nó ước độ hai mươi lăm do tuần. Từ trước đầu nó, ngọn lửa bốc cháy lên dài tới sau đuôi, rồi lại bắt đầu từ đuôi cháy ra hai bên, cháy ngược tới trước đầu, hoặc từ giữa mình bốc lửa lên cháy lan ra hai bên, rồi từ hai bên mình bốc lên cháy ra hai phía, rồi từ hai phía bốc cháy nhập lại khúc giữa.
Theo tục truyền rằng: Về giống ngạ quỉ nầy có hai con, mình dài đến độ hai mươi lăm do tuần, kỳ dư những con khác chỉ dài độ ba phần tư do tuần mà thôi. Thứ dài hai mươi lăm do tuần như con mình rắn trên đây là một. Còn một con nữa là con ngạ quỉ Ô Nha (kākapeta), hình thù như con quạ.
Con sau này, Đại đức Moggallāna cũng thấy trên đỉnh núi Gijjhakūṭa. Thấy nó bị lửa thiêu đốt, Đại đức có thuyết kệ hỏi tiền nghiệp của nó như vầy:
“Pañcayojanikā jivhā,
sīsante navayojanaṃ;
Kāyo accuggato tuyhaṃ,
pañcavīsatiyojanaṃ;
Kinnu kammaṃ karitvāna,
pattosi dukkhamīdissanti.”
Lược dịch:
“Với lưỡi năm do tuần,
Đầu người chín do tuần,
Mình người dài thườn thượt,
Hai mươi lăm do tuần,
Do nghiệp gì kiếp trước,
Người thọ khổ hiện thân?”
Ngạ quỉ đáp:
“Ahaṃ bhante Moggallāna
Kassapassa mahesino
Saṅghassābhihaṭaṃ bhattaṃ
Āharesiṃ yathicchakanti.”
Lược dịch:
“Bạch Đại đức Mục Kiền Liên
Thời Ca Diếp đại hiền,
Lúc Tăng chưa thọ bát,
Con ăn vụng trước tiên.”
Tiếp theo bài kệ, ngạ quỉ kể tích rằng:
- Bạch Ngài, trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, có nhiều vị vào làng khất thực. Dân trong làng thấy chư Tăng thì phát tâm ái mộ, nên cung thỉnh quí Ngài vào an ngự trong nhà khách sảnh, lấy nước rửa chân quí Ngài rồi thoa xức dầu. Kế đó, họ dưng cháo điểm tâm và đồ ngọt giải lao. Trong khi chờ đến giờ để cúng dường cơm ngọ, họ xúm nhau ngồi nghe thuyết pháp.
Sau thời pháp, các thính giả xin thỉnh bát không của quí Ngài, rồi mạnh ai nấy về nhà của mình, lựa toàn cao lương mỹ vị để đầy mỗi bát mà đem đến khách đường.
Lúc bấy giờ, con là một con quạ đang đậu trên mái nhà khách, thấy vậy mới bay xuống mổ ăn ba lần ba vắt cơm bát. Cơm ấy Đại đức Tăng chưa nhận lãnh cũng như chưa kiểm soát rồi bố thí, cũng không phải là cơm của thí chủ từ nhà mình đem đến, với tác ý cúng dường đến toàn thể Đại đức Tăng.
Vì ăn trước ba vắt cơm ấy, và cũng chỉ có tiền ác nghiệp ấy thôi, mà đến khi mạng chung con phải trả quả, bị thiêu đốt trong lửa địa ngục A Tỳ, quả còn dư sót nên giờ đây phải hóa sanh làm ngạ quỉ Quạ (kākapeta) ở trên núi Gijjhakūṭa, để chịu khổ như thế nầy đây.
Trên đây là tiền tích của ngạ quỉ Quạ, đã thuật lại với Đại đức Moggallāna.
Hôm nay, trước mặt Đức Thế Tôn, Đại đức quả quyết rằng:
- Tôi đã mỉm cười khi thấy ngạ quỉ mình rắn.
Bấy giờ, Đức Bổn Sư xác nhận lời của Đại đức và phán:
- Nầy các Tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Chính Như Lai từ ngày đắc quả Chánh Giác cũng đã từng thấy ngạ quỉ rắn ấy nhưng không nói cho người khác biết vì nghĩ rằng: “Những ai không tin lời Như Lai, ắt gặp sự bất lợi.”
Sau khi minh chứng, xác nhận sự mục kích của Đại đức Moggallāna cùng với Lakkhaṇa trong buổi sáng hôm ấy, Đức Bổn Sư thuyết về nhị thập điều (Vīsativatthūni: Có lẽ hai mươi phận sự của bậc Sa môn: là setthabhūmissayo… sikkhāpadāripūrī (xin xem “Kho tàng Pháp Bảo” của Đại đức Bửu Chơn).
Nghe Pháp xong, chư Tỳ khưu còn muốn biết sinh tiền nghiệp của ngạ quỉ mình rắn, nên bạch hỏi Đức Bổn Sư. Ngài từ bi thuyết tiếp sự tích sau đây:
Tương truyền rằng: Trong thời dĩ vãng xa xưa, có nhiều người hiệp nhau cất lên một thảo xá (paṇṇasālā) ở cạnh bờ sông gần thành Bārāṇasī, rồi dâng đến Đức Phật Độc Giác.
Từ khi an ngự nơi đó, Ngài vẫn thường thường đi vào khất thực trong thành.
Dân chúng trong thành cũng quen lệ, sáng và chiều mang theo lễ vật như hương hoa đi cúng dường Đức Phật Độc Giác. Con đường của mọi người đi viếng Đức Phật xuyên qua đám ruộng cày của một thanh niên nọ, cũng là dân ở trong thành Bārāṇasī. Vì thế, mỗi ngày hai lần sáng và chiều, tất cả đại chúng đi đến thảo xá của Đức Phật Độc Giác, ai cũng giẫm đạp lên đám ruộng của thanh niên ấy.
Chàng trai đã nhiều phen cản ngăn không cho quần chúng giẫm đạp lên đất ruộng của mình, nhưng cũng vô hiệu. Tức quá, không biết làm cách nào khác, chàng ta nghĩ quấy rằng: “Nếu như không có thảo xá của vị Sa môn ở đây, thì họ bặt đường lui tới, đâu có đạp bừa lên ruộng của ta.”
Vì qui tội cho thảo xá của Đức Độc Giác Phật, nên chàng nông phu thừa lúc Ngài đi vào thành khất thực, chàng đập phá những đồ vật dụng của Ngài tan nát, rồi châm lửa đốt luôn cốc lá.
Khi thấy chỗ ngụ của mình đã cháy tiêu, Đức Phật Độc Giác rời bỏ chỗ ấy đi, không chút gì luyến tiếc.
Đại chúng mang hương hoa đến, trông thấy cốc bị cháy, hỏi chuyền nhau rằng: “Không biết Đại đức của chúng ta đi đâu?”. Chàng trai khi ấy cũng có mặt trong nhóm đại chúng, đến chỗ cốc cháy, chàng đứng giữa đám đông tự khoe rằng: “Chính tay tôi đã đốt thảo xá của ông ấy.”
Quần chúng nổi giận la lên: “Hãy giữ chặt tên ấy. Tại vì nó gây tội ác mà chúng ta không còn được gặp Đức Phật Độc Giác nữa.” Rồi kẻ tay chân, người gậy gộc đánh đập chàng nông dân ấy đến vong mạng. Chết rồi, chàng ta bị đọa xuống A tỳ địa ngục, bị thiêu đốt mãi mãi, cho đến khi địa đại cao lên thêm một do tuần mới thoát khỏi nơi đó. Vì còn dư sót quả, chàng ta phải hóa sanh ngạ quỉ Rắn, ở trên núi Gijjhakūṭa hiện nay vậy.
Khi thuật hết tích trên đây, Đức Bổn Sư kết luận rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, nghiệp ác bao giờ cũng giống như sữa tươi vậy. Hễ sữa tươi mới vắt ra không biến chất như thế nào thì nghiệp ác bao giờ khi làm chưa thuần thục như thế ấy. Nhưng khi nghiệp quả chín mùi thì lúc bấy giờ kẻ ác phải mang lấy thống khổ triền miên vậy.
Đức Thế Tôn thuyết pháp giải rộng thêm nghĩa lý trường hợp trên đây, rồi Ngài kết thúc bằng bài kệ nầy:
71. “Na hi pāpaṃ kataṃ kammaṃ,
sajju khīraṃ’va muccati;
Ḍahantaṃ bālamanveti,
bhasmācchanno’va pāvakoti.”
71. “Nghiệp ác vừa mới làm ra,
Như sữa mới nặn khó mà đông ngay.
Tro tàn lửa ngún còn đây,
Ngầm theo kẻ ác, hằng ngày đốt thiêu.”
*
CHÚ GIẢI:
Sajju khīraṃ: Sữa tươi mới nặn, là sữa từ trong vú bò cái mới nặn ra.
Muccati: Là chín mùi, biến chất, nổi dậy. Sữa bò để lâu mới biến chất thành chua hoặc có đóng váng trên mặt, hoặc đông đặc lại, chớ lúc mới vừa nặn ra nó chưa bị mất tính chất sữa tươi của nó. Cho nên người làm sanh tô, lạc, đề hồ cần phải ủ sữa và chờ đợi một thời gian mới có kết quả.
Nghiệp ác cũng vậy, khi mới vừa làm nó chưa trổ quả liền ngay lúc ấy. Nếu quả ác thuần thục ngay thì không có ai dám tạo ác nghiệp cả. Những kẻ làm ác sở dĩ còn sống an nhiên do nhờ nghiệp lành quá khứ còn duy trì Ngũ uẩn hiện tại. Nhưng sau khi Ngũ uẩn phân ly, nghiệp quả thuần thục, những người ấy sẽ sa đọa vào khổ cảnh ác thú chẳng sai.
Ḍahantaṃ bālamanveti: Ngầm theo đốt kẻ ngu.
Bhasmācchannova pāvako: Như lửa ngún dưới tro. Thật thế, than lửa bị vùi lấp dưới tro nóng thì không cháy lên ngọn, vì có tro che. Nhưng ai vô ý cào lớp tro mặt mà đụng nhằm lửa than thì sẽ bị phỏng da mặt, cháy tay ngay và sẽ có cảm giác nóng dữ dội như lửa cháy xém tới trong óc.
Cũng như thế, sau khi tạo nghiệp ác, kẻ ngu bị nghiệp theo đốt mãi mãi, nhứt là bị sa hỏa ngục trong kiếp thứ hai hoặc kiếp thứ ba chẳng hạn.
*
Khi thời pháp chấm dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhứt là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Gặp Phật mà không tạo phước gì,
Còn gây tội ác rõ ngu si,
Ruộng kia trống trải, ngăn người đến,
Đường nọ liền trơn, cấm chúng đi.
Vọng chấp tư điền, đồ địa chất,
Hỏa thiêu thảo xá, cảnh Liên trì,
Nay làm ngạ quỉ mình như rắn,
Thọ khổ trường miên khó thoát ly.
DỨT TÍCH NGẠ QUỈ MÌNH RẮN
71. Results of evil acts ripen not as swiftly as curdling milk. They smoulder like sparks under ash.
71. Hậu quả ác nghiệp không chín ngay, cũng như sữa không đông ngay. Chúng cháy ngầm như đốm lửa dưới tro tàn.
71. Na hi pāpaṃ kataṃ kammaṃ,
sajju khīraṃ’va muccati;
Ḍahantaṃ bālamanveti,
bhasmācchanno’va pāvakoti. (5:12)
71. As milk, is evil kamma done,
so slowly does it sour.
Smouldering does it follow the fool
like fire with ashes covered.
----
V. 13 - Tích NGẠ QUỈ BỊ BÚA ĐẬP ĐẦU
(Saṭṭhīkūṭapetavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 72)
72. “Yāvadeva anatthāya,
ñattaṃ bālassa jāyati;
Hanti bālassa sukkaṃsaṃ,
muddham assa vipātayanti.”
72. “Trí danh và tai hại,
Đồng đến với kẻ dại,
Phá thiện pháp để dành,
Đập đầu y tan hoại.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Veḷuvana, đề cập đến ngạ quỉ bị búa đập đầu (Saṭṭhīkūṭapeta). Quả nhiên, cũng như trong truyện tích trước, khi Đại đức Moggallāna đang đi với Đại đức Lakkhaṇa từ trên núi Gijjhakūṭa xuống, đến một địa điểm nọ, Ngài mỉm cười. Để trả lời câu hỏi về lý do của cái cười nầy, Ngài bảo bạn đồng hành:
- Đạo hữu nên hỏi tôi trước mặt Đức Bổn Sư.
Thế rồi, sau khi đi bát xong, hai vị Đại đức đồng đến bái kiến Đức Bổn Sư. Khi ngồi xuống đã yên nơi rồi, Đại đức Lakkhaṇa nhắc lại câu hỏi buổi sáng.
Đại đức Moggallāna đáp: “Thưa đạo hữu, tôi đã thấy một con ngạ quỉ thân hình cao lối ba phần tư do tuần. Phía trên đầu nó có đến sáu muôn cái búa sắt cháy lên ngọn lửa, bay lên giáng xuống không ngớt, đập đi đập lại sọ óc của nó nát tan, rồi lại huờn như cũ. Từ trước đến giờ, tôi chưa từng gặp chúng sanh nào có hình thù như thế, nên nay thấy nó, tôi mỉm cười.”
Trong kinh: Chuyện ngạ quỉ (Petavatthu) có bài kệ như vầy:
“Saṭṭhī kūṭasahassāni,
paripuṇṇāni sabbaso;
Sīse tuyhaṃ nipatanti
obhindanteva matthakanti.”
Lược dịch:
“Sáu muôn búa sắt,
Đều đủ một loạt,
Rớt xuống đầu người,
Đập cho nó nát.”
Bài kệ nầy đề cập đến con ngạ quỉ mà Đại đức Moggallāna vừa mới ngó thấy đây vậy.
Khi nghe Đại đức Moggallāna vừa nói dứt lời, Đức Bổn Sư xác nhận rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, Như Lai cũng đã từng thấy chúng sanh ấy từ khi đắc quả Chánh Đẳng Giác dưới cội Bồ Đề, nhưng vì lòng bi mẫn, Như Lai không hề thố lộ với những người khác, vì e có những kẻ không tin lời Như Lai sẽ gặp phải điều bất hạnh. Bây giờ, đã có Moggallāna là nhân chứng, nên Như Lai mới nói rõ ra đây.
Nghe vậy, chư Tỳ khưu bạch xin Đức Thế Tôn giải về tiền nghiệp của con ngạ quỉ nát đầu. Do đó, Đức Bổn Sư thuyết sự tích sau đây:
Tương truyền rằng: Thời quá khứ trong thành Bārāṇasī có người đàn ông què, nhưng y có tài về thuật búng giàn thun (Sālittakasippa) bá phát bá trúng.
Hằng ngày, anh ta đến ngồi dưới gốc một cây đa to tại cổng vào thành. Lũ trẻ con trong làng xúm nhau yêu cầu: “Chú lấy sạn bắn thủng lá cây da cho thành hình con voi coi chú, cho thành hình con ngựa coi chú…”.
Nhờ biểu diễn tài bắn đạn cho nhóm nhi đồng coi thỏa thích, nhà thiện xạ què được chúng đem cơm bánh, vật thực đến cho anh ta ăn.
Một hôm, có đoàn xa giá đức vua ngự đi đến tại gốc cây da tại cổng thành. Lũ trẻ lôi anh què vào giữa những chùm rễ phụ của cây da rồi bỏ chạy trốn hết.
Đức vua ngự vào đứng tại gốc cây da để nghỉ mát, Ngài thấy bóng râm phủ lên long thể loang lổ khác thường. Ngài tự nghĩ: “Sao kỳ lạ thế?”. Khi ngước nhìn lên thấy những hình voi, ngựa… theo các lỗ thủng trong tàng lá cây, đức vua phán hỏi: “Ai đã làm việc nầy?”.
Khi nghe thị thần đáp là: “Anh què làm.”, đức vua cho đòi anh ta đến trước long nhan và phán rằng: “Viên Ngự sử (purohito) của trẫm rất già hàm lợi khẩu. Dầu trẫm có cố gắng khuyên nhủ nhiều phen, ông ta vẫn cứ lắm lời, khiến trẫm phải bực bội khó chịu. Nhà ngươi có thể bắn chừng một gáo phân dê vào miệng ông ta được không?”
- Tâu hoàng thượng, được. Xin hoàng thượng cho người đặt con ngồi sau bức rèm có khoét lỗ nhỏ. Rồi hoàng thượng cùng ngồi với quan Ngự sử phía ngoài. Con sẽ có cách thừa hành thánh lịnh.
Đức vua làm y theo kế của anh què.
Anh nầy lấy mũi dao nhọn khoét một lỗ trống trong bức rèm, rồi theo đó phóng viên phân dê vào miệng vừa hả ra của viên Ngự sử đang ngồi lý luận với đức vua. Mải mê hùng biện để thuyết phục đức vua, vị quan già không hay biết có chuyện khác thường. Hễ lọn phẩn nào lọt vào miệng là ông ta nuốt luôn viên phẩn ấy với nước miếng.
Khi đã bắn hết phân dê, anh què lay động bức rèm. Đức vua nhận được mật hiệu của anh ta, biết là phân dê đã hết, bèn phán bảo viên Ngự sử: “Nầy khanh Đại học sĩ (ācariya), quả nhân chịu thua, không thể nào biện luận hơn khanh nổi, vì khanh già hàm lợi khẩu quá! Nuốt hết gáo phân dê rồi mà khanh chưa chịu ngậm miệng làm thinh.”
Vị quan Bà la môn hết sức hổ thẹn, từ đó không thể mở miệng nói thêm lời nào với đức vua nữa.
Đức vua hài lòng, triệu anh què vào cung và phán rằng:
- Nhờ khanh mà trẫm mới được an vui.
Đoạn nhà vua ban thưởng cho anh ta đủ thứ phẩm vật, và còn ân tứ thêm bốn làng trù phú (gāmavara) ở bốn phía thành.
Khi hay biết chuyện nầy, vị quân sư (amacco) đắc lực của đức vua có thuyết kệ rằng:
“Sādhu kho sippakannāma,
api yādisakīdisaṃ;
Passa khañjappahārena,
laddhā gāmā catuddisāti.”
“Nếu tập luyện cho tinh,
Nghề nào cũng là vinh,
Như anh què bắn sạn,
Được làng bốn phương thành.”
Vị quân sư lúc bấy giờ chính là Như Lai ngày nay vậy.
Thời ấy, có gã nam tử (puriso) trông thấy anh què được hiển vinh phú túc, tự nói thầm rằng: “Ông què nầy còn được tài sản lớn lao, chỉ nhờ vào tài bắn sạn. Vậy ta cũng cần học tập nghề ấy.”
Nghĩ rồi, thanh niên đến bái kiến ông què để xin thọ giáo.
Chàng nói:
- Xin giáo sư (ācariya) truyền nghề bắn sạn cho con.
- Ta không thể truyền nghề bắn sạn cho chú em được.
Tuy bị từ chối, thanh niên cũng không nản chí, cứ lân la chìu chuộng, đấm bóp tay chân, phục thị ông thầy què, quyết làm cho ông hài lòng mà thâu nạp mình làm đệ tử. Lâu lâu, mỗi khi thấy thầy có vẻ vui, chàng nhắc lại lời yêu cầu.
Về sau, ông xạ sư cũng siêu lòng, không nỡ phụ rẫy công lao khó nhọc của người hầu hạ, ông mới đem hết sở trường của mình truyền lại cho y. Khi thanh niên đã tinh thông nghề bắn sạn, giáo sư hỏi chàng: “Bây giờ con đã thành nghề, vậy con định sẽ làm gì sau khi xuất sư?”.
- Thưa thầy, con sẽ ra đi để thực hiện tài nghệ của con.
- Nghĩa là con sẽ làm gì?
- Dạ thưa, con sẽ hạ sát bò cái hay là người ta bằng một phát đạn.
- Con ơi, con bắn chết bò cái thì phải bồi thường một trăm đồng vàng, còn bằng bắn chết người thường dân thì phải bồi thường ngàn đồng vàng nhân mạng. Con đem bán vợ đợ con mà mang tai họa đó con. Trừ khi vật gì không gia tộc, cha mẹ vợ con chi, khi bị bắn thì không có ai đòi tiền thiệt hại.
- Thưa sư phụ, vâng.
Đoạn chàng ta lượm sạn bỏ đầy một cái bao nhỏ mang theo kè trên bắp vế, ra đi tìm mồi. Gặp con bò cái, gã không dám hạ sát, vì nghĩ rằng: “Con bò nầy có chủ.”
Thời bấy giờ, có vị Độc Giác Phật (Paccekabuddha) hồng danh là Thiện Nhân, Ngài an cư trong một thảo xá ở phụ cận thành. Lúc ấy, Ngài đi vào thành khất thực, còn đang đứng tại cổng thành.
Thấy Ngài, thanh niên nghĩ rằng: “Ông nầy không cha, không mẹ, không bà con họ hàng chi cả, có bắn chết ông ta cũng không ai đòi bồi thường nhân mạng. Vậy để ta bắn ông nầy thí nghiệm tài nghệ của ta.”
Giương giàn thun thẳng cánh, thanh niên nhắm ngay lỗ tai phải của Đức Phật Độc Giác, bắn ra một phát. Viên sạn bay vào lỗ tai phải, rồi lọt ra ngoài theo lỗ tai trái. Đức Phật Độc Giác thọ khổ thái quá, không đi bát được nữa, nên bay về thảo xá và Vô dư Níp Bàn.
Dân chúng thấy vắng bóng Đức Phật đi trì bình, nghĩ: “Chắc có lẽ Ngài đau yếu chi chăng?”.
Khi đến thảo xá, trông thấy Ngài đã viên tịch, ai cũng thở than, khóc lóc.
Thấy thiên hạ kéo nhau đến thảo xá, thanh niên cũng đi theo. Đến chỗ nhục thể của Đức Độc Giác, chàng tự thú nhận rằng mình đã hạ sát Ngài: “Ông nầy đi vào thành khất thực, còn đang đứng giữa cổng, ngay trước mặt tôi. Hôm nay là ngày tôi xuất sư, nên tôi bắn ông ta để thử tay nghề đó.”
Đại chúng đồng thanh la ó: “Giữ chặt nó lại, giữ chặt nó lại. Hắn đã tự xưng là thủ phạm bắn chết Đức Phật Độc Giác của chúng ta.” Thế rồi, phần đông xúm nhau đánh đập gã thanh niên sát nhân cho đến khi y mệnh chung. Chết rồi, chàng ta bị đọa vào hỏa ngục Vô Gián (Avīci), bị thiêu đốt rất lâu, cho đến thời địa cầu nầy dày thêm một do tuần, mới thoát khỏi nơi đó. Do quả còn dư sót, chàng ta hóa sanh làm con ngạ quỉ bị búa đập đầu ở trên núi Gijjhakūṭa.
Thuật dứt câu chuyện nầy, Đức Bổn Sư kết luận rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Phàm là người ngu mà được nghề nghiệp thiện xảo hoặc của tiền quyền chức, thì họ tự hại lấy bản thân như thế.
Đức Bổn Sư thuyết pháp giải rộng thêm nghĩa lý, rồi đọc kệ ngôn rằng:
72. “Yāvadeva anatthāya,
ñattaṃ bālassa jāyati;
Hanti bālassa sukkaṃsaṃ,
muddham assa vipātayanti.”
72. “Người ngu được trí danh nhiều,
Tài cao để khiến tự chiêu tội tình.
Làm tiêu thiện pháp để dành,
Đầu y cũng phá tan tành chẳng sai.”
*
CHÚ GIẢI:
Yāvadeva: Là tiếng liên từ hay tiếp tục từ (nipāto) có ý nghĩa là vô lượng vô biên (avaddipanicchedana).
Ñattaṃ: Là trạng thái của người có kiến thức, có danh tiếng, người nào có nghề nghiệp hay nghiệp giỏi hoặc có quyền cao chức trọng thì bao giờ cũng được tiền của danh vọng, từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Ai ai cũng nghe biết đến thân thế của họ một cách rõ ràng. Tiếng Ñattaṃ hàm cả hai ý nghĩa như trên.
Đối với người ngu, hễ tài năng, chức nghiệp hoặc là của tiền quyền thế phát sanh lên lúc nào thì tai họa cũng đồng thời phát sanh lên y lúc ấy. Bởi vì y ỷ vào trí danh ấy mà tự chiêu lấy tội vào thân.
Hanti: Phá hủy, tiêu diệt.
Sukkaṃsaṃ: Là thiện pháp để dành, tức là phước tích trữ do nghiệp lành quá khứ.
Quả nhiên, trong lúc trí danh bắt đầu phát sanh lên cho kẻ ngu thì vốn thiện pháp để dành từ trước của y cũng bắt đầu suy sụp, tiêu hoại.
Muddhaṃ: Là cái đầu hay cân não, nghĩa bóng là trí tuệ.
Vipātayaṃ: Là tiêu diệt, phá tan, đập vỡ ra. Quả nhiên, người ngu bị trí danh phá tan vỡ thiện pháp của họ, phá tan vỡ luôn cái gọi là trí tuệ, đầu não của họ nữa.
*
Thời pháp vừa dứt, nhiều vị Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhứt là quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Người ngu được thế dám làm ngang,
Gặp bậc chân tu bắn giết càng,
Sạn nhỏ một viên vào óc Phật,
Búa to muôn cái đập đầu chàng.
Phô danh chưa thấy danh thêm rạng,
Tạo khổ nào hay khổ lại mang,
Hỏa ngục thiêu còn dư sót lại,
Làm thân ngạ quỉ đỉnh Linh Sơn.
DỨT TÍCH NGẠ QUỈ BỊ BÚA ĐẬP ĐẦU
72. Learning of the unwise leads to his destruction. Blasting his goodness it ruins him totally.
72. Kiến thức của người ngu đưa kẻ ấy đến chỗ diệt vong. Nó tàn phá vận may và hủy hoại kẻ ấy.
72. Yāvadeva anatthāya,
ñattaṃ bālassa jāyati;
Hanti bālassa sukkaṃsaṃ,
muddhamassa vipātayaṃ. (5:13)
72. Truly to his detriment
skill is born to the fool;
ruined is his better nature
and scattered are his wits.
----
V. 14 - Tích ĐẠI ĐỨC THIỆN PHÁP
(Sudhammattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 73-74)
73. “Asantaṃ bhāvanamiccheyya
purekkhārañ ca bhikkhusu;
Āvāsesu ca issariyaṃ,
pūjā parakulesu ca.”
73. “Ham danh không tương xứng,
Chức vị Tỳ khưu trưởng,
Quyền hành tại chùa chiền,
Lễ vật ngoại nhân cúng.”
74. “Mam’eva kata maññantu,
gihī pabbajitā ubho;
Mam’eva ativasā assu,
kiccākiccesu kismici;
Iti bālassa saṅkappo,
icchā māno ca vaḍḍhati.”
74. “Mỗi việc chính ta làm,
Tăng tục cả hai ban,
Phải tùy ta sắp đặt,
Từng chi tiết nhỏ nhặt,
Người ngu chỉ bao hàm,
Càng ngã mạn tham lam.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an cự tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Thiện Pháp (Sudhamma) và một cận sự nam. Chuyện ấy phát khởi từ thành Macchikāsaṇḍa (Mạc Thi Ca), về sau chấm dứt tại thành Sāvatthī (Xá Vệ).
Quả thật, trong thành Macchikāsaṇḍa (Mạc Thi Ca), có vị cư sĩ tên là Citta (Hữu Tâm), khi trông thấy Đại đức Mahānāma, thuộc nhóm năm vị Kiều Trần Như, đang trì bình khất thực, tướng mạo trang nghiêm thì sanh lòng tín ngưỡng, bèn ra rước bát và thỉnh Đại đức vào nhà để cúng dường thực phẩm.
Sau khi Đại đức thọ thực xong, ông được Đại đức thuyết pháp cho nghe, khiến ông đắc quả Tu Đà Hườn. Với đức tin kiên cố, ông muốn kiến tạo một ngôi vườn du ngoạn của mình, mệnh danh là Ambāṇakavana, thành một cảnh Già Lam của Đại đức Tăng, nên ông làm lễ dâng cúng ngôi vườn bằng cách xối nước lên tay của Đại đức Mahānāma và phát nguyện rằng: “Ngay trong sát na nầy, xin cho Phật Pháp được thành tựu.” Nước xối vừa hết thì khắp mặt địa cầu đều chuyển động.
Tiếp theo đó, nhà đại gia sản lo sửa sang ngôi vườn, lập nên ngôi đạo tràng đại tự, là nơi lúc nào cũng mở rộng cửa ngõ mà đón tiếp khách Tăng tứ phương. Đại đức Sudhamma được cử làm vị trụ trì ở xứ Macchikāsaṇḍa.
Khi hay tin hai vị Thượng Thinh Văn của Đức Thế Tôn đi gần đến, ông Citta ra đi một quảng đường xa nửa do tuần để nghinh tiếp và đưa Ngài về chùa mình. Lo phục dịch cho hai vị khách Tăng, tẩy trần và dâng nước giải lao xong, ông ngỏ lời xin Đức Pháp Chủ (Dhammasenāpati):
- Bạch Ngài, con ao ước được nghe thuyết pháp đã lâu. Xin Ngài từ bi hoan hỷ ban bố cho con một vài lời.
Khi ấy, Đại đức Sārīputta đáp:
- Nầy ông thiện nam, chư Tăng chúng tôi còn mệt mỏi vì đi đường xa, nên chỉ thuyết chút ít thôi. Vậy ông hãy rán nghe.
Trong lúc vị Pháp chủ thuyết pháp, ông Citta chú ý lắng nghe và đắc quả A Na Hàm.
Đến cuối thời pháp, ông đảnh lễ hai vị Thượng Thinh Văn:
- Bạch hai Ngài, con xin cung thỉnh hai Ngài cùng với một ngàn vị Tỳ khưu, ngày mai đến thọ thực nơi nhà con.
Thỉnh những khách Tăng trước rồi, sau đó ông Citta mới thỉnh đến vị trụ trì là Đại đức Sudhamma: “Bạch Ngài, con cũng xin thỉnh Ngài, ngày mai đi chung với hai Ngài Đại đức.”
Cho rằng mình bị mất mặt vì được thỉnh sau các vị khách Tăng, vị trụ trì nổi giận khước từ ngay. Mặc dầu thí chủ van nài khẩn khoản, Đại đức cũng không đổi ý.
Thấy vậy, ông thiện nam Citta đành ra về với lời từ giã:
- Bạch Ngài, xin Ngài thông cảm giùm con.
Ngày hôm sau, ông Citta ở nhà lo sắp đặt cuộc lễ Trai Tăng rất long trọng.
Từ mờ mờ đất, vị trụ trì ở chùa cũng không ngồi yên, nghĩ thầm rằng: “Để sáng mai ta đến nhà thí chủ coi ông ta cúng dường hai vị Thượng Thinh Văn những lễ vật thế nào cho biết.”
Chờ khi trời sáng tỏ, Đại đức Sudhamma đắp y mang bát, đi đến nhà Citta, nhưng không chịu ngồi. Mặc dầu gia chủ có lời cầu thỉnh, Đại đức nói rằng: “Ta không ngồi đâu, ta sẽ đi trì bình khất thực.”
Nói rồi, Đại đức đưa mắt nhìn xem những lễ vật sắp đem cúng dường đến hai vị Thượng Thinh Văn, cố ý muốn xúc phạm đến dòng dõi gia chủ, mới bảo rằng:
- Nầy gia chủ, những lễ vật cúng dường của ông trọng thể quá, nhưng hiềm vì còn thiếu một món.
- Bạch Ngài, còn thiếu món chi.
- Bánh mè (Tilasaṅkulikā), gia chủ ạ.
Nghe lời châm chích khiếm nhã, ông Citta thuật chuyện ngụ ngôn “Con quạ và con gà mái”, có ý khuyên vị trụ trì thốt ra những lời đạo đức như Phật ngôn chẳng hạn, chớ đừng dùng những tiếng lóng như tiếng “bánh mè”.
Đại đức Sudhamma bất mãn còn nóng nảy thêm, vì đổ lỗi cho ông cư sĩ, dám so sánh mình với con quạ: “Nầy, gia chủ, Ta sẽ ra khỏi đất chùa của ông liền bây giờ đây.”
Mặc dầu ông Citta hết sức phân trần là mình không dám nói phạm thượng và yêu cầu Đại đức Sudhamma đến ba lượt, Đại đức cũng bỏ chùa, đi về Sāvatthī đảnh lễ Đức Bổn Sư và tường trình cuộc đấu khẩu giữa Đại đức và ông Citta.
Đức Bổn Sư phán rằng: “Cận sự nam của ông là người có đức tin trong sạch, mà ông lại thô lỗ cộc cằn miệt thị người ta.” Phán rồi, Đức Bổn Sư triệu tập Tăng chúng, dạy tụng tuyên ngôn khuyến cáo, nhắc nhở (paṭisāranīyakammaṃ) Đại đức Sudhamma (bài tuyên ngôn bằng Pāḷi có ghi trong Tạng Luật, quyển thứ 9, chương 134).
Sau khi sám hối giữa chư Tăng, Đại đức còn phải vâng lời Đức Bổn Sư trở về chùa để chịu lỗi với ông Citta nữa.
Về chỗ cũ, đến giáp mặt ông thiện nam Citta, Đại đức nói:
- Nầy gia chủ, ta đã biết lỗi, người hãy miễn lỗi cho ta.
Nhưng gia chủ Citta từ chối không chịu tha thứ, nói rằng:
- Con không thể tha thứ.
Đại đức Sudhamma ngỡ ngàng quá, không mở miệng được, vì nhớ lại chuyện mình đã cương quyết bác bỏ lời thỉnh cầu của ông ta. Đại đức làm thinh quay về Sāvatthī một lần nữa.
Vẫn biết vị Tỳ khưu nầy cống cao ngã mạn, nhứt định không chịu lỗi với thiện nam, thà là đi suốt quãng đường xa ba mươi do tuần rồi trở về không, nên Đức Bổn Sư cứ để cho đi mà không chỉ dạy cách thức xin lỗi làm sao cả.
Khi Đại đức trở về Jetavana, Đức Bổn Sư phái một Tỳ khưu khác cùng đi với Đại đức để giúp cho Đại đức tự thắng được tánh ngã mạn và dạy rằng:
- Ông hãy đi chung với ông nầy đi xin lỗi ông thiện nam.
Đức Bổn Sư còn nhấn mạnh thêm rằng:
- Hễ là Sa môn thì không nên nghĩ quấy như vầy: Chùa của ta, đạo tràng của ta, thiện nam của ta, tín nữ của ta hoặc lộ vẻ kiêu căng, tật đố. Vì làm như thế thì các thứ phiền não, nhất là tật đố và ngã mạn tự nhiên tăng trưởng thêm lên.
Kết luận xong, Đức Bổn Sư thuyết pháp, đoạn Ngài chấm dứt bằng kệ ngôn rằng:
73. “Asantaṃ bhāvanamiccheyya
purekkhārañ ca bhikkhusu;
Āvāsesu ca issariyaṃ,
pūjā parakulesu ca.”
73. “Ham danh không xứng đức tài,
Chức vị Sư trưởng quyền oai nhất chùa.
Gồm thâu đệ tử tín đồ,
Lễ vật dâng cúng dư thừa cũng cam.”
74. “Mam’eva kata maññantu,
gihī pabbajitā ubho;
Mam’eva ativasā assu,
kiccākiccesu kismici;
Iti bālassa saṅkappo,
icchā māno ca vaḍḍhati.”
74. “Việc nầy do chính ta làm,
Việc lớn, việc nhỏ bao hàm tự ta…
Người ngu cứ tưởng sai ngoa,
Muốn cho Tăng tục biết qua việc mình.
Nên lòng ngạo mạn phát sinh,
Lòng tham lam cũng mặc tình gia tăng.”
*
CHÚ GIẢI:
Asantaṃ…: (Là danh không xứng): Nghĩa là Tỳ khưu ngu dốt lại ham muốn danh vọng mà mình không xứng đáng vì thật không có tài đức, ví dụ mình không có chánh tín mà tuyên bố: Tôi là người có chánh tín và muốn cho ai nấy cũng nhìn nhận mình là người có chánh tín. Do tà dục, người ngu nói ra những lời tương tự như vậy, chẳng hạn mình là người tà tín, phá giới, ít kiến văn, không thích độc cư, biếng nhác, tâm bất định, trí tuệ kém, chưa dứt trừ lậu hoặc mà vẫn tuyên bố: “Hãy biết rằng tôi là người ai cũng tán dương: Đây là bậc chánh tín, bậc giới đức, bậc đa văn, bậc độc cư, bậc tinh tấn, bậc có tâm thanh tịnh, có đầy đủ trí tuệ, là bậc Lậu Tận.” Như vậy gọi là ham danh không xứng đáng.
Purekkhāraṃ: Chức vị Tỳ khưu trưởng (dẫn đầu cả nhóm), nghĩa là ham muốn chỗ ngồi trên trước cả đoàn Tỳ khưu trong chùa, để Tăng chúng hộ tống mình và bẩm bạch hỏi han mọi công việc.
Āvāsesu: (Quyền hành tại chùa chiền, nơi đạo tràng): Là trong chỗ ngụ của Tăng chúng, như ở giữa vườn chùa có chỗ ngồi cao sang thì mình dành riêng cho các Tỳ khưu bạn mới bạn cũ của mình. Chính mình chiếm địa điểm quí báu nhất. Còn đối với các khách Tăng thì chỉ định những chỗ ngụ dơ bẩn, bất tiện, ở bên ranh vườn chùa và chỗ có phi nhơn giữ gìn. Như vậy là muốn chiếm độc quyền về chỗ ngự trong chùa.
Pūjā parakulesu ca: (Lễ vật ngoại nhân cúng): Tỳ khưu có tâm tham tứ vật dụng của tín thí cúng dường, muốn rằng: “Cha, phải chi họ chỉ dưng đến một mình ta, chớ đừng dưng cho ai khác hết.”
Mam’eva kata maññantu, gihī pabbajitā ubho: (Mọi việc chính ta làm, Tăng tục cả hai ban): Người ngu hằng tư duy, tự lập công trạng như vầy: Tất cả hai bên Cư sĩ và Xuất gia phải biết rằng: Bất cứ việc chi lớn nhỏ trong chùa từ việc quét tước, sắp đặt trong chỗ Tăng phát lộ cho đến việc kiến thiết những cơ sở mới đều do Đại đức của ta đứng ra chỉ huy mới thành tựu, mới kết quả mỹ mãn.
Mam’eva ativasā assu, kiccākiccesu kismici: (Phải tùy theo ta sắp đặt, từng chi tiết nhỏ nhặt.) Người ngu tư duy như vầy: Tất cả hai hạng Cư sĩ và Xuất gia đều nhờ quyền lực ảnh hưởng của ta mới có được nào là xe cộ, bò bê, dao mác, búa rìu. Dầu là việc nhỏ nhen như việc nấu cháo ăn sáng, tất cả mọi công việc lớn nhỏ phải làm cách nào đều phải hỏi lại ta để ta định đoạt.
Iti bālassa saṅkappo, icchā māno ca vaḍḍhati: (Người ngu nghĩ như vậy, càng ngã mạn tham lam). Khi tà tư duy đã phát sanh lên như vậy thì không bao giờ có được Tuệ minh sát hay là Đạo quả tăng tiến được nữa. Trái lại, ái dục (taṇhā) sẽ dấy lên theo sáu cửa và đồng tăng trưởng với tâm ngã mạn như toàn thể nước thủy triều dưng lên trong dục hải.
*
Khi thời pháp chấm dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhứt là Dự Lưu.
Đại đức Sudhamma nghe Đức Thế Tôn ban huấn từ xong, đảnh lễ Ngài, rời khỏi chỗ ngồi, đứng lên nhiễu quanh Ngài ba vòng, đoạn cùng vị Tỳ khưu bạn lên đường đi Macchikāsaṇḍa.
Vừa trông thấy ông thiện nam Citta, Đại đức đã lên tiếng chịu lỗi và xin ông miễn thứ. Ông Citta đáp:
- Bạch Ngài, con xin miễn lỗi cho Ngài. Nếu con có lỗi chi, xin Ngài tha thứ cho con.
Sau khi sám hối với ông thiện nam, Đại đức Sudhamma lấy huấn từ của Đức Bổn Sư làm đề tài suy niệm và ngày sau Đại đức đã giác ngộ đắc ngay quả A La Hán với Tuệ phân tích.
Còn ông thiện nam nghĩ thầm: “Từ lúc đắc quả Tu Đà Hườn ta chưa gặp được Đức Bổn Sư, kế đến đắc quả A Na Hàm ta cũng chưa gặp được Ngài. Vậy ta phải đến bái yết Ngài mới được.”
Thế rồi, ông Citta chuẩn bị lễ vật cúng dường như là gạo, mè, đường, sữa, khăn… chất đầy năm trăm cỗ xe bò. Ông thỉnh chư Tăng vị nào muốn đến bái yết Đức Bổn Sư thì nên đi chung đoàn, khỏi lo đi bát cực nhọc. Ông thỉnh Tỳ khưu Tăng, Ni, và luôn cả cận sự nam, nữ nữa.
Thành ra tất cả năm trăm Tỳ khưu, năm trăm Tỳ khưu ni, năm trăm Thiện nam và năm trăm Tín nữ nữa, vầy đoàn cùng đi với ông Citta cùng với ba ngàn tùy tùng của ông. Với con số của đoàn lữ hành cùng với con đường dài ba mươi do tuần đông đảo như thế, mà ông lo lắng sắp đặt mọi việc rất chu đáo, không để cho ai phải thiếu cơm, vật thực chi hết.
Khi hay đoàn hành hương đã lên đường, chư Thiên lập trại cách khoảng đường từng mỗi do tuần một, để khoản đãi đại chúng bằng những vật thực như cháo, cơm, bánh, nước… của cõi Trời. Do đó, không ai thiếu thốn món chi cả.
Được chư Thiên đón đưa như thế, đoàn hành hương đi mỗi ngày được một do tuần. Đúng một tháng họ mới đến kinh thành Sāvatthī. Số đồ vật đem theo còn đầy nguyên trên năm trăm cỗ xe bò, chư Thiên và nhân loại đồng dốc tay cho hết tặng phẩm rồi mới từ biệt.
Hôm ấy, Đức Bổn Sư bảo Đại đức Ānanda: “Nầy Ānanda, chiều nay, khi bóng xế tà, gia chủ Citta dắt theo năm trăm Thiện nam, sẽ đến đảnh lễ Như Lai.”
- Bạch Ngài, trong lúc ông đảnh lễ Ngài, sẽ có hiện tượng huyền diệu chi chăng?
- Nầy Ānanda, sẽ có.
- Lúc đảnh lễ Như Lai, thì khắp một vùng vương thổ rộng độ tám sào, sẽ có chư Thiên làm mưa hoa dày đặc rơi xuống, bề cao ngập lút đầu gối.
Kim ngôn nầy được dân chúng trong thành nghe được, họ truyền tin cho nhau: “Nghe nói có một gia trưởng tên là Citta, là bậc đại phước sẽ đến đây hôm nay để đảnh lễ Đức Bổn Sư. Nghe nói sẽ có hiện tượng huyền diệu như vầy. Chúng ta cũng nên đi xem cho biết mặt nhà đại phúc ấy.” Thiên hạ mang theo quà biếu, ra đứng chờ hai bên lề đường.
Khi đến gần chùa Jetavana, năm trăm vị Tỳ khưu vào trước nhứt, gia trưởng Citta dặn đoàn Tín nữ: “Quí bà quí cô hãy rán chờ vào sau.”, rồi tự mình dắt cả đoàn năm trăm thiện nam đi đến chỗ Đức Bổn Sư đang ngự.
(Theo lệ thường, ngay trước mặt Đức Thế Tôn không có ai dám đứng hoặc ngồi hay làm cái chi khác, luôn luôn người ta chừa trống con đường trước mặt Đức Thế Tôn và chỉ đứng thành hàng ở hai bên.)
Thấy chỗ trống rộng rãi, gia trưởng Citta đi ngay vào đó.
Những Thánh Thinh Văn đắc từ Tam quả trở xuống, lấy mắt nhìn nhau, hồi hộp, đại chúng cũng chăm chú nhìn, họ kháo nhau: “Ông ta là gia trưởng Citta phải không?”.
Đến chỗ Đức Thế Tôn đang ngự, ông Citta đi vào trong vòng hào quang sáu màu của Ngài, rồi sụp xuống đảnh lễ và ôm chân của Ngài.
Ngay trong giây phút ấy, hoa trời rơi xuống như mưa. Muôn ngàn tiếng chúc: “Lành thay! Lành thay!” vang dậy.
Ông Citta lưu lại bên Đức Thế Tôn trong thời gian một tháng. Lúc ấy, mỗi ngày đều có lễ Trai Tăng trong chùa Jetavana, do Thiện tín cúng dường cho toàn thể chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm tọa chủ. Ông Citta và đoàn tùy tùng của ông cũng được thiết đãi tại chùa. Không có ngày nào mà ông phải đi lấy vật dụng chi để trên xe bò của ông cả. Chư Thiên trong nhân loại mang tặng phẩm đến Trai Tăng và đảm đang tất cả mọi việc cúng dường.
Đến giáp tháng, ông Citta vào đảnh lễ Đức Bổn Sư và bạch rằng:
- Bạch Ngài, con đến đây với mục đích cúng dường, nhưng con không lấy được món gì trên xe con đem theo mà cúng dường đến Ngài được cả, vì đã có chư Thiên và nhân loại mang lễ vật đến cúng dường suốt một tháng qua. Dầu cho con có nán ở lại đây một năm nữa, nhắm con không có thể dâng cúng lễ vật của con được bao giờ. Nay con định về xứ, xin Ngài chỉ định chỗ nào cho con chất hết đồ đạc trên xe bò xuống, để trở về xe không.
Đức Bổn Sư dạy Đại đức Ānanda: “Nầy Ānanda! Ông hãy chỉ cho ông Thiện nam nầy địa điểm để ông ấy chất đồ trên xe bò xuống, để trở về xe không.”
Đức Bổn Sư bảo Đại đức Ānanda, Đại đức vâng lịnh, chọn một địa điểm thích nghi, rồi họp Tăng tụng tuyên ngôn, nhìn nhận địa điểm đúng theo Luật (Kappiyabhūmi). Tương truyền rằng: Đức Bổn Sư cho phép chỉ định địa điểm thích hợp là do nơi lời yêu cầu của gia trưởng Citta vậy.
Sau khi dốc hết đồ vật trên xe bò xuống, ông thiện nam Citta cùng với ba ngàn tùy tùng lên đường trở về xứ. Nhưng chư Thiên và nhân loại đồng nói “Thưa Ngài, chẳng lẽ Ngài đi xe không mà về hay sao?”. Nói rồi đồng đem đồ thất bảo làm quà tặng chất đầy các cỗ xe bò.
Ông Citta đích thân đứng ra phân phát bố thí các tặng phẩm cho quần chúng, hết rồi mới đi.
Thấy vậy, Đại đức Ānanda đảnh lễ Đức Bổn Sư và bạch rằng:
- Bạch Ngài, trong lúc gia chủ Citta từ nhà đến yết kiến Ngài, ông đã đi suốt một tháng, và ở đây mãn một tháng ông lại trở về, suốt cả thời gian ấy, ông không ngớt nhận tặng phẩm mỗi ngày. Hôm nay, biết tin ông cúng dường hết tặng phẩm trên xe bò để trở về với xe không, chư Thiên và nhân loại lại dâng rằng: “Thưa Ngài, chẳng lẽ Ngài đi về xe không?”, rồi đem đồ thất bảo làm quà tặng chất đầy các cỗ xe bò cho ông và nghe nói đích thân ông đứng ra bố thí hết tặng phẩm đến đại chúng rồi mới đi. Bạch Ngài, có phải là ông chỉ được danh dự như thế trong khi đến hầu Ngài mà thôi, hay khi đến hầu vị nào khác, ông cũng được như vậy?
- Nầy Ānanda! Dầu là đến với Như Lai hay đến với vị nào khác, danh dự cũng phát sanh lên cho ông thiện nam nầy. Quả thật vậy, vì ông là người có đức tin trong sạch, có đầy đủ giới hạnh. Người như thế đi đến xứ nào cũng được sự tôn kính của mọi người.
Thuyết đến đây, Đức Bổn Sư đọc bài kệ nầy, về sau được xếp vào phẩm Tạp Lục (Pakiṇṇaka vagga).
“Saddho sīlena sampanno
yaso bhogasamappito;
Yaṃ yaṃ padesaṃ bhajati,
tattha tattheva pūjitoti.”
“Bậc chánh tín, giới hạnh,
Hữu danh, tài sản Thánh,
Dầu đến ở xứ nào,
Cũng được người tôn kính.”
Nghĩa lý của bài kệ nầy sẽ được giải thích rõ ràng nơi phẩm Tạp Lục.
Nghe vậy, Đại đức Ānanda bạch xin Đức Thế Tôn thuật tiền nghiệp của gia chủ Citta.
Đức Bổn Sư bèn nhắc tích rằng:
“Nầy Ānanda! Citta đã từng phát nguyện dưới chân Đức Phật Padumuttara. Sau khi luân hồi lên xuống trong các cõi trời và người hết một trăm ngàn đại kiếp (kappa), đến thời Đức Phật Kassapa ông thọ sanh vào dòng thợ săn nai (Migaluddaka). Đến tuổi trưởng thành, ông cũng sống về nghề săn bắn.
Một hôm nhằm lúc trời mưa, ông cầm lao đi vào rừng để săn thịt. Đang lúc nhìn kiếm nai, chợt trông thấy vị Tỳ khưu đầu trùm y, đang ngồi sườn núi, ông nghĩ thầm: “Đây chắc là vị Sa môn đang hành Sa môn pháp, ta hãy đem cơm đến dâng cúng Ngài.”
Ông thợ săn nai hối hả trở về nhà bảo vợ nhóm lò lửa, một lò nấu thịt săn được hôm qua, một lò nấu cơm. Khi ấy, vật thực đã sẵn sàng, ông thấy những Tỳ khưu khác đang đi trì bình khất thực, ông cũng ra thỉnh bát, dọn chỗ mời các vị ngồi, rồi dặn người nhà lo hộ độ các vị Đại đức trì bình, còn mình thì lấy giỏ đựng cơm bát đem đi. Dọc đường, ông hái nhiều thứ hoa đậy trên nắp bát rồi đi ngay đến chỗ vị Đại đức đang tịnh tọa.
- Bạch Ngài, xin Ngài từ bi tế độ cho con.
Nói rồi, ông rước lấy bát, sớt đầy cơm canh xong, dâng hai tay đến Đại đức và cúng dường luôn những hoa tươi mới hái.
Khi ấy, ông phát nguyện rằng: “Do tâm con thỏa thích trong khi cúng dường bát cơm ngon lành cùng với những đóa hoa tươi đẹp như vầy như thế nào, xin cho con tái sanh lên cõi nào, bất cứ nơi đâu cũng được hằng ngàn quà tặng đem đến cho con và có mưa hoa ngũ sắc trên trời rơi xuống, làm cho tâm con thỏa thích cũng như thế ấy.” Nhờ tạo thiện nghiệp suốt đời, đến lúc hết tuổi thọ ông được siêu sanh lên Thiên giới. Nơi ông sanh ra, có hoa trời mưa xuống, cao tới đầu gối. Bây giờ cũng như ngày ông chào đời, lúc ông đến nơi đây, ông được hoa trời rơi xuống đón mừng, được vô số tặng phẩm đem đến biếu và được bảy vật báu chất đầy xe bò như thế, là do nơi quả phước cúng dường của tiền nghiệp ấy vậy.”
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Vì chút si mê muốn đứng đầu,
Trụ trì Thiện Pháp nặng lo âu,
Danh cao chẳng trọn, công đành bỏ,
Chức lớn không toàn, lợi miễn thâu.
Trách kẻ hữu tâm, lời nhã nhặn,
Quên mình vô ý, tánh câu mâu,
Nhờ kinh Pháp Cú, thầy khuyên dứt,
Diệt ngã hành thâm đắc đạo mầu.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC THIỆN PHÁP
73. Unwisely he wishes for undeserved honour, privileges, and attention in the midst of laymen.
73. Người ngu ước muốn hư danh, đặc quyền và sự tôn kính giữa đám người đời.
73. Asantaṃ bhāvanamiccheyya
purekkhārañ ca bhikkhusu;
Āvāsesu ca issariyaṃ,
pūjā parakulesu ca. (5:14)
73. For position a fool may wish:
among the bhikkhus precedence,
in monasteries authority,
from other families honour.
74. As the untutored disciple claims for recognition by monk and layman, his pride increases.
74. Kiêu mạn tăng trưởng khi vị đệ tử Phật không tu tập, mong muốn cả hai giới Tăng và tục tôn trọng mình.
74. Mam’eva kata maññantu,
gihī pabbajitā ubho;
Mam’eva ativasā assu,
kiccākiccesu kismici;
Iti bālassa saṅkappo,
icchā māno ca vaḍḍhati. (5:15)
74. Both monks and laymen, let them think:
"This was done by me,
whatever the works, both great and small,
let them depend on me".
Such the intention of a fool
swollen his greed and conceit.
----
V. 15 - Tích ĐẠI ĐỨC ĐỀ XÁ Ở RỪNG
(Vanavāsitissattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 75)
75. “Aññā hi lābhūpanisā,
aññā nibbānagāminī;
Evametaṃ abhiññāya,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Sakkāraṃ nābhinandeyya,
vivekam anubrūhayeti.”
75. “Đường theo lợi thế khác,
Đường đến Níp Bàn khác,
Như vậy hiểu biết rành,
Tỳ khưu, đệ tử Phật,
Chớ vui theo lợi danh,
Hãy chuyên tu giải thoát.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Tissa (Đề Xá) ở rừng (Vanavāsi).
Chuyện nầy phát khởi trong thành Rājagaha.
Tương truyền rằng: Thân phụ của Đại đức Sārīputta là ông Bà la môn Vaṅganta, có người bạn là ông Bà la môn Mahāsena (Đại Binh), cư ngụ trong thành Rājagaha.
Một hôm nọ, nhân lúc đi trì bình khất thực, Đại đức Sārīputta đến trước cửa nhà ông, để tiếp độ ông ta. Ông Bà la môn nầy bây giờ gia tài đã khánh tận, thành ra người nghèo xác xơ. Ông nghĩ thầm: “Con trai ta đến trước nhà ta khất thực, chắc hẳn chưa biết ta đang túng quẫn bần hàn, không có vật chi để bát cả.” Thấy không tiện gặp mặt Đại đức, ông ta bèn lẫn tránh. Ngày khác, Đại đức lại đến đứng trước nhà của ông, ông cũng lánh mặt nữa, vì không tìm được chút chi để bát cả.
Nhưng có một hôm, nhờ tụng kinh một cuộc lễ của môn phái mình, ông Bà la môn được chia một phần cơm trắng và một cái choàng tắm lớn. Lúc mang lễ vật về nhà, ông sực nhớ đến Đại đức Sārīputta. Ông nói thầm: “Phần cơm nầy, ta nên để dành cúng dường đến Đại đức của ta.”
Ngay sát na ấy, Đại đức nhập thiền vừa xuất ra, quán thấy ông Bà la môn, Đại đức nghĩ rằng: “Ông Bà la môn vừa có được lễ vật, còn đang chờ ta đến để cúng dường. Vậy ta nên đến đó.” Đại đức đắp y Tăng Già Lê (Saṅghāti), ôm bát đi bộ đến đứng ngay trước cửa nhà ông Mahāsena, cho ông ngó thấy mình. Trông thấy Đại đức, ông Bà la môn phát tín tâm trong sạch, ra đón chào đảnh lễ Đại đức, thỉnh Đại đức vào ngồi trong nhà, đoạn đem phần cơm trắng của ông vừa được, sớt vào bát của Đại đức.
Đại đức chỉ nhận nửa phần cơm, thì lấy tay đậy miệng bát. Ông Bà la môn xin: “Bạch Đại đức, Ngài hãy nhận hết, chỉ chừng ấy thì con được có nửa phần thôi. Xin Ngài tế độ con trong những kiếp về sau, chớ đừng tế độ trong đời nầy. Còn phần cơm còn lại đây, tôi muốn cúng dường hết cho Ngài.” Nói rồi ông sớt luôn vào bát Đại đức. Đại đức thọ bát luôn tại đó. Khi Đại đức dùng xong bữa, ông Bà la môn đem cái y choàng ra, đảnh lễ Đại đức và nguyện:
- Bạch Ngài, tôi nguyện xin đắc pháp mà Ngài đã đắc.
Đại đức chúc phúc: “Nầy ông Bà la môn, cầu chúc cho ông được như ý.” Sau lời phúc chúc, Đại đức từ chỗ ngồi đứng dậy, ra đi vân du, lần hồi về đến Jetavana.
Trong lúc cùng quẫn mà tạo được sự bố thí, ông Bà la môn vui mừng không xiết tả. Sau khi để bát, ông phát tín tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ và sanh lòng ái mộ Đại đức vô hạn. Còn đang quyến luyến Đại đức thì ông bỏ xác lìa đời, tâm thức nhập vào bào thai của một tín nữ là người hộ độ Đại đức, cư ngụ trong thành Sāvatthī.
Liền đó, mẹ tương lai của ông, bảo chồng rằng: “Em đã thọ thai rồi anh ạ.” Người chồng chăm sóc thuốc thang để bảo dưỡng thai nhi. Dựng phụ cũng ráng kiêng cử các thức ăn nóng lạnh, hoặc chua cay thái quá, vì sợ ảnh hưởng không tốt đến bào thai. Do đó, dựng phụ phát sanh sự thèm muốn: “Chà, phải chi mình thỉnh được năm trăm Tỳ khưu có Đại đức Sārīputta làm tọa chủ, rước vào ngồi trong nhà, rồi cúng dường toàn là cơm nấu ròng sữa tươi. Còn mình thì đắp y vàng ôm bát bằng vàng ngồi nối phía sau Tăng chúng và ăn dùng cơm dư của các Ngài Tỳ khưu ấy sớt bát ra cho lại.”
Tương truyền rằng: Phụ nữ nầy phát sanh chứng thèm đắp y và ăn cơm bát như vậy là điềm báo trước cho biết là đứa bé trong thai sau nầy sẽ xuất gia đầu Phật.
Khi ấy, các thân bằng quyến thuộc, nhứt là cha mẹ chồng, nhìn nhận rằng: “Sự thèm muốn của dâu ta hợp theo lẽ đạo.”
Một cuộc trai Tăng được tổ chức và Đại đức Sārīputta được thỉnh làm tọa chủ đoàn năm trăm Tỳ khưu vị, đến thọ bữa cơm nấu ròng với sữa tươi.
Dựng phụ, bên dưới vận y vàng, trên khoác y vàng khác, lấy bát bằng vàng đến ngồi phía sau rốt chư Tăng và ăn những vật thực mà chư Tăng sớt bát cho nàng.
Hết chứng thèm khát, cho đến thời kỳ sanh nở, gia đình thiếu phụ lại thỉnh thoảng tổ chức đại lễ Trai Tăng.
Sau mười tháng hoài thai, thiếu phụ sanh được một cậu con trai, trong nhà nàng lại thỉnh đoàn Tỳ khưu Tăng năm trăm vị có Đại đức Sārīputta làm tọa chủ, để bát cúng dường cơm nấu với mật ong pha ít nước.
Tương truyền rằng: Do nhờ quả phước của đứa bé cúng dường bố thí cơm trắng đã gieo trong kiếp làm ông Bà la môn mà trong ngày ăn mừng nó chào đời, buổi sáng nó được tắm gội sạch sẽ, mặc đồ sang trọng, đặt nằm trên giường chạm trổ tinh vi, có trải lót gấm trị giá một trăm ngàn đồng vàng.
Nằm trên nhung lụa, đứa bé sơ sanh nhìn Đại đức nhớ lại rằng: “Ông nầy là thầy của ta trong kiếp trước (pubbācāriya), Ta nhờ Ngài mà được phú quý như vầy. Ta phải cúng dường Ngài một món đồ.”
Khi người nhà bồng đứa bé định đem đến xin Đại đức truyền Qui giới cho nó, thì nó lấy ngón tay út xoắn một góc tấm vải lót bằng gấm, rồi nắm chặt lại. Nhiều người bảo: “Tay nó dính trong tấm lót gấm kia, gỡ ra.”
Đứa bé khóc lên. Các quyến thuộc bảo: “Thôi đừng làm cho nó khóc.” Người nhà phải ôm luôn tấm lót gấm đi với đứa bé.
Khi được đặt xuống để nó đảnh lễ Đại đức đặng xin thọ Qui giới, đứa bé buông tay ra, thả tấm lót gấm rớt ngay chân của Đại đức. Thấy vậy, các quyến thuộc không nói: “Trẻ con ngu dốt làm việc vô ý thức.”, nhưng họ lại nói: “Bạch Ngài, xin Ngài thọ nhận lễ vật chúng tôi cúng dường, do đứa con trai của chúng tôi bỏ xuống như vậy.”
Tiếp theo đó, họ yêu cầu: “Bạch Ngài, xin Ngài hoan hỷ truyền thập giới cho thiện nam đã cúng dường Ngài cái y gấm có giá trị một trăm ngàn đồng vàng.”
Đại đức hỏi: “Đứa bé nầy tên chi?”
- Bạch Ngài, xin Ngài tùy ý đặt tên cho nó.
- Vậy thì hãy gọi nó là Tissa nhé.
Nghe nói, Đại đức Sārīputta khi chưa xuất gia, Ngài có tên là Upatissamāṇava. Tiếng Upa có nghĩa là ở gần, kèm theo. Cha mẹ của cậu Tissa nghĩ rằng: “Không nên để cho con trai của ta xa lìa Thầy Tế độ của nó.” Sau cuộc lễ Trai Tăng, đặt tên đứa bé, đến lễ đầy tháng, lễ giáp tuổi, rồi lễ xỏ lỗ tai đeo nhĩ hoàn… bất cứ cuộc lễ nào, cha mẹ đứa bé cũng đều thỉnh năm trăm Tỳ khưu có Đại đức Sārīputta làm tọa chủ, đến dự lễ cúng dường cơm trắng nấu ròng sữa hay mật ong pha chút ít nước như thế cả.
Khi đứa bé lớn lên, vừa tròn bảy tuổi, cậu lại xin mẹ:
- Thưa mẹ, con muốn xuất gia tu học với Đại đức.
Bà mẹ chấp nhận ngay: “Lành thay! Con à. Từ trước đến giờ mẹ hằng nguyện trong tâm rằng: “Xin cho con của mẹ đừng xa lìa Thầy Tế độ của nó.” Vậy con hãy xuất gia đi.”
Bà mẹ sai người đi thỉnh Đại đức đến nhà, để bát xong, rồi bạch rằng: “Bạch Ngài, kẻ tôi tớ của Ngài đấy, nó đòi xuất gia. Để chiều nay chúng con sẽ dắt nó đến chùa.” Sau khi tiễn chân Đại đức về buổi chiều hôm ấy, cha mẹ đứa bé sắm lễ vật trọng hậu rồi dắt nó đến chùa gởi cho Đại đức.
Đại đức khuyến bảo nó rằng: “Nầy Tissa, việc tu hành rất khó nhọc, khi mình cần dùng đồ nóng thì lại được đồ lạnh, còn khi cần dùng đồ lạnh thì lại được đồ nóng. Hễ là người xuất gia tu hành thì phải sống kham khổ, còn con sống sung sướng đã quen, sợ e chịu không nổi chăng?”.
- Bạch Ngài, những điều Ngài kể ra đó, con có thể chịu được hết.
- Lành thay!-Đại đức khen.
Đoạn Đại đức làm lễ xuất gia Sa di của Tissa bằng cách truyền cho cậu đề mục tham thiền, niệm xuôi và ngược năm thể trược đầu tiên trong thân thể con người là tóc, lông, móng, răng, da. Tất cả có đến ba mươi hai thể trược, nhưng trong một thời gian không thể truyền dạy hết một lượt cho nên vị Thầy Tế độ truyền cho đệ tử có một phần cần yếu để dứt trừ tham dục. Tất cả chư Phật đều không loại bỏ nó, vì nhờ niệm từng phần như trên, nhứt là bằng đầu bằng tóc, mà các Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, thiện nam, tín nữ thường chứng đắc A La Hán quả không ngớt. Những vị Tỳ khưu rành rẽ Tăng sự, khi cho đệ tử xuất gia, không để cho đệ tử xa lìa con đường đạo quả A La Hán. Vì vậy, Đại đức Sārīputta cho Tissa xuất gia bằng cách chỉ dạy đề mục tham thiền trước, rồi cho truyền thọ mười giới của Sa di tiếp theo.
Sau lễ xuất gia Sa di của Tissa, cha mẹ ông Sa di nầy thiết lễ Trai Tăng liên tiếp bảy ngày tại chùa để cúng dường cơm trắng nấu với mật ong pha chút ít nước, hay sữa bò nguyên chất đến Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm tọa chủ. Nhiều Tỳ khưu than phiền: “Mỗi ngày dưng cơm nấu với mật ong, chúng ta ăn mãi không xiết.”
Nhưng cuộc lễ Trai Tăng chấm dứt trong ngày thứ bảy, và thí chủ cũng trở về nhà. Đến ngày thứ tám, Sa di bắt đầu theo các Tỳ khưu vào thành khất thực.
Dân chúng trong thành Sāvatthī loan tin cho nhau: “Hôm nay ông Sa di vào thành khất thực, chúng ta hãy dự bị lễ vật để cúng dường.” Họ đem theo năm trăm cái y choàng đã xếp gọn và năm trăm phần cơm bát ra cúng dường, đứng chờ Tissa và để bát cho ông. Qua ngày sau, dân chúng lại đến khu rừng ở bên cạnh chùa để đón Sa di Tissa để bát và dâng y như bữa trước. Thế là trong hai ngày liền, Sa di Tissa nhận được một ngàn lá y cùng với ngàn phần cơm bát và ông cúng dường đến chư Tăng Tỳ khưu.
(Theo truyền ngôn đó là quả phước của ông đã cúng dường y choàng lớn cùng với phần cơm của mình khi còn là Bà la môn.)
Khi ấy, chư Tỳ khưu mệnh danh cho Sa di là Tissa Thí Thực (Piṇḍapātadāyakatissa).
Qua ngày hôm sau nữa, ông Sa di đi trong vườn chùa, nhằm khi trời lạnh, thấy chư Tỳ khưu chỗ nầy, chỗ nọ, nhứt là trong các phòng sưởi (aggisālā) đang ngồi xúm xít hơ ấm. Ông hỏi:
- Bạch các Ngài, sao các Ngài ngồi hơ lửa chi vậy?
- Chúng tôi lạnh quá, ông Sa di ơi.
- Bạch các Ngài, hễ trời lạnh thì chúng ta nên trùm y gấm ngự hàn (kambala) là có thể hết lạnh ngay.
- Nầy Sa di, ông có đại phước, có được y gấm ngự hàn, chớ chúng tôi thì lấy đâu mà có.
- Nếu vậy, xin các Ngài cần dùng y gấm hãy cùng đi với tôi.
Các Tỳ khưu rủ nhau theo Sa di Tissa bảy tuổi nầy để kiếm y ngự hàn, tất cả có đến ngàn vị.
Chẳng chút ngần ngại suy tính rằng: “Bấy nhiêu Tỳ khưu, ta biết tìm gấm ở đâu cho đủ.”, Sa di Tissa dẫn đầu, hướng cả đoàn Tỳ khưu đi thẳng vào trong thành (quả thật, người có tâm hảo thí (sudinna) mới có thái độ hiên ngang, hùng dũng như thế được.). Tuần tự đi từng nhà, từ ngoài vào đến cổng thành, Sa di có được năm trăm chiếc y gấm, rồi mới vào thành. Đi đến nơi nầy, nơi nọ, ông được dân chúng đem y gấm đến dưng nữa.
Khi ấy, có một người nam (puriso) đi qua đầu chợ, trông thấy người bán hàng đang bày ra năm trăm y gấm chờ khách, thì bảo:
- Bạn ơi! Có một Sa di đi tìm y gấm, đang đi gần đến đây rồi, bạn hãy lo giấu y của bạn đi.
- Thế nào bạn, ông là người lấy của chưa cho hay là lấy của đã cho rồi?
- Ông lấy của cho rồi (dinnaka).
Người bán hàng xua đuổi anh chàng nhiều chuyện rằng:
- Nếu vậy, tôi có vui lòng cho thì ông ấy mới lấy, không vui lòng cho thì thôi, việc gì phải giấu. Thôi bạn hãy đi đi.
(Thật vậy, những kẻ ngu si mù quáng bao giờ cũng bỏn xẻn, rít róng. Khi thấy người khác làm phước bố thí, thì họ cũng tiếc của, nóng ruột. Đến lúc lâm chung, tâm bỏn xẻn của họ nhất định đưa họ sa xuống địa ngục chẳng sai.)
Người bán hàng nghĩ thầm: “Anh chàng nầy cứ luôn đến bảo ta: Ông hãy giấu hết y gấm của ông đi. Nhưng ta thiết nghĩ: Ông Sa di chỉ lấy của đã cho, còn vật sở hữu chủ của ta, ta có quyền cho hay không là tùy ý ta. Tuy vậy, chớ mình có của bày ra trước mắt mà nói không có đồ cho thì cũng mắc cỡ miệng lắm. Vả lại, đồ của mình mà, mình giấu đi có tội chi đâu! Trong số năm trăm lá y nầy có hai lá y trị giá hằng trăm ngàn đồng vàng, ta phải giấu hai lá y nầy mới được.”
Nghĩ rồi, người bán hàng lấy hai chiếc y gấm quí giá xếp chung lại, giấu vào giữa những lá y thường. Ông Sa di dắt đoàn tùy tùng đến ngay đầu chợ. Ông bán hàng vừa thấy ông Sa di thì sanh lòng thương mến như con ruột của mình, mối tình phụ tử hầu như tràn đầy cơ thể ông ta. Ông nói thầm: “Thấy mặt Sa di nầy rồi, tim gan mình cũng có thể móc ra cho, nói gì đến y gấm chứ?”.
Thế rồi, ông bán hàng lấy hai chiếc y gấm quí, đem dâng dưới chân Sa di Tissa, đảnh lễ xong rồi, đứng lên nguyện rằng: “Bạch Ngài, xin cho tôi được pháp mà Ngài đã đắc.” Sa di Tissa đọc kinh phúc chúc và nói: “Xin cho người được như ý.”
Đi vòng trong thành, ông Sa di cũng được năm trăm cái y gấm. Thế là, chỉ trong một ngày Tissa đã tìm được ngàn cái y gấm, dâng lên chư Tỳ khưu Tăng. Và ông được chư Tỳ khưu mệnh danh là Tissa Thí Y (Kambaladāyakatissa).
(Sở dĩ Sa di Tissa được danh thơm tiếng tốt trong ngày nay lúc vừa được bảy tuổi, là do nhân cúng dường y kiếp trước bây giờ trổ quả, khiến cho ông kiếm được ngàn lá y gấm vậy.)
Quả thật, ngoại trừ Phật giáo, không có một tôn giáo nào khác, khi Bố thí ít mà lại được kết quả nhiều và Bố thí nhiều càng được kết quả nhiều hơn gấp bội. Cho nên Đức Thế Tôn có dạy rằng: “Nầy các Tỳ khưu, nơi nào có Tỳ khưu Tăng như thế, dầu ít cũng được nhiều kết quả, nếu nhiều càng được nhiều kết quả hơn nữa.”
(Như chuyện Sa di, trước kia chỉ dâng một lá y mà bây giờ mới lên bảy tuổi đã được dâng cúng ngàn lá y gấm vậy.)
Trong khi Tissa ngụ tại Jetavana, những thân quyến trẻ tuổi luôn luôn tìm đến thăm viếng chuyện trò. Ông nghĩ thầm rằng: “Nếu ta cứ ở đây, những trẻ con thân thuộc của ta cứ đến nói chuyện hoài, ta không thể ngồi lặng thinh được, còn hễ ta góp chuyện với họ thì là một trở ngại cho việc tu hành của ta. Vậy ta hãy đến xin Đức Bổn Sư ban cho một đề mục để tu tập, học xong, ta sẽ đi trú trong rừng.”
Sa di Tissa bèn đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, ngỏ lời yêu cầu Ngài truyền dạy đề mục niệm cho đắc quả A La Hán. Được đề mục rồi, ông về đảnh lễ từ biệt Thầy Tế độ, mang cả y bát đi ra khỏi chùa, đi luôn một mạch một trăm hai mươi do tuần, vì nghĩ rằng: “Nếu ta ở quanh vùng nầy, các quyến thuộc của ta sẽ theo dõi quấy rầy ta được.”
Đến cuối lộ trình, Sa di Tissa đi vào cổng một làng nọ, gặp vị bô lão, Sa di bèn hỏi thăm:
- Thưa ông thiện nam, trong địa phương nầy có ngôi thiền lâm, tịnh xá nào chăng?
- Bạch Sư, có.
- Xin ông làm ơn chỉ dùm đường cho tôi.
Ông lão nầy vừa gặp Sa di đã sanh lòng thương mến, ông ta xem như là con ruột của mình. Ông lão không chỉ đường, mà lại nói: “Sư hãy đi theo tôi, tôi đưa Sư đến đó.” Nói rồi, dẫn Sa di đi.
Trong lúc cùng đi với ông lão vào làng, đến năm hoặc sáu địa điểm dọc đường, theo đường có trồng nhiều hoa quả, Sa di hỏi:
- Thưa ông thiện nam, chỗ nầy tên chi? Chỗ nầy tên chi?
Và ông lão đều nói tên cho ông Sa di biết cả. Khi đến ngôi tịnh xá trong rừng, ông lão đưa đường nói:
- Bạch Sư, xin cầu chúc cho Sư ở lại đây bình an.
Rồi ông hỏi pháp danh Sa di, Sa di đáp rằng:
- Thưa ông thiện nam, pháp danh tôi là Tissa Cư Lâm (Vanavāsī Tissa).
Nghe vậy, ông lão thỉnh:
- Ngày mai, Sư nên vào làng chúng tôi đi bát.
Nói rồi, ông lão về làng thông tin cho dân làng hay rằng: “Có vị Sa di pháp danh là Vanavāsītissa mới đến tinh xá, ta nên dự bị đem cơm cháo để bát cho ông.”
Vị Sa di nầy, đầu tiên được thầy tế độ đặt tên là Tissa, sau đó được chư Tăng mệnh danh là Tissa Thí Thực, Tissa Thí Y và Tissa Cư Lâm. Như vậy, chỉ mới bảy tuổi mà vị ấy có đến bốn pháp danh.
Sáng hôm sau, ông Sa di vào làng trì bình khất thực, nhiều người để bát xong, còn đảnh lễ vị ấy nữa, Sa di chúc rằng: “Xin cho người được an vui, xin cho người được thoát khổ.” Trong số những người để bát rồi, không một ai trở về nhà được cả, tất cả đều đứng nán lại để ngắm nhìn Sa di cho thỏa thích. Sa di Tissa Cư Lâm thọ vật thực vừa đủ một mình thôi. Toàn thể dân làng cúi mọp dưới chân vị Sa di nhỏ, mà bạch rằng:
- Bạch Ngài, xin Ngài nhập hạ ba tháng nơi đây và truyền Tam qui và Ngũ giới để chúng tôi thọ trì thường nhựt và truyền bát giới để chúng tôi vâng giữ hành theo trong những ngày Uposatha. Xin Ngài hoan hỷ nhận lời của chúng tôi.
Xét thấy dân làng có lòng thành khẩn, Tissa Cư Lâm hứa chịu nhập hạ gần đây, rồi hằng ngày đi vào làng khất thực. Mỗi lần thí chủ để bát và đảnh lễ, ông luôn luôn chúc lại bằng hai câu: “Xin cho người được an vui, xin cho người được thoát khổ.”, rồi mới đi nơi khác.
Sa di Tissa Cư Lâm an cư nơi đây, trải qua hai tháng, trong tháng thứ ba, vị ấy chứng đắc A La Hán với Tuệ phân tích. Đến khi mãn mùa an cư, làm lễ tự tứ xong, Thầy Tế độ đến đảnh lễ Đức Bổn Sư và xin rằng:
- Bạch Ngài, con sẽ đi thăm Sa di Tissa.
- Ông cứ đi đi, nầy Sārīputta.
Đại đức Sārīputta dắt theo năm trăm Tỳ khưu tùy tùng, đến báo tin cho Đại đức Moggallāna hay:
- Nầy đạo hữu Moggallāna, tôi sẽ đi thăm Sa di Tissa đây.
Đại đức Moggallāna liền đáp:
- Tôi cũng đi nữa, đạo hữu ạ.
Nói rồi, Đại đức cũng dắt theo năm trăm Tỳ khưu tùy tùng của mình ra đi. Hay tin nầy, tất cả chư Đại Thinh Văn như Đại đức Mahākassapa, Anurudha, Upāli, Puṇṇa… mỗi vị dắt theo năm trăm Tỳ khưu của mình cùng ra đi. Con số tổng cộng các nhóm Tỳ khưu lên đến tám mươi bốn ngàn vị.
Các Ngài đồng bộ hành suốt cả lộ trình một trăm hai mươi do tuần mới đến làng, nơi trú của Sa di.
Khi ấy, vị Thiện nam hộ độ thường trực của Sa di Tissa nhà ở gần cổng làng, thấy Đại đức Tăng trước nhất, bèn ra đảnh lễ chào đón các Ngài. Đại đức Sārīputta hỏi:
- Nầy ông Thiện nam, trong địa phương nầy có ngôi thiền lâm, tịnh xá nào chăng?
- Bạch Ngài, có.
- Có Tỳ khưu nào thường trú chăng?
- Bạch Ngài, có.
- Vị thường trú ấy có pháp danh là chi?
- Bạch Ngài là Tissa Cư Lâm.
- Nếu vậy, ông hoan hỷ chỉ đường cho chúng tôi đi.
- Bạch Ngài, chẳng hay Ngài là chi của Đại đức?
- Chúng tôi là khách đến viếng Sa di.
Vị thiện nam lưu ý, nhìn kỹ từ Đại đức Pháp chủ cho đến tất cả chư Đại Thinh Văn để nhớ mặt. Tự nhiên ông cảm thấy toàn thân ông tràn trề một niềm phỉ lạc vô biên. Ông yêu cầu:
- Bạch các Ngài, xin các Ngài hãy đình độ đôi chút.
Đoạn ông hối hả vào làng, cất tiếng kêu gọi:
- Hôm nay có chư Đại đức Tăng quang lâm đến bổn thôn, do Ngài Sārīputta lãnh đạo, có tám mươi vị Đại Thinh Văn, mỗi vị dẫn theo năm trăm vị Tỳ khưu tùy tùng, đồng đến để viếng Sa di. Các người hãy đem vật thực, vật dụng như giường, ghế, ngọa cụ, đèn, dầu… đến tịnh xá cho mau.
Mọi người y theo lời kêu gọi, đem giường ghế các thứ vật dụng theo chân các Ngài Đại đức, đồng đi đến tịnh xá.
Sa di Tissa nhận biết chư Tỳ khưu Tăng, bèn ra rước bát Ngài Đại Trưởng Lão và làm các phận sự đối với khách Tăng và cất hết y bát của các Ngài xong, thì trời nhá nhem tối. Đại đức Sārīputta bảo các thiện nam: “Thôi, các Thiện nam hãy về đi, tối rồi.”
- Bạch Ngài, hôm nay là ngày nghe pháp, chúng con không về. Chúng con ở lại chờ nghe pháp. Vả lại, từ trước đến giờ chúng con chưa từng được thính pháp bao giờ.
- Thế thì, nầy Sa di, ông hãy đốt đèn lên rồi tuyên bố giờ thuyết pháp cho thiện tín biết.
Sa di Tissa làm theo lời của Đại đức. Kế đến, Đại đức lại bảo rằng:
- Nầy Tissa, các Thiện tín của ông đã ngỏ lời muốn nghe pháp, vậy ông hãy thuyết pháp cho họ nghe đi.
Các thiện nam đồng loạt đứng dậy, bạch rằng:
- Bạch Đại đức, Sư của chúng con chỉ thuộc lòng có hai câu kệ phúc chúc “Xin cho người được an lạc, xin cho người được thoát khổ.”, ngoài ra không biết pháp nào khác. Vậy xin Ngài từ bi hoan hỷ thuyết pháp khác cho chúng con nghe.
Ngài Sa di Tissa tuy chứng đạt A La Hán nhưng không hề thuyết pháp cho thiện tín nghe. Khi ấy, vị Thầy Tế độ của Ngài bảo:
- Nầy Sa di, ông hãy lấy hai mệnh đề: Những người được an vui, những người được thoát khổ làm đề tài mà thuyết giảng rành rẽ nghĩa lý đi.
- Lành thay! Bạch Ngài.
Đáp xong, Sa di cầm lấy cây quạt dẹp, trèo lên pháp tọa, ngồi nghiêm trang tề chỉnh, rồi bắt đầu thuyết giảng nghĩa lý Kinh điển, từ cạn đến sâu, từ thấp lên cao, phân tích lần lượt Ngũ uẩn, Tứ đại, Lục căn, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là con đường đưa đến mức tối cao là A La Hán quả. Thời pháp bao la phổ cập như đám mưa rào dội ướt khắp cả bốn châu thiên hạ.
Để kết luận, Sa di Tissa nói:
- Bạch Ngài, người đã đắc quả A La Hán được an vui là như thế, người đắc A La Hán quả được thoát khổ là như thế, là người đã thoát khỏi tứ khổ sanh, lão, bệnh, tử cũng là khổ sanh vào ác đạo, nhất là địa ngục mà phàm phu nhân loại thường phải vương mang.
- Lành thay, nầy ông Sa di. Hai câu phúc chúc ông đã khéo giảng lắm đấy. Bây giờ ông hãy giảng tiếp theo phần Vi Diệu Pháp đi.
Vâng lời thầy, Sa di Tissa giảng thêm về Vi Diệu Pháp. Đến khi trời rựng sáng, những người hộ độ của Sa di chia làm hai nhóm:
Một nhóm bất bình vì nghĩ rằng: “Thật từ trước đến giờ chúng ta chưa từng thấy ai lãnh đạm, bạc bẽo như thế. Ông ta thuyết pháp thông suốt như thế mà bấy lâu nay đối với những người có công hộ độ, cấp dưỡng ông ta chẳng khác nào cha mẹ nuôi con, ông chẳng hề giảng thuyết một câu Pháp Cú nào cho họ nghe.”
Còn nhóm kia hoan hỷ, nghĩ rằng: “Thật chúng ta có phước quá. Những vị Sư như thế mà chúng ta chỉ biết hộ độ chứ không biết tài đức của vị ấy, hôm nay chúng ta được may duyên nên nghe được Ngài thuyết pháp.”
Ngày hôm ấy, từ sáng tinh sương, Đức Bổn Sư vẫn theo thông lệ, Ngài quán sát thế gian, thấy được những Cận sự nam của Tissa Cư Lâm lọt vào giác võng của Ngài: “Chuyện chi xảy ra?”, khi quán thêm nữa, Ngài thấy rằng: “Trong số các tín đồ của Tissa Cư Lâm có nhóm bất mãn, có nhóm hoan hỷ.” Những ai bất bình chống đối với con Như Lai sẽ bị sa đọa xuống địa ngục chẳng sai. Thế thì Như Lai phải đi đến đó, nhờ có Như Lai đến, tất cả đều khởi tâm Từ đối với Sa di Tissa và được thoát ly khỏi khổ não.
Ở chốn thiền lâm, dân chúng thỉnh cầu được chư Tỳ khưu Tăng, bèn trở về làng lo cất trại và nấu sẵn cơm cháo, dọn sẵn tọa vị, rồi ngồi chờ chư Tăng đến.
Chư Tỳ khưu tắm gội xong, đến giờ đi bát, sắp sửa vào làng bèn hỏi Sa di:
- Nầy Tissa, ông cùng đi một lượt với chúng tôi hay là ông đi sau?
- Xin các Ngài đi trước.
Chư Tỳ khưu đắp y mang bát đồng đi vào làng.
Tại Jetavana, Đức Bổn Sư cũng đắp y, mang bát và chỉ trong một sát na tâm (cittakhaṇo: lẹ hơn trong nháy mắt), Ngài đã hiển hiện, đứng trước mặt chư Tỳ khưu. “Có lẽ Đức Chánh Biến Tri ngự đến.”, tin nầy làm cho khắp cả làng xôn xao, náo động. Mọi người đều vui mừng hỉ dạ, đồng thời thỉnh chư Tăng có Đức Phật làm tọa chủ, an tọa xong rồi cúng dường cháo và đồ ngọt điểm tâm.
Trong khi chư Tăng độ chưa xong bữa, thì Sa di Tissa đi vào làng. Dân chúng tản bớt ra, cung kính để bát cho Sa di.
Sa di thọ bát vừa xong, đem dâng lên Đức Bổn Sư, Ngài bảo:
- Đưa đây, Tissa.
Và Ngài đưa tay thọ bát, trao Đại đức Sārīputta vừa bảo: “Nầy Sārīputta, đây là bát của Sa di Tissa, đệ tử của ông.”
Đại đức nhận lấy bát trên tay của Đức Bổn Sư rồi cho lại Sa di và dạy: “Ông tìm chỗ ngồi phải lẽ rồi thọ thực đi nhé.” Sau khi hộ độ Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm tọa chủ xong, dân làng đồng xin Đức Bổn Sư thuyết kinh phúc chúc.
Đức Bổn Sư thuyết giảng như sau: “Nầy các thiện gia nam tử, các ông thật là hữu phúc, nhờ có Sa di nầy mà các ông hộ độ hàng ngày đây, các ông mới được dịp hội kiến với Sārīputta, Moggallāna, Mahā Kassapa, luôn cả tám mươi vị Đại Thinh Văn. Chính Như Lai hôm nay đến đây cũng là vì ông Sa di Tissa mà các ông hộ độ hằng ngày đó. Nhờ có Sa di mà các ông hân hạnh được diện kiến Đức Phật. Thật là các ông hữu phúc lắm mới được như vậy.”
Đại chúng đều suy nghĩ rằng: “Ôi! Chúng ta hân hạnh biết mấy, sở dĩ chúng ta có thể thỉnh được Đức Phật và chư Tăng để cúng dường Trai Tăng là nhờ các Ngài đến thăm vị Đại đức của ta…”.
Những người bất bình Sa di lúc trước, bây giờ cũng vui mừng. Còn những người đã hài lòng thì càng có đức tin trong sạch đối với ông thêm nữa.
Đức Bổn Sư phúc chúc xong, có nhiều vị chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn.
Đức Bổn Sư từ chỗ ngồi đứng lên đi ra, dân chúng kéo nhau theo tiễn biệt, đảnh lễ Ngài và quay trở lại.
Đức Bổn Sư dắt Sa di Tissa cùng đi đến những địa điểm mà trước kia khi mới đến ông đã hỏi thăm vị bô lão, khi ấy Đức Bổn Sư cũng hỏi ông:
- Nầy ông Sa di, xứ nầy tên chi? Xứ kia tên chi?
Vị Sa di vừa đi vừa đáp lời rằng:
- Bạch Ngài, đây là xứ… Đây là xứ…
Đến chỗ ngụ của Sa di, Đức Bổn Sư leo lên tận đỉnh núi. Từ chỗ Ngài đứng trông xuống thì thấy mặt biển mênh mông. Đức Bổn Sư phán hỏi Sa di:
- Nầy Tissa, ông đứng nơi nầy, nơi nọ trên đỉnh núi nhìn xuống thì thấy cái chi?
- Bạch Ngài, con thấy đại hải.
- Thấy đại hải, ông nghĩ thế nào?
- Bạch Ngài, con nghĩ rằng: Số lượng nước mắt mà con đã khóc ra trong những khi sầu khổ, có lẽ còn nhiều hơn nước biển trong bốn đại dương.
- Lành thay, lành thay! Nầy Tissa, thật quả như thế, suối lệ của mỗi chúng sanh tuôn trào trong những khi sầu khổ còn nhiều hơn nước trong bốn đại trùng dương.
Nói rồi, Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:
“Cātusu samuddesū jalaṃ parittakaṃ,
tato bahuṃ assujalaṃ anappakaṃ;
Dukkhena phuṭṭhassa narassa socato,
kiṃ kāraṇā samma tvaṃ pamajjasī’ti.”
“Nước trong bốn biển có bao nhiêu,
Nước mắt so ra mới thật nhiều,
Khắp cõi nhân gian đầy khổ lụy,
Sao con lơ đễnh thả xuôi chiều.”
Đức Bổn Sư lại hỏi Sa di:
- Nầy Tissa, ông ngụ ở đâu?
- Bạch Ngài, tại hang núi nầy đây.
- Lúc ngụ tại đây, ông nghĩ như thế nào?
- Bạch Ngài, con nghĩ rằng: “Đến khi chết thì con bỏ xác luôn nơi đây, khỏi phải lo kiếm chỗ nằm trên mặt đất bằng.”
- Lành thay! Lành thay! Nầy Tissa, quả thật cũng như thế ấy, những chúng sanh nầy (xác thân chết) nằm trên mặt đất cũng không đến bất tử được.
Nói rồi, Đức Thế Tôn ngâm lên kệ ngôn rằng:
“Upasāḷhakanāmānaṃ,
sahassāni catuddasa;
Asmiṃ padese daḍḍhāni,
natthi loke anāmataṃ.
Yamhi saccañca dhammo ca,
ahiṃsā saṃyamo damo;
Etadariyā sevanti,
etaṃ loke anāmatanti.”
“Một muôn lại với bốn ngàn,
Thổ dân đã rụi xương tàn nơi đây.
Không bao giờ cõi tạm nầy,
Có nơi bất diệt cho thây phàm trần.
Nơi nào Đạo pháp chánh chân,
Vô não thu thúc, tâm thân tự điều.
Là nơi chư Thánh tiêu diêu,
Nơi ấy bất diệt, nghịch chiều thế gian.”
Dứt hai bài kệ, Đức Bổn Sư thuyết tích Bổn Sanh Upasāḷhaka (Dân xứ). Theo phong tục, họ đặt thi thể nằm trên đất bằng, mong sao người chết theo dấu ông bà về xứ Bất tử (amata pubbepadese). Nhưng sự thật, người thường không ai về đến xứ ấy cả. Chỉ những bậc như Đại đức Ānanda mới được viên tịch, theo dấu tiền nhân lên đến Bất tử mà thôi.
Tương truyền rằng: Lúc được một trăm hai mươi tuổi, Đại đức Ānanda quán xét thấy thọ mạng của mình sắp hết, bèn báo tin cho Thiện tín hay: “Bảy ngày nữa, bần Tăng sẽ nhập diệt.”
Hay tin nầy, trong số người ở hai bên bờ sông Rohinī, nhóm ở bên bờ nầy nói rằng: “Chúng ta hộ độ Đại đức nhiều, chắc là Ngài sẽ viên tịch trên phần đất của ta.”
Nhóm người bên kia sông cũng nói: “Chúng ta hộ độ Ngài nhiều, chắc là Ngài sẽ viên tịch trên phần đất của ta.”
Đại đức nghe cả hai bên nói giống nhau như thế, thì nghĩ rằng: “Thiện tín ở hai bên bờ sông đều hộ độ cho ta nhiều cả. Nhưng ta không thể chiều ý theo cả hai bên, nếu ta viên tịch ở bên nầy thì nhóm cư sĩ bên bờ kia sẽ tranh cãi. Do nơi ta mà họ sẽ đối chọi lẫn nhau. Ta phải làm sao cho họ sẽ vì ta mà chấm dứt mọi tranh chấp.”
Nghĩ rồi, Đại đức bèn bảo hai nhóm thiện tín rằng: “Quí vị ở bờ sông bên nầy, cũng như quí vị ở bờ sông bên kia, đều là những người có công hộ độ cho ta cả. Ta không thể nào theo ai mà bỏ ai. Thôi thì quí vị ở bên nầy hãy tập hợp ở bên bờ ấy, và quí vị ở bờ bên kia hãy tập hợp ở bờ bên kia.”
(Đến ngày thứ bảy, Đại đức ngồi kiết già ở giữa sông, lơ lửng trên từng cao độ bảy cây thốt nốt mà thuyết pháp cho đại chúng nghe.)
Thuyết pháp xong, Ngài nguyện: “Xá lợi của ta hãy phân làm hai, một rơi xuống bờ nầy, một rơi xuống bờ kia.”
Đoạn Ngài nhập vào hỏa giới, lửa bốc lên có ngọn thiêu nhục thân Ngài. Xá lợi tự nhiên chia đôi, một phần rơi xuống bờ nầy, một phần rơi xuống bờ kia.
Đại chúng kêu gào than khóc nghe như mặt đất vô tình cũng vỡ tan từng mảnh, nấc lên những tiếng ai bi.
Khi Đức Bổn Sư Níp Bàn, quả đất vang rền tiếng than khóc não ruột của đại chúng trong bốn tháng dài, nghe thật bi ai sầu thảm, mọi người đi lang thang kể lể rằng: “Đức Bổn Sư Ngài đã Níp Bàn, chúng ta không còn được trông thấy ánh từ quang, không còn được trông thấy kim thân của Ngài đắp y mang bát như thuở tại tiền.”
Dứt tích Bổn Sanh, Đức Bổn Sư phán hỏi Sa di Tissa:
- Nầy Tissa, trong khu rừng nầy có những tiếng cọp, beo gầm thét mà ông không sợ sao?
- Bạch Thế Tôn, chẳng những con không sợ mà khi nghe tiếng gầm thét của loài dã thú, con càng vui thích với cảnh lâm tuyền.
Nói rồi Sa di ngâm lên bài kệ trường thiên gồm sáu mươi đoạn mô tả phong cảnh núi rừng.
Khi ấy, Đức Thế Tôn phán gọi:
- Nầy Tissa.
- Dạ bạch Ngài.
- Như Lai sẽ đi với Tăng chúng, còn ông sẽ đi hay là trở lại?
- Bạch Ngài, nếu Thầy Tế độ của con dắt đi thì con đi, nếu người trở lại thì con trở lại.
Đức Bổn Sư cùng với Tăng chúng đồng lên đường. Ông Sa di đi lui lại tìm Thầy Tế độ. Gặp ông, Đại đức hỏi:
- Nầy Tissa, nếu ông muốn trở về chỗ ngụ thì cứ đi.
Ông Sa di Tissa đảnh lễ cáo biệt Đức Bổn Sư và Tỳ khưu Tăng rồi trở lại. Đức Bổn Sư thì đi luôn về Jetavana.
Trong phòng pháp hội, giữa các Tỳ khưu, pháp thoại sau đây được đề khởi: “Chà! Tội nghiệp ông Sa di Tissa bây giờ tu khổ hạnh quá. Từ ngày ông tục sanh, song thân ông đã thiết lập bảy cuộc đại thí cơm trắng nấu với sữa tươi hay mật ong pha đặc để cúng dường đến năm trăm vị Tỳ khưu. Đến khi ông xuất gia, song thân ông lại thiết lễ Trai Tăng bảy ngày liền trong chùa, cúng dường cơm trắng nầy với mật pha chút ít nước đến Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm tọa chủ. Xuất gia rồi, từ ngày thứ tám ông vào làng đi bát, trong hai ngày được cúng ngàn bát cơm cùng ngàn bộ y tắm. Qua ngày sau được thêm ngàn lá y gấm ngự hàn. Đến nay, ông vào cư ngụ trong rừng lại có lễ lộc dồi dào phát sanh đến cho ông, mà rồi ông cũng xả bỏ tất cả lợi danh như thế, đi vào rừng sâu, ăn cơm trộn lộn trong bát. Thật là ông Sa di tu hành khổ hạnh quá.
Đức Bổn Sư ngự đến phán hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các ông ngồi thảo luận việc chi đó?”.
- Bạch Ngài, chuyện như vầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Phải đó, nầy các Tỳ khưu, có hai đường lối khác nhau. Con đường thiên về thế lợi như trên là khác và con đường hành đạo để chứng đạt Níp Bàn là khác. Thật thế, Tỳ khưu nào cứ mong ước: “Ta sẽ được lễ lộc như thế.”, dầu cho có thọ các chi Đầu đà nhất là ngụ trong rừng mà còn lo gìn giữ lợi danh thì nhất định bốn cảnh ác thú đang mở rộng chờ đón ông ta. Còn Tỳ khưu muốn đặt bước lên đường Níp Bàn, thì xả bỏ hết lợi danh, lễ lộc, vào cư ngụ trong rừng vắng, tinh tấn hành đạo không xao lãng, thì sẽ chứng đắc quả A La Hán chẳng sai.
Đức Bổn Sư kết luận xong, còn thuyết pháp giải rộng thêm những nghĩa lý và đọc bài kệ nầy:
75. “Aññā hi lābhūpanisā,
aññā nibbānagāminī;
Evametaṃ abhiññāya,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Sakkāraṃ nābhinandeyya,
vivekamanubrūhayeti.”
75.“Một đường hưởng lộc thế gian,
Một đường tu chứng Níp Bàn vô sanh.
Tỳ khưu Phật tử phải rành,
Chớ nên tham đắm lợi danh thế quyền.
Đạo mầu ráng để tâm chuyên,
Đi đường giải thoát bình yên lâu dài.”
*
CHÚ GIẢI:
Aññā hi lābhūpanisā, aññā nibbānagāminī: (Đường theo thế lợi khác, đường đến Níp Bàn khác). Quả nhiên, muốn có lợi lộc phát sanh, vị Tỳ khưu phải gây tạo một vài nghiệp bất thiện, tà vạy, nhất là thân tà hạnh (kāyavaṅka), nhờ vậy mới kiếm được lợi lộc. Thật thế, như phần cơm bát chẳng hạn, nếu có giơ tay ra thẳng cánh, không chịu cong quẹo thì bàn tay sẽ ngay ra để xuống chỉ có đụng được mà thôi. Còn như chụm tay lại đưa xuống, đến khi giở lên thì có thể bốc lấy cục cơm mà đem lên được. Chính khi nào làm việc tà vạy, nhất là thân tà hạnh như thế, mà lễ lộc phát sanh, thì con đường tu hành nầy chỉ thiên về danh lợi thế gian, không hợp theo lẽ đạo (adhammika), còn dính mắc trong vòng tái sanh luân hồi. Lợi lộc phát sanh hợp theo lẽ đạo là khi nào vị Tỳ khưu chỉ nương theo y bát, nghiêm trì giới luật, cư ngụ trong rừng… Tỳ khưu là hành giả đi trên đường đến Níp Bàn phải dứt bỏ tất cả tà hạnh do thân khẩu là nhiều nhứt, không đui phải làm như đui, không câm phải làm như câm, không điếc phải làm như điếc, không nên lường gạt tráo trở, giả dối điêu ngoa.
Evametaṃ abhiññāya bhikkhu buddhassa sāvako: (Như vầy hiểu biết rành, Tỳ khưu đệ tử Phật). Sau khi hiểu biết rành rẽ con đường đưa đến Níp Bàn và con đường theo thế lợi khác nhau như vậy, Tỳ khưu là Thinh Văn đệ tử Phật, đã giác ngộ được đâu là Chánh pháp, đâu là phi pháp.
Sakkāraṃ nābhinandeyya, vivekamanubrūhayeti: (Chớ vui theo lợi danh, hãy chuyên tu giải thoát). Đây là huấn từ dạy thêm vị Tỳ khưu, không nên vui theo tứ vật dụng và sự lễ bái phi pháp, nhưng nếu lễ vật ấy hợp pháp thì cũng đừng từ chối. Hãy thực hành tịnh pháp (viveka), nhất là thân thanh tịnh, ở đây có nghĩa là thân sống độc cư (kāyassa ekābhāva). Tâm thanh tịnh (upadhiviveka) tức là Níp Bàn. Người có thân thanh tịnh là người xa lánh chỗ đông đảo, bè phái. Người có tâm thanh tịnh là người xa lánh việc chất chứa phiền não. Người có thủ thanh tịnh là người xa lánh được tất cả pháp hữu vi. Thân thanh tịnh là duyên sanh tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là duyên sanh thủ thanh tịnh.
Cũng có thể giải rằng: Người có thân thanh tịnh (kāyaviveko) là người thỏa thích trong sự xuất gia hành đạo; một mình ở chỗ hẻo lánh quạnh hiu; người có tâm thanh tịnh (attaviveko) là người đã đạt đến mức thánh thiện tối cao về mặt tinh thần; và người có thủ thanh tịnh (upadhiviveko) là người đã chấm dứt cái vòng luân hồi, không còn bị pháp hữu vi (saṅkhāra) chi phối để phải tái sanh làm người lại nữa.
Tỳ khưu nên ráng xúc tiến thực hành tròn đủ ba pháp Thanh tịnh trên đây luôn luôn.
*
Đức Bổn Sư vừa dứt thời pháp, có nhiều Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Đề Xá Sa di bảy tuổi đầu,
Tu rừng giác ngộ lý cao sâu,
Sườn non thấy tiệp màu xương trắng,
Nước biển xem thua suối lệ sầu.
Lễ lộc hơn người thêm khổ lụy,
Tài danh quán chúng nặng lo âu,
Con đường thế lợi nhiêu khê lắm,
Thà sống an vui với đạo mầu.
DỨT TÍCH TISSA CƯ LÂM
75. The true disciple should know the path to worldly gain as one and that to Nibbāna as another.
75. Vị đệ tử chân chánh phải biết rõ con đường đi đến lợi lạc thế gian khác với con đường đi đến Níp Bàn.
75. Aññā hi lābhūpanisā,
aññā nibbānagāminī;
Evametaṃ abhiññāya,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Sakkāraṃ nābhinandeyya,
vivekamanubrūhayeti. (5:16)
75. One is the way to worldly gain,
Another to Nibbāna goes.
Clearly comperhending this
The bhikkhu, Buddha’s follower
Should wallow not in proffered gifts
Surrendering instead to solitude.
----
DỨT PHẨM NGU NHƠN
----
VI. PHẨM HIỀN TRÍ
(PAṆḌITA VAGGA)
14 bài kệ: Pháp Cú số 76- 89.
11 tích truyện.
----
VI. 1 - Tích ĐẠI ĐỨC LA ĐÀ
(Rādhattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 76)
76. “Nidhīnaṃ’va pavattāraṃ,
yaṃ passe vajjadassinaṃ;
Niggayhavādiṃ medhāviṃ,
tādisaṃ paṇḍitaṃ bhaje;
Tādisaṃ bhajamānassa,
seyyo hoti na pāpiyoti.”
76. “Được hiền nhân thánh thiện,
Chỉ bày lối thô thiển,
Nên hoan hỷ kết tình,
Tôn như bậc cao minh.
Chỉ đường ta kiếm lại,
Hầm chôn giấu của cải,
Thân hiền lợi ích nhiều,
Chẳng có chi tai hại.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Rādha (La Đà).
Tương truyền rằng: Lúc còn ở tại gia, Đại đức trên đây vốn là một ông Bà la môn nghèo khó, cư ngụ trong thành Sāvatthī. Vì muốn xuất gia để sống gần gũi chư Tỳ khưu, ông ta đến chùa xin ở làm công quả, nhứt là phụ giúp chư Tăng trong các việc lặt vặt như quét dọn cốc liêu, dưng nước rửa mặt… Tuy nhiên, chư Tăng không nhận cho ông xuất gia, không được toại nguyện, ông trở nên ốm o gầy mòn.
Một hôm, trong lúc quán sát thế gian vào lúc sáng sớm, Đức Bổn Sư quán thấy ông Bà la môn ấy. Để xem ông ta có đủ căn lành hay không, Ngài quán thêm nữa thì biết ông sẽ đắc quả A La Hán. Cho nên, chiều hôm ấy, Đức Thầy ung dung bách bộ trong vòng tinh xá, như đi kinh hành rồi ngự ngay đến chỗ ở của ông Bà la môn và phán hỏi rằng:
- Nầy ông Bà la môn, thường ngày làm công việc chi?
- Bạch Ngài, con làm tất cả mọi việc hộ giúp chư Tăng.
- Ông có được chư Tỳ khưu tế độ chăng?
- Bạch Ngài, về vật thực thì con được tiếp độ, nhưng chư Tăng không nhận cho con xuất gia.
Nhân dịp nầy, Đức Bổn Sư triệu tập Tăng chúng và phán hỏi về vấn đề Bà la môn.
- Nầy các Tỳ khưu, trong các ông, có ai nhớ ra rằng mình đã có thọ bát của ông Bà la môn nầy chăng?
Đại đức Sārīputta đáp rằng:
- Dạ bạch Ngài, con đã nhớ ra, trong lúc con đi trì bình trong thành Rājagaha, chính ông nầy đã đích thân để bát cúng dường đến con một vá thực phẩm. Con nhớ rằng con đã thọ bát của ông ta.
- Nầy Sārīputta, một người hộ giúp ông như thế, không đáng được ông giải khổ hay sao?
Nghe Đức Bổn Sư hỏi vậy, Đại đức Sārīputta vội đáp:
- Lành thay! Bạch Ngài, con sẽ tế độ ông ta.
Nói rồi, Đại đức làm lễ xuất gia cho ông Bà la môn ấy. Mỗi lần nhập chúng trong Trai tăng đường, vị tân sư nầy phải khó khăn vất vả trong sự thọ lãnh vật thực như cơm cháo, vì ông phải đi đến chỗ ngồi ở phía sau cùng chư Tỳ khưu. Thấy vậy, Đại đức mới dắt ông đi du phương, một thầy một trò và nhân thể luôn kèm dạy lần lần, nhắc nhở ông những điều nên hành và những điều phải tránh.
Là người dễ dạy, hết lòng tôn kính thầy chỉ dạy, Sư Rādha chăm chỉ hành đúng theo huấn từ của Đại đức Sārīputta, mấy ngày sau Đại đức Rādha chứng đắc A La Hán quả. Kế đó, Đại đức dắt Sư trở về yết kiến Đức Bổn Sư. Sau khi hai vị đệ tử đảnh lễ và ngồi xuống, Đức Bổn Sư hỏi Đại đức những câu hàn huyên thông thường rồi Đức Bổn Sư hỏi Đại đức rằng:
- Nầy Sārīputta! Học trò mới của ông có dễ dạy không?
- Bạch Ngài, ông ta rất mềm mỏng, dễ dạy. Ông ta không hề tỏ ra nóng giận mỗi khi bị chỉ trích dầu là phạm lỗi nhỏ nhen chút ít.
- Nầy Sārīputta, nếu được những người như vậy theo xin ông tế độ, thì ông sẽ thâu nhận bao nhiêu cho xuất gia.
Một hôm nọ, chư Tỳ khưu câu hội trong giảng đường, đưa ra luận đề như vầy: “Tiếng đồn Đại đức Sārīputta là người biết ghi ơn và biết đền ơn. Sau khi nhớ lại sự hỗ trợ của ông Bà la môn nghèo, dầu chỉ một vá thực phẩm, cũng chịu khó tế độ cho ông ta xuất gia. Đại đức Rādha cũng là người giỏi chịu đựng, uốn nắn, mới gặp được thầy khéo dạy dỗ như thế.”
Khi Đức Bổn Sư ngự đến giảng đường, nghe chư Tỳ khưu bạch lại đề tài của cuộc luận đạo, Ngài phán rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, không phải bây giờ mới như thế đâu, trước kia Sārīputta cũng đã từng là người biết ghi ơn và biết đền ơn như thế rồi.
Đoạn Ngài lại dẫn tích xưa, bắt đầu đọc kệ rằng:
“Alīnacittaṃ nissāya,
pahaṭṭhā mahatī camū;
Kosalaṃ senāsantuṭṭhaṃ,
jīvaggāhaṃ agāhayi.
Evaṃ nissaya sampanno,
bhikkhu āraddhavīriyo;
Bhāvayaṃ kusalaṃ dhammaṃ,
yogakkhemassa pattiyā;
Pāpuṇe anupubbena,
sabbasaṃyojanakkhayanti.”
“Nhờ phấn chấn tâm dẫn đầu,
Đại binh hoan hỷ phục thâu san hà.
Sanh cầm vua Kiều Tát La,
Phá tan quân địch bắt hòa chúa tôi.
Cũng vậy phấn chấn tâm rồi,
Tỳ khưu tinh tấn trau dồi thiện duyên,
Chăm lo trì giới tham thiền,
Níp Bàn tịch tịnh chứng liền chẳng sai.
Bao nhiêu kiết sử dẳng dai,
Lần lượt cắt hết một hai chẳng còn.”
Kế đó, Đức Bổn Sư thuyết giảng rành mạch tích Bổn Sanh Phấn Chấn Tâm (Alīnacitta Jātaka), gồm có hai phân đoạn trên đây. Trong đó, con tượng chúa độc chiếc, đã đem con tượng con toàn sắc trắng của mình hiến tặng cho ông thợ mộc vì nhớ ơn người đã chữa lành vết thương nơi chân, chính là Đại đức Sārīputta đây vậy.
Sau khi kể sự tích tiền thân Đại đức Sārīputta, Đức Bổn Sư lại đề cập đến Đại đức Rādha.
- Nầy các Tỳ khưu, bất kể là Tỳ khưu nào, cũng nên noi gương dễ dạy của ông Rādha đây mà bắt chước. Nếu được người trí thức chỉ rõ lỗi mình, không nên nóng giận trong lúc nhận lãnh những lời dạy dỗ. Phải xem người ban huấn từ như là bậc hướng đạo chỉ cho mình chỗ có hầm chôn giấu của cải vậy.
Pāḷi:
76. “Nidhīnaṃ’va pavattāraṃ,
yaṃ passe vajjadassinaṃ;
Niggayhavādiṃ medhāviṃ,
tādisaṃ paṇḍitaṃ bhaje;
Tādisaṃ bhajamānassa,
seyyo hoti na pāpiyoti.”
Dịch:
76. “Gặp người hiền trí giải bày,
Những điều lầm lỗi sửa sai cho mình.
Hãy nên cùng họ kết tình,
Xem họ như bậc cao minh chỉ đàng.
Cho ta tìm thấy kho tàng,
Gần hiền vô hại, lợi càng gia tăng.”
*
CHÚ GIẢI:
Trong Pāḷi, tiếng Nidhīnaṃ nghĩa là: Những kho tàng bí mật, hay là những chỗ nào mà người đã đào lên chôn giấu của cải, thường là những chỗ đựng đầy vàng, bạc chẳng hạn.
Pavattāraṃ: Người chỉ lối không khác nào người có lòng từ mẫn muốn tế độ những kẻ khốn cùng khỏi cảnh vất vả lầm than, bèn kêu: “Hãy lại đây, ta sẽ chỉ cho các người một lối sống an vui.”, rồi dắt họ đến tận chỗ chôn của để dành, lấy tay chỉ và bảo họ: “Hãy lấy của nầy và sống an vui đi.”
Vajjadassinaṃ: (Người cho thấy lỗi). Có hai hạng Tỳ khưu ưa vạch lỗi của người khác. Một là hạng Tỳ khưu tiểu tâm tìm lỗi lầm sơ suất của Tỳ khưu bạn, để lên mặt khiển trách người ở giữa Tăng chúng. Hai là hạng Tỳ khưu có tâm bi mẫn, muốn tế độ người tăm tối dốt nát, muốn dắt y đi lần đến chỗ sáng suốt, thông minh, giúp cho y tăng trưởng về mặt trí đức, cho nên mỗi việc lầm lỗi của y đều vạch ra cho y nhìn thấy để sửa chữa, ngõ hầu tiến lên bậc trên, trở nên con người đạo hạnh gương mẫu, tiếng Vajjadassinaṃ trong bài kệ chỉ hạng Tỳ khưu thứ hai nầy vậy.
Quả thật, ví như một người khốn cùng, gặp được người chỉ bảo: “Hãy lấy của nầy đi!”. Dầu cho người ấy có dọa nạt, đánh đập anh ta chăng nữa, anh ta cũng không nóng giận mà còn vui thích là khác khi mà mắt anh ta nhận thấy được chỗ chôn vàng.
Cũng vậy, Tỳ khưu nào nhận thấy điều sơ suất lỗi lầm của mình bị vạch ra, không nên tỏ vẻ nóng giận trong khi được chỉ dạy. Trái lại, phải hết lòng hoan hỷ và phải yêu cầu như vầy: “Bạch Ngài, ơn Ngài chỉ bảo thật rất trọng đại, xin Ngài hãy nhận làm Thầy Tiếp dẫn hoặc Thầy Tế độ của con mãi mãi, để ban thêm nhiều huấn từ giáo hóa cho con.”
Niggayhavādī: (Là người phản đối, khiển trách). Như có một số Thầy Tế độ (Hòa thượng) hoặc Thầy Tiếp dẫn (Yết Ma) nhìn thấy các đệ tử sơ suất phạm lỗi, nhưng không dám nói ra vì cho rằng: “Ông nầy chăm lo hầu hạ ta đàng hoàng tử tế, phục vụ ta được nhiều việc, nhất là dưng nước rửa mặt, nếu ta vạch lỗi ông ta sợ e ông ta sẽ không hầu hạ ta nữa, như thế thì ta sẽ bị thiệt thòi.” Tỳ khưu nghĩ như vậy không đáng gọi là Niggayhavādī. Vị ấy dung túng tội lỗi, như người xả rác trong giáo pháp nầy vậy.
Còn vị thầy nào thấy đệ tử mình phạm lỗi như thế, mà chỉ dạy, nhắc nhở giới luật, có khi đe dọa đòi đuổi, bắt chịu hình phạt hoặc không cho ở trong chùa thì mới đáng gọi là Niggayhavādī. Cũng như câu kim ngôn của Đức Chánh Biến Tri có dạy rằng: “Nầy Ānanda, việc đáng phản đối thì Như Lai khiển trách, cấm ngăn. Nầy Ānanda, việc đáng ủng hộ thì Như Lai khích lệ, thúc đẩy.” (Niggayha niggayhāhaṃ, Ānanda, vakkhāmi; paggayha paggayhāhaṃ Ānanda vakkhāmi. Yo sāro soṭhassatīti.).
Medhāviṃ: Bực nầy có đầy đủ trí tuệ đã nếm được hương vị của Pháp Bảo.
Tādisaṃ: Nên giao hảo, nương nhờ, học hỏi với bậc hiền trí như thế.
Quả thật, vị đệ tử mà nương nhờ học hỏi với Giáo sư như vậy thì thâu hoạch được nhiều lợi ích, không bao giờ phải chịu thiệt thòi, hoặc tăng thêm những điều quấy ác tai hại.
*
Thời pháp vừa dứt, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Đạo quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Dầu ơn nhỏ mọn cũng không quên,
Đợi lúc lâm nguy mới đáp đền,
Người trí tùy cơ mà ứng biến,
Giúp cho bạn cũ được làm nên.
Giữ tánh nhu hòa diệt nết sân,
Một lòng cầu tiến, học chuyên cần,
Càng mau thấy lỗi càng mau sửa,
Thầy đó, trò đây, thảy Thánh nhân.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC RĀDHA
76. Associate with wise persons who like treasure-revealers show your faults constructively.
76. Hãy thân cận những bâc trí chỉ bảo các lỗi lầm của ta vì các vị ấy cụng như người phát hiện kho báu.
76. Nidhīnaṃ’va pavattāraṃ,
yaṃ passe vajjadassinaṃ;
Niggayhavādiṃ medhāviṃ,
tādisaṃ paṇḍitaṃ bhaje;
Tādisaṃ bhajamānassa,
seyyo hoti na pāpiyoti. (6:1)
76. Should one a man of wisdom meet
who points out faults and gives reproof,
who lays a hidden treasure bare,
with such a sage should one consort.
Consorting so is one enriched
and never in decline.
----
VI. 2 - Tích ÁC TĂNG
(Assajipunabbasukavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 77)
77. “Ovādeyyānusāseyya,
asabbhā ca nivāraye;
Sataṃ hi so piyo hoti,
asataṃ hoti appiyoti.”
77. “Những người hay khuyên giải,
Cản ngăn điều chẳng phải,
Người sáng trí kính yêu,
Kẻ tối thì trái lại.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana, đề cập đến nhóm Tỳ khưu Assajipunabbasuka (Ác Tăng).
Câu chuyện của nhóm Tăng nầy đã phát khởi tại miền núi Kiṭa.
Tương truyền rằng: Họ là những Tỳ khưu quấy ác, không biết hổ thẹn tội lỗi, mặc dầu vị nào cũng đã từng là đệ tử của hai vị Thượng Thinh Văn. Họ quy tụ được đồ chúng cũng quấy ác như họ, gồm có năm trăm Tỳ khưu cùng trú ngụ chung nhau, tự mình trồng hay bảo kẻ khác trồng hoa… sửa kiểng… Nói tóm lại là họ tạo nhiều việc tà hạnh, làm hư hỏng các gia đình thiện tín, để nhờ đó mà nuôi sống bằng tứ vật dụng tà mạng. Họ chấp chứa các Tỳ khưu quấy ác như thế, còn những vị trong sạch thì bị họ đuổi đi, không cho ở (anāvāsaṃ akaṃsu).
Việc tác tệ của nhóm Tỳ khưu nầy thấu đến tai Đức Thế Tôn. Để hành Tăng sự trục xuất (pabbājanīyakammakaraṇa) họ ra khỏi vùng cư trú, Đức Thầy gọi hai vị Thượng Thinh Văn cùng với đoàn tùy tùng của các Ngài, đến phán bảo:
- Nầy Sārīputta, các ông hãy ra đi… Hễ những ai không vâng lịnh các ông, thì các ông hãy cho đọc tuyên ngôn trục xuất họ. Còn những ai vâng lịnh thì ông hãy dạy dỗ nhắc nhở họ. Quả thật, đối với người dạy dỗ, nhắc nhở thì những kẻ thiểu trí không mấy gì yêu mến, nhưng những người sáng suốt thì lại kính yêu.
Tiếp theo đó, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng kệ ngôn rằng:
77. “Ovādeyyānusāseyya,
asabbhā ca nivāraye;
Sataṃ hi so piyo hoti,
asataṃ hoti appiyoti.”
77. “Người hay dạy dỗ khuyên răn,
Thấy ai phạm lỗi can ngăn tức thì.
Người sáng trí kính yêu vì,
Kẻ tối, trái lại sân si oán thù.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng Ovādeyya trên đây nghĩa là chỉ dạy về điều lỗi nào đã hoặc đang phạm. Còn tiếng anusāseyya là chỉ dạy khuyên răn về điều lỗi nào chưa phạm nhưng có thể phạm trong tương lai, và làm hạ phẩm giá của người phạm lỗi.
Dạy dỗ người cách trực tiếp, lúc giáp mặt gọi là ovadati, còn dạy dỗ gián tiếp hoặc bằng thơ, hoặc bằng lời nói nhắn thì gọi là anusāsati.
Dạy dỗ chỉ một lần cũng gọi là ovadati, còn dạy dỗ theo cách dạy đi dạy lại nhiều lần nối tiếp theo thì dạy những lần sau gọi là anusāsati.
Câu kệ đầu là nói về sự chỉ dạy bằng cả hai cách như đã giải trên.
Asabbhā có nghĩa là ngăn cấm các bất thiện pháp và khuyến khích các thiện pháp.
Sataṃ: người sáng trí như thế, hằng được các bậc đại nhân, nhất là chư Phật mến yêu.
Asataṃ: những người chưa giác ngộ chơn lý giải thoát, xuất gia chỉ có mục đích kiếm ăn để nuôi thân sống mà thôi cho nên đối với người dạy dỗ khuyên răn họ, họ trả lời trắng trợn như muốn xỉa xói vào mặt: “Sư không phải là Thầy Tế độ, không phải là Thầy Tiếp dẫn của chúng tôi, tại sao Sư lại muốn dạy chúng tôi?”; kẻ tối mê không ưa mà còn ghét người dạy dỗ như thế.
*
Đến cuối thời Pháp nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh Quả, nhất là Tu Đà Hườn.
Sau khi nhận lãnh huấn từ của Đức Bổn Sư, Đại đức Sārīputta cùng Đại đức Moggallāna ra đi đến dạy dỗ, nhắc nhở nhóm Tỳ khưu tà hạnh. Có một số nhận lãnh huấn từ giáo hóa, cải tà qui chánh, một số tự động xin hoàn tục, còn một số không nhận lỗi bị Tăng tụng tuyên ngôn trục xuất ra khỏi địa phương Kiṭa.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Phẩm giá nhà sư chẳng giữ gìn,
Làm điều tà hạnh để mưu sinh,
Biết nghe lời dạy còn yêu Phật,
Ngoan cố thì theo hẳn thế tình…
DỨT TÍCH ASSAJIPUNABBASUKA
77. Advice of wise persons pleases the virtuous and displeases the evil ones.
77. Lời khuyên của bậc trí làm vui lòng người hiền và làm mất lòng người ác.
77. Ovādeyyānusāseyya,
asabbhā ca nivāraye;
Sataṃ hi so piyo hoti,
asataṃ hoti appiyoti. (6:2)
77. Let him exhort, let him instruct,
and check one from abasement.
Dear indeed is he to the true,
not dear is he to the false.
----
VI. 3 - Tích ĐẠI ĐỨC SA NẶC
(Channattheravatthu)
----
Kệ ngôn: (Pháp Cú số 78)
78. “Na bhaje pāpake mitte,
na bhaje purisādhame;
Bhajetha mitte kalyāṇe,
bhajetha purisuttameti.”
78. “Đừng thân cận bạn ác,
Đừng thân kẻ tiểu nhân,
Tìm bạn lành, hiệp tác,
Gặp quân tử cầu thân.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Channa (Sa Nặc).
Tương truyền rằng: Đại đức có lần thốt ra lời mai mỉa hai vị Thượng Thinh Văn như sau: “Trong khi Thái tử, con đại vương ta phát nguyện xuất gia tu hành khổ hạnh, thì Ngài ra đi chỉ có một mình, ta chẳng thấy có mặt nào khác. Thế mà, bây giờ có người đi đâu cũng tự xưng tên: Ta là Sārīputta, ta là Moggallāna. Chúng ta là Thượng Thủ Thinh Văn…”.
Đức Bổn Sư được chư Tỳ khưu bạch lại việc nầy, bèn cho gọi Đại đức đến khuyên răn, dạy. Đại đức nín nhịn được ba lần như vậy, nhưng sau đó lại vẫn mỉa mai hai vị Thượng Thủ Thinh Văn như trước.
Trong khi đang mỉa mai như thế, lần thứ ba Đại đức bị Đức Bổn Sư đòi đến và phán dạy rằng:
- Nầy Channa, hai Tỳ khưu ấy là Thượng Thinh Văn, chính là bậc đại trượng phu quân tử, là những bạn lành của ông. Ông nên thân cận giao kết với những bạn lành như thế.
Nói rồi, Đức Bổn Sư nhân đó thuyết một thời pháp, Ngài kết luận bằng bài kệ nầy:
78. “Na bhaje pāpake mitte,
na bhaje purisādhame;
Bhajetha mitte kalyāṇe,
bhajetha purisuttameti.”
78. “Đừng thân cận bạn ác, ngu,
Đừng gần gũi kẻ thất phu tục tằn.
Chỉ nên kết nghĩa kim bằng,
Với bậc hiền đức, trí năng hơn đời.”
*
CHÚ GIẢI:
Bài kệ trên đây có ý khuyên các Tỳ khưu không nên giao thiệp với hai hạng bạn ác: Một là bọn người truy hoan trong các bất thiện pháp, nhất là thân tà hạnh (kāyaduccaritā) như hành động trộm cướp chẳng hạn. Và hai là hạng đê tiện thấp hèn trong số hai mươi mốt hạng người không nên thân cận. Trái lại, những người lành, thuộc hạng trượng phu quân tử thì nên tìm đến mà cầu thân giao kết.
*
Sau thời pháp, có nhiều Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhứt là Tu Đà Hườn quả.
Đại đức Channa mặc dù nghe được huấn từ, sau đó cũng vẫn còn tiếp tục mỉa mai, nhiếc móc các Tỳ khưu. Chư Tăng lại bạch lên Đức Thế Tôn việc làm khiếm nhã nầy. Đức Thầy phán rằng: “Nầy các Tỳ khưu, trong lúc Như Lai còn tại thế, các ông không thể nào bắt buộc Channa vâng giữ điều học được. Rán chờ khi Như Lai Níp Bàn rồi, các ông sẽ dạy dỗ ông ta.”
Và khi Ngài sắp Níp Bàn, nghe Đại đức Ānanda bạch hỏi:
- Bạch Ngài, chúng con phải dùng pháp nào để cảm hóa Đại đức Channa?
Ngài dạy rằng:
- Nầy Ānanda, hãy dùng hình phạt Phạm Đàn (Brahmmadaṇḍa) một cách phạm tội là tuyệt giao, không tiếp xúc chuyện trò chi với vị Sư phạm tội cả, mà phạt Tỳ khưu Channa.
Trong lúc Đức Bổn Sư Níp Bàn, vừa nghe tiếng Đại đức Ānanda đã tuyên bố phạt Phạm Đàn mình, Đại đức Channa đang buồn khổ phải ngất xỉu đến ba lần, tỉnh lại thì kêu than:
- Bạch các Ngài, xin đừng hủy diệt.
Sau khi hối ngộ không bao lâu, Đại đức thực hành tròn đủ Phạm hạnh nên đắc quả A La Hán với Tuệ phân tích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Thép còn bị lửa đốt mềm thay,
Sa Nặc đành thua một phép nầy,
Phật tại, phạm hình chưa đúng lúc,
Nhân sanh, nghiệp quả phải chờ ngày.
Vố đòn tâm lý, sao mà nặng,
Bài học ưu sầu, nghĩ cũng hay,
Cái bịnh cống cao vừa trị dứt,
Thì ngôi La Hán đã phô bày.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC CHANNA
78. Associate not with the wicked and the evil. Seek the company of noble and virtuous friends.
78. Đừng nên thân cận với người ác độc và người hèn hạ. Hãy thân cận với người bạn đức hạnh và người bạn cao thượng.
78. Na bhaje pāpake mitte,
na bhaje purisādhame;
Bhajetha mitte kalyāṇe,
bhajetha purisuttameti. (6:3)
78. Don’t go around with evil friends,
with rogues do not resort.
Spend your time with noble friends,
with worthy ones consort.
----
VI. 4 - Tích ĐẠI ĐỨC MA HA KIẾP TÂN NA
(Mahākappinattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 79)
79. “Dhammapīti sukhaṃ seti,
vippasannena cetasā;
Ariyappavedite dhamme,
sadā ramati paṇḍitoti.”
79. “Các pháp hỷ thảnh thơi,
Với tâm tư thuần khiết,
Nghe pháp Thánh nhân thuyết,
Người trí mãi vui chơi.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự an tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Mahākappina (Ma Ha Kiếp Tân Na).
Và đây là sự tích kể theo thứ lớp.
Tương truyền rằng: Từ thời quá khứ, Đại đức Mahākappina đã từng cúng dường, rồi phát nguyện dưới chân Đức Phật Padumuttara. Trong thời gian phiêu lưu trong vòng luân hồi, có kiếp Đại đức tái sanh vào gia tộc ông trưởng đoàn thợ dệt, trong một khu phố dệt cách thành Bārāṇasī không bao xa.
Vào thời ấy, có một ngàn vị Độc Giác Phật, sau khi trú ở miền Tuyết Sơn đã tám tháng, các Ngài đến thành Bārāṇasī để tìm nơi an cư trong bốn tháng mùa mưa. Các Ngài dừng chân tại một địa điểm cách thành Bārāṇasī không xa, cử tám vị đi yết kiến quốc vương để xin nhân công đến xây cất chỗ ngụ cho các Ngài.
Bấy giờ, nhằm lúc đức vua đang bận tổ chức cuộc lễ gieo mạ. Khi nghe quan hầu báo tin có chư Phật Độc Giác ngự đến, quốc vương lâm triều và phán hỏi cho rõ mục đích của cuộc tiếp xúc nầy.
- Bạch chư Đại đức, trẫm không thể chuẩn nhận lời xin của chư Đại đức bởi vì sáng mai trẫm sẽ cử hành cuộc lễ gieo mạ kéo dài cả ba ngày đêm liền.
Phán rồi, quốc vương trở vào hoàng cung không mời thỉnh chư Phật Độc Giác cúng dường vật thực chi cả. Các Ngài đành ra khỏi thành, tính thầm: “Chúng ta sẽ đến một làng khác.”
Ngay trong lúc ấy, bà vợ của ông trưởng đoàn thợ dệt đang đi vào thành Bārāṇasī vì một chút việc cần. Gặp chư Phật Độc Giác bà đảnh lễ xong, bạch hỏi:
- Bạch chư Đại đức, sao các Ngài đến trễ quá vậy?
Sau khi nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, người nữ có đầy đủ đức tin và trí tuệ ấy mới thỉnh cầu:
- Bạch chư Đại đức, con xin thỉnh các Ngài, sáng mai đến thọ bát tại nhà con.
- Nầy cô, chư Tăng chúng tôi đông lắm
- Bạch chư Đại đức, các Ngài có tất cả bao nhiêu?
- Độ một ngàn vị cô ạ.
- Bạch chư Đại Đức, trong làng có một ngàn gia tộc, mỗi làng sẽ lo để bát một vị. Các Ngài hãy nhận thọ bát trước, rồi con sẽ lo liệu việc cất liêu cốc, chỗ ngụ để cúng dường các Ngài sau.
Chư Phật Độc Giác bèn nhận lời. Bà tín nữ đi vào làng, cất tiếng kêu gọi rằng: “Tôi đã gặp độ ngàn vị Phật Độc Giác và đã cung thỉnh Ngài, vậy quí vị hãy lo sắp đặt chỗ ngồi, nấu sẵn cơm cháo…”. Sau đó dựng lên một trang trại ở ngay giữa làng, trải lót tọa cụ đàng hoàng và qua ngày mai họ thỉnh chư Phật Độc Giác an tọa, rồi dâng cúng vật thực ngon quí. Sau khi các Ngài dùng xong bữa, bà tín nữ dắt tất cả nữ nhân trong làng cùng đi với mình đến đảnh lễ chư Phật Độc Giác và thỉnh các Ngài chấp nhận ở lại nơi đó an cư mùa mưa ba tháng.
Kế đó, bà tín nữ vào làng, cất tiếng kêu gọi rằng:
- Nầy các người ơi! Mỗi nhà hãy đơn cử một người nam, đem theo búa rìu vào rừng đốn cây làm vật liệu mang về đặng kiến tạo chỗ ngụ hộ các chư Đại đức.
Dân chúng trong làng, theo lời của bà tín nữ, mỗi nhà đưa ra một nam nhân, hiệp lực công tác dựng lên ngàn thảo am (paṇṇasālā) có đủ chỗ hành đạo và nghỉ ngơi. Đến gần ngày an cư, các chủ nhà của những thảo xá tranh nhau cung thỉnh chư Phật Độc Giác và hứa hẹn: “Tôi nguyện sẽ hộ độ Ngài tử tế đàng hoàng.” Nhà nào thỉnh được vị Phật nào ở thảo xá của mình thì lo hộ độ vị đó. Đến khi mãn hạ, mỗi nhà đều nhắc vị Phật của mình may y và dâng mỗi vị một xấp vải may y đáng giá một ngàn đồng.
Sau khi mãn mùa an cư, chư Phật Độc Giác tụng kinh phúc chúc cho các thí chủ xong, thì từ giã ra đi. Còn dân chúng trong làng nhờ tạo phước nầy, đến khi chết siêu sanh lên cõi trời Đao Lợi (Tāvatiṃsa) mệnh danh là thiên chúng (Gaṇadevaputta), hưởng lộc trời. Đến thời kỳ Đức Chánh Biến Tri Kassapa, họ cùng tái sanh vào những gia đình Trưởng giả trong thành Bārāṇasī, ông đoàn trưởng thợ dệt tái sanh làm con trai của ông Đại Trưởng giả trong thành, bà vợ của ông lại là một tiểu thư con của một Đại Trưởng giả khác. Tất cả các bà vợ của ông thợ dệt cũng là các tiểu thư của các nhà Trưởng giả và khi khôn lớn họ lại tái hợp với nhau như thuở trước.
Một hôm, dân chúng cùng rủ nhau vào tinh xá nghe thuyết pháp. Khi nghe nói: “Có Đức Bổn Sư thuyết pháp.”, tất cả Trưởng giả đồng thanh: “Chúng ta hãy đi nghe pháp.”, và dắt luôn vợ đi vào tinh xá.
Lúc họ đến giữa vườn chùa thì trời đổ mưa. Những ai có người quen thuộc hoặc là thân quyến của các vị Sa di… thì chạy vào đụt mưa trong cốc của các vị ấy. Còn những ai không có người quen thì không biết chạy đâu, đành đứng y giữa sân tinh xá mà chịu trận.
Khi ấy, ông Đại Trưởng giả nói với họ rằng: “Quí vị hãy nhìn xem thảm trạng của chúng ta! Là con nhà danh giá cả, mà phải chịu cái cảnh xấu hổ như vầy. Thưa quí vị, bây giờ ta phải tính sao?”.
- Chúng ta sở dĩ gặp phải cảnh trạng huống như vầy là do thiếu chỗ thân thiện có thể nương nhờ. Vậy chúng ta nên bỏ tiền ra chung đậu lại mà cất lên một ngôi chánh điện (pariveṇa).
- Lành thay, thưa quí vị.
Ông Đại Trưởng giả bỏ ra ngàn đồng vàng, kỳ dư đều bỏ ra năm trăm đồng vàng cho mỗi vị, còn các nữ nhân thì cũng bỏ ra mỗi người hai trăm năm mươi đồng vàng để hùn vào. Khi góp được số tiền lớn ấy, họ khởi công xây cất một chánh điện mệnh danh là Đại Giảng Đường (Mahāpariveṇa), gồm cả ngàn cái nóc để cúng dường đến chư Tăng có Đức Bổn Sư là tọa chủ. Công trình kiến trúc đồ sộ quá, phí tổn rất nhiều, thành ra số tiền góp được khi trước không đủ, họ phải góp thêm hai lần phân nửa như vậy nữa.
Ngày khánh thành ngôi Giảng Đường Trùng Các nầy, họ cung thỉnh Đức Bổn Sư đến chứng minh cuộc đại lễ Trai Tăng suốt bảy ngày, và lúc sắp kết thúc đại lễ, họ lại cúng dường y đến hai muôn vị Tỳ khưu.
Vợ của Đại Trưởng giả không chịu đồng hưởng phước như mọi người, mà định sử dụng trí tuệ của mình để tạo ra công đức tối thắng hơn: “Ta sẽ cúng dường đến Đức Bổn Sư.” Nghĩ như vậy, bà lấy một đóa hoa Anoja (Hoàng Hoa), gói trong một khăn choàng có màu như hoa Anoja trị giá một trăm ngàn đồng vàng, chờ khi Đức Bổn Sư sắp tụng kinh phúc chúc, bà dâng y cùng hoa đến Ngài, đặt tấm y choàng quí giá dưới chân Đức Phật, bà phát nguyện: “Bạch Ngài, xin cho con tái sanh trong cảnh giới nào, cũng được thân thể sáng màu vàng cam như sắc Hoàng Hoa (Anoja) đây vậy, và xin cho con được mang tên là Anoja (Hoàng Hoa) nữa.”
Đức Phật phúc chúc: “Chúc con được mãn nguyện.” Tất cả những gia trưởng trên đây sống tùy theo tuổi thọ, sau khi mạng chung đều thọ sanh về Thiên giới. Đến thời Đức Phật hiện tại, ông Đại Trưởng giả thời trước, từ cõi trời tái sanh vào hoàng tộc, tại thành Kukkuṭavatī (Hùng Kê), đến tuổi trưởng thành thì được tôn vương, ngự hiệu là đức vua Mahākappina. Các Trưởng giả xưa kia cũng tái sanh vào cõi người, trong những gia tộc đại thần cả. Bà Đại Trưởng giả thì tái sanh vào hoàng tộc trong thành Tāyala, xứ Madda, được song thân đặt tên là công chúa Anoja (Hoàng Hoa), vì toàn thân công chúa có ánh sắc vàng cam như bông Anoja vậy. Các bà Trưởng giả kia cũng đều sanh vào các gia tộc quyền quí, đến khi trưởng thành lại kết hôn với những công tử con quan trong triều vua Mahākappina, theo đúng như quan hệ từ trước. Còn công chúa Anoja thì được hoàng đế Mahākappina rước về làm hoàng hậu trong triều.
Tất cả những quí tộc nầy đều giàu sang ngang hàng với quốc vương. Khi nào quốc vương vận triều phục, điểm trang lộng lẫy, cỡi voi ngự đi du ngoạn, thì họ cũng xuất hành đi theo chung thể, chứ không chịu kém. Còn quốc vương cỡi ngựa hoặc ngồi xe thì họ cũng cỡi ngựa hoặc ngồi xe mà đi như quốc vương. Họ được vinh hiển đồng đẳng như vậy là do nhờ hưởng quả của những phước lành mà họ đã tạo dựng chung một lượt với nhau.
Quốc vương có năm con tuấn mã tên là Bala (Lực), Balavāhana (Lực Tải), Puppha (Hoa), Pupphavāhana (Hoa Tải) và Supatta (Thiện Đạt). Quốc vương chỉ cỡi con Supatta, còn bốn con thì giao cho những sứ giả của vua cỡi để đi săn tin. Mỗi sáng quốc vương đãi đằng các vương sứ ăn uống xong rồi, phán bảo họ: “Chư khanh hãy đi, trải qua độ hai ba do tuần để nghe ngóng, dọ hỏi: Khi biết rõ có Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ra đời thì mang phúc tín về cho quả nhân.”
Bốn vị vương sứ theo bốn cửa thành ra đi bốn hướng, trải qua hai ba do tuần chẳng bắt được tin lành, bèn trở về trào.
Một hôm, đức vua cỡi con tuấn mã Supatta cùng với ngàn quan đại thần hộ giá, xuất thành du ngoạn, bỗng thấy năm trăm người lái buôn dạn dày sương gió, đang đi vào thành, quốc vương nghĩ thầm: “Những người lái buôn nầy có vẻ mệt mỏi phong trần vì đi đường xa. Trẫm sẽ hỏi thăm họ, may ra nghe được tin lành nào chăng?”. Quốc vương cho đòi đoàn lái buôn đến và phán hỏi:
- Các người từ đâu đến đây?
- Tâu đại vương, cách đây độ một trăm hai mươi do tuần, có một kinh thành tên là Sāvatthī. Chúng tôi từ đó đến đây.
- Trong xứ đó của các người, có tin lành gì phát sanh lên chăng?
- Tâu đại vương! Chẳng có tin lành chi khác ngoài ra cái tin Đức Chánh Biến Tri đã giáng thế.
Vừa nghe tới đó, long thể tràn đầy năm thứ phỉ lạc, quốc vương không suy tính được gì cả, một chập sau mới phán hỏi rằng: “Các khanh nói sao?”.
- Tâu đại vương, Đức Phật đã giáng thế.
Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba quốc vương cũng ngơ ngẩn vì quá vui mừng trong chốc lát như thế. Lần thứ tư, quốc vương lại phán hỏi: “Các khanh nói chi?”.
Khi nghe trả lời: “Tâu đại vương! Đức Phật đã giáng thế.”, quốc vương phán rằng:
- Nầy chư khanh, trẫm sẽ ân thưởng chư khanh một trăm ngàn đồng.
Phán rồi quốc vương lại hỏi tiếp:
- Về sau còn có tin lành nào khác nữa chăng, các khanh?
- Tâu đại vương! Đức Pháp đã giáng thế.
Nghe tin nầy, đức vua cũng ngây ngất trong chốc lát ba lần như trước. Đến khi nghe câu: “Đức Pháp đã giáng thế.” lần thứ tư, đức vua cũng hứa: “Trẫm sẽ ân thưởng chư khanh một trăm ngàn đồng.” Hứa xong, đức vua lại phán hỏi:
- Về sau, có tin lành nào khác nữa không?
- Tâu đại vương, có Đức Tăng đã giáng thế.
Nghe vậy, đức vua cũng ngây ngất vì vui mừng trong chốc lát như ba lần trước. Và lần thứ tư khi nghe câu: “Đức Tăng đã giáng thế.”, đức vua cũng tuyên bố sẽ ân thưởng một trăm ngàn đồng vàng cho đoàn thương buôn báo tin lành đến Ngài.
Đoạn đức vua đưa mắt nhìn ngàn quan đại thần tùy giá hỏi rằng: “Chư hiền khanh, sẽ làm gì?”.
- Tâu bệ hạ, chẳng hay bệ hạ định làm gì?
- Nầy chư khanh! Bây giờ đã biết tin lành Đức Phật đã giáng thế, Đức Pháp đã giáng thế, Đức Tăng đã giáng thế, quả nhân sẽ không thối chuyển, nhất định sẽ tìm đến Đức Thế Tôn để xin xuất gia với Ngài.
- Tâu bệ hạ! Chúng tôi cũng sẽ xuất gia đi chung với bệ hạ.
Quốc vương khiến quan hầu lấy vàng lá, thảo tín thơ trao cho những lái buôn và dặn rằng:
- Chư khanh về triều trao tín thơ nầy đến hoàng hậu Anoja, hoàng hậu sẽ ban thưởng cho các khanh ba trăm ngàn đồng vàng. Khi ấy, chư khanh hãy tâu với hoàng hậu như vầy: “Quốc vương truyền ngôi và giao phó giang sang đế nghiệp về tay hoàng hậu. Vậy hoàng hậu hãy tùy nghi sử dụng.” Nếu hoàng hậu có hỏi chư khanh: “Hoàng thượng bây giờ ngự ở đâu?”, thì chư khanh nên cho biết rằng: Ngài tuyên bố: “Trẫm sẽ đi tìm Đức Bổn Sư để xuất gia.”, và Ngài đã đi rồi.
Còn ngàn quan đại thần cũng thảo thơ, mỗi vị đều báo tin cho vợ mình như thế cả.
Sau khi lái buôn từ biệt rồi, quốc vương lập tức lên đường tầm sư học đạo cùng với ngàn viên đại thần tùy tùng. Ngày ấy, lúc sáng tinh sương, trong khi Đức Bổn Sư quán sát thế gian, Ngài trông thấy quốc vương Mahākappina cùng với đoàn hộ giá. Quán thêm nữa, Ngài biết rõ rằng: đức vua Mahākappina khi nghe đoàn lái buôn báo tin đã có Tam Bảo giáng thế thì ban thưởng cho họ ba trăm ngàn đồng vàng, rồi rời bỏ ngai vàng, dắt theo ngàn quan đại thần đi tìm Như Lai để xuất gia hành đạo. Ngày mai, đức vua sẽ đến đây xuất gia, sẽ đắc quả A La Hán với Tuệ phân tích một lượt với ngàn quan tùy tùng. Như Lai sẽ đón tiếp để tế độ đức vua.
Qua hôm sau, cũng như vị Chuyển Luân Vương ngự đón đường một vị thôn trưởng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát, một mình vượt qua quãng đường một trăm hai mươi do tuần, đi về hướng có quốc vương, đến ngồi tại bờ sông Candabhāgā (Nguyệt Phần), dưới gốc cây đa và phóng tỏa ra hào quang lục sắc.
Còn quốc vương đang đi tìm Đức Phật, đến một con sông, bèn hỏi quan tùy tùng:
- Con sông nầy tên chi?
- Tâu bệ hạ! Đây là sông Aravacchā.
- Sông nầy sâu rộng thế nào vậy chư khanh?
- Tâu bệ hạ, bề sâu của nó là một dặm, bề rộng là hai dặm (gāvuta).
- Nơi đây có thuyền bè chi để qua sông chăng?
- Tâu bệ hạ, không có.
Trong lúc các quan lo tìm kiếm thuyền bè… quốc vương khấn thầm rằng: “Vì chúng tôi nhận thấy sự sanh dắt dẫn đến sự già, sự già dắt dẫn đến sự chết, nên bá quan đã một lòng cùng trẫm ra đi để tìm Tam Bảo. Do nhờ oai lực của Tam Bảo, xin cho nước sông nầy hãy đừng giống như nước.”
Sau khi suy tư đến Hồng Ân Tam Bảo, quốc vương bắt đầu tưởng niệm: “Itipiso Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddhoti.” (Ngài là Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Đức Chánh Biến Tri…) chú tâm giữ vững đề mục Niệm Phật, quốc vương với đoàn tùy tùng ngồi trên lưng cả ngàn con ngựa, lướt trên mặt nước mà qua sông. Những con tuấn mã vó câu dồn dập như chạy trên mặt đá, đầu móng chân không bị thấm ướt chút nào cả.
Qua khỏi con sông nầy, quốc vương đi trước lại gặp một con sông khác, liền phán hỏi:
- Sông nầy tên chi?
- Tâu bệ hạ, nó tên là Nīḷavahanā (Thanh Sắc Cấp Thủy Hà).
- Nó sâu, rộng bao nhiêu?
- Tâu bệ hạ, bề sâu cũng như bề rộng của nó là nửa do tuần.
Trong lúc các quan lo tìm kiếm thuyền bè để qua sông. Quốc vương cũng khấn nguyện như lần trước, nhưng với con sông nầy quốc vương tưởng niệm câu Svākkhāto bhagavatā dhammoti” (Pháp mà Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng…). Chú tâm giữ vững đề mục Niệm Pháp, quốc vương phóng ngựa vượt qua sông an toàn.
Nhưng vượt qua sông nầy rồi, quốc vương lại gặp một con sông khác nữa, lại phán hỏi các quan:
- Sông nầy tên chi?
- Tâu bệ hạ, tên nó là Candabhāga (Nguyệt Phần).
- Bề sâu và rộng của nó là bao nhiêu?
- Bề sâu và rộng của nó là một do tuần.
Trong lúc bá quan nhìn kiếm thuyền bè quốc vương cũng khấn nguyện như trước, nhưng với con sông nầy, quốc vương khấn nguyện, niệm tưởng Ân Đức Tăng “Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅghoti” (Tăng là các Bậc Thinh Văn đệ tử Phật đã tu hành đúng theo Chánh pháp). Chú tâm giữ vững đề mục Niệm Tăng, quốc vương vượt sông an toàn.
Qua sông rồi, quốc vương tiếp tục hành trình đi mãi đi mãi, cho đến khi trông thấy những tia hào quang sáu màu từ kim thân của Đức Bổn Sư phóng ra. Toàn cả cây đa, chỗ Đức Bổn Sư ngự, những cành lá và rễ phụ đều lóng lánh y như bằng vàng ròng. Quốc vương nghĩ thầm: “Trẫm chưa từng thấy ánh sáng rực rỡ dường nầy bao giờ. Nó không phải là của mặt trăng, mặt trời, hay chư Thiên, Ma Vương, Phạm Thiên, Long vương, Kim sí điểu… hoặc của ai khác nữa. Trên đường đi tầm sư học đạo chắc là trẫm được gặp Đức Phật Tổ Gotama bây giờ đây.”
Quốc vương bèn xuống ngựa, hạ mình nương theo ánh hào quang mà đến gần Đức Bổn Sư. Như người lặn trong hồ nước thơm, mát mẻ (manosilārasa), quốc vương đến bên trong vùng hào quang của Đức Phật, đảnh lễ ra mắt Đức Bổn Sư xong rồi, ngồi xuống một bên cùng với một ngàn cận thần.
Đức Bổn Sư thuyết tuần tự Pháp (anupubbīkathā), đến cuối thời pháp, quốc vương cùng đoàn tùy tùng đều đắc quả Tu Đà Hườn. Khi ấy, tất cả đồng đứng dậy, ngỏ lời xin xuất gia.
Đức Bổn Sư tự vấn: “Những thiện gia tử quí tộc nầy có y bát do thần thông lực được chăng?”. Khi quán xét, Ngài thấy rằng: “Những thiện gia tử nầy đã có cúng dường một ngàn lá y đến ngàn vị Độc Giác Phật, và trong thời Đức Chánh Biến Tri Kassapa đã cúng dường hai muôn lá y đến hai muôn Tăng chúng. Không có chi lạ, nếu có y bát phát sanh đến cho họ do thần thông lực.”
Biết rõ như thế, Đức Bổn Sư đưa tay phải ra, phán rằng: “Thiện lai Tỳ khưu! (Hãy đến đây hỡi chư Tỳ khưu!) Hãy thực hành Phạm hạnh cho chơn chánh, ngõ hầu chấm dứt mọi nỗi khổ đau.”
Ngay khi ấy, những Tỳ khưu mới nầy có đầy đủ tám món vật tùy thân, có hình dáng trang nghiêm như những vị Đại đức hằng trăm tuổi hạ, đồng bay bổng lên hư không, đáp xuống đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi ngồi yên nơi đó.
Nói về các thương khách, về đến kinh đô vào triều kiến hoàng hậu, báo tin rằng mình có mang lời ủy thác của đức vua, khi được hoàng hậu truyền lịnh: “Hãy vào!”, họ bèn vào triều bái tung hô xong, đứng nép qua một bên.
Khi ấy, hoàng hậu phán hỏi họ: “Chư khanh đến có việc chi cần yếu?”.
- Chúng tôi được lịnh quốc vương phái về tiếp kiến hoàng hậu ban cho chúng tôi ba trăm ngàn đồng.
- Chư khanh xin sao nhiều quá vậy? Chẳng hay chư khanh đã làm điều chi khiến hoàng thượng phát tâm trong sạch đối với chư khanh, mới ban thưởng cho chư khanh số tiền to lớn như thế ấy?
- Tâu hoàng hậu, chúng tôi chẳng có làm điều chi khác ngoài việc báo một tin lành đến quốc vương biết.
- Chư khanh báo tin lành ấy đến cho ta nghe được chăng?
- Tâu hoàng hậu, được.
- Thế thì chư khanh hãy nói đi.
- Tâu hoàng hậu, Đức Phật đã giáng thế.
Nghe được tin nầy, từ lần thứ nhất đến lần thứ ba, cả ba lần ngọc thể tràn đầy phỉ lạc, hoàng hậu không còn tưởng nghĩ điều chi được nữa. Khi nghe tiếng Đức Phật (Buddho) lần thứ tư, hoàng hậu mới phán hỏi: “Chư khanh, nghe câu nầy hoàng thượng đã ban thưởng bao nhiêu?”
- Tâu hoàng hậu, một trăm ngàn.
- Chư khanh, nghe được tin lành như thế mà hoàng thượng chỉ ban cho chư khanh có một trăm ngàn, như thế thì không xứng đáng. Quả thật, ta sẽ ban tặng cho chư khanh món quà nhỏ mọn của ta là ba trăm ngàn đồng. Chư khanh còn báo tin gì khác cho hoàng thượng biết nữa chăng?
Các thương khách lần lượt tâu cho hoàng hậu biết hai tin lành khác: “Tâu hoàng hậu, Đức Pháp đã giáng thế.”, “Tâu hoàng hậu, Đức Tăng đã giáng thế.”
Cũng như lần đầu, long thể hoàng hậu biết hai tin lành ấy, cả ba lần đều ngẩn ngơ. Nghe đến lần thứ tư, hoàng hậu tỉnh trí, khiến ban thưởng cho các thương khách hai lần, mỗi lần ba trăm ngàn đồng vàng nữa. Thế là các nhà đem tin báo tiệp được lãnh tất cả là một triệu hai trăm ngàn đồng vàng.
Sau đó, hoàng hậu phán hỏi các thương khách:
- Nầy chư khanh, hiện giờ hoàng thượng đang ở đâu?
- Tâu hoàng hậu, hoàng thượng có nói: “Trẫm sẽ đến xuất gia nơi Đức Phật.”, và Ngài đã lên đường.
- Thế hoàng thượng có nhắn lời gì cho ta?
- Ngài dặn tâu lại rằng: Tất cả quyền tước của Ngài, Ngài giao phó cho hoàng hậu toàn quyền sử dụng, rằng hoàng hậu hãy thừa hưởng hương vị tùy theo sở thích.
- Nầy chư khanh, còn các quan cận thần đi đâu?
- Tâu hoàng hậu, bá quan cũng có nói: “Chúng tôi sẽ xuất gia theo cùng với đức vua.”, và cũng ra đi cả rồi.
Hoàng hậu cho triệu tập các mệnh phụ phu nhân của ngàn vị đại thần và phán hỏi rằng:
- Chư tỉ muội, chồng của các chị em đã nói: “Chúng ta sẽ đi xuất gia với quốc vương.”, và đã ra đi. Vậy các chị em tính làm sao đây?
- Tâu hoàng hậu, các ông ấy có nhắn lời gì cho chúng tôi chăng?
- Các chị em, hoàng thượng cùng các ông ấy, nghe nói là giao hết sự sản của mình lại cho chị em, bảo chị em cứ tha hồ hưởng thụ đi.
- Tâu hoàng hậu, chẳng hay giờ đây hoàng hậu tính sao?
- Nầy chị em, khi hoàng thượng đang đứng ngoài đường, khi nghe được tin lành nầy, đã xuất ra ba trăm ngàn đồng để cúng dường Tam Bảo, rồi từ bỏ giang san sự nghiệp như thế, như người nhổ bỏ nước bọt. Ngài tuyên bố: Trẫm sẽ đi xuất gia, và đã ra đi. Còn ta, khi nghe tin lành Tam Bảo đã khởi hiện, ta cũng đã cúng dường Tam Bảo chín trăm ngàn đồng. Quốc vương đã từ bỏ vương vị, xả phú cầu bần thì ta cũng nên xả phú cầu bần, chứ ai lại quì gối xuống đất, hả miệng liếm lại nước bọt của quốc vương đã nhổ bỏ hay sao? Ta không cần vương vị làm chi, ta cũng sẽ đi tìm Đức Bổn Sư mà xin xuất gia hành đạo.
- Tâu hoàng hậu, chị em chúng tôi cũng sẽ đi xuất gia một lượt với hoàng hậu.
- Nếu được vậy thì quí lắm chị em ạ.
- Tâu hoàng hậu, được lắm.
Sau khi cho thắng ngàn chiếc xe, hoàng hậu đích thân ngự lên một chiếc, cùng với các mệnh phụ phu nhân khởi hành, rời bỏ kinh đô.
Dọc đường, hoàng hậu thấy con sông thứ nhứt, cũng đã phán hỏi như quốc vương lúc trước. Khi đã nghe rõ tự sự, hoàng hậu khiến các phu nhân tìm xem quốc vương đã đi về ngã nào.
- Tâu hoàng hậu, chúng tôi không thấy dấu chân của những tuấn mã đâu cả.
Nghe vậy, hoàng hậu đoán rằng: “Có lẽ hoàng thượng đã phát nguyện, đem cả tâm chân thành ra đi tầm cầu Tam Bảo, cho nên đã đi trót lọt.” Nay ta cũng ra đi tầm cầu Tam Bảo. Xin nhờ oai lực Tam Bảo mà nước sông nầy không giống như nước thường.
Chú tâm niệm ân đức Tam Bảo, hoàng hậu ra lịnh cho một ngàn chiếc xe vượt qua sông. Mặt nước khi ấy đặc cứng như mặt đá bằng, các vành bánh xe lăn qua không dính chút nước nào cả.
Cũng bằng cách ấy, mà đoàn xe lữ hành vượt qua hai con sông kia. Đức Bổn Sư biết rằng hoàng hậu và các phu nhân sắp đến, bèn khiến cho những Tỳ khưu đang ngồi gần bên Ngài biến mất hình dạng.
Đoàn phụ nữ quí tộc đang đi, bỗng thấy những tia ánh sáng từ kim thân Đức Phật phóng ra, cũng có ý nghĩ như quốc vương lúc trước, bèn đến đảnh lễ Ngài rồi đứng nép qua một bên.
- Bạch Ngài, đức vua Mahākappina đã ra đi để tìm Ngài. Theo chúng con tưởng, chắc có lẽ đức vua đã đến đây rồi. Vậy nhờ Ngài từ bi chỉ giùm chúng con biết, hiện giờ đức vua ở đâu?
- Các bà hãy ngồi xuống đây đi, rồi ta sẽ chỉ cho thấy đức vua.
Tất cả phụ nữ quí tộc đều hài lòng, ngồi xuống vừa thầm nghĩ: “Theo lời Ngài nói, chúng tôi ngồi nơi đây, rồi thì sẽ được gặp mặt các đấng lang quân.”
Đức Bổn Sư bắt đầu thuyết tuần tự pháp, nghe dứt thời pháp, hoàng hậu Anoja cùng đoàn mệnh phụ thảy đều chứng đắc Tu Đà Hườn quả.
Đại đức Mahākappina ngồi nghe thời pháp của Đức Bổn Sư thuyết để tiếp độ các nữ nhân ấy thì lại chứng đắc A La Hán quả cùng với Tuệ phân tích, cùng với ngàn vị Tỳ khưu tùy tùng chứng đạt như thế.
Ngay sát na ấy, Đức Bổn Sư khiến cho các nữ nhân được thấy chư Tỳ khưu đã đắc A La Hán quả (Người ta cho rằng: Lúc các mệnh phụ vừa đến mà gặp mặt ngay chồng mình cạo tóc, đắp y thì không thể giữ được tâm định tĩnh, do đó sẽ không chứng đắc đạo quả chi hết. Bởi thế cho nên, Đức Thế Tôn mới chờ khi họ đã có tín tâm kiên cố rồi mới khiến cho họ nhìn thấy chư Tăng A La Hán.).
Khi nhìn thấy chư Thánh Tăng nầy, quí bà liền gieo năm vóc xuống đảnh lễ và bạch rằng: “Bạch chư Đại đức, lúc nầy chư Đại đức đã đạt đến mục đích tối cao của người xuất gia rồi chắc?”.
Kế đó, quí bà đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi đứng nép qua một bên ngỏ lời xin xuất gia (có một số người nói rằng: “Nghe vậy, Đức Bổn Sư nghĩ đến nàng Uppalavaṇṇā, nàng biết được tư tưởng của Đức Thế Tôn, nên hiện đến nơi ấy, Đức Thế Tôn phán bảo Uppalavaṇṇā cho ngàn nữ nhân xuất gia, rồi đưa các Tỳ khưu Ni ấy trở về Jetavana Ni viện bằng thần thông lực.).
Đức Bổn Sư bèn bảo các tín nữ ấy rằng: “Các con hãy đến thành Sāvatthī vào chùa Sư nữ mà xin xuất gia.”
Các tín nữ vâng lời ra đi, họ trải qua quãng đường xa một trăm hai mươi do tuần, lần hồi mới đến thành Sāvatthī, dọc đường họ được đại chúng đón đường cúng dường lễ vật rất vinh quang.
Sau khi đến Ni viện, được xuất gia Tỳ khưu ni, đoàn phụ nữ ấy về sau chứng đắc A La Hán quả cả thảy.
Đức Bổn Sư cũng dắt ngàn vị Tỳ khưu bay trở về Jetavana.
Tương truyền rằng: Đại đức Mahākappina hằng đi tới lui trong các nơi hàng hiên hoặc nơi nghỉ ngơi… cao hứng thốt lên câu: “Ôi sung sướng thay! Ôi sung sướng thay!”. Chư Tỳ khưu bèn bạch với Đức Thế Tôn:
- Bạch Ngài, Đại đức Mahākappina hằng đi tới lui cao hứng thốt lên câu: “Ôi sung sướng thay! Ôi sung sướng thay!”. Có lẽ Đại đức muốn nhắc lại thời sung sướng vương giả của mình chăng?
Đức Bổn Sư cho gọi Đại đức đến và phán hỏi:
- Nầy Mahākappina, nghe nói rằng ông hồi tưởng đến thời sung sướng vương giả, toại hưởng ngũ trần, nên thốt lên những lời cao hứng phải chăng?
- Bạch Thế Tôn, Ngài vẫn biết con có hay là không có thốt ra lời cao hứng vì hồi tưởng đến dục lạc ngũ trần rồi.
Đức Bổn Sư xác nhận rằng: “Nầy các Tỳ khưu, con trai Ta không phải vì ngũ trần dục lạc, sự sung sướng vương giả mà thốt lên lời cao hứng đâu. Pháp hỷ đã phát sanh đến con trai Ta, và con trai Ta đã nếm vị của Bất tử Níp Bàn nên mới thốt lên câu cảm hứng khái thế ấy vậy.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ
79. “Dhammapīti sukhaṃ seti,
vippasannena cetasā;
Ariyappavedite dhamme,
sadā ramati paṇḍitoti.”
79. “Người đắc pháp hỷ thảnh thơi,
Với tâm khiết tịnh, sống đời thanh cao.
Người trí mãi mãi hân hoan,
Lắng nghe Pháp Phật bảo ban giáo truyền.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng dhammapīti trên đây nghĩa là người được no vui nhờ pháp, ví như đứa bé được mẹ cho bú sữa là pháp vậy. Gọi là Pháp (dhammo) nầy, không thể uống, húp hay bú như cháo, sữa đựng trong chén, bát… người tu hành nhờ đề mục niệm mà chứng được chín pháp Siêu Thế (Lokuttaranavadhamma), giác ngộ bằng trực giác chân lý Tứ Diệu Đế, nhứt là Khổ Đế. Gọi là người uống được pháp, tức là đắc Pháp hỷ vậy.
Sukhaṃ seti: Sống an vui luôn luôn trong bốn oai nghi, cả trong lúc thức và trong lúc nghỉ.
Vippasannena: Với tâm khiết tịnh không nhiễm ô, không phiền não.
Ariyappavedite: Được các bậc Thánh nhân như Đức Phật… thuyết giảng rành rẽ về các nhân sanh quả Bồ Đề (Bodhipakkhiyadhamma), Tứ niệm xứ…
Sadā ramati: người đắc pháp hỷ như thế, tâm hằng thanh tịnh, thuần khiết. Có đầy đủ trí tuệ sáng suốt thì luôn luôn hoan hỷ thảnh thơi, vui một niềm vui thoát tục.
*
Thời pháp vừa dứt có nhiều vị chứng đắc Thánh quả, nhứt là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ai bằng Đại đức Kiếp Tân Na,
Ngàn dặm xuyên sơn kiếm Phật Đà,
Từ ngôi nguyện sống đời tu sĩ,
Bỏ vợ hầu nương hạnh xuất gia.
Giữa chốn thanh bần vui biết mấy,
Nghe tên Chánh Pháp sướng thay là,
Của tiền danh vọng cần chi nữa,
Một quả vô sanh quá đủ mà.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC MAHĀKAPPINA
79. A Dhamma-lover dwells in peace and comfort, delighting in the noble teaching.
79. Người yêu mến Chánh pháp thường trú trong an lạc thanh tịnh, thích thú Giáo lý của bậc Thánh.
79. Dhammapīti sukhaṃ seti,
vippasannena cetasā;
Ariyappavedite dhamme,
sadā ramati paṇḍitoti. (6:4)
79. Happy is he who Dhamma drinks
with heart that’s clear and cool.
One so wise e’er delights
in Dhamma declared by the Noble.
----
VI. 5 - Tích SA DI TRÍ GIẢ
(Paṇḍitasāmaṇeravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 80)
80. “Udakaṃ hi nayanti nettikā,
usukārā namayanti tejanaṃ;
Dāruṃ namayanti tacchakā,
attānaṃ damayanti paṇḍitāti.”
80. “Người dẫn thủy dẫn nước,
Thợ làm tên nắn tên,
Thợ mộc uốn gỗ ướt,
Trí giả tự điều tâm.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự an tại Jetavana, đề cập đến Sa di Paṇḍita (Trí Giả).
Vào thời quá khứ, có một lần nọ Đức Chánh Biến Tri Kassapa ngự vào thành Bārāṇasī, dắt theo hai muôn vị Thánh Lậu Tận.
Dân chúng tự lượng sức mình, rủ nhau từng nhóm tám người cũng có, mười người cũng có, chung lo tiếp đãi chư Tăng mới đến, nhứt là Bố thí cúng dường tứ vật dụng.
Thế rồi, một hôm sau khi thọ thực, Đức Thầy nhân dịp nầy tỏ lời hoan hỷ cuộc phước thí, thuyết giảng như sau:
- Nầy các thiện gia tử, nơi đây có một số người nghĩ rằng: “Ta nên xuất của nhà ra, tự mình làm việc phước thí, cần gì kêu rủ ai khác làm chi?”. Thế rồi, những người nầy tự mình làm việc phước chớ không kêu rủ ai khác cả. Trong kiếp tái sanh, họ được tài sản dồi dào, nhưng không được đông đảo người tùy thuộc. Lại có một số người nữa, chỉ kêu gọi người làm phước còn tự mình chẳng bố thí chi cả, cho nên trong kiếp vị lai họ được nhiều người tùy thuộc, nhưng tài sản chẳng được dồi dào. Còn một số người tự mình không bố thí, cũng không kêu gọi ai bố thí thì trong kiếp vị lại họ không thể nào được phú túc về mặt tài sản và tùy thuộc cả. Trái lại họ còn nghèo túng đến phải xin ăn cơm thừa cá cặn mà sống qua ngày. Một số người tự mình làm phước bố thí và kêu gọi người khác bố thí thì kiếp sau họ được đầy đủ phước báu, tài sản dồi dào, tùy thuộc đông đảo.
Nghe vậy, một người nam là bậc có trí, đứng gần đó nghĩ thầm rằng: “Bây giờ ta sẽ làm theo cách của nhóm người thứ tư, để sau nầy được dồi dào về cả hai mặt.”
Ông đảnh lễ Đức Bổn Sư và bạch rằng:
- Bạch Ngài, ngày mai xin các Ngài hãy thọ bát của chúng con.
- Ông cần bao nhiêu Tỳ khưu?
- Bạch Ngài! Chư Tăng theo Ngài có được là bao nhiêu vị Tỳ khưu?
- Hai muôn vị Tỳ khưu.
- Bạch Ngài, con xin Ngài với tất cả chư Tỳ khưu ngày mai hãy thọ cơm bát của con.
Đức Bổn Sư im lặng nhận lời.
Thiện nam có trí ấy đi vào làng báo tin cho dân chúng hay:
- Các người ơi! Tôi thỉnh được chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật là vị tọa chủ, ngày mai đến thọ bát nơi nhà tôi. Các người ai có sức hộ độ được bao nhiêu vị Tỳ khưu thì hãy hộ độ bấy nhiêu vị.
Nghe vậy, dân làng tùy theo sức mình, người thì nói: Chúng tôi sẽ để bát mười vị, chúng tôi hai mươi vị; chúng tôi năm trăm vị… Thiện nam ấy lấy giấy ghi tất cả danh sách thí chủ ấy, từ đầu đến cuối.
Thuở ấy, trong thành có chàng nông dân nghèo khó, quá đỗi nghèo, nên mọi người gọi là là Mahāduggata (Đại Bần Khổ). Gặp anh ta, Thiện nam ấy cũng rủ:
- Nầy bạn Mahāduggata! Ngày mai tôi thỉnh Tỳ khưu Tăng có Đức Phật cầm đầu đến tại nhà tôi, ngày mai dân thành sẽ cúng dường làm phước. Vậy phần bạn, bạn lãnh để bát bao nhiêu vị Tỳ khưu?
- Dạ thưa ông, nhà tôi mà ông hỏi để bát Tỳ khưu ư? Để bát cho Tỳ khưu phải là người giàu có, còn tôi buổi sáng kiếm một nhúm gạo để nấu cũng chẳng có thay. Tôi làm thuê làm mướn sống lay lất qua ngày, tôi biết lấy chi để bát Tỳ khưu mà ông kêu gọi.
Người đi khuyên nhủ người khác làm phước phải là người khéo nói, mới thuyết phục người khác làm theo mình được. Bởi vậy, ông thiện nam dầu nghe anh Mahāduggata than túng, cũng không làm thinh mà nói tiếp rằng: “Nầy bạn Mahāduggata, trong thành nầy, có nhiều người ăn ngon, mặc áo đẹp, nằm trên giường ngà chiếu ngọc, thân thể thì trau giồi, đeo giắt nhiều loại nữ trang quí giá. Họ thì hưởng phước lộc dồi dào như vậy, còn bạn thì mỗi ngày phải làm thuê làm mướn cực khổ, kiếm ăn cũng chưa no bụng. Thế mà bạn chẳng nghĩ biết gì rằng: Vì ta không gieo chút ít phước chi trong quá khứ, cho nên trong đời nầy ta chẳng hưởng được chút ít quả gì ư?”.
- Thưa ông, tôi biết lắm chứ.
- Thế thì tại sao bây giờ bạn không làm phước? Bạn còn trẻ trung, đầy sức mạnh. Nếu bạn làm thuê lãnh tiền công rồi, tùy theo sức mình mà làm phước bố thí, há chẳng nên ư?
Trong lúc ông thiện nam đang dùng tài hùng biện để giảng giải, thì anh Mahāduggata phát sanh kinh cảm (saṃvegappatto), bèn hứa rằng: “Làm thuê được nhiều ít chi, tôi cũng sẽ để bát một vị Tỳ khưu.”
Ông thiện nam không ghi vào sổ, vì cho rằng: “Có một vị Tỳ khưu thì biên vào sổ để làm chi?”.
Ông Mahāduggata về nhà bảo vợ rằng:
- Nầy hiền nội, mai nầy dân chúng trong thành sẽ đặt bát Trai Tăng, ông hội trưởng có gọi anh để bát, hộ độ một vị Tỳ khưu. Và anh cũng đã hứa: “Ngày mai chúng tôi sẽ để bát hộ độ một vị Tỳ khưu.”
Khi ấy, vợ chàng không nói: “Chúng ta nghèo túng, sao anh nhận lời làm chi?”, mà nàng lại nói rằng: “Thưa chàng, chàng nhận lời là phải lắm. Chúng ta trong kiếp trước không bố thí chút gì, nên kiếp nầy sanh ra gặp cảnh khốn cùng. Vậy hai vợ chồng ta hãy đồng đi làm thuê để góp tiền công, lo sớt bát hộ độ một vị Tỳ khưu.”
Nói rồi, hai vợ chồng đồng ra khỏi nhà, đi đến chỗ chợ thuê người làm công (bhattiṭṭhānaṃ).
Ông đại Trưởng giả trông thấy chàng Mahāduggata thì hỏi:
- Nầy Mahāduggata, chú làm được công việc chi chăng?
- Dạ được, thưa ông chủ.
- Chú làm được việc chi?
- Dạ bất cứ việc gì mà ông chủ sai bảo con làm.
- Thế thì, mai nầy ta có thỉnh để bát hai trăm, ba trăm vị Tỳ khưu. Chú em hãy đến bửa củi nghe.
Đại Trưởng giả bảo người nhà mang dao, búa ra trao cho Mahāduggata. Anh buộc thắt lưng lại cho thật chặt, ráng sức bửa củi, khi thì dùng dao, khi thì thay búa, làm liền tay tùy theo cây củi.
Thấy vậy, Trưởng giả hỏi rằng: “Nầy chú em, hôm nay chú em làm việc hết sức siêng năng, hăng hái là do cớ chi vậy?”.
- Thưa chủ! Vì mai nầy con được để bát cho một vị Tỳ khưu.
Nghe vậy, đại Trưởng giả phát tâm hoan hỷ, trong sạch đối với chàng Mahāduggata, vì nghĩ rằng: “Chà! Chuyện của chú nầy làm quả thật là khó lắm thay. Chú làm thinh, không than thở là: “Tôi nghèo khổ.”, còn xuất lực để làm thuê, và nói: “Tôi sẽ để bát một vị Tỳ khưu.””
Bà Trưởng giả khi thấy vợ chàng Mahāduggata cũng hỏi:
- Nầy con! Con làm được việc chi?
- Dạ thưa, tùy bà chủ sai làm việc chi thì con làm việc ấy.
Nghe vậy, bà Trưởng giả dắt nàng vào trong trại giã gạo, khiến người nhà mang cối, chày trao cho chị ta. Chị hớn hở giã gạo, sàng gạo, làm việc nhanh nhẹn như người khiêu vũ. Thấy vậy, bà Trưởng giả hỏi rằng:
- Nầy con, con làm việc siêng năng vui vẻ hết sức là do cớ chi vậy?
- Thưa bà chủ, con làm thuê lấy công đặng chúng con cúng dường để bát đến một vị Tỳ khưu.
Nghe nàng nói như thế, bà Trưởng giả cũng phát tâm hoan hỷ và trong sạch với nàng, vì nghĩ rằng: “Chà! Cô nầy làm được một việc khó làm thật.”
Đại Trưởng giả bảo gia nhân đong cho chàng Mahāduggata bốn gáo gạo Sālī và nói: “Đây là phần công một ngày bửa củi.”, và ông còn sai cho thêm anh bốn gáo gạo Sālī nữa, bảo rằng: “Còn đây là phần thưởng cho sự siêng năng của anh.”
Chàng về nhà bảo vợ: “Phần anh làm thuê được lãnh tám gáo gạo Sālī, phần nầy để nấu cơm được rồi. Còn phần công của em, em hãy nài đổi lấy sanh tô, dầu và các món gia vị nghe.”
Vợ chàng thì được bà Trưởng giả trả công bơ lỏng và sanh tô, mỗi thứ một tô nhỏ và một tô gia vị cùng với một gáo gạo Sālī ròng. Như thế vợ chồng được lãnh tất cả là chín gáo gạo Sālī cùng đồ gia vị. Hai vợ chồng bảo nhau: “Chúng mình đã có đồ dâng cúng rồi.” Nhờ vui thích, sáng hôm sau hai người thức thật sớm. Vợ bảo chồng rằng: “Anh ơi, anh hãy đi tìm lá (nấu cà ri) chắp sẵn đem về đây cho em.”
Anh Mahāduggata đi đến chợ tìm lá, nhưng không thấy có bèn thả ra bờ sông để hái lá. Trong tâm chàng vô cùng thỏa thích, vừa đi vừa hát nghêu ngao rằng: “Ta sẽ được để bát cúng dường các Ngài Đại đức.”
Một ngư phủ vừa ném cái chài xuống nước, đứng gần đó, nghe tiếng hát văng vẳng thì nghĩ rằng: “Đây chắc là tiếng của anh Mahāduggata.” Khi thấy chàng đến, người chài cá hỏi:
- Ồ! Có việc chi làm tâm anh thỏa thích lắm sao, mà anh ca hát nghêu ngao như vậy?
- Dạ tôi tìm lá anh ạ.
- Để làm chi vậy anh?
- Tôi sẽ để bát cúng dường đến vị Tỳ khưu.
- Chà! Vị Tỳ khưu nào được chiếc lá của anh chắc hạnh phúc lắm thay.
- Thưa anh, tôi làm sao tìm được lá cúng dường để bát?
- Thế thì, anh hãy lại đây.
- Dạ tôi đến để làm gì?
- Anh hãy lựa những con cá nầy, chia để riêng ra thành từng mớ, tùy theo giá tiền: Thứ một đồng (pāda), thứ nửa đồng và thứ một đồng vàng (kahāpaṇa).
Anh Mahāduggata làm đúng theo lời dặn. Từng mớ, từng mớ cá đã xỏ xâu sẵn, được dân chúng trong kinh thành lần lượt đến mua đem về để cúng dường sớt bát chư Tỳ khưu mà mình đã thỉnh.
Anh Mahāduggata vừa phân chia hết đống cá từng xâu xong thì đã đến giờ để bát. Anh sợ trễ liền nói với người chài:
- Tôi phải về anh à, về cho kịp giờ rước chư Tăng.
- Còn mớ cá nào không vậy?
- Thưa, hết sạch cả rồi.
- Nếu vậy, còn bốn con cá thu của tôi để dành ăn, tôi vùi dưới cát. Nếu anh muốn để bát cúng dường Tỳ khưu thì anh hãy đào lên mà lấy đem đi.
Và anh thợ chài cho Mahāduggata cả bốn con cá thu.
Ngày ấy, trong buổi sáng tinh sương, Đức Bổn Sư quán xét thế gian, thấy anh Mahāduggata lọt vào giác võng của Ngài: “Chuyện gì sẽ xẩy ra?”. Quán thêm nữa, Ngài thấy rằng: “Anh Mahāduggata nầy, cùng vợ anh, ngày hôm qua đã làm thuê để lấy tiền công mua sắm đồ để bát một vị Tỳ khưu.” Ngài tự hỏi: “Anh ta sẽ gặp được vị Tỳ khưu nào?”. Quán tiếp, thì Ngài biết rằng: “Mọi người coi theo bảng ghi danh các Tỳ khưu mà mình thỉnh để bát, sẽ thỉnh các vị ấy về nhà mình. Riêng chàng Mahāduggata nầy, ngoài Ta ra thì sẽ không được vị Tỳ khưu nào khác cả.”
Theo truyền ngôn thì chư Phật hằng tế độ những người nghèo khó, vì thế cho nên sáng hôm ấy, sau khi tắm gội, Đức Bổn Sư vào an ngự trong hương thất, nghĩ rằng: “Ta sẽ tiếp độ chàng Mahāduggata.”
Trong khi chàng Mahāduggata xách cá đi vào nhà, thì ngai vàng bằng Thạch Anh vàng của Đức Đế Thích phát nóng lên. Thiên Vương biết rằng: “Ngày hôm qua, chàng Mahāduggata đã hứa: “Tôi sẽ đặt bát vị Tỳ khưu.”, rồi cùng vợ đi làm thuê, anh ta sẽ gặp được vị Tỳ khưu nào?”. Thiên Vương nghĩ như thế và được thấy rằng: “Anh không được vị Tỳ khưu nào khác ngoài Bậc Chánh Đẳng Giác.” Hiện Ngài đang an ngự trong hương thất, nghĩ rằng: “Ta sẽ tiếp độ chàng Mahāduggata.”
Và Mahāduggata tự mình phải lo cho có thực phẩm xứng đáng như cháo, cơm và cà ri lá cẩm (paṇṇasūpeyya)… để cúng dường Đức Như Lai. Vậy ta hãy đến nhà Mahāduggata lãnh phần nấu nướng.
Hóa thành một người lạ mặt, Thiên Vương đi đến túp lều của Mahāduggata, ứng tiếng lên hỏi: “Ở đây, có công việc chi cần người làm không?”.
Thấy khách lạ, Mahāduggata hỏi:
- Nầy bạn, bạn làm được việc chi?
- Thưa ông chủ, tôi bá nghệ, không nghề nào mà tôi không biết cả. Nhất là nghề nấu nướng cơm cháo thì tôi rành lắm.
- Nầy bạn, chúng tôi rất cần tay bạn phụ giúp trong việc nầy, nhưng khổ nỗi chúng tôi không có tiền để trả công cho bạn.
- Thưa ông, ông cần việc chi?
- Chúng tôi đang cần người nấu nướng cháo cơm cho vị ấy.
- Nếu ông sớt bát cúng dường đến Tỳ khưu, thì cần chi trả công cho tôi. Vậy ông chia phước cho tôi chẳng quí hơn sao?
- Nếu được như vậy thì tốt lắm. Vậy mời bạn vào nhà.
Đức Đế Thích vào nhà Mahāduggata, bảo đem gạo ra cho mình, rồi giục anh đi rằng: “Thôi anh hãy đi thỉnh vị Tỳ khưu về phần anh để bát, rồi rước về đây.”
Vị Trưởng ban đứng trông coi cuộc đại thí, phân chia các nhóm Tỳ khưu. Tùy theo thứ tự trong bảng ghi danh sách thí chủ mà đưa chư Tăng đến nhà các thí chủ.
Anh Mahāduggata đến gặp vị ấy và nói: “Xin cho tôi một vị Tỳ khưu lấy bát ở nhà tôi.”
Trong lúc ấy, vị Trưởng ban hộ Tăng mới chực nhớ lại, bèn đáp: “Tôi đã quên ghi vị Tỳ khưu của chú rồi.”
Anh Mahāduggata nghe như bị dao nhọn, bén cắt vào bụng mình. Anh ôm chập lấy hai tay khóc than, kể lể rằng: “Ông ơi! Sao ông nỡ giết hại tôi chi? Hôm qua nghe lời ông kêu rủ, tôi với vợ tôi làm mướn trọn ngày lấy tiền công và sáng hôm nay tôi đã phải thả ra mé sông mà kiếm lá cẩm về nấu canh. Ông ơi, ông hãy cho tôi một vị Tỳ khưu đi, ông ơi…”.
Nhiều người tụ hội lại, hỏi rằng: “Việc gì thế? Nầy anh Mahāduggata!”, anh liền thuật lại hết tự sự. Họ bèn hỏi ông Trưởng ban hộ Tăng rằng:
- Anh ta nói rằng ông đã kêu gọi anh ta hãy đi làm việc phước. Anh đã đi làm thuể để được để bát cho một vị Tỳ khưu. Có thật vậy hay chăng?
- Thưa các Ngài, có ạ.
- Việc làm của ông là quấy lắm. Ai lại lo phân chia bấy nhiêu vị Tỳ khưu như thế, lại chẳng để cho anh ta được một vị.
Vị Trưởng ban nghe đại chúng trách cứ, lấy làm hổ thẹn, bảo chàng Mahāduggata rằng: “Nầy bạn Mahāduggata, xin bạn đừng giết hại tôi, tôi vì bạn mà khổ tâm hết sức. Mọi người tùy theo bản nêu danh sách sắp sẵn mà thỉnh các Tỳ khưu về nhà của mình lấy bát cả rồi, không còn sót lại vị Tỳ khưu nào nữa mà giao lại cho anh cả.
Bây giờ, chỉ có Đức Bổn Sư, sau khi rửa mặt, đang tĩnh tọa trong Hương thất. Bên ngoài, các Tiểu vương, Đại thần… đang chờ trông, tính rằng: “Chúng ta ở đây đợi Ngài ra khỏi Hương thất, tiếp đón và lãnh bát của Ngài đem đi.” Thường thì chư Phật hay tế độ những người khốn khó. Vậy anh hãy vào chùa xin với Đức Thầy: “Bạch Ngài, con là kẻ khốn cùng, xin Ngài từ bi tế độ cho con.” Nếu anh hữu phước may ra anh sẽ được Ngài chấp thuận.”
Anh Mahāduggata bèn đi đến chùa.
Thấy anh ta, các Tiểu vương, Đại thần… tưởng lầm anh ta là người xin ăn tàn thực như những người khác, bèn nói rằng:
- Nầy Mahāduggata, bây giờ chưa phải là giờ thọ thực, mà chú đến làm chi?
Anh đáp: “Dạ thưa tôi biết chưa tới giờ thọ thực, tôi đến để đảnh lễ Đức Bổn Sư.”
Vừa nói, anh ta vừa phủ phục xuống, đập đầu lên ngưỡng cửa Hương thất, lạy rồi bạch rằng:
- Bạch Ngài, trong kinh thành nầy, không có ai nghèo khổ hơn con. Xin Ngài hãy là người bảo trợ cho con. Xin Ngài hãy tế độ cho con đi.
Đức Bổn Sư mở cửa Hương thất, lấy bát của Ngài đặt trên tay của anh Mahāduggata. Anh ta vui mừng sung sướng như được tôn lên làm Chuyển Luân Vương. Các Tiểu vương, Đại thần trố mắt nhìn nhau. Quả thật, bát của Đức Thế Tôn trao cho thanh niên Mahāduggata rồi thì không ai có thể dùng quyền lực nào mà lấy lại được cả. Các vương tử đồng nói: “Nầy bạn Mahāduggata, bạn hãy giao bát của Đức Bổn Sư lại cho ta đi, chúng ta sẽ trả bạn một số tài vật như thế… Bạn đang nghèo khổ, hãy lấy tiền của đi, chớ lấy bát mà làm gì?”.
Mahāduggata đáp: “Dầu sao đi nữa, tôi cũng không giao bát, tiền của thì tôi không cần, tôi chỉ cần để bát cúng dường Đức Bổn Sư mà thôi.” Các Tiểu vương nài nỉ lấy bát không được liền trở về cung. Quốc vương nghĩ thầm: “Gã Mahāduggata nầy, dầu đem cả tài sản ra dụ dỗ, gã cũng chẳng giao bát, nhứt định tự mình cúng dường Đức Thế Tôn, không ai có thể dành lấy được với gã. Gã sẽ cúng dường thực phẩm loại nào? Trẫm phải chờ đến giờ gã cúng dường rồi, ra rước bát Đức Thế Tôn về cung, để bát Ngài những vật thực đã sắp sẵn.”
Nghĩ rồi, đức vua cùng đi với Đức Bổn Sư.
Thiên Vương Đế Thích đã dọn sẵn cơm, cháo, cà ri… lấy tọa cụ của Đức Bổn Sư, trải ra rồi ngồi nghỉ.
Anh Mahāduggata rước Đức Thế Tôn về đến nhà, thỉnh rằng:
- Xin thỉnh Ngài ngự vào nhà con.
Túp lều của anh ta thấp lụp xụp, nếu không khom lưng cúi đầu thì không thể vào được. Chư Phật không bao giờ cúi đầu chun vào nhà. Thật vậy, vì khi Ngài bước vào nhà, thì mặt đất lõm xuống, và cái nhà thì lại vươn lên cao. Đây là do quả phước của hạnh bố thí tốt đẹp của các Ngài. Khi các Ngài trở ra đi thì tất cả đều hườn y lại như thường. Bởi thế, Đức Bổn Sư cứ thẳng người mà đi vào trong nhà rồi ngự lên bảo tọa của Đức Đế Thích dọn sẵn.
Khi Đức Bổn Sư an tọa, quốc vương hỏi rằng:
- Nầy Mahāduggata! Trẫm và chư vương tử hỏi xin lấy bát của Đức Thế Tôn, nhưng bạn vẫn một mực chối từ. Vậy bây giờ trẫm muốn xem bạn cúng dường đến Đức Thế Tôn đến mức nào cho biết.
Khi ấy, Đức Đế Thích giở nắp các nồi cháo, cơm ra cho vua ngó thấy. Mùi thơm bát ngát từ các nồi xông ra, tỏa lan khắp cả châu thành, quốc vương nhìn các món thực phẩm, rồi bạch cùng Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài! Quả nhân nghĩ thầm: “Lễ vật cúng dường của Mahāduggata sẽ trọng hậu bậc nào, trẫm chờ cho gã để bát rồi, trẫm sẽ rước Ngài về cung mà dâng vật thực đã soạn sẵn.” Vì nghĩ vậy nên trẫm mới đến đây. Nhưng vật thực như vầy, trẫm chưa từng thấy, nếu trẫm đứng mãi ở đây, sợ làm rộn cho Mahāduggata, vậy trẫm xin cáo từ lui gót.
Quốc vương đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi ra đi.
Nói về Đức Đế Thích, sau khi dâng cháo đến Đức Bổn Sư rồi, thì chăm lo tiếp đãi Ngài rất kỹ lưỡng. Đức Bổn Sư thọ thực xong, tụng kinh phúc chúc cho thí chủ, rồi từ bảo tọa đứng lên, ngự ra đi.
Đức Đế Thích ra dấu cho Mahāduggata, anh bèn ôm bát đi theo sau Đức Thế Tôn. Đức Đế Thích quay trở vào, đứng ngay cửa nhà anh Mahāduggata, nhìn lên trời, từ trên hư không, vật báu rớt xuống như mưa, đầy hết các lu khạp rồi tràn ra đầy cả nhà của Mahāduggata, không có chỗ nào trống cả.
Đức Đế Thích quay trở vào, đứng ngay cửa nhà Mahāduggata, khi ấy, vợ và con trai của Mahāduggata ra đứng ở ngoài sân.
Sau khi tiễn chân Đức Bổn Sư, anh Mahāduggata quay trở về, trông thấy lũ trẻ đứng ngoài sân, bèn hỏi:
- Có việc gì đây?
- Anh à! Khắp nhà ta bây giờ tràn ngập bảy báu, không còn chỗ nào trống để chúng ta vào trong.
Mahāduggata nghĩ thầm: “Do nhờ phước báu ta cúng dường hôm nay, nên ta mới được ban thưởng như vậy.”
Anh bèn vào triều bái yết quốc vương, nghe quốc vương phán hỏi: “Khanh đến có việc chi?”, anh đáp:
- Tâu hoàng thượng! Nhà con chứa đầy vật báu, xin hoàng thượng hãy nạp dụng những vật báu ấy.
Đức vua nghĩ thầm: “Ôi! Sự cúng dường lễ vật đến chư Phật đưa đến phước tối cao phát sanh hiện tiền như thế.”
Đức vua phán hỏi: “Khanh cần có những gì?”.
- Xin hoàng thượng hãy ban cho ngàn cỗ xe bò đi chở những vật báu ấy, đem về chất đống nơi giữa sân rồng.
Đống báu vật ấy cao ngùn ngụt đến ngọn cây thốt nốt. Đức vua cho triệu tập dân chúng trong thành vào triều, quốc vương phán hỏi:
- Trong thành nầy có ai có được bấy nhiêu bảo vật như vầy chăng?
- Tâu bệ hạ, không có.
- Vậy thì ta nên làm gì với người chủ kho tàng nầy?
- Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy phong chức Trưởng giả cho người ấy.
Quốc vương ban thưởng cho Mahāduggata trọng hậu và ban chức đại Trưởng giả đến anh. Kế đó, đức vua chỉ chỗ nền nhà cũ của Trưởng giả và phán rằng: “Nầy khanh, hãy chỉnh trang nơi ấy và cất lâu đài lên mà ở.”
Trong lúc quét dọn và san bằng mặt đất, những người làm khi cuốc đất nơi nầy, nơi nọ, phát giác được những ché đựng đồ chôn dấu đã di chuyển khỏi vị trí cũ.
Mahāduggata trình báo lại đức vua, đức vua phán rằng:
- Đó là phần phước của khanh, khanh cứ giữ lấy mà dùng.
Mahāduggata cất xong dinh thự, bèn thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến tư gia để cúng dường. Từ đó về sau anh làm phước suốt đời. Đến khi hết tuổi thọ, được sanh về nhàn cảnh, hưởng lộc trời suốt một khoảng thời gian hai đời vị Phật. Cho đến thời Đức Phật hiện tại, anh mệnh chung từ Thiên giới, tái sanh vào lòng của một tiểu thư con nhà Trưởng giả, là một gia tộc thiện tín đệ tử của Đại đức Sārīputta cư ngụ trong thành Sāvatthī.
Khi cha mẹ biết thai đậu thì lo chăm nom thuốc thang bảo dưỡng thai nhi. Khi thai đã lớn, bà mẹ phát sanh chứng thèm kỳ lạ. Bà ao ước: “Ôi! Phải chi ta được cúng dường, sớt bát năm trăm vị Tỳ khưu, có Đại đức Sārīputta cầm đầu, với thực phẩm ngon lành như cá thu, rồi ta đắp y vàng, ngồi phía sau Tăng chúng, dùng những vật thực của chư Tăng dùng dư thừa sớt cho ta.”
Nghĩ rồi, dựng phụ ngỏ lời cho cha mẹ biết và thực hành ý định ấy. Bịnh ốm nghén liền dứt.
Từ đó về sau, trong bảy cuộc lễ trong gia tộc, thí chủ lại cúng dường sớt bát năm trăm vị Tỳ khưu, có Đại đức Sārīputta cầm đầu, với món vật thực đặc biệt là cá thu (đoạn nầy giải rộng ra y như tích công tử Tissa).
Đó là do phước báu của Mahāduggata lúc trước đã cúng dường cá thu, bây giờ trổ quả như vậy.
Đến ngày lễ đặt tên con, thiếu phụ bạch với Đại đức Sārīputta:
- Bạch Ngài! Xin Ngài truyền giới cho kẻ tôi tớ của Ngài.
Nghe người mẹ bạch, Đại đức hỏi:
- Đứa bé trai nầy tên chi?
- Bạch Ngài! Kể từ khi con thọ thai về sau, trong nhà nầy dầu là kẻ ngu khờ cũng trở nên bậc trí giả, cho nên con mới đặt tên là Paṇḍita (Trí Giả Tử).
Đại đức truyền giới cho đứa hài nhi.
Kể từ ngày đứa con ra chào đời, tự nhiên bà mẹ phát tâm nguyện rằng: “Ta nhất định sẽ không phá hoại căn lành của con trai ta.”
Đến khi lên bảy, cậu con trai ngỏ ý với bà mẹ:
- Thưa mẹ, con sẽ xuất gia với Đại đức.
Bà mẹ liền tán thành rằng:
- Tốt lắm con, mẹ đã phát nguyện là sẽ không phá hoại căn lành của con.
Nói rồi, bà thỉnh Đại đức đến cúng dường để bát, bạch rằng: “Bạch Ngài! Kẻ tôi tớ của Ngài, nó muốn xuất gia. Để chiều nay con sẽ mang nó vào chùa.”
Tiễn chân Đại đức vể chùa rồi, bà triệu tập quyến thuộc báo tin cho họ biết rằng: “Hôm nay là ngày cuối cùng con trai tôi là tại gia cư sĩ, nên tôi thết đãi nó một buổi tiệc tiễn hành xứng đáng.”
Sau bữa tiệc long trọng, bà mẹ dắt con trai đến chùa giao cho Đại đức và bạch rằng: “Xin Ngài cho hài tử nầy xuất gia.” Đại đức nói: “Đời sống của người xuất gia rất khó khăn, nhiều cực nhọc lắm.” Cậu bé đáp:
- Bạch Ngài, con sẽ tuân hành theo huấn từ của Ngài.
Nghe vậy, Đại đức nói: “Nếu vậy thì con hãy lại đây.”
Đại đức truyền giáo năm chi đầu của đề mục tham thiền ba mươi hai thể trược, khởi đầu bằng tóc để làm phép xuất gia Sa di cho cậu Paṇḍita.
Cha mẹ của Sa di Paṇḍita lưu lại chùa trong bảy ngày để làm phước Trai Tăng, cúng dường thực phẩm là cá thu đến chư Tăng có Đức Phật là tọa chủ. Chiều ngày thứ bảy, hai ông bà mới trở về nhà. Qua ngày thứ tám, lúc đi vào làng khất thực, Đại đức dẫn theo Sa di Paṇḍita, chớ Ngài không đi chung với chư Tăng. Tại sao vậy? Vì Sa di mới tu, cách đắp y mang bát hoặc trong bốn oai nghi chưa được tề chỉnh nghiêm trang. Vả lại, trong chùa Đại đức cũng có nhiều phận sự phải làm, trong lúc chư Tăng vào làng khất thực thì Đại đức dạo khắp trong chùa để quét dọn, đổ đầy nước uống, nước xài vào những lu khạp còn trống… sắp lại những giường, ghế dài để sái chỗ… Xong đâu đó rồi, Ngài mới đi vào làng khất thực. Một lẽ nữa, Đại đức nghĩ rằng: “Chúng ta đừng để cho nhóm ngoại đạo buông lời chỉ trích như vầy, khi họ vào viếng chùa: “Chúng ta hãy nhìn xem chỗ ngồi của các đệ tử Sa môn Gotama như thế nầy.””
Chỉ khi nào nhìn thấy khắp chùa chu đáo rồi, Đại đức mới đi vào làng khất thực. Cho nên ngày ấy, sau khi xong công việc tại chủa, Đại đức bảo Sa di Paṇḍita theo Đại đức đi vào làng. Đang đi với Thầy Tế độ, dọc đường Sa di nhìn thấy một lạch nước, Sa di hỏi:
- Bạch Ngài, cái nầy gọi là gì?
- Nầy Sa di, tên nó là lạch nước.
- Người ta dùng nó để làm gì?
- Người ta dẫn nước đi đến chỗ nầy, chỗ nọ, để tưới vào ruộng của mình.
- Bạch Ngài, nước có tâm thức chăng?
- Không có đâu, nầy Sa di.
- Bạch Ngài, một vật không có tâm thức mà người ta dẫn dắt đến chỗ người ta muốn để làm công việc, thì tại sao những chúng sanh có tâm lại chẳng có thể tự điều chế tâm mình để hành Sa môn pháp?
Đi thêm đoạn nữa, Sa di tự mắt trông thấy người thợ làm tên đang hơ cây gậy cứng bằng lõi cây trên lửa nóng để uốn cho ngay thẳng, bèn hỏi:
- Bạch Ngài, những người nầy gọi là chi?
- Gọi là thợ làm tên, Sa di ạ.
- Họ đang làm chi đó, Bạch Ngài.
- Họ đang hơ lửa một khúc cây có lõi cứng để uốn cho thẳng.
- Bạch Ngài, cây ấy có tâm thức chăng?
- Không có tâm đâu, nầy Sa di.
Sa di nghĩ thầm: “Nếu một khúc cây vô tâm mà người ta có thể hơ lửa cho thẳng được, thì tại sao những chúng sanh hữu tâm lại chẳng có thể tự điều chế tâm mình để hành Sa môn pháp?”.
Lại đi thêm một đỗi nữa, Sa di trông thấy nhiều thợ mộc đang làm căm, vành, đùm xe, bèn hỏi:
- Bạch Ngài, những người nầy kêu là chi?
- Gọi là thợ mộc, Sa di ạ.
- Họ đang làm cái chi thế?
- Họ lấy cây làm thành đùm, bánh xe, vành xe của những chiếc xe nhỏ.
- Những vật ấy có tâm không, bạch Ngài?
- Không có tâm đâu, Sa di ạ.
Khi ấy, Sa di Paṇḍita suy nghĩ: “Nếu như người ta có thể lấy cây rừng là vật vô tâm làm thành bánh xe thì tại sao những chúng sanh hữu tâm lại chẳng có thể tự điều chế tâm mình để hành Sa môn pháp?”.
Sa di suy nghĩ thấy được những lý lẽ trên đây chín chắn rồi, bạch rằng: “Bạch Ngài, nếu y bát nầy của Ngài thì xin Ngài hãy cầm giữ lấy, con cần phải trở về chùa.”
Đại đức không nghĩ trong tâm rằng: “Ông nhỏ nầy mới xuất gia Sa di, lúc đang đi sát bên ta mà còn nói như thế à.”
Nhưng Đại đức bảo rằng: “Hãy đưa đây, nầy Sa di.”
Nói rồi, Đại đức tự cầm giữ lấy y bát của mình, Sa di đảnh lễ Thầy Tế độ, rồi quay trở lại, miệng còn nói:
- Bạch Ngài, khi Ngài lấy phần cơm của con mang về, xin Ngài hãy lấy phần cơm cá thu cho con.
- Nầy con, làm sao ta có được.
- Bạch Ngài, nếu như Ngài không có được do phước của Ngài, thì Ngài sẽ có được do phước của con.
Đại đức nghĩ thầm: “Nếu để Sa di nầy ngồi bên ngoài, e có sự tai hại nguy hiểm.”, nên trao chìa khóa cho Sa di và dặn rằng: “Con hãy mở cửa cốc của ta, vào ngồi trong ấy.”
Sa di Paṇḍita vâng theo lời thầy dạy, ngồi tịnh trong thất của thầy. Khi ấy, do oai lực ân đức của Sa di, chiếc ngai vàng của Đế Thích nóng ran lên. Thiên Vương tự hỏi: “Tại cớ nào vậy?”. Quán xét thì thấy được Sa di Paṇḍita sau khi giao y bát lại cho thầy, trở về hành Sa môn pháp: “Ta cũng nên xuống nơi đó.”
Nghĩ rồi, Đế Thích triệu bốn vị Thiên Vương đến khiến rằng:
- Chư Thiên Vương hãy đi tuần gần tinh xá Jetavana, đuổi hết chim, thú đi hết, lo việc canh phòng cho chu đáo.
Phán rồi, Thiên Vương ra lịnh cho Thái Âm Thiên Tử (Candadevaputta): “Hãy níu giữ mặt trăng lại.”, ra lịnh cho Thái Dương Thiên Tử (Suriyadevaputta): “Hãy níu giữ mặt trời lại.”
Xong rồi, tự thân Thiên Vương làm người đứng canh giữ cái chốt quả lắc chuông cho Sa di. Trong tinh xá lặng thing, dù một tiếng lá khô rụng cũng không có.
Tâm của Sa di đến mức an tịnh, chỉ trong thời gian độ xong bữa cơm, ông chứng đạt đạo quả, đạt đến ba tầng Thánh đầu. Trong lúc Sa di đang ngồi trong tinh xá, thì Đại đức Sārīputta nghĩ thầm: “Ta nên đến nhà ai để có thể kiếm được vật thực cho Sa di?”. Đại đức đi đến nhà một gia chủ hộ độ Đại đức, nơi đây trong ngày ấy, người ta có được nhiều cá thu, và đang chờ đợi Đại đức đến để đặt bát.
Khi thấy Đại đức đến gần, họ bạch rằng:
- Bạch Ngài, Ngài đến thật là đúng lúc. Xin thỉnh Ngài vào trong.
Khi Đại đức vào trong nhà, họ dâng cháo và kẹo bánh, điểm tâm xong, họ đặt bát cơm với vật thực là cá thu. Đại đức định mang bát ra đi, những họ thỉnh: “Xin Ngài hãy thọ thực bát nầy đi, còn phần mang về tinh xá chúng con sẽ dâng thêm sau.”
Khi Đại đức dùng xong bữa rồi, họ xin bát không để ròng cơm cá thu đầy bát, rồi dâng đến tay Ngài.
Đại đức vội vã ra đi, nghĩ thầm: “Sa di của ta chắc hẳn đang đói bụng.”
Ngày hôm ấy, Đức Bổn Sư thọ thực trong lúc phải thời xong rồi và đã trở về tinh xá. Ngài quán thấy rằng: “Sa di Paṇḍita đã trao bát lại cho Thầy, với ý niệm “Ta sẽ hành Sa môn pháp.”, và đã trở về liêu.” Ngài tự hỏi: “Sa di nầy có đắc được đạo quả chi chăng?”. Khi quán thấy, Sa di chứng đạt được ba quả Thánh, Ngài lại xét tiếp: “Sa di có thể chứng đắc A La Hán quả chăng?”. Và Ngài lại biết rằng: “Ông Sa di nầy chứng đắc quả A La Hán.” Khi ấy, Đức Bổn Sư suy nghĩ: “Sārīputta đang hối hả đem cơm về cho Sa di sớm quá, chính là gây chướng ngại cho Sa di. Vậy ta hãy đón Sārīputta, hỏi ông ta bốn câu hỏi, khi ông ta giải đáp xong thì Sa di cũng chứng đắc A La Hán với Tuệ phân tích.”
Thế rồi, Đức Bổn Sư ngự ra đứng trước cổng tinh xá, và khi Sārīputta đang về, Ngài hỏi Đại đức bốn câu hỏi, Đại đức đã giải đáp đầy đủ. Tương truyền rằng: Cuộc vấn đáp nầy đã diễn tiến như sau:
- Nầy Sārīputta, ông được vật chi?
- Bạch Ngài, là vật thực (āhāra).
- Cái gọi là vật thực, đem vật chi đến? Hỡi Sārīputta.
- Bạch Ngài, Thọ uẩn (vedanaṃ).
- Thọ uẩn đem vật chi đến? Hỡi Sārīputta.
- Bạch Ngài, Sắc uẩn (rūpaṃ).
- Sắc uẩn đem vật chi đến! Hỡi Sārīputta.
- Bạch Ngài, Xúc (phassaṃ).
Những lời vấn đáp vắn tắt trên, chúng ta nên hiểu rộng như sau: Do sự đói khát, chúng sanh dùng vật thực (āhāra), vật thực tiêu hóa từ lần mang đến sự thọ vui (sukhaṃ vedanaṃ). Trong khi sự thọ vui phát sanh lên do nhờ sự thỏa thích thọ dùng vật thực, thì toàn thân của con, nó có màu sắc tươi tốt, đầy đủ, như thế là thọ (vedanā) đem đến Sắc (rūpaṃ). Nhờ sự an vui của Sắc phát sanh từ vật thực (āhārajarūpa) mà sự hỉ lạc (sukha somanasso) phát sanh. Bây giờ đây con thỏa mãn xứ (assādo) dầu ngồi hay nằm, lúc nào con cũng tiếp xúc với sự an vui (sukhasamphassaṃ).
Khi Đại đức Sārīputta giải đáp xong bốn câu hỏi như trên, thì Sa di Paṇḍita cũng vừa đắc quả A La Hán với Tuệ phân tích.
Đức Bổn Sư bèn bảo với Đại đức: “Nầy Sārīputta, hãy đem cơm vào cho Sa di của ông ăn đi.”
Đại đức đến gõ cửa cốc. Sa di bước ra, thọ lãnh bát từ tay Đại đức, rồi đứng qua một bên, lấy quạt quạt hầu Thầy Tế độ. Đại đức bảo:
- Nầy Sa di, hãy dùng cơm đi.
- Bạch Ngài, còn Ngài thì sao?
- Ta dùng rồi, con cứ dùng đi.
Vị Sa di mới bảy tuổi đầu, xuất gia được tám ngày đã chứng đắc quả A La Hán như hoa sen vừa nở đẹp, bèn ngồi xuống quán tưởng bát cơm, rồi thọ dụng.
Khi Sa di rửa bát sạch sẽ đàng hoàng, Nguyệt thần phóng thích mặt trăng, Nhựt thần phóng thích mặt trời. Tứ Đại Thiên Vương giải tỏa sự giữ gìn bốn hướng, Đức Đế Thích cũng thôi không giữ chừng chốt nữa. Mặt trời đứng bóng, bóng chếch qua rất lẹ, thành ra mới đó mà đã xế chiều.
Chư Tỳ khưu bàn tán xôn xao rằng: “Bỗng nhiên đã xế tà, mặt trời từ trên đỉnh thượng đã trịch qua rất lẹ, có phải là chờ Sa di độ xong bữa, hay là sao vậy?”.
Đức Bổn Sư hiểu biết việc nầy, bèn ngự đến phán hỏi:
- Nầy chư Tỳ khưu! Các ông đang thảo luận việc chi đó?
- Bạch Ngài, như thế, như thế…
- Đúng vậy, nầy các Tỳ khưu, trong lúc bậc hữu phúc (puññavato) đang hành Sa môn pháp, Nguyệt thần phải níu giữ chặt mặt trăng, Nhựt thần níu giữ mặt trời. Tứ Đại Thiên Vương canh giữ bốn hướng, Đức Đế Thích xuống giữ chốt cửa và chính ta là Đấng Chánh Đẳng Giác cũng không ngồi an nhiên được, nên giữ tại cổng Jetavana con trai ta.
Khi nhìn thấy những người dẫn thủy nhập điền bằng cống rãnh, những người thợ làm tên uốn thẳng cây tên và những thợ mộc bào gỗ, đẽo ván. Bậc trí giả lấy những đối tượng ấy làm đề mục tham thiền, rồi tự mình điều chế lấy mình mà đắc quả A La Hán như thế đó.
Sau khi dẫn giải như vậy, Đức Bổn Sư thuyết giảng một thời pháp trong đó có bài kệ nầy:
80. “Udakaṃ hi nayanti nettikā,
usukārā namayanti tejanaṃ;
Dāruṃ namayanti tacchakā,
attānaṃ damayanti paṇḍitāti.”
80.“Người tưới nước vào điền,
Thợ làm cung nắn ngay liền mũi tên.
Thợ mộc uốn gỗ cần chuyên,
Trí giả điều chế tâm viên của mình.”
*
CHÚ GIẢI:
Kệ ngôn thứ nhất đề cập đến những người thợ dẫn nước (nettikā), sau khi ban chỗ đất gò xuống thấp, đắp chỗ trũng cho bằng, làm thành mương, lạch lộ thiên, hoặc đặt ống bằng cây có bọng, xong rồi có thể theo ý muốn, họ dẫn nước đến chỗ cần dùng.
Tejanaṃ: Cây tên để bắt vào cung, nỏ để bắn. Kệ ngôn nầy ý nói: Những người thợ dẫn nước tùy theo sở thích, thợ làm tên cũng vậy, sau khi hơ nóng cây tên rồi, họ uốn nắn cho nó ngay thẳng, và thợ mộc nữa, muốn làm thành những căm xe… họ đẽo gọt rồi sửa cho ngay ngắn, hoặc uốn cong nó được tùy theo sở thích.
Bậc trí giả, sau khi quán niệm bấy nhiêu đề mục trên đây, đã làm phát khởi Tu Đà Hườn đạo tâm… Rồi điều chế tự ngã mà đắc A La Hán luôn liền theo đó.
Dầu với vật vô tâm hay hữu tâm, hành giả đều phải hạ thủ công phu mới đạt đến chỗ diệu dụng được.
*
Sau thời pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả…
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Sa di Trí giả đủ căn lành,
Nửa bước theo thầy, tuệ giác sanh,
Thấy vật vô hình, người biến chế,
Lo thân hữu phước, tự điều hành.
Phật trời hội giúp tâm không sụt,
Nhựt nguyệt ngừng cho quả kịp sanh,
Nguyện cũ mãn rồi trong kiếp chót,
Níp Bàn bảy tuổi đã nên danh.
DỨT TÍCH SA DI PAṆḌITA
80. The wise discipline themselves as irrigators water, fletchers, and carpenters wood.
80. Bậc trí điều phục bản thân như người trị thủy dẫn nước, người làm tên uốn tên và người thợ mộc bào gỗ.
80. Udakaṃ hi nayanti nettikā,
usukārā namayanti tejanaṃ;
Dāruṃ namayanti tacchakā,
attānaṃ damayanti paṇḍitāti. (6:5)
80. Irrigators govern waters,
flechers fashion shafts,
as joiners shape their timber
those who are wise tame themselves.
----
VI. 6 - Tích ĐẠI ĐỨC LAKUṆṬAKABHADDIYATTHERA
(Lakuṇṭakabhaddiyattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 81)
81. “Selo yathā ekaghano,
vātena na samīrati;
Evaṃ nindāpasaṃsāsu,
na samiñjanti paṇḍitāti.”
81. “Như tảng đá không động,
Gió thổi chẳng bạt đi,
Trí giả tâm không động,
Mặc tiếng đời thị phi.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự an tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Bhaddiya (Bạt Đà) lùn.
Tương truyền rằng: “Khi gặp Đại đức, chư phàm Tăng, nhất là các vị Sa di, ông thì rờ đầu, vị thì kéo tai hay bóp mũi Đại đức mà trêu chọc: “Sao chú không bất mãn trong giáo pháp nầy mà lại thỏa mãn lắm vậy?”.
Đối với những người quấy nhiễu như thế, Đại đức không bao giờ giận hờn, căm tức họ.
Trong giảng đường, chư Tăng đề khởi pháp thoại như sau:
- Các vị hãy coi đó, gặp mặt Đại đức Bhaddiya lùn thì các vị Sa di trêu ghẹo như vầy, như vầy… thế mà Đại đức chẳng có tâm giận hờn căm tức họ…
Đức Bổn Sư ngự đến phán hỏi:
- Nầy chư Tỳ khưu, các ông đang bàn luận về việc gì vậy?
- Bạch Ngài, câu chuyện như thế nầy…
Nghe đáp xong, Đức Bổn Sư xác nhận rằng:
- Đúng vậy, nầy chư Tỳ khưu, các bậc Lậu Tận thì không bao giờ nóng nảy giận hờn, giống như những tảng đá đặc ruột, nằm yên không lay động.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp giải thêm về đề tài trên và đọc bài kệ nầy:
81. “Selo yathā ekaghano,
vātena na samīrati;
Evaṃ nindāpasaṃsāsu,
na samiñjanti paṇḍitāti.”
81. “Ví như đá núi Tây đình,
Giông nào lay chuyển, rung rinh bao giờ.
Tâm người đại trí trơ trơ,
Chê khen cũng mặc, lặng lờ như không.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng Nindāpasaṃsāsu trên đây, nghĩa là những lời chê khen, tức là hai pháp thế gian (lokadhammā), bao gồm tất cả những tiếng đời thị phi, mai mỉa. Còn là phàm phu, ai cũng phải chịu ảnh hưởng tai hại của tám pháp thế gian: Được lợi (lābho), mất lợi (alābho), được danh (yaso), mất danh (ayaso), được khen (pasaṃsā), bị chê (ninda), hạnh phúc (sukha) và đau khổ (dukkha). Tám pháp nầy như gió trốt lôi cuốn, xoay vần làm cho tâm chúng sanh phải điên đảo luôn luôn.
Quả thật, cũng như tảng đá đặc, không tầm bọng, không hề bị gió bốn phương lay động, xê dịch, lúc lắc, các bậc trí giả dầu còn ở trong vòng tám pháp thế gian, vẫn không hề bị phiền phức. Tâm các bậc ấy không lay động, biến đổi vì ảnh hưởng của sự não hại hay là bất thân thiện.
*
Đến cuối thời pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Tu Đà Hườn quả…
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Tướng tuy lùn bé khó tự hào,
Đại đức Bạt Đà chẳng núng nao,
Mặc kệ rờ đầu cùng bóp mũi,
Dầu ai hạ thấp hoặc đề cao.
Vô sanh Thánh cảnh đà đi tới,
Tục lụy phàm phong hết lọt vào,
Tâm trí kiên cường như núi đá,
Ngoài da bạn lữ biết đâu nào.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC BHADDIYA LÙN
81. Both in praise and blame the wise are unshaken like the rock in the wind.
81. Như tảng đá không lay động trước gió, bậc trí không lay động trước những lời chê khen.
81. Selo yathā ekaghano,
vātena na samīrati;
Evaṃ nindāpasaṃsāsu,
na samiñjanti paṇḍitāti. (6:6)
81. Just as a mighty boulder
stirs not with the wind,
so the wise are never moved
either by praise or blame.
----
VI. 7 - Tích MẸ CÔNG CHÚA CÀ NA
(Kāṇāmātāvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 82)
82. “Yathāpi rahado gambhīro,
vippasanno anāvilo;
Evaṃ dhammāni sutvāna,
vippasīdanti paṇḍitāti.”
82. “Như lòng sâu biển hồ,
Yên lặng không nhiễm ô,
Khi đã nghe Chánh pháp,
Tâm trí giả thanh tịnh.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự an tại Jetavana, đề cập đến mẹ nàng Kāṇā.
Chuyện nầy trích từ Tạng Luật, trong đó ghi lại rằng:
Mẹ nàng Kāṇā, không muốn con mình tay không trở về nhà chồng, nên đã làm bánh. Nhưng bốn lần làm bánh đều dâng cúng cho bốn vị Tỳ khưu trong giờ thọ thực, do đó Đức Bổn Sư đã ban hành điều học cấm Tỳ khưu thọ lãnh vật thực quá bốn bát.
Chồng nàng Kāṇā cưới vợ khác. Sau khi hay tin nầy, nàng Kāṇā gặp mặt các Tỳ khưu thì buông lời, mắng nhiếc, chửi rủa rằng: “Mấy ông Sư nầy phá hoại gia can nhà ta.” Chư Tỳ khưu chẳng dám đi trên con đường ấy nữa.
Hay biết việc nầy, Đức Bổn Sư ngự đến nhà mẹ nàng Kāṇā. Bà đảnh lễ Đức Thế Tôn, thỉnh Ngài ngự vào nơi được soạn sẵn, rồi dâng cháo cùng đồ ngọt.
Sau bữa điểm tâm, Đức Bổn Sư phán hỏi:
- Nàng Kāṇā đâu?
- Bạch Ngài, Kāṇā thấy Ngài, nó hổ thẹn đang đứng khóc một mình.
- Tại sao thế?
- Bạch Ngài, vì nó mắng nhiếc chư Tỳ khưu, cho nên thấy Ngài nó xấu hổ, đứng khóc như thế.
Đức Thế Tôn bảo gọi nàng Kāṇā đến và hỏi:
- Nầy Kāṇā, tại sao thấy Như Lai con lại xấu hổ, lánh mặt ta mà khóc như thế?
Nàng Kāṇā bạch lại mọi việc nàng đã làm, mắng nhiếc chư Tỳ khưu, Đức Thế Tôn bèn hỏi rằng:
- Nầy mẹ Kāṇā, thế nào? Các đệ tử Như Lai nhận vật của bà có dâng cúng thì họ phạm lỗi chi hay là vật không có dâng cúng?
- Bạch Ngài, đồ vật không có dâng cúng.
- Nếu thế, khi đệ tử Như Lai khất thực, đến đứng trước cửa nhà bà, nhận được vật dâng cúng thì họ phạm lỗi chi?
- Bạch Ngài, chư Đại đức không có lỗi chi cả, chỉ Kāṇā là có lỗi thôi.
Đức Bổn Sư bèn bảo nàng Kāṇā:
- Nầy Kāṇā, chư Thinh Văn đệ tử của Ta khi đi bát khất thực, đến trước cửa nhà nầy, nhận được bánh của mẹ con cúng dường, thì các Thinh Văn đệ tử của Ta có phạm tội lỗi gì?
- Bạch Ngài, chư Đại đức không có lỗi gì cả, chỉ mình con là có lỗi thôi.
Nói đoạn, nàng đảnh lễ Đức Thế Tôn và xin sám hối. Nhân đó, Đức Phật thuyết lên tuần tự pháp cho nàng nghe, và nàng chứng đắc quả vị Tu Đà Hườn.
Đức Bổn Sư từ chỗ ngồi đứng dậy, ngự về tinh xá, đi ngang qua sân rồng, đức vua trông thấy Ngài, bèn phán hỏi thị thần:
- Hình như là Đức Bổn Sư, có phải không chư khanh?
- Tâu bệ hạ, phải.
Nghe tâu như vậy, đức vua phán bảo thị thần ra đón Đức Bổn Sư: “Chư khanh mau ra bạch với Ngài rằng: Trẫm xin đến đảnh lễ Ngài.”
Đức Bổn Sư đứng dừng lại trong sâng ngự, quốc vương đến gần Ngài, đảnh lễ xong bạch rằng:
- Bạch Ngài, chẳng hay Ngài đi đâu đây?
- Tâu Đại vương! Như Lai đến nhà của mẹ nàng Kāṇā.
- Bạch Ngài, vì lẽ gì vậy?
- Nghe rằng: nàng Kāṇā mắng nhiếc chư Tỳ khưu nên Như Lai đã đến nhà mẹ nàng.
- Bạch Ngài, có lẽ Ngài đã khiến được nàng Kāṇā thôi mắng nhiếc phải không?
- Tâu Đại vương! Như Lai đã khiến nàng dứt bỏ sự mắng nhiếc chư Tỳ khưu, đồng thời thâu hoạch được Thánh tài (Lokuttarakuṭumba).
- Bạch Ngài, Ngài khiến nàng thu được Thánh tài, phần trẫm, trẫm sẽ khiến nàng được làm chủ thế tài (lokiyakuṭumba).
Nói rồi, đức vua đảnh lễ cáo từ Đức Bổn Sư. Về triều, đức vua phái một cỗ loan xa có màn che sáo phủ đi rước nàng Kāṇā vào cung, khiến cung phi trang điểm và đeo đủ thứ trang sức quí giá cho nàng rồi lập nàng lên làm đại công chúa. Sau đó, đức vua báo tin cho các quan hay rằng: “Ai có thể nuôi dưỡng con gái trẫm thì hãy đến rước công chúa về nhà.”
Khi ấy, có viên Đại thần Tể tướng tâu rằng:
- Hạ thần xin lãnh nuôi công chúa.
Ông rước công chúa đem về nhà mình, giao nàng đủ cả quyền hạn trong tay và bảo:
- Công chúa hãy làm phước theo tùy thích đi.
Từ đó, công chúa Kāṇā sai nhiều người đàn ông đứng gác ở bốn cửa để đón rước chư Tăng, nhưng chỉ hoài công chờ đợi, vì không gặp được Tỳ khưu và Tỳ khưu ni đặng mà để bát. Thành ra tại bốn cửa nhà nàng vật thực cứng mềm đã dự bị để cúng dường đều còn nguyên, ối đọng dồn dập mãi phần nhiều như thác nước.
Trong giảng đường, chư Tăng đề khởi pháp thoại như sau:
- Nầy chư huynh đệ, lúc trước nàng Kāṇā làm cho bốn vị Đại đức Trưởng lão phải ăn năn hối tiếc. Là người gây sự phiền phức như vậy, mà khi Đức Bổn Sư đến viếng, nàng lại có đức tin đầy đủ. Đức Thế Tôn đã khiến được nàng đem của nhà đến gần chư Tỳ khưu. Nhưng bây giờ nàng muốn có chư Tăng hoặc chư Ni để cúng dường thì kiếm cũng không ra. Ôi! Ân đức Phật bảo quả là kỳ diệu thay.
Đức Bổn Sư ngự đến phán hỏi:
- Nầy chư Tỳ khưu, hôm nay các ông hội thảo về vấn đề gì?
- Bạch Ngài, việc như vầy… như vầy…
- Nầy các Tỳ khưu, Đức Bổn Sư dạy, không phải nàng Kāṇā chỉ làm cho chư Tỳ khưu cao hạ phải hối hận bây giờ mà thôi. Trước kia nàng đã từng làm như thế rồi. không phải bây giờ là lần đầu tiên Ta đã khiến được nàng vâng lời, trước kia ta cũng đã từng khiến được nàng như thế rồi.
Chư Tăng muốn nghe Bổn Sanh, bèn thỉnh cầu Đức Thế Tôn, Ngài ngâm kệ mở đầu rằng:
“Yattheko labhatī babbu,
dutiyo tattha jāyati;
Tatiyo ca catuttho ca,
idante babbukā bilanti.”
“Khi nào thấy một chú mèo,
Thì một chú nữa hiện theo chẳng từ,
Rồi chú ba và chú tư,
Hang nầy mèo nọ hình như thích tìm.”
Đức Bổn Sư dẫn giải rằng: “Bốn vị Trưởng lão hôm nay là bốn chú mèo thuở trước, nàng Kāṇā đã là con chuột cái, còn Như Lai là người thợ ngọc vậy.”
Giải rằng: Đức Bổn Sư dạy rằng: “Nầy các Tỳ khưu, trong thời quá khứ, nàng Kāṇā cũng đã từng gặp cảnh buồn rầu, khổ tâm như thế rồi, nhưng nhờ nghe lời Như Lai mà nàng được tâm thanh tịnh như hồ nước trong veo.”
Kết luận xong, Đức Bổn Sư lại thuyết pháp và đọc lên bài kệ nầy:
82. “Yathāpi rahado gambhīro,
vippasanno anāvilo;
Evaṃ dhammāni sutvāna,
vippasīdanti paṇḍitāti.”
82. “Hiền nhân nghe pháp vừa xong,
Tâm liền thanh tịnh, sạch trong nước hồ.
Nước sâu, gương phẳng lặng tờ,
Trong veo sáng suốt, chẳng nhơ bụi hồng.”
*
CHÚ GIẢI:
Danh từ Rahado trên đây nghĩa là hồ, nhưng là hồ sâu rộng lắm. Dầu cho bốn bộ binh (quân, xa, mã, tượng) xuống hết dưới hồ đó, nước hồ cũng không tràn dâng lên. Như vậy thì chỉ có đại trùng dương (nīlamahāsamuddo), bề sâu tám muôn ngàn do tuần mới xứng với tên Rahado. Quả thật, từ dưới đáy hồ của nó ở chỗ sâu độ tám mươi bốn ngàn do tuần (cattāḷīsayojanasahassa), nước chao động vì cá, khoảng giữa độ sâu bốn ngàn do tuần thì nước đứng yên, còn ngang phía trên mặt nước chao động vì gió. Chỗ yên lặng ấy có thể gọi là hồ sâu thẳm vậy (gambhīrarahado).
Evaṃ dhammāni (nghe pháp) đây chỉ cho những thời pháp thuyết: Theo định nghĩa trên, cũng như hồ sâu không bị xáo trộn, thì nước của nó trong sạch, yên tịnh, lặng trang như thế nào; cũng như thế ấy, sau khi nghe thời pháp của Ta thuyết, do nơi Tu Đà Hườn đạo… bậc trí giả đạt đến tâm thanh tịnh, xa lìa phiền não chứng đắc A La Hán quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Đợi bánh, Cà Na bị mất chồng,
Tức mình, đổ tội bốn Sư ông,
Nhờ nghe Pháp Phật, tâm liền tịnh,
Hưởng lộc trời ban giữa bệ rồng.
Trước lỡ buông lời nhiếc lão Tăng,
Sao lo bù đắp lại cho bằng,
Mỗi ngày công chúa lo làm phước,
Chờ mãi hoài công, nghĩ chán chăng?
DỨT TÍCH MẸ NÀNG KĀṆĀ
82. The Buddha’s teaching makes the wise tranquill like a fathomless lake still and clear.
82. Giáo Pháp làm cho bậc trí an tịnh giống như hồ nước sâu thẳm, tĩnh lặng và trong sáng.
82. Yathāpi rahado gambhīro,
vippasanno anāvilo;
Evaṃ dhammāni sutvāna,
vippasīdanti paṇḍitāti.
82. Even as a fathomless lake,
alake so calm and clear,
so dhamma having heard
serene the wise become.
----
VI. 8 - Tích NĂM TRĂM VỊ TỲ KHƯU
(Pañcasatabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 83)
83. “Sabbattha ve sappurisā cajanti,
na kāmakāmā lapayanti santo;
Sukhena phuṭṭhā atha vā dukkhena,
na uccāvacaṃ paṇḍitā dassayanti.”
83. “Trượng phu lìa mọi pháp,
Không bàn đến dục lạc,
Trí giả gặp khổ vui,
Không lo nghĩ cao thấp.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư khi ngự tại tịnh xá Jetavana đề cập đến năm trăm vị Tỳ khưu phát sanh tại Verañja (Huê Lan Nhã). Thật thế, sau khi chứng đắc quả Chánh Giác dưới cội Bồ Đề, Đức Thế Tôn ngự đến thành Verañja trước hạ kỳ đầu tiên, được ông Bà la môn Verañja thỉnh cầu Ngài an cư kiết hạ nơi đó với năm trăm vị Tỳ khưu. Ông Bà la môn Verañja bị Ma vương ám ảnh, khiến ông quên lãng lời thỉnh cầu, không nhớ đến Đức Tôn Sư, dầu chỉ là một ngày. Lúc ấy, thành Verañja gặp cảnh mất mùa, đói kém, chư Tỳ khưu đi bát khắp thành Verañja mà không tìm được vật thực, tình cảnh rất gian nan, vất vả. May nhờ đoàn lái ngựa nhín lại từng nhúm cơm khô để bát, chư Tăng mới sống lây lất qua ngày.
Thấy chư Tăng vất vả, Đại đức Moggallāna có ý muốn lấy chất dinh dưỡng bên dưới mặt đất (paṭhavojaṃ) cúng dường Tăng, và muốn dùng thần thông đưa chư Tăng sang Bắc Cưu Lư Châu đi bát, nhưng Đức Thế Tôn không cho Đại đức làm như vậy.
Còn chư Tỳ khưu không có ngày nào than phiền việc đi bát có ít ỏi vật thực cả. Các Ngài đã dứt được lòng tham dục nên vẫn sống an vui với đời đạo hạnh.
Đến khi mãn mùa an cư nơi đó, Đức Bổn Sư đến từ giã ông Bà la môn Verañja, Ngài được ông ta cúng dường kính ngưỡng, và Ngài truyền thụ Qui giới cho ông ta.
Rời khỏi Verañja, Đức Bổn Sư ngự đi vân du, cho đến một thời Ngài ngự về thành Sāvatthī, vào ngự an nơi tinh xá Jetavana.
Dân cư trong thành Sāvatthī thiết đại lễ Trai Tăng cúng dường mừng ngày Đức Bổn Sư trở về. Khi ấy có một số năm trăm người ăn tàn thực nương theo chư Tỳ khưu, cũng cư ngụ trong vòng tinh xá. Xin được những món ăn dư thừa của chư Tăng, toàn là thực phẩm ngon, quí, họ ăn uống xong rồi, ngủ xong thức dậy, đi ra mé bờ sông chơi giỡn la hét, chia phe đấu vật với nhau trong vòng hoặc ngoài vòng tinh xá.
Trong chư Tăng, nơi giảng đường đề khởi lên Pháp thoại như sau: “Nầy chư huynh đệ, bọn người dùng tàn thực nầy, trong khi ở thành Verañja nhằm mùa đói kém thì họ không tỏ ra vẻ sái quấy. Bây giờ về đây, được ăn uống cao lương mỹ vị như vậy, họ lại phô bày ra lắm trò bỉ ổi hằng ngày. Chư Tỳ khưu khi ở Verañja tuy vậy mà được an tịnh, còn bây giờ thì không được an tịnh.”
Đức Bổn Sư ngự vào giảng đường, phán hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, các ông đang thảo luận chi vậy?”.
- Bạch Ngài, việc nầy…
Nghe vậy, Đức Thế Tôn phán dạy: “Những người ấy xưa kia đã là năm trăm con lừa sanh ra từ những con lừa mẹ. Những con lừa nầy đã dùng nước cốt nho tươi của năm trăm con tuấn mã được thuần phục uống, còn dư là cặn bã bất tịnh, người nài ngựa pha trộn thêm nước lã, rồi lược bằng giẻ bố và gọi rằng: “Tịnh thủy”, thứ nước hư bỏ, lạt lẽo, hèn hạ như vậy mà chúng nó xúm nhau uống như uống rượu ngon và sau khi uống lại hò hét la lối như người say rượu.
Thời ấy, đức vua nghe tiếng ồn ào, huyên náo, phán hỏi. Đức Bồ Tát tường trình hành vi của bọn lừa ấy như sau:
“Vālodakaṃ apparasaṃ nihīnaṃ,
Pitvā mado jāyati gadrabhānaṃ;
Imañca pitvāna rasaṃ paṇītaṃ,
Mado na sañjāyati sindhavānaṃ.
Appampivitvāna nihīnajacco,
So majjatī tena janinda phuṭṭho;
Dhorayhasīlī ca kulamhi jāto,
Na majjatī aggarasaṃ pivitvā’ti.”
Lược dịch:
“‘Tịnh thủy’ lạt lẽo thấp hèn,
Bầy lừa uống bị ma men nhập vào.
Rượu nho ngon ngọt thanh cao,
Ngựa tuấn uống, chẳng khi nào biết say.
Tâu quốc vương, kẻ không hay,
Nhắp chút ít rượu là say tức thì.
Con nhà dòng dõi lễ nghi,
Không say, dù uống rượu gì quí ngon.”
Sau khi giải rộng tích Bổn Sanh Tịnh Thủy (vālodaka), Đức Bổn Sư kết luận rằng: “Nầy chư Tỳ khưu, các bậc hiền nhân quân tử hằng giữ được phẩm hạnh như thế. Xa lìa tham dục rồi, dầu gặp hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ thế nào, các bậc ấy cũng vẫn điềm đạm, an nhiên.”
Kết luận xong, Đức Bổn Sư lại thuyết pháp và đọc bài kệ nầy:
83. “Sabbattha ve sappurisā cajanti,
na kāmakāmā lapayanti santo;
Sukhena phuṭṭhā atha vā dukkhena,
na uccāvacaṃ paṇḍitā dassayanti.”
83. “Trượng phu chẳng chút bận lòng,
Đến điều tham dục không nên luận bàn.
Trí giả, tâm đã tịnh an,
Gặp cảnh sướng khổ, chẳng màng nói ra.”
*
CHÚ GIẢI:
Tiếng Sabbattha (khắp nơi) trên đây ám chỉ tất cả mọi pháp, nhất là khắp tất cả mọi thành phần của Ngũ uẩn (thân và tâm).
Sappurisā (Trượng phu) là những nam nhân tốt (Sappurisā), tức là những bậc hiền nhân quân tử.
Vajanta (lìa bỏ), đây là dứt bỏ được ái dục (chandarāga) do nhờ chứng đắc A La Hán đạo tuệ (Arahattamaggaññāṇa).
Na kāmakāmā: không bàn đến động cơ của dục lạc (kāmayantā) nhân của dục lạc (kāmahetu), lý do của dục lạc (kāmakāraṇā).
Santo: Bậc an tịnh như chư Phật… thì không tự mình nói hoặc bảo kẻ khác nói đến nhân dục lạc… Quả vậy, những vị Tỳ khưu nào lúc đi trì bình khất thực, đến đứng chỗ mình ưa thích rồi mở lời rằng: “Nầy ông thiện nam, vợ con ông mạnh giỏi không?”; hoặc “Ông có việc chi phiền phức chớ?”. Tỳ khưu nói chuyện vô ích phù phiếm, như chuyện vua quan, trộm cướp… chừng ba bốn câu như vậy, là là lapayanti (nói phiếm). Khi gia chủ nghe rồi, đáp lại: “Bạch Ngài, cả nhà con đều được an vui, không có điều chi phiền phức. Bây giờ, chúng con dư dả vật thực, xin thỉnh Ngài ở lại đây.” Tỳ khưu nói ướm để được thỉnh mời như vậy, gọi là lapayanti. Bậc Tịnh giả không nói theo hai cách trên đây.
Dầu tiếp xúc với cảnh vui hay cảnh khổ, dầu bị tám pháp thế gian đụng chạm đến các Ngài, bậc Trí giả cũng không to tiếng, lộ vẻ bất bình khen tốt, chê xấu, hãnh diện hay hổ thẹn chi cả.
*
Cuối thời pháp, có nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc quả Tu Đà Hườn…
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Tịnh giả dầu trong cảnh ngộ nào,
Cũng là trầm mặc chẳng xôn xao,
Khi vui, lúc khổ, tâm thường trụ
Bữa được, ngày thua, trí vẫn cao.
Lan nhã đã qua mùa đói kém,
Kỳ Viên còn gặp nhóm tầm phào,
Thói đời no đủ sanh nhiều chuyện,
Theo Phật ăn dư lại tự hào.
DỨT TÍCH NĂM TRĂM VỊ TỲ KHƯU
83. The wise are not elated hoặc depressed by happiness hoặc by pain. The wise do renounce all.
83. Bậc trí không vui hay buồn vì lạc hay khổ, vì bậc trí từ bỏ tất cả.
83. Sabbattha ve sappurisā cajanti,
na kāmakāmā lapayanti santo;
Sukhena phuṭṭhā atha vā dukkhena,
na uccāvacaṃ paṇḍitā dassayanti. (6:8)
83. Everything the good renounce,
the peaceful chatter not of font delights,
and whether touched by pleasure or pain
nor joy nor woe in the wise is seen.
----
VI. 9 - Tích ĐẠI ĐỨC HỢP PHÁP
(Dhammikattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 84)
84. “Na attahetu na parassahetu,
na puttamicche na dhanaṃ na raṭṭhaṃ;
Na iccheyya adhammena samiddhimattano,
sa sīlavā paññavā dhammiko siyā.
84. “Không vì người, vì mình,
Không mong con, của, xứ,
Không mong được không thành,
Rằng lời, mất, danh dự,
Thế mới gọi hợp pháp,
Giới đức và trí tuệ.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Thế Tôn thuyết ra khi Ngài ngự an tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Dhammika (Hợp Pháp).
Tương truyền rằng: Trong thành Sāvatthī có một Thiện nam đang sống an vui với gia đình, một hôm phát tâm muốn xuất gia. Ông ngồi gần bên vợ, chuyện trò vui vẻ rồi nói: “Nầy mình, anh có ý muốn xuất gia.”
Người vợ can: “Anh hãy khoan đi đã, trong khi em còn bụng mang dạ chửa như vầy.”
Người chồng hoãn lại ý định xuất gia, chờ tới khi đứa hài nhi biết đi, rồi mới từ biệt để đi tu. Người vợ lại van:
- Anh ơi! Anh hãy chờ đợi con khôn lớn.
Nghe vậy, ông Thiện nam suy nghĩ: “Dầu vợ ta chấp thuận hay không, ta cũng sẽ tự mình làm cho mình hết khổ!”. Thế rồi, ông xuất gia đi tu.
Sau khi thọ đề mục, ông tinh tấn tham thiền quán tưởng, tự mình hoàn tất phận sự xuất gia, xong rồi mới quay trở về Sāvatthī, cốt để thuyết pháp tế độ gia tộc cho thấu đạt chân lý. Con trai của ông cũng xuất gia theo ông và sau đó không bao lâu chứng đắc quả A La Hán.
Lúc bấy giờ, còn vợ ông ở nhà, tự nghĩ: “Ta vì chồng con mới ở nhà lo coi sóc gia đình. Nay cả hai đều xuất gia cả rồi, thì ta còn ở nhà mà làm chi. Ta sẽ xuất gia.” Sau khi xuất gia không bao lâu, bà cũng chứng đạt A La Hán.
Một hôm, trong giảng đường, câu chuyện nầy được đề khởi:
- Nầy các hiền giả! Thiện nam Dhammika tự mình sống theo Chánh Pháp xong rồi xuất gia hành đạo thành bậc A La Hán, thế mà cũng còn sanh tâm ái luyến vợ con.
Đức Bổn Sư ngự đến hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy câu hội bàn tán chuyện gì thế?
- Bạch Ngài, chuyện như vầy…
Nghe vậy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, đã gọi là bậc Trí giả thì không bao giờ nên vì mình, vì người mà mong thành đạt kết quả, chỉ nên nương theo pháp, làm việc hợp pháp mà thôi.
Để kết thúc, Đức Thế Tôn thuyết lên bài kệ nầy:
84. “Na attahetu na parassahetu,
na puttamicche na dhanaṃ na raṭṭhaṃ;
Na iccheyya adhammena samiddhimattano,
sa sīlavā paññavā dhammiko siyā.”
84. “Người trí không làm điều tà,
Không vị thiên hạ, hoặc là riêng ai.
Không nên, bằng việc quấy sai,
Cầu mong vương quốc, con trai, sự giàu.
Không nên tha thiết mong cầu,
Dùng phương bất chánh ngõ hầu thành công.
Được vậy mới thật đáng phong,
Đạo đức, trí tuệ, có lòng thẳng ngay.”
84. (“Không vì mình, vì người,
Không cầu con, ruộng, tiền,
Không mưu thần, chước quỉ,
Chỉ sống thuần đức hạnh,
Chánh trí, hợp chánh pháp.”)
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
*
CHÚ GIẢI:
Na attahetu: Bậc xứng danh là trí giả (paṇḍita) thì không thiên vị vì mình hoặc vì người khác mà làm việc quấy ác.
Na puttamicche: Bậc trí giả không cầu mong được con, tài sản, xứ bằng việc làm quấy ác, mà dầu có mong muốn đi nữa, cũng không vì vậy mà tạo thêm ác nghiệp.
Samiddhim attano: Dầu việc chi có lợi ích đến mình, bậc trí cũng không muốn được bằng phi pháp, cho nên không làm ác vì lý do lợi ích vậy.
Sa sīlavā: Bậc quân tử, trượng phu như vậy chính là bậc có đức hạnh, có trí tuệ và sống hợp Chánh pháp. Ngoài ra không có ai khác.
*
Cuối thời pháp, nhiều vị Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Lý đạo thông rồi, quyết xuất gia,
Xá chi con, vợ, xá chi nhà,
Trước lo giải thoát riêng mình một,
Sau tính châu toàn trọn cả ba.
Bậc trí trước sau hành đúng đắn,
Người ngu cao thấp nói sai ngoa,
Mắt trần khó biết phân tà chánh,
Hợp Pháp Tỳ khưu, La Hán mà.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC DHAMMIKA
84. The wise will never do any wrong for the sake of any gain whatsoever.
84. Bậc trí không bao giờ làm gì Phi Pháp vì bất cứ lợi lộc nào ở đời.
84. Na attahetu na parassahetu,
na puttamicche na dhanaṃ na raṭṭhaṃ;
Na iccheyya adhammena samiddhimattano,
sa sīlavā paññavā dhammiko siyā. (6:9)
84. Neither for one’s own, nor for another sake
one should wish for children , wealth, estate,
nor success desire be means unjust,
thus virtuous and wise , righteous one would be.
----
VI. 10 - Tích NGHE THUYẾT PHÁP
(Dhammassavanavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 85-86)
85. “Appakā te manussesu,
ye janā pāragāmino;
Athāyaṃ itarā pajā,
tīramevānudhāvati.”
85. “Giữa nhân loại ít người,
Bờ kia đạt đến nơi,
Có nhiều người còn lại,
Chạy theo bờ nầy mãi.”
86. “Ye ca kho sammadakkhāte,
dhamme dhammānuvattino;
Te janā pāramessanti,
maccudheyyaṃ suduttaraṃ.”
86. “Nương theo Pháp khéo dạy,
Những ai chân hành trì,
Vượt biển dục nan giải,
Sẽ đạt đến bờ kia.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến nhóm thiện tín nghe pháp.
Tương truyền rằng: Nhiều người ở dọc theo một con đường trong thành Sāvatthī, thỏa hiệp lập thành một nhóm Thiện tín, làm phước Trai Tăng xong, rủ nhau ở lại chùa suốt đêm để nghe pháp. Tuy nhiên, họ không thể thức để nghe pháp suốt đêm theo ý định, một số bị lòng tham dục thúc đẩy, tự động rút về nhà, một số khác bị sự sân hận nổi lên cũng bỏ chùa ra đi, một số nữa bị hôn trầm thụy miên còn ngồi nán lại gục lên, gục xuống chớ không nghe được pháp.
Ngày sau, chư Tỳ khưu câu hội trong giảng đường, đem đề tài “nghe pháp” nầy ra đàm luận, Đức Bổn Sư ngự đến hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy câu hội bàn luận việc chi?
- Bạch Ngài, việc nầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư giải thích:
- Nầy các Tỳ khưu! Những chúng sanh ấy hằng sống theo cõi Dục, dính mắc trong cõi Dục như thế, nên rất ít người đạt được Níp Bàn.
Để kết thúc thời pháp, Đức Thế Tôn nói lên kệ ngôn:
85. “Appakā te manussesu,
ye janā pāragāmino;
Athāyaṃ itarā pajā,
tīramevānudhāvati.”
86. “Ye ca kho sammadakkhāte,
dhamme dhammānuvattino;
Te janā pāramessanti,
maccudheyyaṃ suduttaraṃ.”
85-86. “Nội trong đám nhân quần nầy,
Bờ kia đạt đến một vài mà thôi,
Còn thì vơ vẩn bồi hồi,
Bao nhiêu người khác tại nơi bờ nầy.
Những người nghe được pháp hay
Ráng hành cho đúng lời thầy chẳng sai,
Bờ kia sẽ đạt đến ngay,
Biển trần lao ắt có ngày vượt qua.”
85. “Ít người giữa nhân loại,
Đến được bờ bên kia,
Số lớn người còn lại,
Xuôi ngược bờ bên nầy.”
86. “Những ai chơn chánh hành trì,
Theo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đạt đến bờ kia,
Vượt ma giới khó thoát.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
*
CHÚ GIẢI:
Appakā: Số ít, không có nhiều.
Pāragāmino: Đáo bỉ ngạn, qua đến bờ kia là đến Níp Bàn.
Athāyaṃ itarā pajā: Số người còn lại, là phần đông nhân loại vì thân kiến, tức là thành kiến ngã chấp, cứ bám chặt vào danh sắc, nên cứ chạy theo bờ bên nầy.
Sammadakkhāte: Được chỉ dạy đúng đắn, khéo thuyết giảng.
Dhamme: Trong các pháp đã thuyết.
Dhammānuvattino: Pháp mà được nghe thuyết rồi, theo đó thực hành cho đầy đủ, để chứng đạt đạo quả.
Pāramessanti: Những người như thế sẽ đạt đến bờ kia, tức là Níp Bàn.
Maccudheyyaṃ: Trong vòng tử thần, ám chỉ cõi trần, nơi mà chúng sanh bị cái gọi là phiền não Ma vương (Kilesamārasaṅkhāta) bao vây.
Suduttaraṃ: Những ai thực hành đầy đủ theo pháp đã nghe thì thoát qua khỏi vòng vây của Ma vương rất khó vượt qua và đạt đến bờ kia là Níp Bàn.
*
Cuối thời pháp, nhiều thính giả đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Rủ nhau làm phước, thức nghe kinh,
Ý niệm đầu tiên quả thật lành,
Ma dục xen vào, về nghỉ lẹ,
Lửa sân nổi giận, bỏ đi nhanh.
Lắm anh ngủ gật, gần như chết,
Nhiều chị hôn trầm, tựa mới sanh,
Vượt biển khổ qua bờ giải thoát,
Xưa nay rất hiếm bậc viên thành.
DỨT TÍCH NGHE THUYẾT PHÁP
85. Only a few cross over to the further shore. Others run helplessly along the near shore.
85. Chỉ một số ít người vượt qua đến Bờ bên kia. Số người khác chạy tán toạn ở Bờ bên nầy.
85. Appakā te manussesu,
ye janā pāragāmino;
Athāyaṃ itarā pajā,
tīramevānudhāvati. (6:10)
85. Among folk they are few
who go to the Further Shore,
most among humanity
scurry on this hither shore.
86. Those who practise Dhamma and whose action is right will cross to Nibbāna, the Deathless.
86. Những ai thực hành Chánh Pháp và Chánh Nghiệp sẽ đạt đến Níp Bàn, Bất tử.
86. Ye ca kho sammadakkhāte,
dhamme dhammānuvattino;
Te janā pāramessanti,
maccudheyyaṃ suduttaraṃ. (6:11)
86. But they who practise Dhamma
according to Dhamma well-told,
from Death’s Dominion hard to leave
they’ll cross to the Further Shore.
----
VI. 11 - Tích KHÁCH TĂNG
(Āgantukabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 87-88-89)
87. “Kaṇhaṃ dhammaṃ vippahāya,
sukkaṃ bhāvetha paṇḍito;
Okā anokamāgamma,
viveke yattha dūramaṃ.”
87. “Người trí bỏ hắc pháp,
Tu tập theo bạch pháp,
Xuất gia sống không nhà,
Một mình ở nơi xa.”
88. “Tatrābhiratimiccheyya,
hitvā kāme akiñcano;
Pariyodapeyya attānaṃ,
cittakilesehi paṇḍito.”
88. “Người trí gột rửa sạch,
Cấu uế ở nội tâm,
Lìa dục không ô nhiễm,
Hãy cầu vui Níp Bàn.”
89. “Yesaṃ sambodhiyaṅgesu,
sammā cittaṃ subhāvitaṃ;
Ādānapaṭinissagge,
anupādāya ye ratā;
Khīṇāsavā jutimanto,
te loke parinibbutā.”
89. “Những người giữ chánh tâm,
Tu giác chi bảy pháp,
Xa lìa mọi thủ chấp,
Không ái nhiễm hỷ hoan,
Sẽ sanh không lậu hoặc,
Hiện sắp chứng Níp Bàn.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến năm trăm vị Tỳ khưu khách.
Tương truyền rằng: Có năm trăm vị Tỳ khưu đã kiết hạ an cư trong xứ Kosala. Sau khi mãn mùa an cư, các vị ấy trở về Jetavana để yết kiến Đức Bổn Sư. Đến nơi, đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi, các vị ấy ngồi xuống một bên.
Sau khi lắng nghe chư Tăng phúc trình sự hành đạo của riêng từng nhóm, Ngài thuyết pháp và ngâm lên bài kệ rằng:
87. “Kaṇhaṃ dhammaṃ vippahāya,
sukkaṃ bhāvetha paṇḍito;
Okā anokamāgamma,
viveke yattha dūramaṃ.”
87. “Người trí hắc pháp bỏ ra,
Tu tập bạch pháp lìa xa gia đình,
Xuất ly, tự sống một mình,
Y theo giới đức, lộ trình Sa môn.”
87. “Kẻ trí bỏ hắc pháp,
Tu tập theo bạch pháp,
Bỏ nhà sống không nhà,
Độc thân rất khó hưởng.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
88. “Tatrābhiratimiccheyya,
hitvā kāme akiñcano;
Pariyodapeyya attānaṃ,
cittakilesehi paṇḍito.”
88. “Người trí phải gội sạch trơn,
Những điều cấu uế chỉ tồn trong tâm.
Thú vui Chánh Pháp nên tầm,
Xa lìa ngũ dục, nhập tâm Níp Bàn.”
88. “Hãy cầu vui Níp Bàn,
Bỏ dục không nhiễm uế,
Kẻ trí tự rửa sạch,
Mọi cấu uế nội tâm.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
89. “Yesaṃ sambodhiyaṅgesu,
sammā cittaṃ subhāvitaṃ;
Ādānapaṭinissagge,
anupādāya ye ratā;
Khīṇāsavā jutimanto,
te loke parinibbutā.”
89. “Không còn cố thủ chấp nê,
Rời tâm ái dục, diệt bề trăm lao,
Để thành sáng suốt thanh cao,
Níp Bàn ắt sẽ chứng vào hiện nay.”
89. “Những ai thường chánh tâm,
Tu tập pháp Giác chi,
Xa lìa mọi chấp trước,
Hoan hỷ không nhiễm ái,
Sẽ sống không lậu hoặc,
Sáng chói, chứng Níp Bàn,
Ngay trong đời hiện tại.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
*
CHÚ GIẢI:
Kaṇhaṃ dhammaṃ: Sau khi rời bỏ hắc pháp, là pháp bất thiện, nhất là thân ác hạnh.
Sukkaṃ bhāvetha: Người trí xuất gia tu lên Tỳ khưu rồi, từ đó nên hành cho đắc A La Hán đạo, tu tập bạch pháp, nhất là thân thiện hạnh, làm sao?
Okā anokamāgamma: Okaṃ đây chỉ cho chỗ ngụ, là gia đình.
Anokaṃ: Là vô gia đình, cốt bước lên con đường đến Níp Bàn.
Tatrābhiratimiccheyya: Ám chỉ trạng thái vô gia đình, cô tịch, Níp Bàn. Người tu tập thất giác chi nên thỏa thích trong trạng thái đó.
Hitvā kāme: Là đã rời xa vật dục và phiền não dục, không còn bị ô nhiễm tâm tịch tịnh an vui.
Cittakilesehi: Năm pháp cái hãy tự mình gột rửa, tẩy sạch.
Sambodhiyaṅgesu: Chỉ Thất giác chi.
Sammā cittaṃ subhāvitaṃ: Đào luyện phát triển chánh tâm cho càng tăng trưởng, ưu tú.
Ādānapaṭinissagge: Ādāna là bám níu, cầm nắm, nay từ bỏ sự bám níu. Cả bốn cái thủ đều dứt bỏ hết thì được hoan hỷ.
Jutimanto: Bậc có oai lực, nhờ ánh sáng của A La Hán đạo tuệ lúc tan rã Ngũ uẩn sẽ Vô dư Níp Bàn vì đã giác ngộ lý pháp.
Te loke: Những người trong thế gian là Ngũ uẩn nầy, sau khi Níp Bàn. Từ khi đắc quả A La Hán, về sau đã liệng bỏ cả vòng Ngũ uẩn với sự diệt tận cuối cùng bằng Vô dư Níp Bàn. người đã Níp Bàn là người không còn chấp thủ thứ gì cả, giống như cây đèn tắt vậy.
*
Cuối thời pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Năm trăm Tăng khách Kiều Tát La,
Về đến Kỳ Viên lễ Phật Đà,
Ngài đã ban truyền ba pháp kế,
Dạy khuyên bậc trí hạnh không nhà.
Một nên độc chiếc hành phạm hạnh,
Hai phải trừng thanh ngũ dục ra,
Ba ráng tu theo bảy nhánh giác,
Níp Bàn quả vị sẽ không xa.
DỨT TÍCH KHÁCH TĂNG
87. Abandon unwholesome views, become homeless and wisely strive for Nibbāna.
87. Hãy đoạn trừ Tà kiến, sống đời xuất gia, và khéo nỗ lực tinh tấn đắc Níp Bàn.
87. Kaṇhaṃ dhammaṃ vippahāya,
sukkaṃ bhāvetha paṇḍito;
Okā anokamāgamma,
viveke yattha dūramaṃ. (6:12)
87. Abandoning the Dhammas dark
the wise should cultivate the bright,
having from home to homeless gone
in solitude unsettling.
88. The wise person purifies himself, being non-attached, desireless and by forsaking pleasures.
88. Người trí tự thanh tịnh thân tâm, ly tham và bỏ dục lạc.
88. Tatrābhiratimiccheyya,
hitvā kāme akiñcano;
Pariyodapeyya attānaṃ,
cittakilesehi paṇḍito. (6:13)
88. Let them desire that rare delight,
renouncing pleasures, owning nought,
those wise ones should cleanse themselves
from all defilements of the mind.
89. Practice of the seven factors and non-attachment ensures Nibbāna.
89. Thực hành Bảy Giác Chi và ly tham chắc chắn đạt Níp Bàn.
89. Yesaṃ sambodhiyaṅgesu,
sammā cittaṃ subhāvitaṃ;
Ādānapaṭinissagge,
anupādāya ye ratā;
Khīṇāsavā jutimanto,
te loke parinibbutā. (6:14)
89. Those who come to Wakening
with mind full-cultivated,
delight, no longer clinging,
in relinquishing attachment:
they, without pollution, radiant,
in this world have reached Nibbāna.
DỨT PHẨM HIỀN TRÍ
----
VII. PHẨM A LA HÁN
(ARAHANTAVAGGA)
----
10 bài kệ: Pháp Cú số 90-99.
10 tích truyện.
----
VII. 1 - Tích NGỰ Y KỲ BÁ BĂNG CHÂN PHẬT
(Jīvakapañhavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 90)
90. “Gataddhino visokassa,
vippamuttassa sabbadhi;
Sabbagandhappahīnassa,
pariḷāho na vijjati.”
90. “Đến đích không ưu phiền,
Giải thoát ngoài tất cả;
Trừ diệt mọi buộc ràng,
Không còn lửa tham ái.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết khi ngự tại vườn xoài của ông Jīvaka (Kỳ Bá), đề cập về một câu hỏi của ông ấy.
Sự tích Ngự y Jīvaka đã giải rõ rộng rãi, đầy đủ chi tiết, đây chỉ lượt thuật vắn tắt mà thôi:
Một thuở nọ, sau khi chia rẽ Tăng và liên kết với Thái tử Ajātasattu (A Xà Thế), Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) có ác ý muốn ám sát Đức Bổn Sư, bèn trèo lên núi Gijjhakūṭa (Kỳ Xà Quật), xeo một hòn đá cho lăn xuống lúc Đức Bổn Sư đang đi phía dưới. Thời may, tảng đá bị hai ngọn núi giữ lại. Nhưng một mảnh đá vỡ bằng tai nấm rơi xuống, làm giập chân Đức Thế Tôn, đến nỗi máu chảy ra khiến Ngài đau nhức dữ dội. Các Tỳ khưu tiếp đỡ ngực Ngài dìu Ngài đi. Đức Bổn Sư muốn từ đây đi đến vườn xoài nên bảo : “Hãy đưa ta đến đó.” Các Tỳ khưu vâng lệnh Đức Thế Tôn đưa Ngài đến vườn xoài của ông Jīvaka.
Ngự y Jīvaka hay tin này liền đến gặp Đức Bổn Sư, để chữa trị vết thương, ông dùng thứ thuốc cay nồng băng bó xong, bạch với Đức Bổn Sư rằng: “Bạch Ngài, con phải đi làm thuốc chữa bịnh cho một người ở trong thành rồi sẽ trở lại, xin Ngài hãy chịu khó chờ con về mở băng thuốc này ra.”
Ông y sĩ ra đi, làm xong phận sự đối với người bịnh thì đã tới giờ đóng cửa thành, ông không kịp tới cửa cổng. Khi ấy ông lo lắng tự nghĩ : “Chao ôi! Nghiệp ta đã tạo thật là nghiêm trọng, ta đã vì một người bịnh khác mà không lo châu toàn cho Đức Thế Tôn, đã cho thuốc men cay nồng và băng bó vết thương, nhưng bây giờ tới lúc mở băng ra cho Ngài, ta lại không có mặt trong thành để mở băng. Cả đêm nay Đức Như Lai toàn thân sẽ phát nhiệt.”
Ngay lúc đó, Đức Thế Tôn cho gọi Trưởng lão Ānanda và bảo rằng: “Nầy Ānanda! Ngự y Jīvaka tối nay không về kịp đến cửa thành, hiện giờ ông đang lo lắng vì đã đến giờ mở băng vết thương. Vậy ông hãy mở băng vết thương đi.”
Trưởng lão Ānanda mở băng ra, vết thương đã kéo da non.
Qua ngày sau, mặt trời chưa mọc, ông Jīvaka đã về thành, lật đật đến thăm Đức Bổn Sư và hỏi: “Bạch Ngài, Ngài nghe trong châu thân có nồng nhiệt lắm không?”. Đức Bổn Sư đáp:
- Nầy Jīvaka! Dưới cội cây Bồ Đề của Đức Như Lai, tất cả mọi sự nồng nhiệt thảy đều lắng dịu.
Nhân dịp nầy, Ngài thuyết lên thời pháp thích hợp, rồi ngâm lên kệ ngôn rằng :
90. “Gataddhino visokassa,
vippamuttassa sabbadhi;
Sabbagandhappahīnassa,
pariḷāho na vijjati.”
90. “Không còn lo sợ mảy may,
Khi đã cắt đứt mọi dây buộc ràng;
Người đã giải thoát hoàn toàn,
Là người đi mút con đường tử sanh.”
*
CHÚ GIẢI:
Gataddhino: người đã hoàn tất cuộc hành trình, tức là đã chứng đắc đạo quả A La Hán. Có hai lộ trình là lộ trình băng qua cõi hoang vu (Kāntaraddhā) và lộ trình đi quanh một vòng luân hồi (Vaṭṭaddhā).
Trong hai lộ trình đó, người lữ hành (Addhiko) đang đi trên lộ trình băng qua cõi hoang vu là chưa đạt đến mục đích đã nhắm, một khi đạt đến mục đích là Níp Bàn rồi, thì gọi là đã hoàn tất cuộc hành trình (Gataddhā). Những chúng sanh còn dính mắc trong vòng luân hồi cứ luẩn quẩn trong đó, thì còn là những người lữ hành mãi mãi (Addhikā). Bởi thế cho nên phải tận cùng vòng luân hồi, các bậc Thánh Nhân nhất là Tu Đà Hườn là những người lữ hành đã tận cùng vòng luân hồi, là những bậc Lậu tận, đã được gọi là những người đến đích (Gataddhā). Đó nghĩa là tiếng Gataddhino.
Visokassa: không ưu phiền (Soka) là đã dứt hết mọi nỗi khổ lo âu, phiền muộn có căn bản là vòng luân hồi.
Vippamuttassa sabbadhi: đã giải thoát hết tất cả là đã giải thoát Pháp Hữu vi nhất là Ngũ uẩn.
Sabbagandhappahīnassa: đã trừ bỏ mọi trói buộc là đã dứt cả bốn loại trói buộc (Gantha): Abhiijjā (Tham xan), Vyāpāda (Oán hận), Sīlabbatāpasāmāsa (Giới cấm thủ) và idaṃ saccābhinivesa (Kiến thủ).
Pariḷāho na vijjati: Có hai loại nồng nhiệt: một của thân và một của tâm. Đối với bậc Lậu tận, khi bị ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài, nhất là sự lạnh, sự nóng thì chỉ có thân nhiệt sanh lên mà thôi.
Câu hỏi của ngự y Jīvaka liên hệ với thân nhiệt này, còn Đức Bổn Sư là bậc Pháp Vương chuyên môn thuyết pháp, giảng đạo, nên nhân dịp này, Ngài thuyết pháp đề cập đến ảnh hưởng của tâm nhiệt (Cetasikapriḷāho)[1]: “Nầy đạo hữu Jīvaka, nói theo Chân Đế (Paramattha) thì đối với bậc Lậu tận như vậy, không có sự nồng nhiệt.”
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đạt Thánh quả, nhất là quả vị Tu Đà Hườn.
Tích nầy đề cập đến câu hỏi của ngự y Jīvaka, còn nguyên sự tích của ông ngự y nầy rất dài, trong tạng Luật quyển 6 có kể rõ.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ngự y Kỳ Bá hỏi Phật rằng:
“Ngài thấy trong người có nóng chăng?”
Phật đáp: “Từ khi Ta đại Ngộ,
Trong Ta lửa dục đã trừ căn.”
Ý Ngài ám chỉ đến Tâm không,
Phiền não đâu còn cháy phía trong,
Nhưng phía ngoài thân, sao khỏi khổ,
Giập chân, nát nịt, máu ròng ròng.
Nghiệp mới tuy là đã dứt rồi,
Nhưng bao quả cũ vẫn còn nhồi,
“Hữu thân hữu khổ là Chân lý!”
Dầu Phật hay ai, cũng thế thôi!
DỨT TÍCH NGỰ Y KỲ BÁ BĂNG CHÂN PHẬT
90. Journeyed, sorrowless, freed from bonds, one suffers no torment of passions here.
90. Vị đã đi đến đích, không sầu, giải thoát mọi buộc ràng và không còn bị tham dục áp đảo.
90. Gataddhino visokassa,
vippamuttassa sabbadhi;
Sabbagandhappahīnassa,
pariḷāho na vijjati. (7:1)
90. With journey finished and sorrowless,
from everything completely free,
for one who’s loosened all the ties
passion’s fever is not found.
----
VII. 2 - Tích TRƯỞNG LÃO MA HA CA DIẾP BỊ CHÊ
(Mahākassapattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 91)
91. “Uyyuñjanti satīmanto,
na nikete ramanti te;
Haṃsā’va pallalaṃ hitvā,
okamokaṃ jahanti te.”
91. “Tự sách tấn, Chánh niệm.
Không thích cư xá nào;
Như ngỗng trời rời ao,
Bỏ sau mọi trú ẩn.”
Kệ Pháp cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến Trưởng lão Mahākassapa (Ma Ha Ca Diếp).
Thuở nọ, Đức Bổn Sư nhập hạ gần thành Rājagaha (Vương Xá), đến khi mãn an cư, Ngài tuyên bố với chư Tỳ khưu:
“Nửa tháng nữa Ta sẽ đi vân du.” Theo truyền ngôn: Chư Phật có phận sự đi vân du hành đạo với các Tỳ khưu, khi các Ngài muốn đi, chư Tỳ khưu được thông báo trước như thế, để có thì giờ chuẩn bị những vật dụng mang theo mình, nhất là đốt bát và nhuộm y để khi đi được an vui. Do đó, Đức Bổn Sư mới thông báo cho các Tỳ khưu: “Từ nay đến nửa tháng nữa, Ta sẽ đi vân du.”
Chư Tăng mạnh ai nấy lo phận sự của mình, nhất là đốt bát. Chính Trưởng lão Mahākassapa cũng giặt những chiếc y của mình, nhiều vị Tỳ khưu than phiền :“Tại sao Trưởng Lão lại giặt y? Nơi thành nầy cả bên trong lẫn ngoài, số dân cư là một trăm tám mươi triệu, những người không phải là quyến thuộc của Trưởng lão đều là những Thiện Tín của Trưởng lão, còn những ai không phải là Thiện tín đều là quyến thuộc của Trưởng lão cả. Ai ai cũng đều tôn kính, trọng đãi, dâng cúng tứ vật dụng đến Trưởng lão, thế mà Trưởng lão từ bỏ bấy nhiêu sự hộ độ đó, để rồi đi đâu? Vả lại, nếu có đi thì chỉ lên hang đá Đừng Dể Duôi (Māpamāda) không đi qua nơi khác.”
Theo truyền thuyết, sau khi Đức Thế Tôn đến một hang đá nào, Ngài thường bảo chư Tỳ Khưu có phận sự phải trở về chùa.
“Từ bây giờ, các Thầy hãy quay trở lại, đừng dể duôi.” Do đó mới có tên hang đá Đừng Dể Duôi mà chư Tăng nói đến ở trên
Trong khi sắp đi vân du, Đức Thế Tôn nghĩ rằng : “Nơi thành nầy, bên trong lẫn bên ngoài có đến một trăm tám mươi triệu dân cư, các Tỳ khưu còn phải đi đến những nơi hạnh phúc hoặc bất hạnh của nhiều người. Ta không thể bỏ tịnh xá trống không, vậy ta sẽ cho vị Tỳ khưu nào quay trở lại?”
Rồi Đức Bổn Sư quyết định : “Dân chúng ở thành nầy đều là quyến thuộc và thiện tìn của Kassapa (Ca diếp). Vậy Kassapa nên quay trở lại.”
- Lành thay! Bạch Ngài.
Trưởng lão bèn dắt đoàn đệ tử của mình quay trở lại. Các Tỳ khưu than phiền: “Các đạo hữu thấy chưa? Chúng tôi há chẳng nói trước rồi sao, Trưởng Lão Mahākassapa giặt y làm gì? Trưởng lão sẽ không đi chung với Đức Bổn Sư đâu? Chúng tôi đã nói điều gì thì bây giờ quả đúng y như vậy.”
Đức Bổn Sư nghe các Tỳ khưu nói chuyện, bèn quay mặt lại đứng và hỏi rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, các Thầy nói đến chuyện gì đó
Các Tỳ khưu đáp : “Bạch Ngài ! Chúng con nói đến Trưởng lão Mahākassapa.” Rồi các Tỳ khưu đem hết mọi lời đàm luận của mình trình lên Đức Bổn sư. Nghe xong, Đức Bổn Sư bảo:
- Nầy các Tỳ khưu ! Các Thầy nói rằng: “Kassapa lưu luyến quyến thuộc, họ hàng, tứ vật dụng.” Nhưng Kassapa chỉ vâng lời Ta mà quay trở lại thôi. Quả vậy, trong tiền kiếp Mahākassapa đã từng phát nguyện không quyến luyến tứ vật dụng, ví như mặt trăng có thể đến gần họ hàng quyến thuộc mà không bị vướng bận bởi những họ hàng và tứ vật dụng đó.” Đức Bổn Sư nhắc lại lời nguyện đó của Trưởng lão Mahākassapa là: “Tôi nguyện hành đạo của Bậc Thánh Nhân, ví như mặt trăng noi theo lộ trình (quĩ đạo) của nó, chớ không bám víu vào những họ hàng và tứ vật dụng ấy.” .
Các Tỳ khưu lại hỏi Đức Bổn Sư: “Bạch Ngài, Trưởng lão đã nguyện vào lúc nào?”.
- Nầy các Tỳ khưu, các Thầy có muốn nghe không?
- Thưa vâng, bạch Ngài.
Đức Bổn Sư thuyết lại Bổn sanh:
- Nầy các Tỳ khưu, cách đây khoảng trăm ngàn đại kiếp, có vị Phật Chánh Đẳng Giác
hồng danh là Padumuttara (Thượng Liên Hoa) giáng sanh… Kế đó, Đức Bổn sư thuật luôn sự hành đạo phát nguyện đầu tiên của Trưởng lão Mahākassapa trong tiền kiếp ấy. Sự tích nầy trong kinh tạng Pāḷi có giải rành.
Sau khi nhắc lại đầy đủ hạnh nguyện của Trưởng lão, Đức Bổn Sư nói: “Nầy các Tỳ khưu! Con trai ta là Mahākassapa đã từng phát nguyện lần đầu tiên : “Ta nguyện hành đạo của Bậc Thánh nhân, ví như mặt trăng tuân theo quĩ đạo của nó, như thế ấy rồi.”, cho nên đối với con trai Ta, sự quyến luyến trong tứ vật dụng, họ hàng, hoặc chùa, am, tịnh thất, nhất thiết đều không có nơi con trai Ta. Ví như con hạc chúa, sau khi đáo xuống một cái hồ, đi vơ vẩn đó đây rồi bay đi nơi khác, không có một chút gì luyến tiếc.”
Đức Bổn sư tóm tắt ý nghĩa của sự tích, thuyết lên thời pháp và ngâm kệ rằng :
91. “Uyyuñjanti satīmanto,
na nikete ramanti te;
Haṃsā’va pallalaṃ hitvā,
okamokaṃ jahanti te.”
91. “Đại Hùng, Chánh niệm viên thành ,
Tâm không ưa thích đắm chìm tại gia,
Ví như lìa bỏ ao nhà,
Thiên nga chẳng chút thiết tha bận lòng”
*
CHÚ GIẢI:
Uyyuñjanti satīmanto: các bậc Lậu tận đã đạt đến mức Chánh niệm tròn đủ, luôn luôn dũng mãnh Tinh tấn hành đạo, nhất là phát triển các ân đức của mình bằng pháp hành Thiền định và Minh sát. Sau khi nhập thiền và xuất thiền thì cố gắng suy xét quán tưởng.
Na nikete ramanti te: đối với các bậc ấy thì không có sự vui thích, quyến luyến chỗ ngụ.
Haṃsā’va: như con chim hạc, có nơi dịch là chim thiên nga. Sở dĩ chim này được nêu ra làm thí dụ sánh với bậc Lậu tận, là vì giống chim trời, sau khi đáp xuống một ao hồ, kiếm ăn no đủ rồi, ra đi không mang theo vật thực của mình. Nó không nghĩ nước của ta, hoa sen xanh của ta, hoa sen hồng của ta, cỏ của ta,… Nó không thèm muốn, không chấp nắm chút gì trong ao hồ ấy cả. Nó bỏ lại tất cả xứ ấy mà bay lên không trung ra đi thảnh thơi vui thú. Các bậc Lậu tận cũng thế, dầu một chút chi của chùa, quyến thuộc… các Ngài cũng không luyến tiếc.
Sau khi an cư, đến giờ lên đường, các Ngài từ bỏ chỗ ngụ mà đi như không, không bao giờ thèm muốn nhớ tiếc: Chùa của ta, đạo trường của ta, người hộ pháp của ta…
Okamokaṃ: ao nước, chỗ trú ẩn, tất cả đều bỏ lại hết.
*
Cuối thời Pháp nhiều vị tỳ khưu chứng đắc Thánh Quả, nhất là Dự Lưu Quả
x
Dịch Giả Cẩn Đề
“Ra đi hành đạo lại quay về!”
Tăng chúng phàm phu giở giọng chê:
“Trưởng lão Ma Ha ham vật dụng!”
Ngờ đâu, Ngài đã hết si mê!
Phật ví Ngài giống như thiên nga,
Ra đi nào tiếc nước ao nhà!
Trời cao, gió lộng, chim bay mãi,
La Hán không còn chấp “Của ta!”
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO MA HA CA DIẾP BỊ CHÊ
91. Mindfully delighting in no abode, they move from home to homeless like departing swans.
91. Giữ Chánh niệm, không thích trú xứ nào cả, chư vị sống đời xuất gia không nhà, giống như thiên nga bay.
91. Uyyuñjanti satīmanto,
na nikete ramanti te;
Haṃsā’va pallalaṃ hitvā,
okamokaṃ jahanti te. (7:2)
91. Mindful Ones exert themselves,
in no abode do they delight,
as swans abandoning their lake
home after home they leave behind.
----
VII. 3 - Tích TRƯỞNG LÃO BÊ LÁT THÁ XI XÔ
(Belaṭṭhasīsattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 92)
“Yesaṃ sannicayo natthi,
Ye pariññātabhojanā;
Suññato animitto ca,
Vimokkho yassa gocaro;
Ākāseva sakuntānaṃ,
Gati tesaṃ durannayāti”.
“Tài sản không chất chứa,
Ăn uống biết liễu tri,
Tự tại trong hành xứ,
Không, Vô tướng, Giải thoát
Như chim giữa hư không,
Hướng chúng đi khó tìm”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết, khi Ngài ngụ tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên tự), đề cập đến Trưởng lão Belaṭṭhasīsa (Bê Lát Thá Xi Xô).
Tương truyền rằng: Trưởng lão nầy, sau khi vào làng đi khất thực theo một con đường, độ cơm xong rồi, lại theo một con đường khác thọ lãnh cơm khô đem về chùa cất để dành, vì thấy sự đi bát kiếm ăn hàng ngày vất vả khó nhọc. Trưởng lão muốn nghỉ vài ba hôm để hành thiền cho được an vui, lúc cần đến vật thực sẽ lấy cơm khô ấy mà độ. Chư Tỳ khưu biết được chuyện này trách móc Trưởng lão, rồi mách lại với Đức Thế Tôn.
Mặc dầu Đức Thế Tôn nhân cơ hội nầy đã ban hành điều học cấm các Tỳ khưu từ nay trở đi không được phép cất giữ vật thực quá thời hạn, nhưng Ngài cũng giải thích rằng: Trưởng lão không phạm tội vì hành theo hạnh Thiểu dục, trong khi các học giới chưa được ban hành. Kế đó, Đức Bổn Sư thuyết pháp rồi ngâm kệ rằng :
92. “Yesaṃ sannicayo natthi,
Ye pariññātabhojanā;
Suññato animitto ca,
Vimokkho yassa gocaro;
Ākāseva sakuntānaṃ,
Gati tesaṃ durannayāti”.
“Những bực đắc Lậu tận thông,
Của tiền chẳng để dự phòng mà chi.
Uống ăn quán tưởng theo thì,
Trên đường giải thoát lại đi an nhàn.
Cõi Không, Vô Tướng, Níp Bàn,
Là nơi trống vắng chim ngàn bay cao”.
*
CHÚ GIẢI:
Sannicayo: Sự tích trữ có hai thứ: Tích trữ nghiệp (Kammasannicayo) và tích trữ vật dụng (Paccayasannicayo). Sự tích trữ các thiện hay bất thiện nghiệp, gọi là tích trữ nghiệp, sự tích trữ bốn món vật dụng để ăn, mặc, ở và trị bịnh gọi là tích trữ vật dụng. Trong ngôi chùa nói trên đây, là một khối đường cục, bốn phần sữa chua và một đấu gạo của vị Tỳ khưu cất giữ để dành còn không có, huống chi nhiều hơn nữa, đó là nói về tích trữ vật dụng. Đối với các bậc A La Hán, cả hai thứ tích trữ trên đều không có.
Pariññātabhojanā: biết rõ vật thực, có ba thứ biết rõ gồm chung trong đó:
1. Ñātapariññā: là sự biết rõ thường thức, chẳng hạn như biết rõ cháo là cháo bởi trạng thái của nó.
2. Tīraṇapariññā: sự biết rõ đặc biệt do suy xét đến nhân phát sanh vật thực ô trọc tưởng (Āhārepaṭikūlasaññā).
3. Pahānaparinnā: Sự biết rõ dứt bỏ, nhờ có Trí tuệ cao thượng không còn tham dục đối với các món ăn thức uống.
Suññato animitto ca: Không, Vô tướng ở đây có luôn cả vô dục giải thoát. Cảnh giới Níp Bàn là nơi có ba tánh cách: Không, Vô tướng và Vô dục giải thoát nầy. Nơi đó không có những tâm tham, sân, si nên gọi là Không (Suññaṃ), đã giải thoát cả tam độc đến mức rỗng không nên gọi là Không giải thoát (Suññatovimokkha), không còn hình tướng của Tam độc nên gọi là Vô tướng (Animitta), đã giải thoát đến mức không còn hình tướng của Tam độc nên gọi là Vô Tướng Giải Thoát (Animitto vimokkho), không có sự thèm muốn dục lạc nên gọi là Vô dục (Appaṇhita), đã giải thoát hết cả mọi tình dục, nên gọi là Vô Dục Giải Thoát (Appaṇihito Vimokkho). Các bậc đã đắc Đạo quả, lấy Níp Bàn làm cảnh giới, trú tâm trong đối tượng đó mà được giải thoát cả
ba mặt nói trên đây.
Gataṃ tesaṃ durannayā: Lộ trình của các vị ấy không thể vẽ lại được. Cũng như đàn chim bay trên hư không, không có lưu lại dấu chân, ta không thấy lối đi của chúng, nên không thể vẽ lại được. Các bậc Lậu tận cũng thế, các Ngài không có hai thứ tích trữ về nghiệp và vật dụng, lại có ba thứ biết rõ về vật thực ăn uống, các Ngài lấy Níp Bàn Không, Vô tướng và Vô dục giải thoát làm cảnh giới. Đối với các Ngài, ba cõi (Tam giới), bốn loài (Tứ sanh), năm đường luân hồi (Ngũ lộ), bảy nơi nhàn cảnh (Satta viññāṇaṭṭhitiyo), chín cõi Tịnh cư (Navasattāvāsa), tất cả là năm đường lối tái sanh các Ngài đã vượt qua, lộ trình các Ngài đi không thể biết được, cũng không bày vẽ cho ai biết được.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng đắc quả Thánh nhất là quả vị Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Trưởng lão Bê Lát Thá Xi Xô
Ham ngồi Thiền quá, chứa cơm khô,
Nghỉ chân ít bữa, mong vào Định,
Tăng chúng xì xò, Định chẳng vô…
Phật chẳng chê sư hám lợi quyền,
Nhưng ban Giới cấm chứa cơm tiền,
Người tu đi bát ăn từng bữa,
La hán không còn trữ Nghiệp duyên.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO BÊ LÁT THÁ XI XÔ
----
VII. 4 - Tích TRƯỞNG LÃO A NẬU LÂU ĐÀ
(Anuruddhattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 93)
“Yassāsavā parikkhīṇā,
Āhāre ca anissito;
Suññato animitto ca,
Vimokkho yassa gocaro;
Ākāseva sakuntānaṃ,
Padantassa durannayaṃ”.
“Ai lậu hoặc đoạn sạch,
Ăn uống không tham đắm,
Tự tại trong hành xứ,
“Không, Vô tướng, Giải thoát”.
Như chim giữa hư không,
Dấu chân thật khó tìm”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến Trưởng lão Anuruddha (A Nậu Lâu Đà).
Một hôm nọ, Trưởng lão là Tỳ khưu nguyện Đầu Đà mặc y cũ (Jiṇṇacīvaro), đi tìm y nơi đống rác mà người ta vứt bỏ. Người vợ cũ trong tiền kiếp thứ ba của Trưởng lão, lúc ấy tái sanh làm Thiên nữ trên cõi trời Đạo Lợi, tên là Jālinī (Cha Lí Ni), trông thấy Trưởng lão đi kiếm vải dơ, bèn lấy ba khúc vải trời dài mười ba hắc, rộng bốn hắc, nhưng không dám mang đến dâng ngay Trưởng lão, vì e Ngài không nhận. Thiên nữ đem để ba tấm vải trên một đống rác, phía trước đường đi của Trưởng lão, cũng như đồ vô chủ vậy. Quả nhiên, Trưởng lão đang đi kiếm vải dơ, cứ thẳng đường mà tiến bước, trông thấy mấy tấm vải ấy, bèn lượm lấy xổ ra coi thì thấy là vải trời, dài và rộng như thế. Đây là loại vải phấn tảo quý giá hiếm có. Nói rồi, Trưởng lão ôm ba tấm
vải ấy đi.
– Đến ngày Trưởng lão may y, Đức Bổn Sư với năm trăm vị Tỳ khưu tùy tùng đến chùa ngự tọa, cả tám mươi vị Trưởng lão cũng ngồi nơi ấy. Trưởng lão
Mahākassapa (Ma Ha Ca Diếp) ngồi ở một góc để may y, Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất) ngồi ở giữa, Trưởng lão Ānanda (A Nan Đa) ngồi đằng đầu, Tăng chúng lo se chỉ, chỉ ấy Đức Bổn Sư xỏ vào lỗ kim, còn Trưởng lão Moggallāna (Mục Kiền Liên) đi qua đi lại, xem chỗ nào cần dùng cái chi thì đưa tới. Cô Thiên nữ Jālinī đi vào làng khuyến khích dân chúng đi để bát: Bà con thân mến! Hôm nay trưởng lão Anuruddha làm y, có Đức Bổn Sư với đoàn tùy tùng tám mươi vị Đại Trưởng lão và năm trăm vị Tỳ khưu ngự đến an tọa trong chùa. Bà con hãy đi chùa dâng cúng vật thực, nhất là cháo sáng đi”.
Khoảng giữa hai bữa ăn, Trưởng lão Moggallāna còn đem về mận đỏ của xứ Đại Diêm Phù (Mahājambūpesito). Năm trăm vị Tỳ khưu không thể độ hết vật thực. Đức Đế Thích đánh bóng lên chỗ nền may y, mặt nền trơn láng như có sơn vecni. Cơm, cháo và đồ ngọt Chư Tăng độ còn dư lại một đống lớn, các Tỳ khưu than phiền: “Chỉ có bấy nhiêu Tỳ khưu đây, cần chi nhiều vật thực, nhất là cháo cơm như vậy? Nếu có suy tính độ lượng thì đáng lẽ nên bảo cả quyến thuộc và người hộ độ mang đến đây bấy nhiêu vật thực mà thôi! Chắc có lẽ Trưởng lão Anuruddha muốn khoe cho ta biết mình có nhiều quyến thuộc và người hộ độ vậy”.
Khi ấy, Đức Bổn Sư hỏi chư Tăng : “Nầy các Tỳ khưu, các thầy nói chuyện chi thế?”.
– Bạch Ngài, chuyện như vầy… Như vầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư hỏi rằng: “Nầy các Tỳ khưu, các thầy nghĩ rằng số vật thực nầy do Anuruddha khiến sai mang đến phải chăng?”.
– Bạch Ngài, phải.
– Nầy các Tỳ khưu! Không phải do Anuruddha con trai Ta sai bảo như vậy.
Không bao giờ các bậc Lậu tận nói chuyện chi dính líu đến vấn đề tứ vật dụng. Bữa ăn cúng dường, sớt bát nầy phát sanh lên nhờ oai lực của Chư Thiên.
Sau câu kết luận tóm tắt, Đức Bổn Sư thuyết pháp rồi ngâm kệ rằng:
“Yassāsavā parikkhīṇā,
Āhāre ca anissito;
Suññato animitto ca,
Vimokkho yassa gocaro;
Ākāseva sakuntānaṃ,
Padantassa durannayaṃ”.
“Không tham ăn uống chút nào,
Bực đã giải thoát trần lao hoàn toàn.
Cõi Không, Vô tướng, Níp Bàn,
Là nơi trống vắng chim ngàn lại bay.
Quảng trời vô tận bao la,
Dấu chim bay mãi biết là về đâu?”.
*
CHÚ GIẢI:
Yassāsavā: Cả bốn lậu hoặc đã dứt sạch nơi người nào, bốn thứ lậu là Kāmāsava, bhavāsava, diṭṭhāsava, avijjāsava (Dục, Hữu, Kiến và Vô minh lậu).
Āhāre ca anissito: không bám vào vật thực vì không nương theo sự thèm khát, tà kiến đối với vật thực.
Padantassa durannayaṃ: dấu chân khó noi theo, ví như những con chim đang bay trên hư không vậy, đã biết dùng chân bước khỏi chỗ nầy, đã hết vỗ cánh tại chỗ nầy, ta không thể biết được đâu là đầu, đâu là cặp cánh. Một Tỳ khưu không bám víu vào vật thực cũng thế, ta không thể biết vị ấy đi theo lối nào, xuống Địa ngục hay thọ sanh làm thú chẳng hạn.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu đã đắc Thánh quả, nhất là quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Á Nậu La Đà lượm vải trời,
Do người vợ cũ giả buông rơi…
Phật, Tăng xám lại may y mới,
Thiện tín đem cơm cháo thỉnh mời.
Bánh trái, cơm canh quá thặng dư,
Cũng làm bất mãn lắm nhà Sư,
Phật rằng: La hán tâm không bận,
Lo nghĩ cơm tiền vật dụng tư…
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO A NẬU LÂU ĐÀ
----
VII. 5 - Tích TRƯỞNG LÃO MA HA CA CHIÊN DIÊN
(Mahākaccāyanattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 94)
“Yass’indriyāni samathaṅgatāni,
Assā yathā sārathinā sudantā;
Pahīnamānassa anāsavassa,
Devā’pi tassa pihayanti tādino”.
“Ai nhiếp phục các căn,
Như đánh xe điều ngự,
Mạn trừ, Lậu hoặc dứt,
Người vậy, Chư Thiên mến”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết, khi ngự tại Pubbārāma (Đông Phương Tự), đề cập đến Trưởng lão Mahākaccāyana (Ma Ha Ca Chiên Diên).
Một thuở nọ, trong ngày lễ Tự Tứ Tăng, Đức Bổn Sư ngự tọa bên dưới tòa nhà lầu của bà Visākhā (Thiện Chi), có đại chúng Thinh Văn và đệ tử theo hầu.
Trong thời gian ấy, Trưởng lão Mahākaccāyana cư ngụ trong xứ Avantī (A Quan Ti). Dầu cách trở xa xôi, Trưởng lão cũng đến góp mặt để khích lệ sự nghe Pháp. Do đó các vị Trưởng lão cao hạ, khi ngồi vào chỗ ngồi có chừa một chỗ trống để dành cho Trưởng lão Mahākaccāyana.
Đức Thiên Vương Đế Thích cùng với chư thiên hộ giá và đoàn tùy tùng từ hai cõi trời, đem lễ vật nhất là hương và tràng hoa của chư thiên đến cúng dường Đức Bổn sư.
Khi đứng lên không thấy Trưởng lão Mahākaccāyana, Thiên vương tự hỏi: “Sao Ngài Trưởng lão của ta không có mặt ở đây? Phải chi Ngài đến là tốt biết mấy?”.
Ngay khi ấy, Trưởng lão đến nơi, ngồi vào chỗ của mình cho mọi người thấy mình. Đức Đế Thích trông thấy Trưởng lão, nắm chắc lấy hai cườm chân của Trưởng lão, nói: “May quá, Trưởng lão của ta đã đến! Bạch Trưởng lão, Trẫm đã mong đợi Trưởng lão đến!”. Nói rồi Thiên Vương lấy hai tay xoa bóp chân của Trưởng lão cúng dường hương hoa, lễ vật, đảnh lễ Trưởng lão xong đứng nép qua một bên.
Các Tỳ khưu than phiền: “Đức Đế Thích lựa mặt mà cúng dường lễ bái, bao nhiêu bậc Đại Thinh Văn khác Thiên Vương không cung kính như vậy, còn khi gặp Ngài Mahākaccāyana thì lật đật nắm mắt cá chân: “May quá, Trưởng lão của ta đã đến. Bạch Trưởng lão, Trẫm mong chờ Trưởng lão đến!”. Nói rồi lấy hai tay xoa bóp chân, cúng dường lễ vật, đảnh lễ rồi đứng qua một bên”.
Nghe lời bàn luận của Chư Tăng, Đức Bổn Sư bảo: “Nầy các Tỳ khưu, những Tỳ khưu nào thu thúc lục căn như con trai Ta là Mahākaccāyana thì cả chư thiên và nhân loại thảy đều ái mộ.”
Nói rồi, Ngài thuyết pháp giải thích thêm và tóm lược ý nghĩa bằng kệ ngôn nầy:
“Yass’indriyāni samathaṅgatāni,
Assā yathā sārathinā sudantā;
Pahīnamānassa anāsavassa,
Devā’pi tassa pihayanti tādino”.
“Đúng bực La Hán dồi trau,
Các căn tịch tịnh, làu làu, sạch trong.
Như người cỡi được ngựa hồng,
Phiền não, ngã mạn nơi lòng lặng yên.
Nhân loại cho đến chư thiên,
Thảy đều ái mộ nể kiêng đức lành.”
*
CHÚ GIẢI:
Yassa…: Tỳ khưu nào khéo điều ngự lục căn, như người kỵ mã khéo huấn luyện ngựa, cho đến mức tịch tịnh thuần hóa.
Pahīnamānassa: Tỳ khưu ấy dứt bỏ được chín cách ngã mạn (navavidham mānaṃ), là:
1. Seyyassa seyyohamasmīti māno: người cao thượng cho mình cao thượng hơn người.
2. Seyyassa sadīsohamasmīti māno: người cao thượng cho mình bằng người hay ngang hàng người.
3. Seyyassa hīnohamasmīti māno: người cao thượng cho mình đê hèn hơn người.
4. Sadisassa seyyohamasmīti māno: người ngang hàng với người nhưng cho mình là cao thượng hơn người.
5. Sadisassa sadisohamasmīti māno: người ngang hàng với người nhưng ỷ mình bằng người.
6. Sadisassa hīnohamasmīti māno: người ngang hàng với người nhưng cho mình thấp hèn hơn người.
7. Hīnassa seyyohamasmīti māno: người thấp hèn hơn người lại cho mình là cao thượng hơn người.
8. Hīnassa sadisohamasmīti māno: người thấp hèn hơn người lại cho mình bằng người.
9. Hīnassa hīnohamasmīti māno: người thấp hèn hơn người cũng lại cho mình đê hèn hơn người.
Anāsavassa: không còn bốn thứ Lậu hoặc.
Tādino: người có khả năng như vậy thì được chư thiên ước mong, nhân loại chờ đợi để trông thấy mặt.
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ Khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn…
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Trưởng lão Ma Ha Ca Chiên Diên,
Đến sau mà cũng được chư thiên,
Cúng dường lễ bái như là Phật,
Làm các sư phàm thấy đảo điên.
Phật dạy: Tỳ khưu tánh dịu hiền,
Lục căn thanh tịnh, đáng siêu nhiên,
Tâm không Ngã mạn, không Tà kiến,
Ắt được lòng yêu của Nhân thiên.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO MA HA CA CHIÊN DIÊN
----
VII. 6 - Tích TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT BỊ CÁO GIAN
(Sārīputtattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 95)
“Paṭhavīsamo no virujjhati,
Indakhīlūpamo tādi subbato;
Rahado’va apetakaddamo,
Saṃsārā na bhavanti tādino”.
“Như đất không hiềm hận,
Như cột trụ, kiên trì,
Như hồ, không bùn nhơ,
Không luân hồi, vị ấy”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất).
Một thuở nọ, sau khi mãn mùa an cư, Trưởng lão Sāriputta muốn đi vân du, bèn vào xin phép Đức Bổn Sư, đảnh lễ cáo từ Ngài và ra đi với đoàn tùy tùng của mình, nhiều Tỳ khưu ở nhóm khác cũng đi theo Trưởng lão. Những Tỳ khưu được Trưởng lão biết rõ tên họ được Trưởng lão quay lại chào hỏi theo tên họ. Có một Tỳ khưu nọ không được Trưởng lão lưu ý vì đứng lẫn lộn trong đám đông Tăng chúng. Vị Tỳ khưu vô danh này thấy mình không được ưu đãi như các Tỳ khưu khác thì buộc oan trái với Trưởng lão. Khi ấy, Trưởng lão vô tình để cái y Tăng Già Lê chạm vào mình của vị Tỳ khưu ấy.
Khi biết: “Có lẽ bây giờ Trưởng lão đã đi khỏi ranh chùa rồi!”, vị Tỳ khưu bất bình vào khiếu nại với Đức Bổn Sư:
– Bạch Ngài Trưởng lão Sāriputta ỷ thị: “Ta đây là Thượng Thinh Văn, lớn nhất trong Tăng chúng”, nên khi ra đi vân du, Trưởng lão đánh con muốn bể vành tai mà không sám hối.
Đức Bổn Sư cho gọi Trưởng lão trở lại để phân xử. Ngay khi ấy hai vị Trưởng lão là Mahāmoggallāna (Ma Ha Mục Kiền Liên) và Ānanda (A Nan Đa) đều nghĩ thầm: “Sư huynh của ta không có đánh Tỳ khưu nầy, nếu Đức Bổn Sư không biết rõ sự thật thì oan cho Sư huynh của ta lắm”. Hai Trưởng lão muốn cho Trưởng lão Xá Lợi Phất rống lên tiếng rống của con sư tử, nên bảo nhau: “Ta sẽ triệu tập Tăng chúng câu hội lại tất cả”.
Thế rồi, hai vị Trưởng lão mở hoác các cửa vào đạo trường, kêu gọi chư Tỳ khưu Tăng tập hợp: “Các Trưởng lão hãy đến hội trường cho đông đủ, hôm nay trước mặt Đức Thế Tôn, Trưởng lão Sāriputta sẽ rống lên tiếng rống con sư tử”.
Trưởng lão Sāriputta đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi xuống, khi ấy Đức Bổn Sư hỏi Trưởng lão về câu chuyện vị Tỳ khưu vô danh tố cáo, thay vì nói: “Con không có đánh Tỳ khưu nầy”, Trưởng lão chỉ thuyết trình về đức tính của tự ngã:
“Bạch Ngài, thật vậy, Tỳ khưu nào chưa thuần thục trong đề mục niệm Thân trược (Kāyagatāsati), tâm còn luyến lưu một bạn đồng Phạm hạnh nào đó, chưa dứt bỏ được thì nên ra đi hành đạo”. Rồi Trưởng lão giảng giải: “Bạch Ngài, ví như mặt đất, trên đó người ta bỏ đồ sạch, hay đồ dơ nó vẫn như thường, tâm mình cũng bình thản như mặt đất vậy đối với mọi sự thị phi. Hoặc nói cách khác tâm mình cũng bình thản như nước, như lửa, như gió, như bụi, như thanh niên Chiên đà la, như bò rụng sừng, như chén mỡ đặc. Vả lại, tự thân mình thật đáng ghê tởm như xác rắn chết sình, như chảo
chiên dầu mỡ, chứ nào có đáng gì trân trọng bảo trì?”.
Trong khi Trưởng lão đang thuyết trình, tự ví mình như chín vật trên đây, bắt đầu từ đất đến nước,… thì quả địa cầu rung động. Đến khi Trưởng lão ví mình như từ hạt bụi đến thanh niên Chiên đà la, đến chảo chiên dầu mỡ, thì các Tỳ khưu còn phàm không còn cầm được nước mắt, các bậc Lậu tận thì kinh cảm vì Pháp (Dhammasaṃyego).
Trong khi Trưởng lão đang thuyết trình về các đức tính của mình có theo thứ lớp như vậy, vị Tỳ khưu cáo gian nghe trong mình toàn thân bị nóng như bị lửa đốt. Vị ấy quỳ mọp dưới chân Đức Thiện Thệ vừa tự thú là mình cáo gian Trưởng lão. Đức Bổn Sư gọi Trưởng lão và bảo: “Nầy Sāriputta hãy tha tội cho kẻ nầy, để cho đầu hắn khỏi bị bể thành bảy mảnh”.
Trưởng lão ngồi xổm, chấp tay lại và nói: “Bạch Ngài, con tha thứ cho vị Tỳ khưu này và xin Trưởng lão ấy hãy xá lỗi cho con, nếu con có lỗi”.
Các Tỳ khưu nói chuyện với nhau:
– Nầy các đạo hữu hãy nhìn xem, Trưởng lão có đức độ vô thượng, bây giờ đối với vị Tỳ khưu nguyên cáo giả dối như vậy mà Trưởng lão không có tâm giận hờn chút chi, lại còn tự mình ngồi xổm, chấp tay xin sám hối nữa.
Đức Bổn Sư nghe câu chuyện của Chư Tăng, liền hỏi:
– Nầy các Tỳ khưu, các thầy nói chuyện chi vậy?
– Bạch Ngài, chuyện nầy như vầy… như vầy.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư dạy rằng: “Nầy các Tỳ khưu, không thể nào làm cho hạng người như Sāriputta phát sanh tâm sân. Nầy các Tỳ Khưu, tâm của Sāriputta bình thản như mặt đất, kiên cố như cột trấn của chư thiên, thanh tịnh như nước ao không bùn”.
Nói rồi, Ngài thuyết pháp dạy thêm tóm tắt bằng bài kệ rằng:
“Paṭhavīsamo no virujjhati,
Indakhīlūpamo tādi subbato;
Rahado’va apetakaddamo,
Saṃsārā na bhavanti tādino”.
“La Hán giũ sạch Tam hành,
Tâm như bình địa chí thành cố kiên.
Như cột trấn của chư thiên,
Như ao sâu thẳm, lặng yên, không bùn.
Nên vòng sanh tử cuối cùng,
Khởi từ vô thủy cáo chung nơi người”.
*
CHÚ GIẢI:
Paṭhavīsamo: Nầy các Tỳ khưu, ví như trên mặt đất người ta vứt bỏ những vật sạch sẽ là hương thơm, tràng hoa chẳng hạn, người ta vứt bỏ những vật dơ bẩn như phẩn, nước tiểu chẳng hạn, như ở ngoài cổng thành là chỗ đổ rác vậy.
Indakhīla: lại ví như trụ đá bị lũ trẻ con đến tiểu lên, hoặc đập sứt mẻ, khi khác lại được người khác đến cúng dường dâng hương hoa, lễ vật. Cả mặt đất và cây trụ đá cũng không vui mừng hay phẫn nộ. Bậc Tỳ khưu Lậu tận cũng như thế, tâm không dao động vì Tám pháp thế gian, do có tư cách tốt đẹp mà nên người có hạnh kiểm tốt, không quan tâm nghĩ rằng: “Những người nầy tôn trọng cúng dường ta bằng tứ vật dụng, còn những người nầy không tôn trọng cúng dường ta”. Dầu ai tôn trọng hay không tôn trọng, bậc ấy cũng không hề nổi giận, hoặc chống cự lại, chẳng khác mặt đất và cây trụ đá đó vậy.
Rahado’va: Ví như ao hồ nước trong veo vì không lẫn bùn, bậc Lậu tận có tâm thanh tịnh, không lẫn bùn nhơ là phiền não tham ái, sân hận, si mê.
Tādino: đối với vị thánh thiện như vậy, con đường luân hồi siêu sanh nhàn cảnh hay đọa vào bốn khổ cảnh không thể có. Cuối thời Pháp, chín ngàn vị Tỳ khưu đắc quả A La Hán với Tuệ Phân Tích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Pháp chủ mà còn bị cáo gian,
Người ngay đâu lẽ chịu hàm oan?
Phân minh tự ví mình như đất:
Hàm chứa bao dung chẳng thở than!
Phật dạy: Tâm người đã hết sân,
Là tâm La Hán, bậc Siêu nhân,
Vững như trụ đá trên Thiên giới,
Sạch tợ trùng dương, chẳng nhuốm trần.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT BỊ CÁO GIAN
----
VII. 7 - Tích TRƯỞNG LÃO ĐỀ XÁ Ở KIỀU THƯỞNG DI
(Kosambivāsītissattherasāmaṇeravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 96)
“Santaṃ tassa nanaṃ hoti,
Santā vācā ca kamma ca;
Sammadaññā vimuttassa,
Upasantassa tādino”.
“Người tâm ý an tịnh,
Lời an, nghiệp cũng an,
Chánh trí, Chơn giải thoát,
Tịnh lạc là vị ấy”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài an ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến vị Sadi đệ tử của Trưởng lão Tissa (Đề Xá).
Tương truyền rằng: Một vị công tử ở gần Kosambi (Kiều Thưởng Di), sau khi xuất gia trong Giáo Pháp, thọ Cụ túc giới, được mệnh danh là Trưởng lão Đề Xá ở Kiều Thưởng Di. Trưởng lão an cư ở vùng Kosambi (Kiều Thưởng Di), đến khi mãn mùa an cư, được người hộ độ mang các lễ vật như Tam y, sữa chua, mật mía đặt dưới chân.
Thấy vậy, Trưởng lão hỏi người ấy: “Cái chi đây ông thiện nam?”.
– Bạch Ngài, Ngài đã nhận lời con an cư mùa mưa nơi nầy, bây giờ mãn mùa an cư, phần lễ vật nầy phát sanh được đây, xin Ngài hãy hoan hỷ thọ dụng.
– Nầy cận sự nam, ông hãy thông cảm, ta không cần đến những lễ vật nầy.
– Bạch Ngài, tại sao vậy?
– Nầy đạo hữu! Vì bần tăng không có Sadi để dâng lễ vật thọ đúng Luật kappiyākasako.
– Bạch Ngài, nếu Ngài không có người phục dịch theo Luật, thì con xin đưa con trai con xuất gia Sadi để phục dịch Ngài.
Trưởng lão im lặng chấp nhận. Ông thiện nam dắt đứa con trai của mình vừa được bảy tuổi đến với Trưởng lão, giao cho Trưởng lão và nói: “Kính Ngài, xin cho nó được xuất gia”.
Trưởng lão xối nước ướt tóc đứa bé, truyền dạy phần đầu của đề mục quán tưởng thân trược gồm có năm chi: tóc, lông, móng, răng, da cho nó và cho nó xuất gia. Ngay khi lưỡi dao cạo chạm vào da dầu, vị Sadi mới đắc chứng A La Hán quả với Tuệ phân tích.
Sau khi cho Sadi xuất gia, Trưởng lão còn lưu lại trên chùa thêm nửa tháng, rồi muốn về đảnh lễ Đức Thế Tôn, Trưởng lão bảo ông Sadi thu thập hành lý để lên đường. Đến nửa đường hai thầy trò ghé vào một ngôi chùa, ông Sadi có bổn phận phải lo sửa soạn chỗ trú cho thầy Tế độ. Khi lo cho thầy xong thì trời đã xế chiều, Sadi không thể dọn dẹp chỗ ngụ của mình cho kịp giờ.
Khi ông Sadi đến giờ hầu thầy, trở lại ngồi một bên thầy, Trưởng lão liền hỏi:
“Ông Sadi, ông lo sửa soạn chỗ nghỉ của ông chưa?”.
– Bạch Ngài, con không có giờ rảnh để sửa soạn!
– Vậy thì, con hãy ở chung chỗ với ta. Mình là khách lữ hành phải chịu khó ở ký túc xá vậy (Āgantukaṭṭhāne).
Nói rồi, Trưởng lão dắt Sadi vào chỗ ngụ. Trưởng lão nầy còn là phàm nhân nên đến giờ đi nghỉ là nằm xuống ngủ. Sadi thầm nghĩ: “Hôm nay ta với thầy Hòa thượng ngụ chung nhau trong một chỗ ngụ đến nay là ngày thứ ba rồi, nếu ta nằm sợ e ta sẽ ngủ quên đến sáng, thì Trưởng lão sẽ phạm giới ngủ chung ba đêm với Sadi. Thôi ta sẽ ngồi cho qua hết đêm nay vậy”. Thế rồi, Sadi ngồi kiết già kế bên giường ngủ của thầy Hòa thượng mà nghỉ cho qua một đêm. Hôm sau, trời vừa mờ mờ sáng, Trưởng lão thức dậy, tự nghĩ: “Ta phải bảo ông Sadi đi ra ngủ bên ngoài mới được”, nên lấy cây quạt để bên giường, Trưởng lão dùng đầu nhọn của cây quạt đập xuống chiếu của Sadi, rồi giở quạt lên gọi: “Nầy Sadi, hãy đi ra ngoài”, không may đầu cây quạt xỉa
trúng một mắt của Sadi, tròng mắt bị bể ra.
Sadi giật mình hỏi lại: “Bạch Ngài, bảo gì?”. Khi nghe thầy nói: “Dậy đi ra ngoài!”, ông không nói: “Bạch Ngài, mắt con đã bị bể tròng”, mà chỉ lấy tay bụm mắt rồi đi ra.
Tới giờ phục dịch thầy, Sadi cũng làm thinh không nói “Mắt con đã bị bể tròng”.
Mà chỉ đứng chứ không ngồi xuống, một tay bụm mắt đau, còn tay kia cầm lấy cán chổi vào quét cầu tiêu và nhà tắm, múc nước rửa mặt cho thầy, rồi quét sân chùa. Đến khi dâng cây đánh răng (dantakaṭṭham) cho thầy Hòa thượng, ông cũng chỉ dâng bằng một tay. Thấy vậy Trưởng lão rầy:
– Cái ông Sadi nầy mất dạy thật! Đối với thầy Tiếp dẫn và thầy Tế độ mà ông dâng cây đánh răng bằng một tay được?
– Bạch Ngài ! Con vẫn biết không nên làm như vậy, nhưng một tay con không được rảnh.
– Tại sao vậy Sadi ?
Sadi bèn thuật câu chuyện từ đầu đến cuối. Nghe xong, vị Trưởng lão phát tâm kinh cảm: “Chao ôi! Nghiệp của ta đã tạo thật là nặng nề!”. Than rồi, vị Trưởng lão tuột xuống ngồi chồm hổm dưới chân Sadi bảy tuổi chấp hai tay đưa lên trán, và nói:
“Xin thiện nam tử (Sappurisa) xá tội cho tôi! Thật tôi không biết việc ấy, xin hãy là người nâng đỡ cho tôi”.
Vị Sadi điềm nhiên đáp lời Trưởng lão: “Bạch Ngài, con không có ý muốn nói về câu chuyện ấy, xin Ngài cứ an tâm. Theo con nghĩ, trong việc nầy thầy không có lỗi, mà đó cũng không phải là lỗi của con. Xin Ngài đừng lo nghĩ nhiều, con xin giữ kín việc Ngài sám hối với con, không nói cho ai biết hết”.
Vị Trưởng lão được lời an ủi của Sadi thì nghe dễ chịu, nhưng rồi lại sanh tâm kinh cảm, mang hết hành lý của Sadi, về đảnh lễ Đức Bổn Sư.
Lúc ấy, Đức Bổn Sư ngồi đợi hai thầy trò đến, vị Trưởng lão đi đến đảnh lễ Đức Bổn Sư xong, Đức Thế Tôn niềm nở hỏi:
– Nầy Tỳ khưu! Thầy hành đạo có được dễ chịu không? Có gặp điều chi cực khổ lắm không?
– Bạch Ngài, con được dễ chịu, không có chút chi cực khổ thái quá. Hơn thế nữa, con còn có được một Sadi nhỏ, giống như được một vị có hạnh đức phi thường, con chưa từng thấy vậy.
– Ông nầy đã làm cái chi vậy, nầy Tỳ khưu?
Vị Trưởng lão thuật lại câu chuyện xảy ra, từ đầu cho đến cuối với Đức Bổn Sư, rồi nói tiếp:
– Bạch Ngài, khi con yêu cầu sám hối như thế, Sadi đã nói với con như vầy:
“Bạch Ngài, trong việc nầy Ngài không có lỗi chi cả, mà đó cũng không phải là lỗi của con, thôi Ngài đừng bận tâm lo nghĩ nhiều”. Sadi ấy an ủi con, không tỏ vẻ chi giận hờn, thù ghét chi con cả. Bạch Ngài, từ trước đến giờ con chưa từng thấy một bậc hiền đức hoàn toàn như vậy.
Khi ấy, Đức Bổn Sư bảo Trưởng lão rằng:
– Nầy Tỳ khưu, hễ là bậc Lậu tận thì không còn chút giận hờn, sân hận, cả Lục căn an tịnh và Tâm ý cũng an tịnh.
Nói rồi Ngài thuyết pháp giải rộng thêm và tóm tắt bằng bài kệ nầy:
“Santaṃ tassa nanaṃ hoti,
Santā vācā ca kamma ca;
Sammadaññā vimuttassa,
Upasantassa tādino”.
“La Hán thường được thảnh thơi,
Nhờ có Chánh trí thoát nơi bụi hồng.
Thân nghiệp, khẩu nghiệp sạch trong,
Ý nghiệp vắng lặng, không không, hoài hoài”.
*
CHÚ GIẢI:
Santaṃ: tâm ý (Mano) của vị thánh Lậu tận an tịnh (santa có chỗ còn dịch là trầm tĩnh), vì không có tham, sân, si. Trong khi tâm đang yên lặng thái bình như vậy, thì các khẩu ác nghiệp, nhất là vọng ngữ không có và các thân ác nghiệp, nhất là sát sanh cũng không có, cho nên thân khẩu thường an tịnh luôn.
Sammadaññā vimuttassa: bằng cách suy tư biết rõ nguyên nhân là Ý, hễ Ý đã giải thoát thì cả năm căn kia là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt và Thân cũng được giải thoát, nên gọi là Chánh trí giải thoát.
Upasantassa: tâm thường an tịnh vì trong đó tham, sân, si đều vắng lặng.
Tādino: người như thế ấy.
*
Cuối thời Pháp, Trưởng lão Đề Xá ở kiều Thưởng Di đắc A La Hán Quả với Tuệ Phân Tích. Kỳ dư đại chúng nghe Pháp đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Trưởng lão nào hay đệ tử mình,
Cạo đầu liền đắc quả Vô sinh!
Ngủ chung, sáng thọt trò hư mắt,
Trò tỉnh, còn Sư lại cảm kinh.
Sư chắp tay xin sám hối trò,
Trò khuyên: Ngài chớ khá buồn lo,
Không ai tội cả, toàn do nghiệp,
Quả đến, cần chi phải đắn đo?
Phật dạy: “Người tam nghiệp trọn lành,
Sadi bảy tuổi, Đạo viên thành!”.
Sư nghe, Ngã mạn tiêu tan hết,
Cũng đắc như trò, Quả tối linh.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO ĐỀ XÁ Ở KIỀU THƯỞNG DI
----
VII. 8 - Tích TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT TỰ TIN
(Sāriputtattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 97)
“Assaddho akataññū ca,
Sandhicchedho ca yo naro;
Hatāvakāso vantāso,
Sa ve uttamaporiso”.
“Không tin”, hiểu Vô vi,
Người cắt mọi hệ lụy.
Cơ hội tận, xả ly,
Vị ấy thật tối thượng”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất). Một ngày nọ, có ba mươi vị Tỳ khưu tu hành hạnh Đầu Đà ngụ ở rừng (araññakā), về yết kiến Đức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài rồi ngồi nép qua một bên. Đức Bổn Sư biết rõ những vị nầy có căn lành đắc A La Hán quả với Tuệ Phân tích, nên Ngài gọi Trưởng lão Sāriputta mà hỏi về Ngũ quyền (Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ) nhất là Tín quyền, là những yếu tố thành tựu Pháp Bất tử.
– Nầy Sāriputta, thầy có đức tin chăng?
(Tín quyền là yếu tố phát triển gia tăng thành tựu Pháp Bất tử là Níp Bàn).
– Bạch Ngài, nói về Tín quyền thì con không đặt niềm tin nơi Đức Thế Tôn v.v…
Thật vậy, bạch Ngài! Về Tín quyền thì những ai chưa biết, chưa nghe, chưa thấy, chưa làm cho thấu rõ, chưa tiếp xúc pháp Bất tử trọn vẹn bằng Trí Tuệ, thì người đó phải đặt niềm tin nơi tha nhân, v.v…
Trưởng lão đã giải đáp năm câu hỏi về Ngũ quyền là những yếu tố để thành tựu Pháp Bất tử như thế.
Nghe lời giải của Trưởng lão, các Tỳ khưu hợp nhau bàn tán: “Trưởng lão Sāriputta đã giải đáp bằng những luận điệu sai lầm như thế, là hôm nay Trưởng lão đã hết tin nơi Đức Chánh Biến Tri nữa rồi”. Nghe vậy, Đức Bổn Sư hỏi:
– Nầy các Tỳ khưu, sao các thầy lại nói như thế? Chính Ta đã không làm phát triển Ngũ quyền, không tăng tiến pháp Chỉ Quán (Samathavipassanā) mà đã có thể làm cho thấu rõ các Đạo quả. Đáp lại câu hỏi: “Nầy Sāriputta thầy có đức tin chăng?”.
Thầy ấy cũng làm cho thấu rõ Đạo quả như thế, nên mới nói : “Bạch Ngài, con không có đức tin (nơi tha nhân), thầy ấy không có đức tin nơi Đạo quả hiện tại hoặc tương lai (Phalavipāka) của ai cho, hoặc của ai làm giùm. Thầy ấy cũng không có đức tin nơi cái chi, nhất là nơi hồng ân của chư Phật.
Thầy ấy tự mình chứng đắc các pháp Thiền Quán, Đạo quả, chứ không đặt niềm tin nơi những người khác, bởi thế cho nên thầy ấy là người không thể chê trách”.
Nói rồi Đức Bổn Sư thuyết pháp giải thêm và tóm tắt bằng bài kệ nầy:
“Assaddho akataññū ca,
Sandhicchedho ca yo naro;
Hatāvakāso vantāso,
Sa ve uttamaporiso.”
“La Hán chẳng cần tin ai,
Vì đã chứng Đạo không hai thoát trần.
Dứt trừ vĩnh viễn nguyên nhân,
Cùng quả ràng buộc tự thân luân hồi.
Lòng tham dục cũng lìa rồi,
Bực vô thượng sĩ cao ngôi, chính người.”
*
CHÚ GIẢI:
Assaddho: vô tín hay bất tín, là tự mình chứng biết, không tin lời nói của người khác (một cách mù quáng).
Akataññū: hiểu là Vô vi, đây là làm cho thấu rõ Níp Bàn là Pháp không có nhân tạo ra.
(Akataññū cũng có nghĩa là vô ơn).
Sandhicchedho: người đã cắt đứt mọi ràng buộc là cắt đứt những kiết sử trói buộc trong vòng Luân hồi.
Hatāvakāso: người đã đoạn tuyệt cả phước và tội, là người đã tận trừ những cơ hội để tạo nghiệp thiện và bất thiện.
Vantāso: người đã dứt hết sự tham muốn, vì đã làm xong phận sự bằng bốn Thánh đạo.
Người đủ tư cách như vậy, quả thật là người cao thượng, đắc Pháp cao thượng nhất trong số những người giác ngộ Pháp siêu thế.
*
Cuối bài kệ, ba mươi vị Tỳ khưu ấy đắc quả A La hán với Tuệ Phân tích. Kỳ dư đại chúng thính pháp của Đức Bổn Sư thảy đều hưởng được lợi ích lớn
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Muốn độ người cao, Phật hỏi cao,
Phàm phu nghe ngóng tựa chiêm bao,
Nghĩ rằng: Pháp Chủ theo tà kiến,
Dám nói: Không tin Phật chút nào!…
Dưới thấp cần tin tưởng Phật Đà,
Lên cao, La hán: “Chỉ tin ta!”.
Tự mình thấu triệt luân hồi khổ,
Cởi bỏ mười dây kiết sử ra.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT TỰ TIN
----
VII. 9 - Tích TRƯỞNG LÃO LY BÀ ĐA Ở RỪNG KEO
(Khadiravaniyarevatattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 98)
“Gāme vā yadi vā’raññe,
Ninne vā yadi vā thale;
Yatthārahanto viharanti,
Taṃ bhūmiṃ rāmaṇeyyakaṃ”.
“Làng mạc hay rừng núi,
Thung lũng hay đồi cao,
La Hán trú chỗ nào,
Đất ấy thật khả ái”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Revata (Ly Bà Đa) ở rừng Keo.
Khi Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất) từ bỏ gia sản trị giá đến tám trăm bảy chục triệu đồng vàng (Sattāsātikoṭi) ra đi xuất gia, nơi nhà còn lại ba chị em gái là Cālā (Cha La), Upacālā (U Pá Cha La) và Sīsucālā (Xi Xú Cha La), cùng với ba em trai. Kế đến, Trưởng lão cho ba người em gái xuất gia, rồi hai người em trai lớn là Cunda (Chun Đá) và Upasena (Ú Pá Xê Ná) xuất gia, rốt cuộc chỉ còn lại người em út là Revata (Ly Bà Đa) ở lại nhà.
Lúc bấy giờ, thân mẫu của Trưởng lão tự nghĩ: “Con trưởng nam của ta là Upatissa (U Pá Đề Xá) đã từ bỏ bấy nhiêu tài sản mà xuất gia, lại cho ba chị em gái cùng hai người em trai lớn xuất gia nốt. Chỉ còn lại Revata ở lại nhà, nếu cho thằng út xuất gia nữa thì bấy nhiêu tài sản này sẽ bị tiêu hoại, dòng dõi ta sẽ bị gián đoạn. Trong khi Revata còn xuân xanh, ta phải lập gia thất cho nó để buộc ràng nó lại”.
Về phần Trưởng lão Sāriputta cũng đã tiên liệu, Ngài bắt đầu dặn dò chư Tỳ khưu: “Nầy các đạo hữu! Nếu như Revata có đến đây xin xuất gia, thì quý vị cứ tự tiện cho Revata xuất gia. Song thân của bần tăng là người Tà kiến, khỏi phải đi hỏi ý kiến của ông bà mà làm chi. Bần Tăng sẽ thay thế quyền làm cha mẹ của Revata, cho phép là được rồi”.
Thân mẫu của Revata, tuy con trai mới bảy tuổi đầu nhưng vì muốn lấy sợi dây gia đình ràng buộc chân con lại, nên bà đã tìm nơi môn đăng hộ đối (Samajātikekule) hỏi vợ cho cậu bé. Đến ngày ấn định lễ cưới, bà lo trang điểm cho công tử thật tươm tất, dắt theo rất đông họ hàng bên trai, đi đến sui gia đàng gái. Trong khi hai họ nhóm họp cử hành lễ cưới, thân bằng quyến thuộc đến chúc tụng hạnh phúc lứa đôi vị thành niên, cầm bát nước xối trên tay cô dâu trẻ và nói:
“Chúng tôi xin cầu chúc cho cô duyên ưa phận đẹp, tuổi thọ sống lâu như bà lão ẩu ngày nay vậy”.
Công tử Revata tự hỏi: “Bà lão ẩu ngày nay nầy là ai?”, rồi cậu hỏi ngay người chúc: “Bà lão ẩu nầy là bà nào đâu?”.
Họ đàng gái đáp: “Nầy con thân, con chưa gặp bà ta sao? Bà nầy sống một trăm hai mươi tuổi, răng đã rụng hết, tóc bạc trắng, da mồi nhăn nhíu, thân hình còm xuống cong như hai cái sừng bò. Đó là lão ẩu đó con thân”.
– Vì sao bà lại có hình thù như thế?
– Nếu sống lâu thì sẽ già như thế con thân à.
Chàng rể bé nhỏ suy nghĩ : “Thân thể con người đến tuổi già nua phải chịu thay hình đổi sắc như thế nầy ư? Vậy thì ta phải gặp anh Upatissa của ta ngay. Hôm nay ta phải bỏ nhà đi xuất gia mới được”.
Khi họ nhà trai rước cô dâu lên ngồi chung xe với chàng rể rồi, mọi người đồng lên xe của mình đi theo hộ tống. Công tử Revata chốc chốc lại giả thầm đau bụng muốn đi tiêu, kêu xe ngừng lại cho cậu xuống và chờ cậu trong giây lát. Mỗi lần xuống xe, cậu đi vào trong bụi rậm ngồi nán một chút rồi đi ra. Cậu cứ viện lẽ nầy lý kia để xuống xe, lên xe như thế mãi.
Thế rồi các quyến thuộc của cậu cũng không gìn giữ cậu chặt chẽ nữa, vì nghĩ rằng: “Chắc cậu này lên cơn (khùng)”. Một lúc sau, công tử cũng viện lẽ là cần phải đi giải một chút, rồi xuống xe bảo quyến thuộc: “Bà con cô bác đánh xe về trước đi, để tôi thủng thẳng đi sau”. Nói rồi cậu xuống xe đi ngay vào một bụi rậm, các quyến thuộc thân nhân của cậu tưởng cậu sẽ theo sau, nên đánh xe đi luôn về nhà. Cậu Revata từ đó thoát ra chạy đến một trú xứ nọ, gặp ba mươi vị Tỳ khưu trú nơi đó, bèn đảnh lễ chư Tăng và nói:
– Bạch các Ngài, xin các Ngài cho con được xuất gia.
– Nầy đạo hữu, đạo hữu ăn mặc sang trọng, trang sức lộng lẫy như thế. Nhưng chư Tăng chúng tôi không biết đạo hữu là Hoàng tử con vua, hoặc là ấm tử con quan đại thần, thì làm sao chúng tôi dám cho đạo hữu xuất gia?
– Nói thế, các Ngài không biết con hay sao?
– Thật chúng tôi không biết đạo hữu.
– Con là em út của Ngài Upatissa đây mà.
– Người tên Upatissa là ai vậy?
– Bạch các Ngài, các Ngài quen gọi anh con là Trưởng lão Sāriputta. Bởi vậy, nghe tên Trưởng lão Upatissa thì các Ngài không biết.
– Nói vậy đạo hữu là em út của Trưởng lão Sāriputta chăng?
– Bạch các Ngài, phải.
– Nếu vậy thì hãy đến đây, anh của đạo hữu đã cho phép đạo hữu xuất gia rồi. Nói rồi chư Tăng bảo cậu Revata cởi bỏ đồ trang sức, cất để có nơi, hành lễ xuất gia cho cậu xong, liền gởi thơ báo tin cho Trưởng lão Sāriputta biết. Bắt được tin, Trưởng lão Sāriputta vào bạch với Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, các Tỳ khưu hạnh đầu đà ẩn lâm đã cho Revata xuất gia và gởi thơ báo tin cho con biết, con xin đi thăm Revata và sẽ trở về”.
Đức Bổn Sư không chấp thuận, bảo với Trưởng lão rằng: “Khoan đi đã nầy Sāriputta”. Vài ngày sau, Trưởng lão lại đến xin phép Đức Bổn Sư, Ngài cũng không cho đi, lại bảo: “Khoan đi đã Sāriputta, để rồi Như Lai sẽ cùng đi nữa”.
Sadi Revata, sau khi xuất gia nghĩ thầm: “Nếu ta ở lại đây, người nhà sẽ theo dấu tìm bắt ta về”, ông đi đến chư Tăng xin chư Tăng dạy về đề mục niệm cho đắc thánh A La Hán quả. Thọ trì đề mục rồi, ông đắp y mang bát đi vân du hành đạo. Đi xa khoảng ba mươi do tuần, ông đến một nơi trong rừng Keo, an cư mùa mưa nơi đó, rồi đắc chứng A La Hán với Tuệ phân tích giữa khoảng ba tháng an cư.
Trưởng lão Sāriputta, sau khi lễ Tự Tứ Tăng, lại đến xin phép Đức Bổn Sư để đi thăm em. Đức Bổn Sư bảo: “Nầy Sāriputta, Ta cũng đi nữa”, rồi Ngài khởi hành dắt theo năm trăm Tỳ khưu.
Đi được một khoảng dài, đứng trước một lộ rẽ, Trựởng lão Ānanda hỏi Đức Bổn Sư rằng: “Bạch Ngài, có hai lối đi đến chỗ ngự của Revata, lối quanh nầy dài đến sáu mươi do tuần, nhưng có nhà dân chúng. Còn lối đi thẳng này tuy xa chỉ có ba mươi do tuần nhưng lại chẳng có nhà, có phi nhân trấn giữ. Chúng ta nên đi lối nào?”.
– Nầy Ānanda! Có Tỳ khưu Sīvali (Xi Vá Lí) cùng đi với Ta chăng?
– Bạch Thế Tôn, phải.
– Nếu có Sīvali đi, thì hãy đi theo con đường thẳng.
Theo truyền thuyết: Đức Bổn Sư không nói: “Ta sẽ làm cơm, cháo phát sanh đến các thầy, các thầy hãy đi theo con đường thẳng”, vì Ngài biết phần cúng dường phát sanh đến chư Tăng là do phước báu của Tỳ khưu Sīvali, nên Ngài bảo: “Nếu có Sīvali cùng đi thì thầy cứ đi đường thẳng”.
Trong khi Đức Bổn Sư đang noi theo lộ trình ấy, thì chư thiên nghĩ thầm: “Chúng ta sẽ cung nghinh Trưởng lão Sīvali của ta”, cứ cách một do tuần trở lại chớ không cho xa hơn thì chư thiên lại dựng lên một ngôi chùa. Cứ mỗi sáng tinh sương vừa thức giấc là chư thiên mang vật thực, nhất là cháo trời đến chùa, đi loanh quanh hỏi thăm: “Trưởng lão Sīvali của ta ngồi đâu? Trưởng lão ngồi nơi đâu?”.
Trưởng lão mang lễ vật của chư thiên tặng mình dâng lên chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm tọa chủ.
Đức Bổn Sư với Tăng chúng tùy tùng đã trải qua đoạn đường xa ba mươi do tuần một cách an vui như thế là nhờ oai lực phước báu của Trưởng lão Sīvali vậy. Về phần Trưởng lão Revata, khi biết tin Đức Bổn Sư sắp đến, liền cho xây cất hương thất là chỗ ngự riêng của Đức Thế Tôn, rồi cho cất tiếp theo năm trăm cái cốc tạm nóc nhọn cho chư Tăng, cho dọn năm trăm con đường kinh hành, cùng với năm trăm chỗ che nắng ban ngày.
Đức Bổn Sư ngự an ở nơi Trưởng lão Revata độ một tháng, trong khoảng thời gian đó, tất cả vật dụng phát sanh lên chư Tăng đều do oai lực phước báu của Ngài Sīvali cả.
Lúc bấy giờ, có hai vị Tỳ kheo cao hạ, vì không hoan hỷ với sự việc Đức Bổn Sư ngự đến rừng Keo, nên đã nghĩ tưởng như vầy: “Tỳ khưu Revata nầy, mãi lo tạo tác bao nhiêu chỗ ở mới thì làm sao mà thực hành Sa môn pháp được? Đức Bổn Sư ngự đến nơi đạo tràng tân tạo này, là do Ngài coi theo mặt, vì đây là công trình của em trai út Ngài Sāriputta”.
Sáng sớm ngày thứ ba, trong khi quán xét thế gian, Đức Thế Tôn thấy được hai vị Tỳ khưu này, và biết được ý nghĩ trong tâm họ, cho nên sau khi ngự tại nơi đó khoảng một tháng, đến ngày ra đi, Đức Bổn Sư dùng Thần thông khiến cho hai vị ấy lãng quên những dụng cụ lặt vặt của mình, nào là hũ dầu, bình nước, giày, dép v.v… Sau khi quyết định khởi hành, Đức Bổn Sư đi ra khỏi ranh chùa, lúc bấy giờ Ngài mới xả thần thông.
Khi ấy, hai vị Tỳ khưu cao hạ mới sực nhớ mình còn bỏ quên thứ nầy, thứ nọ, vị nầy rủ vị kia trở lại chùa. Vì không nhận định phương vị của chùa, hai vị tuôn bờ lướt bụi qua khu rừng Keo đầy gai góc một hồi, mới thấy đồ đạc của mình treo tòn ten trên một cây Keo, bèn lấy xuống đem đi ra.
Trên đường về, Đức Bổn Sư cũng dắt Tăng chúng đi, cũng mất hết một tháng, nhưng vẫn được an vui, nhờ nương vào phước báu của Trưởng lão Sīvali, Đức Bổn Sư ngự vào Đông Phương Tự (Pubbārāma).
Sáng hôm sau, hai vị Tỳ khưu cao hạ rửa mặt xong, rủ nhau: “Ta hãy đến độ cháo nơi nhà bà Đại Tín nữ Visākhā (Thiện Chi), là nữ thí chủ cúng dường vật thực đến khách Tăng”. Đến nơi đó, hai vị Trưởng lão độ cháo và đồ ngọt, rồi ngồi nghỉ. Bà Visākhā hỏi Trưởng lão:
– Bạch hai Ngài! Chắc hai Ngài cũng có đi với Đức Bổn Sư đến chỗ ngụ của Trưởng lão Revata phải chăng?
– Phải đó, nầy bà Tín nữ.
– Bạch hai Ngài, chỗ ngụ của Trưởng lão có ngoạn mục (ramanīya) không?
– Có chi đâu mà ngoạn mục? Chỉ toàn là những cây Keo gai trắng rậm rạp, y như chỗ ngụ của giống Ngạ quỷ vậy, bà Tín nữ ạ!
Khi ấy, có hai vị Tỳ khưu trẻ đến. Bà Tín nữ cũng dâng cháo và bánh ngọt đến hai vị nầy, rồi cũng hỏi thăm về chỗ ngụ của Trưởng lão Revata. Hai vị sau đáp:
– Đẹp không thể tả, bà Tín nữ ạ. Chỗ ngụ của Trưởng lão chẳng khác nào cảnh giới hiện bằng Thần thông của Quần Tiên hội.
Bà Tín nữ nghĩ thầm: “Hai vị đến trước thì nói khác, hai vị đến sau thì nói khác. Chắc có lẽ hai vị Tỳ khưu trước có quên lãng chút chi, đã chạy ngược trở lại lúc Đức Bổn Sư đã xả Thần thông. Còn hai vị sau ra đi, trong lúc Đức Bổn Sư còn thị hiện Thần thông”.
Nhờ tự mình có Trí tuệ sáng suốt, bà Visakhā biết rõ vấn đề nầy như vầy, nhưng bà cũng chờ đến dịp đảnh lễ Đức Bổn Sư để hỏi lại. Ngay lúc ấy, Đức Bổn Sư cùng với đoàn Tỳ khưu tùy tùng đoanh vây ngự đến nhà bà Visākhā, ngồi lên bảo tọa đã soạn sẵn.
Sau khi cung kính phục vụ chư Tăng có Đức Phật dẫn đầu, đến cuối bữa ngọ, bà Tín nữ đảnh lễ Đức Thế Tôn và hỏi cặn kẽ:
– Bạch Ngài, trong số các Tỳ kheo cùng đi chung với Ngài, có nhóm nói chỗ ngụ của Trưởng lão Revata là khu rừng rậm đầy Keo gai, có nhóm nói chỗ ấy ngoạn mục. Vậy chỗ ấy ra sao bạch Ngài? Nghe bà hỏi, Đức Bổn Sư đáp: “Nầy bà Tín nữ, dầu là làng mạc hoặc rừng rậm cũng vậy. Hễ nơi nào có bậc A La Hán tịnh cư thì nơi đó phong cảnh ngoạn mục…”.
Nói rồi Ngài thuyết thêm và tóm tắt bằng bài kệ:
“Gāme vā yadi vā’raññe,
Ninne vā yadi vā thale;
Yatthārahanto viharanti,
Taṃ bhūmiṃ rāmaṇeyyakaṃ”.
“Dầu ở rừng núi chơi vơi,
Xóm làng, gò trũng hay nơi đất bằng.
Chỗ nào có La hán Tăng,
Thì quanh vùng đó cảnh hằng an vui”.
*
CHÚ GIẢI:
Ý nghĩa của kệ ngôn nầy là: Dầu ở xóm làng, các vị A La Hán không được thân biệt lập, nhưng cũng được tâm tịch tịnh. Đối với các Ngài những cảnh tượng đẹp ngang chư thiên cũng không thể làm xao động tâm các Ngài. Bởi thế, cho dù ở nơi làng mạc hoặc nơi nào khác, chẳng hạn như rừng núi hay bất cứ nơi đâu, các bậc A La hán tịnh cư, thì nơi đó phong cảnh phải ngoạn mục, đất đai phải an vui.
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả nhất là quả vị Tu Đà Huờn. Thời gian sau, chư Tỳ khưu đề khởi câu chuyện nầy:
– Nầy chư đạo hữu, vì duyên cớ nào mà Trưởng lão Sīvali đã ở trong bụng mẹ đến bảy năm, thêm bảy tháng và lẻ bảy ngày. Tại cớ nào mà Trưởng lão bị thiêu đốt ở Địa ngục, và tại cớ nào mà Trưởng lão được hưởng lợi lộc danh dự tối cao như thế?”.
Đức Bổn Sư nghe được câu chuyện của chưTăng, bèn hỏi:
– Nầy chư Tỳ khưu, các thầy đang nói chuyện chi đó?
– Bạch Ngài, chuyện nầy… chuyện nầy…
Nghe vậy Đức Bổn Sư bèn thuyết về tiền nghiệp của Trưởng lão Sīvali. “Nầy các Tỳ khưu! Cách nay chín mươi mốt đại kiếp có Đức thế Tôn có hồng danh là Vipassī (Tỳ Bà Thi) giáng thế.
Một thuở nọ, sau khi vân du khắp xứ, Ngài trở về thành của phụ vương. Đức vua chuẩn bị cuộc lễ Trai Tăng để cúng dường vật thực đến Tăng chúng có Đức Phật dẫn đầu từ phương xa mới về, sai sứ thông báo cho dân chúng trong thành hay để đến dự lễ cúng dường của nhà vua với tình hữu nghị.
Dân thành vâng lịnh đến dự lễ Trai Tăng của Đức vua xong, cùng nhau quyết định: “Chúng ta sẽ thiết lễ Trai Tăng trọng đại hơn cuộc lễ của Đức vua”. Quyết định xong, cử người đến thỉnh Đức Thế Tôn và Tăng chúng. Rồi cử người đi dâng sớ, cung thỉnh Đức vua đến chia phước với họ.
Đức vua ngự đến, thấy cuộc thí của chúng dân hơn mình, nghĩ rằng: “Trẫm sẽ thiết đãi lễ Trai Tăng trọng đại hơn thế nầy”. Đức Vua lại cung thỉnh Đức Bổn Sư vào hoàng cung thọ thực ngày hôm sau. Trong cuộc thi đua làm phước này, Đức vua không thể đánh bại dân thành, mà dân thành cũng không thắng nổi Đức vua.
Đến lần thứ sáu, dân thành quyết nghị rằng: “Cuộc lễ Trai Tăng của chúng ta tổ chức ngày hôm nay, không được để thiếu món chi cả”.
Sau khi sắp xếp cuộc lễ rồi, họ kiểm soát lại xem còn thiếu món chi chăng, thì thấy không có mật ong tươi.
Mật ong chín thì đã có nhiều. Ban tổ chức đưa bốn ngàn đồng vàng cho bốn người đi kiếm mua mật ong tươi ở bốn cửa thành.
Khi ấy, có người dân quê, đi đến thị trấn để viếng ông thị trưởng, dọc đường gặp một tổ ong, người ấy xông khói để đuổi ong bay đi, rồi chặt nhánh cây có tổ ong mật đem xuống, lấy nhánh cây làm gậy, quảy đi vào thành với ý nghĩ: “Ta sẽ biếu tặng ông thị trưởng”.
Người đi mua tìm mật ong tươi, thấy người dân quê bèn hỏi:
– Chú Hai ơi, mật của chú có bán hay không vậy?
– Thưa ông chủ, tôi không bán.
– Nầy, chú em hãy cầm lấy một đồng vàng rồi cho ta xin mật ấy đi.
Người dân quê suy nghĩ: “Tổ ong nầy giá không đáng một đồng bạt (Pāda), thế mà ông nầy trả một đồng vàng. Có lẽ ông ta có nhiều đồng vàng lắm. Vậy ta phải thách giá mới được”. Thế rồi người dân quê nói với dân thành:
– Tôi không bán với giá một đồng vàng.
– Vậy thì chú em hãy lấy hai đồng nhé ?
– Hai đồng tôi cũng không bán.
Người dân quê thách giá dần lên mãi, sau cùng người dân thành dứt giá:
– Thôi, chú em hãy cầm lấy một ngàn đồng vàng nầy, rồi giao quảy mật cho ta. Khi ấy người dân quê hỏi người mua mật: “Nè ông ông có điên không, hay là không tìm được kho để tích trữ tiền vàng? Chỗ mật này không đáng giá một đồng bạc, mà ông lại trả đến một ngàn đồng vàng, là tại sao?”.
– Tôi biết thế lắm, chú em à! Nhưng vì chúng tôi có việc cần kíp, muốn có mật này nên mới nói như thế.
– Thưa ông chủ, việc chi thế?
– Chúng tôi có sắp đặt cuộc lễ Trai Tăng, cúng dường đến sáu triệu tám trăm ngàn vị Sa môn tùy tùng của Đức Thế Tôn Vipassī, nhưng vì còn thiếu món mật tươi cho nên tôi mới mua với giá như thế.
– Vậy thì thôi! Tôi không bán chác bạc tiền chi cả. Nếu tôi được chia phần phước Trai Tăng thì tôi sẽ giao mật cho ông chủ.
Người mua mật dắt người dân quê vào thành giới thiệu với những thị dân. Dân thành biết được đức tin mạnh mẽ của người dân quê nầy, nên bằng lòng cho hùn phước.
Sau khi cung thỉnh chư Tăng có Đức Phật làm tọa chủ an tọa xong, các thí chủ dâng cúng món điểm tâm cháo và đồ ngọt, kế đến họ cho mang đến cái tô bằng vàng rồi ép lấy mật trong tổ ong ấy.
Lúc ấy có người mang đến tặng một mái (lu lớn) sữa chua (dadhi). Người dân quê lấy sữa chua hòa với chén mật ong tươi, rồi tự mình đem cúng
dường đến tất cả chư Tăng có Đức Phật tọa chủ, từ trên xuống theo thứ tự. Chỉ một chén mật hoà sữa chua mà đem đến cúng dường đến tất cả chư Tăng, chư Tăng thọ lãnh đầy đủ, không thiếu cũng không dư thừa.
Nơi đây, chúng ta không nên thắc mắc về chỗ mật ít, Tăng nhiều thì làm sao dâng cho đủ? Vậy mà đủ được, là do nhờ oai lực của Đức Phật. Phật giới bất khả tư nghì. Có bốn pháp bất khả tư nghì mà Phật giới là một. Ai không tin lời Đức Thế Tôn, cứ suy nghĩ về Phật giới để tìm hiểu thì sẽ điên loạn mà thôi.
Người dân quê tạo được bấy nhiêu nghiệp đó, sau khi mãn tuổi thọ, được sanh lên thiên giới, hưởng hết tuổi thọ chư thiên, lại luân hồi xuống tái sanh làm nhân loại, là vị Hoàng tử trong thành Bārāṇasī (Ba La Nại). Khi phụ vương băng hà, vị Hoàng tử nối nghiệp vua cha, vị tân vương nầy định chiếm đoạt một thành của vua khác, bèn dẫn binh đến vây thành và gửi tối hậu thư cho dân trong thành: “Hãy dưng biểu đầu hàng hoặc là giao chiến”. Dân trong thành gửi thư phúc đáp: “Chúng ta không đầu hàng mà cũng không giao chiến!”. Rồi họ theo lối cửa nhỏ mà ra ngoài thành kiếm củi hoặc là làm công kia việc nọ.
Tân vương đóng quân vây chặt bốn cửa thành lớn trọn bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Khi ấy, bà Thái hậu hỏi: “Nầy vương nhi, con làm việc chi vậy?”.
– Tâu mẫu hậu, việc như vầy… như vầy…
Nghe rõ câu chuyện, bà Thái hậu nói: “Vương nhi trẻ người non dạ, hãy ra lịnh cho binh sĩ đóng hết cửa nhỏ, cắt đứt mọi đường lối giao thông thì thành mới bị cô lập”.
Tân vương vâng lời Thái hậu, đóng bít luôn các cửa nhỏ, dân thành không có lối ra ngoài được, đến ngày thứ bảy nổi loạn, hành thích vua mình rồi dâng biểu đầu hàng.
Vì tạo nghiệp nầy nên sau khi mãn tuổi thọ, Đức vua bị đọa xuống A tỳ Địa ngục (Avīci) bị thiêu đốt trong đó khoảng thời gian mặt đất cao lên thêm một do tuần, do tội đã đóng bít bốn cửa thành nhỏ. Từ địa ngục chết đi, lại đầu thai vào lòng bà mẹ cũ, ở trong bụng mẹ bảy năm, bảy tháng lẻ bảy ngày và nằm ngang sản môn mẹ thêm bảy ngày nữa.
– Nầy các Tỳ khưu, vì tiền kiếp Sīvali đã tạo nghiệp ác là cho vây bốn cửa thành lớn, lại cho đóng chặt bốn cửa thành nhỏ, cho nên bị thiêu đốt trong địa ngục như thế.
Khi đầu thai vào bụng mẹ lại ở đó bảy năm, bảy tháng và bảy ngày. Nhưng nhờ thiện nghiệp là cúng dường mật tươi mà được hưởng quả phú túc vinh quang cùng tột. Qua ngày sau, chư Tăng lại câu hội đề khởi lên câu chuyện nầy: “Ôi phước lộc của ông Sadi thật lạ, phi thường. Một mình ông mà ông đã kiến tạo năm trăm cái nóc nhọn cho năm trăm vị Tỳ khưu”.
Đức Bổn Sư đến hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy họp nhau thảo luận việc chi thế?”.
– Bạch Ngài, việc như vầy… như vầy.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư giải rằng:
– Nầy các Tỳ khưu, đối với con trai Ta không có phước cũng chẳng có tội chi cả, vì đã dứt bỏ cả hai nghiệp thiện và bất thiện rồi.
Nói xong Ngài ngâm lên bài kệ nầy đã được ghi lại trong phẩm Bà la môn:
Yo’dha puññañ ca pāpañ ca,
Ubho saṅgaṃ upaccagā;
Asokaṃ virajaṃ suddhaṃ,
Tam ahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
“Ở đây, người đã vượt khỏi cả hai điều thiện và ác, và các ràng buộc, người không ưu phiền, không ô nhiễm và thanh tịnh, người ấy Như Lai gọi là Bà la môn”.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ai ngờ cậu bé Ly Bà Đa
Đắc quả sau vài ba tháng xuất gia,
Nhập hạ trong rừng Keo hẻo lánh,
Phật thăm, không quản ngại đường xa.
La Hán an cư ở chỗ nào,
Dù là thung lũng hoặc đồi cao,
Xóm làng, đồi núi đều ngoạn mục,
Thánh cảnh, trời người thảy ước ao.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO REVATA Ở RỪNG KEO
----
VII. 10 - Tích PHỤ NỮ GHẸO THIỀN SƯ
(Aññataraitthivatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 99)
“Ramaṇīyāni araññāni,
Yattha na ramatī jano,
Vītarāgā ramissanti,
Na te kāmagavesino”.
“Khả ái thay núi rừng,
Chỗ người phàm không ưa,
Vị ly tham ưa thích,
Vì không tìm dục lạc”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến một phụ nữ nọ.
Tương truyền rằng: Có vị Tỳ khưu hạnh Đầu Đà đi khất thực, sau khi thọ giáo đề mục Chỉ Quán nơi Đức Bổn sư, bèn vào một vườn bách thảo đã bỏ phế, thực hành Sa môn pháp.
Khi ấy có một phụ nữ là gái kỹ nữ nơi thành, đã hẹn hò với tình nhân: “Tôi sẽ đến nơi ấy, nơi ấy… Anh hãy đến nơi đó mà gặp tôi”. Nhưng khi phụ nữ ấy đến chỗ hẹn thì gã nhân tình lại không đến, cô nàng thất vọng đi tới đi lui, rồi đi vào vườn bách thảo, nàng trông thấy vị Trưởng lão đang ngồi kiết già. Cô ả nhìn quanh nhìn quất không thấy ai khác cả, tự nói thầm rằng: “Đây cũng là một thanh niên, ta sẽ giải tỏa tâm chàng nầy”. Thế rồi cô ta đứng ngay trước mặt Trưởng lão, cởi áo choàng ngoài ra rồi mặc lại, nhiều lần như vậy, còn không thì xả tóc ra, bới tóc lại hoặc vỗ tay cười trêu ghẹo.
Trưởng lão sanh tâm kinh cảm, toàn thân đều rởn óc, tự nghĩ: “Cái chi đây vậy?”. Ngay lúc ấy, Đức Bổn Sư dùng Phật nhãn quán xét: “Thầy Tỳ khưu đã đến xin đề mục Chỉ Quán của Ta để hành Sa môn pháp, hiện giờ tiến hóa ra sao?”.
Ngài thấy được nàng kỹ nữ đang lơi lả để quyến rũ vị Tỳ khưu và biết được sự phát tâm kinh cảm của vị Trưởng lão, Ngài vẫn ngồi yên trong hương thất, nói với Trưởng lão rằng: “Nầy Tỳ khưu, chỗ ở không khả ái với những người đi tìm dục lạc như vậy, chính là chỗ ở khả ái của những người xa lánh tình dục (Rāga)”. Rồi Đức Bổn Sư phóng hào quang soi sáng đến Trưởng lão, đồng thời Ngài thuyết pháp rồi ngâm kệ rằng:
“Ramaṇīyāni aranññāni,
Yattha na ramatī jano;
Vītarāgā ramissanti,
Na te kāmagavesino.”
“Lâm tuyền hẻo lảnh xa xôi,
Cảnh La Hán thích, người đời chẳng ưa.
Dục lạc cảnh La Hán chừa,
Mặc cho kẻ thế thích ưa, tầm cầu”.
*
CHÚ GIẢI:
Araññāni: những cánh rừng đáng gọi là khả ái, là những khu rừng non có cây trồng từng khóm, trổ đầy hoa đủ màu sắc, cảnh trí tuyệt đẹp lại có đủ nước trong mát bốn mùa.
Yatthā ti: trong những khu rừng nói trên, theo nghĩa rộng như rừng sen (Padumavana) thì giống ruồi ở làng xóm là con người đi tìm dục lạc không ưa thích.
Vītarāgā: các bậc Lậu tận đã xa lánh tình dục, ưa thích với cảnh núi rừng, giống như những con ong nó ưa thích cảnh rừng sen trên đây vậy. Tại sao?
Na te kāmagavesino: tại vì các bậc ấy không phải là những người đi tìm dục lạc.
*
Cuối thời Pháp, vị Trưởng lão chứng đạt A La Hán quả với Tuệ Phân tích ngay tại chỗ ngồi, rồi bay bổng lên hư không ca ngợi ân đức của Đức Như Lai và đáp xuống đảnh lễ dưới chân Ngài rồi ra đi.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Vườn cây cổ thụ ít người qua,
Hành giả ngồi thiền, bắt Kiết già.
Cô ả đợi mèo, lâu chẳng thấy,
Cợt trêu Trưởng lão hạnh Đầu Đà!
Phật biết nhà Sư phát cảm kinh,
Dạy rằng: Dục lạc, đời ưa thích,
La Hán không theo lối thế tình.
DỨT TÍCH PHỤ NỮ GHẸO THIỀN SƯ
DỨT PHẨM A LA HÁN
----
VIII. PHẨM NGÀN
29 bài kệ: Pháp Cú số 100-128.
14 tích truyện.
----
VIII. 1 - Tích ĐAO PHỦ THỦ NANH ĐỒNG
(Tambadāṭhikacoraghātakavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 100)
“Sahassamapi ce vācā,
Anatthapadasañhitā(1),
Ekaṃ atthapadaṃ seyyo,
Yaṃ sutvā upasammati”.
“Dầu nói ngàn ngàn lời
Nhưng không gì lợi ích
Tốt hơn một câu nghĩa
Nghe xong, được tịnh lạc”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến đao phủ thủ (Coraghātakaṃ) tên Tambadāṭhika (Nanh Đồng).
Tương truyền rằng: Có bốn trăm chín mươi chín tên cướp, chuyên môn làm việc phi pháp nhất là cướp phá xóm làng mà nuôi mạng sống.
Khi ấy, có một thanh niên tráng kiện không bị việc chi ràng buộc, tên là Tambadāṭhika (Nanh Đồng) đi đến gặp bọn cướp và nói: “Tôi cũng muốn chung sống với mấy anh”. Bọn cướp đưa thanh niên vào thưa với đảng trưởng: “Chú nầy ngỏ ý muốn sống chung với bọn ta”.
Chúa đảng cướp nhìn xem tướng thanh niên, nghĩ thầm: “Thằng nầy tướng ác ôn lắm, nó có thể chặt vú mẹ hoặc là cắt cổ cha mà ăn thịt, uống máu”. Chúa đảng nói: “Chúng ta không cần hắn sống chung với chúng ta làm chi cả”. Mặc dù bị chúa đảng không chấp nhận cho vào đảng, gã thanh niên cũng cứ đến hầu hạ, phục dịch lấy lòng tên phó đảng. Tên nầy lại dắt anh ta vào tiến cử với đảng trưởng: “Xin chúa công chấp nhận cho tên nầy vào làm người giúp việc cho chúng ta!”. Vì có lời yêu cầu của phó đảng, đảng trưởng chấp thuận cho thanh niên vào đảng.
Thế rồi, một ngày nọ, dân chúng trong thành hợp lực với đội binh của Đức vua, bắt hết bọn cướp nầy, đưa ra tòa án để luận tội.
Quan tòa đã kết án tử hình cả bọn, ra lệnh cho đao phủ thủ chặt đầu bọn cướp. Nhưng khi hỏi: “Ai chịu giết những tên phạm nhân nầy?”, thì không một ai chịu lãnh mạng giết chết bọn chúng cả. Sau cùng dân chúng bảo tên đầu đảng: “Nếu nhà người chịu giết chết những tên đồng bọn, thì nhà ngươi sẽ được tha cho toàn mạng sống.
Hãy giết chết bọn chúng cho tử tế đi”.
1 Anatthapadasañhitā (theo bản Pāḷi của CSCD/Dhammagiri. India). Tên đầu đảng không chịu giết đồng đảng để mình được còn sống. Dân thành cứ thế mà hỏi hết cả bốn trăm chín mươi chín tên cướp, sau cùng người ta hỏi đến
Tambadāṭhika, thì hắn ta nhận lời: “Được thôi!”. Sau khi giết cả bọn cướp, Tambadāṭhika được tha bổng và được tôn trọng quyền sống như một người dân lương thiện.
Về sau, dân thành hợp lực cùng quân đội của Đức vua, bắt được năm trăm tên cướp nhiễu loạn ở hướng Nam kinh thành, đưa đến quan xử, bọn cướp bị kết án tử hình như trước, dân thành cũng bắt đầu hỏi tên thủ lãnh, đến tên đồng đảng cuối cùng, cũng không tên nào chịu giết đồng đảng của mình cả.
Dân thành nhắc lại: “Lúc trước có người giết hết bốn trăm chín mươi chín tên cướp, bây giờ người đó ở đâu?”.
Có người đáp: “Anh ta đang ở xứ ấy, ta đến thì sẽ gặp thôi”.
Nghe vậy, quan Chánh án ký trát cho mời Tambadāṭhika đến và mọi người đồng yêu cầu: “Hãy giết chết những tên cướp này thì anh sẽ được ban thưởng”.
Tambadāṭhika nhận lời: “Lành thay!”. Và anh ta giết hết bọn cướp, được dân
thành hoan hô nhiệt liệt. Tiếp theo đó dân thành quyết nghị: “Thanh niên nầy có biệt tài chặt đầu kẻ cướp như vậy, chúng ta hãy đề cử anh ta lên giữ chức đao phủ thường trực”.
Tambadāṭhika được mời đến công sở, được ủy nhiệm chức đao phủ thủ và được dân thành tôn trọng.
Tiếp theo đó, năm trăm tên cướp ở hướng Tây, rồi năm trăm tên cướp ở hướng Bắc bị bắt và bị xử tử, đều giao cho một tay Tambadāṭhika hành quyết cả. Đao phủ thủ đã giết tất cả là gần hai ngàn tên cướp từ bốn hướng giải về như thế.
Từ đó về sau, mỗi ngày Tambadāṭhika lai rai chặt đầu một vài người đã bị kết án tử hình và chàng ta hành nghề đao phủ thủ suốt năm mươi lăm năm. Đến khi già yếu, Tambadāṭhika không thể chém một nhát đứt lìa đầu người như trước, có khi phải chém đến ba nhát khiến tội nhân vô cùng đau đớn.
Dân thành nghĩ rằng: “Chắc ta phải tìm một đao phủ thủ mới, chớ ông nầy già
yếu rồi, làm đau khổ tội nhân thái quá. Chúng ta còn lưu giữ ông ta lại làm gì?”.
Thế là, người ta cách chức Tambadāṭhika.
Lúc trước, khi đang còn nghề đao phủ thủ, ông ta không hề hưởng được bốn điều này: một là mặc y phục mới, hai là ăn cháo nấu với bơ trong mới, ba là trang sức bằng những vòng hoa lài và bốn là thoa xức dầu thơm.
Ngày bị ngưng chức, Tambadāṭhika dặn người nhà: “Hãy nấu cháo sữa cho ta
ăn”, rồi ông bảo đem y phục mới, trang điểm với vòng hoa lài, mang dầu thơm ra sông tắm rửa.
Tắm xong, Tambadāṭhika mặc y phục mới, trang điểm vòng hoa lài, thoa dầu thơm khắp mình rồi về ngồi ở nhà. Lúc bấy giờ người nhà đem đến để trước mặt ông cháo sữa nấu với bơ trong mới cùng với nước rửa tay.
Ngay trong sát na ấy, Trưởng lão Sāriputta vừa xuất khỏi Thiền Diệt (Samāpatti), quán xem hôm nay mình phải đi khất thực ở nơi nào? Thấy món cháo sữa của Tambadāṭhika, Trưởng lão tự hỏi: “Người nầy sẽ hộ độ cho ta hay không?”.
Trưởng lão quán thấy: “Sau khi thấy ta, Tambadāṭhika sẽ cúng dường cháo sữa đến ta và y sẽ được phước báu lớn”. Hiểu rõ như thế rồi, Trưởng lão đắp y mang bát đến đứng ngay trước cửa nhà của Tambadāṭhika để cho gia chủ nhìn thấy.
Tambadāṭhika trông thấy Trưởng lão liền phát sinh tâm tịnh tín, nghĩ thầm: “Ta hành nghề đao phủ thủ đã lâu năm, chém giết rất nhiều người rồi, hôm nay trong nhà ta có sẵn cháo sữa và trước cửa nhà ta có vị Trưởng lão đứng chờ, bây giờ ta phải cúng dường cho Trưởng lão mới được”.
Tambadāṭhika dèn dẹp món cháo sữa qua một bên, ra đảnh lễ thỉnh Trưởng lão vào ngồi trong nhà, sớt cháo sữa vào bát, rưới thêm bơ trong mới, rồi đứng hầu quạt Trưởng lão. Vì đã lâu không dùng món cháo sữa, Tambadāṭhika cảm thấy thèm ăn dữ lắm. Trưởng lão biết tâm trạng của ông ta, bèn bảo: “Nầy gia chủ, ông hãy độ phần cháo của ông đi”.
Tambadāṭhika liền trao quạt qua tay người khác, rồi đi dùng món cháo sữa của mình.
Trưởng lão lại bảo người quạt hầu rằng: “Hãy đi qua hầu gia chủ ấy đi”.
Được quạt hầu, Tambadāṭhika độ cháo đầy bụng rồi lại đứng hầu quạt Trưởng
lão. Chờ Trưởng lão độ xong cháo, thỉnh bát đem đi rửa.
Trưởng lão tụng kinh chúc phúc cho thí chủ, nhưng thí chủ không thể đưa tâm
mình theo dõi lời Pháp của Trưởng lão thuyết, Trưởng lão suy nghĩ rồi hỏi: “Nầy gia chủ, tại sao ông không thể đưa tâm an tịnh để theo dõi Pháp thoại được như vậy?”.
– Bạch Ngài, vì tôi hành nghề thô bạo đã lâu năm, giết chết rất nhiều người, tôi mãi nhớ đến hành vi ấy của mình, nên không thể đưa tâm theo dõi lời Pháp của Trưởng lão thuyết.
Trưởng lão tự nghĩ: “Ta phải gạt ông nầy”. (Vañcessāminanti) rồi hỏi rằng: “Ông có tự ý mình vui thích việc ấy, hay bị người khác sai bảo ông làm?”.
– Bạch Ngài, Đức vua ra lệnh cho tôi làm.
– Vậy thì, nầy Thiện nam, ông có làm chi bất thiện đâu.
Gia chủ Tambadāṭhika vốn tư chất đần độn, nghe Trưởng lão nói như vậy, tự cho là mình chẳng có điều chi bất thiện cả, nên mừng rỡ nói: “Nếu vậy, xin Ngài hãy thuyết pháp”.
Trong khi Trưởng lão tụng kinh chúc phúc thì Tambadāṭhika định được nhất tâm, nghe Pháp đắc Tu Đà Hườn đạo, rồi tiếp theo đó phát sinh tâm nhẫn nại.
Sau khi chúc phúc xong, Trưởng lão ra đi, ông Tambadāṭhika tiễn chân Trưởng lão một khoảng đường, rồi quay lại trở về. Một nữ Dạ xoa nhập vào một con bò cái, chạy đến húc vào ngực Tambadāṭhika khiến ông ngã xuống chết ngay. Sau khi chết, ông được tái sanh vào cõi trời Đâu Suất.
Các Tỳ khưu câu hội cùng nhau tại giảng đường đề khởi câu chuyện nầy: “Ông đao phủ đã hành nghề thô bạo trong năm mươi lăm năm, mới nghỉ việc hôm nay để bát cho Trưởng lão Sāriputta rồi chết ngay, không biết tái sanh về đâu?”.
Đức Bổn Sư ngự đến hỏi: “Nầy các Tỳ khưu! Hôm nay các thầy bàn luận về vấn đề gì?”.
– Bạch Ngài, về việc như vầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư dạy: “Nầy các Tỳ khưu, ông ta đã sanh lên cõi Đâu Suất Đà Thiên”.
– Bạch Ngài nói sao? Có phải sau khi giết chết bấy nhiêu nhân mạng, trong bấy nhiêu lâu, ông ta được tái sanh lên cung trời Đâu Suất chăng?
– Phải đó, nầy các Tỳ khưu, may nhờ gặp được một bậc Hiền trí vĩ đại, ông ta
nghe Pháp của Đức Sāriputta nên đã hồi tâm, đắc được Pháp nhãn. Sau khi lìa đời được sanh lên Đâu Suất Đà Thiên.
Nói rồi, Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:
Subhāsitaṃ suṇitvāna,
Nagare coraghātako;
Anulomakhantiṃ laddhāna,
Modati tivivaṅgatoti”.
Sau khi được nghe lời kinh khéo giảng, ông đao phủ thủ trong thành phố, chứng được Pháp nhãn hợp thời, hoan hỷ mà đi về Thiên giới.
– Bạch Ngài, kinh chúc phúc không đủ mãnh lực đối với tổng số lớn lao các
nghiệp bất thiện của ông ta. Tại sao chỉ có bấy nhiêu đó mà ông hồi tâm giác ngộ được Chánh Pháp?
– Nầy các Tỳ khưu, Pháp của Ta thuyết dầu ít hay nhiều, chớ có so bì số lượng.
Quả thật vậy, chẳng thà chỉ nói một lời mà hữu ích, còn hơn là ngàn câu, ngàn lời mà vô ích.
Rồi Đức Bổn Sư thuyết pháp tóm tắt và ngâm kệ rằng:
“Sahassamapi ce vācā,
Anatthapadasañhitā,
Ekaṃ atthapadaṃ seyyo,
Yaṃ sutvā upasammati”.
“Dầu cho nói đến ngàn câu
Toàn lời vô nghĩa thì đâu ích gì?
Thà lời chí lý, thích nghi,
Một câu nghe cũng đoạn ly khổ sầu”.
*
CHÚ GIẢI:
Sahassamapi: dầu cả ngàn lời nói ra, nếu tính số nhiều từ một ngàn đến hai ngàn lời nói như vậy, mà toàn là lời nói vô ích, chẳng hạn như lời nói giải về vũ trụ, về núi non, về rừng rú… Những câu nói vô ích vì không phải là những câu nói là đuốc soi đường đi Níp Bàn, thì dầu có nói bao nhiêu cũng chỉ dẫn đến nơi tội ác.
Ekaṃ atthapadaṃ: một lời nói hữu ích, như câu: “Người có thân, niệm thân trược thì đắc Tam Minh, là đã làm xong lời dạy của chư Phật”. Khi được nghe một câu hữu ích rồi, thính giả làm cho lắng dịu các pháp bất thiện nhất là tình dục, bằng chứng của sự hữu ích ấy là làm cho các Pháp sáng tỏ các pháp liên hệ với Níp Bàn như Ngũ uẩn (Khandha), Tứ đại (Dhātu), Thập nhị xứ (Āyatana), Ngũ quyền (Indriya), Ngũ lực (Bala), Thất giác chi (Bhojjhanga), Tứ niệm xứ (Saṭipatthāna). Thà chỉ một lời nói như thế, nghe xong cũng được an vui.
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Làm nghề chém cổ cướp nhiều năm,
Kẻ ác còn dư chút thiện tâm,
Thấy Pháp Chủ vừa ra Đại định,
Cúng dường cháo sữa một phần mâm.
Nhờ duyên bố thí đầy đủ chi,
Sơ quả chứng liền, dứt ngại nghi,
Đâu Suất được về an hưởng phước,
Mặc cho bò húc rã thây thi…
DỨT TÍCH ĐAO PHỦ THỦ NANH ĐỒNG
----
VIII. 2 - Tích TRƯỞNG LÃO BA HÍ DÁ MẶC Y VỎ CÂY
(Bāhiyadārucīriyattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 101)
“Sahassamapi ce gāthā,
Anatthapadasañhitā,
Ekaṃ gāthāpadaṃ seyyo,
Yaṃ sutvā upasammati”.
“Dầu nói ngàn câu kệ
Nhưng không gì lợi ích
Tốt hơn nói một câu
Nghe xong, được tịnh lạc”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Bāhiyadārucīriya (Ba Hí Dá Mặc Y Vỏ Cây).
Một thời nọ, có nhiều người ngồi thuyền vượt ra biển khơi, đến giữa đại dương, thuyền bị sóng đánh vỡ, tất cả đều chết chìm làm mồi cho cá và rùa. Nhưng còn một người sống sót nhờ vớ được tấm ván, ráng sức lội mãi, thời may tấp vào một bãi cát tại cảng tên là Suppāraka (Súp Pa Rá Ká). Lúc bấy giờ, nạn nhân không còn quần áo chi cả, không tìm thấy được thứ chi khác, anh bèn lấy cành cây khô, tước vỏ soắn lại làm chỉ đan thành y phục để mặc đỡ che thân cho khỏi bị lõa lồ, rồi lượm cái bát của chư thiên (vỏ sò) đi vào hải cảng Suppāraka để khất thực.
Dân chúng thấy người hành khất nầy, cho là vị A La Hán nên tôn trọng cúng dường cháo cơm đầy đủ. Khi có người tặng anh y phục bằng vải thì anh ta từ chối, chỉ đắp bằng thứ y phục vỏ cây mà thôi, vì nghĩ rằng: Nếu ta mặc y phục vải nầy, ta sẽ bị giảm bớt sự tôn trọng cúng dường của dân chúng đi chăng.
Khi ấy, có vị chư thiên trong tiền kiếp đã từng kết nghĩa bạn bè với vị khất sĩ mặc y vỏ cây nầy. Nay thấy bạn cũ thì nghĩ rằng: “Khi bạn ta được nghe mọi người tôn xưng là A La Hán, y đã khởi lên Tà kiến ‘nếu có người nào đắc A La Hán hoặc là chứng A La Hán đạo, thì ta là một trong những vị A La Hán đó’, ta nên nhắc nhở bạn ta”.
Câu chuyện kết nghĩa trong tiền kiếp để hành Sa môn Pháp đã diễn tiến như vầy. Theo truyền thuyết thuở xưa, trong thời mà Giáo Pháp của Đức Thập lực Kassapa (Ca Diếp) đã mạt, có bảy vị Tỳ khưu trông thấy việc làm phi Pháp của chư Tỳ khưu, nhất là các vị Sadi thì phát sanh tâm kinh cảm, đồng phát nguyện đem hết sức của mình hành đạo để duy trì Giáo Pháp không cho tiêu hoại.
Sau khi đảnh lễ Bảo tháp vàng thờ Xá lợi của Đức Phật, bảy vị ấy vào rừng trông thấy một ngọn núi cao, bèn rủ nhau: “Ta hãy là người vô dục (Niralayā), chối bỏ tất cả sự luyến tiếc mạng sống. Ta hãy trèo lên núi nầy hành đạo”.
Nói rồi, bảy vị Tỳ khưu kiếm cây buộc làm cái thang trèo lên đỉnh núi, rồi xô bật cái thang, nguyện ở lại nơi đó hành Sa môn Pháp. Trong bảy vị, vị Trưởng lão cao hạ nhất chỉ qua một đêm đã đắc quả A La Hán.
Ngài bay đến hồ Thiên Lãnh (Anottatta) ở Hy Mã Lạp Sơn rửa mặt, súc miệng xong, bay qua xứ Bắc Câu Lưu Châu khất thực xong mang về, gọi chư Tỳ khưu bạn: “Nầy các đạo hữu, hãy lấy dây trầu (māgalatā) nầy đánh răng, súc miệng, rửa mặt đi, rồi độ những vật thực nầy”. Chư Tăng không muốn độ, hỏi rằng:
– Bạch Ngài, sao Ngài lại bảo vậy. Chúng ta có giao ước với nhau: “Vị nào đắc quả A La Hán đầu tiên, thì phần cơm bát đầu tiên của vị ấy, các vị kia sẽ thọ thực” hay không?
– Không có như vậy đâu, này các đạo hữu.
– Như vậy thì, nếu chúng tôi giác ngộ Níp Bàn, chúng tôi sẽ tự mình đi bát về mà độ.
Qua ngày thứ hai, vị Trưởng lão thứ hai đắc quả A Na Hàm, Ngài cũng bay đi khất thực, mang bát vật thực về mời các bạn kia như vị trước, các Tỳ khưu ấy không chịu độ, đáp rằng:
– Bạch Ngài, sao Ngài bảo vậy? Chúng ta có giao ước với nhau: “Phần cơm của vị Đại Trưởng lão mang về không được độ, chúng ta sẽ độ phần cơm của Ngài Trưởng lão thứ hai chăng?”.
– Không có như vậy, này các hiền hữu.
– Như vậy, chúng tôi phải ráng hành đạo cho giác ngộ như Ngài rồi mỗi người sẽ độ phần cơm của mình tự lực kiếm được mà thôi.
Sau đó, vị đắc A La Hán thì diệt độ, vị A Na Hàm thì tái sanh về Phạm thiên giới, còn năm vị kia không chứng đắc Níp Bàn, bị đói kiệt quệ như cánh hoa tàn, đến ngày thứ bảy thì chết sanh lên thiên giới.
Trong thời Đức Phật hiện tại giáng sanh, năm vị thiên nhân tái sanh vào năm gia tộc có danh giá. Một vị là Đức vua Pukkusati (Púk Kú Sa Tí), một vị là công tử Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử), một vị là khất sĩ Bāhiyadārucīriya (Ba Hí Dá Mặc Y Vỏ Cây), một vị là công tử Dabba Mallaputta (Đáp Bá Man Lá Pút Tá) và một vị nữa là du sĩ Sabhiya (Xá Phí Dá). Còn vị phạm thiên A Na Hàm, chính là thiên nhân đang muốn trợ giúp cho Bāhiyadārucīriya.
Vị phạm thiên nầy suy nghĩ: “Vị nầy cùng với ta trong tiền kiếp đã từng cột thang, bắt trèo lên núi hành Sa môn Pháp. Bây giờ lại chấp giữ tà thuyết (Laddhi) nầy, sợ e lâu ngày sẽ hư hỏng. Ta phải nhắc nhở bạn ta kinh cảm mới được”.
Thế rồi, vị phạm thiên đến gần vị khất sĩ bảo rằng:
– Nầy ngoại đạo Bāhiya, ông chưa đắc quả A La Hán, mà cũng chưa đắc đạo A La Hán nữa, ông không có hành đạo (Paṭipadā) thì bao giờ mới đắc quả hoặc là đắc đạo A La Hán được chứ?
Du sĩ Bāhiya nhìn lên thấy vị Đại Phạm thiên đứng giữa hư không mà nói chuyện với mình thì tự nghĩ: “Chao ôi! Nặng thay là nghiệp mà ta đã tạo! Ta đã tự phụ cho mình là A La Hán. Nay ông nầy nói với ta: ‘Ông chưa đắc đạo quả A La Hán’, vậy trong thế gian nầy có vị Sa môn nào ở rừng là vị A La Hán chăng?”
Vị khất sĩ bèn hỏi Đại Phạm thiên: “Hiện nay trên thiên giới hoặc ở cõi nhân gian này, có những vị nào đắc quả A La Hán hoặc là đắc đạo A La Hán không?
Vị phạm thiên chỉ dạy rằng:
– Nầy Bāhiya, trong quốc độ miền Bắc có thành Sāvatthī (Xá Vệ), là nơi Đức Thế Tôn đang ngự. Ngài là bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Nầy Bāhiya, chẳng những Ngài là bậc Thế Tôn đã đắc A La Hán, mà Ngài còn thuyết pháp dạy đệ tử đắc A La Hán nữa.
Ngoại đạo Bāhiya đang đêm, nghe lời mách bảo của vị thiên nhân bạn cũ, thì phát tâm kinh cảm (Saṃviggamānaso), liền lập tức rời hải cảng Suppāraka, đi suốt đêm đến thành Sāvatthī, theo người ta nói: Sỡ dĩ trong khoảng đường xa một trăm hai mươi do tuần mà Bāhiya vượt qua chỉ trong một đêm như thế là nhờ oai lực của vị phạm thiên và của Đức Phật.
Khi Bāhiya vừa đến nơi thì Đức Bổn Sư đã vào thành Sāvatthī khất thực, gặp nhiều vị Tỳ khưu đang đi kinh hành ở ngoài sân trống để cơ thể hết rã rượi sau buổi điểm tâm, ông bèn hỏi: “Đức Tôn Sư bây giờ ở đâu?”
Chư Tăng đáp: “Ngài đã ngự vào thành Sāvatthī để khất thực rồi”. Chư Tăng lại hỏi: “Còn thầy từ đâu đến đây?”
– Tôi từ hải cảng Suppāraka đến.
– Thầy đi từ bao giờ?
– Tôi khởi hành từ tối hôm qua.
– Thầy từ xa đến, hãy ngồi xuống rửa chân thoa dầu đã, hãy nghỉ khỏe một chút, khi nào Đức Bổn Sư trở về rồi hãy đến yết kiến Ngài.
– Bạch các Ngài, tôi không biết có chi tai hại xảy ra cho mạng sống của Đức Bổn Sư hoặc của tôi hay không, cho nên trọn cả một đêm, tôi không vì lẽ gì mà đứng lại hoặc ngồi xuống, trừ ra khi tôi đã vượt cả lộ trình một trăm hai mươi do tuần để được gặp mặt Đức Thế Tôn rồi, tôi mới nghỉ ngơi.
Nói như thế rồi, Bāhiya vội vàng đi luôn vào thành Sāvatthī. Trông thấy Đức Bổn Sư đang ngự đi trì bình với tướng hảo quang minh vô tỷ của một vị Chánh Đẳng Giác. Ông nói thầm: “Quả thật, đã lâu lắm rồi, bây giờ ta mới được gặp Đức Chánh Biến Tri Gotama (Cồ Đàm)!”
Từ chỗ trông thấy Đức Bổn Sư, Bāhiya cúi rạp người xuống giữa đường, gieo cả năm vóc xuống đất đảnh lễ Ngài, nắm chặt hai mắt cá chân Ngài mà nói:
– Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài thuyết pháp cho con nghe. Bạch Đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp nào làm cho con được tấn hóa, được an vui lâu dài.
Khi ấy, Đức Bổn Sư khước từ, đáp rằng: “Nầy Bāhiya, bây giờ không phải thời, trong khi Ta đang đi bát giữa đường”.
Nghe vậy, Bāhiya van nài:
– Bạch Ngài, trong vòng luân hồi chuyển kiếp, hạng người đi khất thực không định trước được bát cơm của thí chủ, con không thể biết trước được sự tai hại sắp xảy đến cho mạng sống của Ngài hay mạng sống của con. Bởi vậy, con xin Ngài thuyết pháp cho con nghe.
Lần thứ hai, Đức Bổn Sư lại từ chối, có lời rằng: Đức Bổn Sư nghĩ: “Bāhiya này từ khi thấy Ta, khắp cả châu thân tràn đầy hỷ lạc, tâm đang bị hỷ lạc mãnh liệt chi phối, dầu có nghe Pháp cũng không thể lãnh hội. Hãy chờ lúc tâm thầy trở lại trạng thái quân bình là Xả. Vả lại, chỉ trong một đêm mà thầy vượt qua đoạn đường xa một trăm hai mươi do tuần đến tận nơi nầy, tâm còn bứt rứt. Ta phải để cho thầy ổn định đã”.
Do lẽ đó, Đức Bổn Sư từ chối hai lần.
Bāhiya khẩn cầu đến lần thứ ba, mặc dầu đang đứng giữa đường, Đức Bổn Sư thấy đã đến thời, nên Ngài thuyết pháp dạy rằng:
– Nầy Bāhiya! Ông nên học tập như vậy ba lần:
Diṭṭhi diṭṭhamattaṃ bhavissati;
Sute sutamattaṃ bhavissati,
Mute mutamattaṃ bhavissati,
Viññāṇe viññātamattaṃ bhavissati”.
“Trong Kiến, Văn, Giác, Tri
Chỉ có Kiến, Văn, Giác, Tri mà thôi”.
Được nghe Đức Bổn Sư thuyết pháp nầy, Bāhiya đương nhiên dứt hết Lậu hoặc, đắc quả A La Hán với Tuệ phân tích, liền ngỏ lời với Đức Thế Tôn cho mình được xuất gia.
Ngài hỏi:
– Ông đã có đủ cả y bát chưa?
– Bạch Ngài, con chưa có đủ.
– Vậy thì, ông hãy lo cụ bị cho đủ y bát đi.
Nói rồi, Ngài đi luôn.
Theo truyền thuyết, thời quá khứ Bāhiya đã từng hành Sa môn Pháp đến hai muôn ngàn năm, giữ đúng hạnh Tỳ khưu và chỉ thọ dụng tứ vật dụng tự mình tìm được, chớ không dòm ngó đến của vị khác, ông không hề tiếp độ y hoặc bát cho một vị Tỳ khưu nào cả. Do biết rằng: Y bát do thần thông lực phát sanh không có đến Bāhiya nên Đức Bổn Sư đã không cho ông xuất gia “Thiện lai Tỳ khưu” (Ehi bhikkhu). Trong khi ông đang đi tìm y bát để chuẩn bị xuất gia thì một nữ dạ xoa dưới hình thể một con bò chạy đến húc vào hông bên trái và chấm dứt mạng sống của ông.
Đức Bổn Sư ngự vào thành khất thực, thọ thực xong rồi, cùng nhiều Tỳ khưu trở ra ngoài thành, thấy xác Bāhiya nằm một nơi đầy rác rến, Ngài gọi các Tỳ khưu và bảo rằng:
– Nầy các Tỳ khưu, hãy đến đứng trước cửa một nhà thiện tín, kêu họ mang giường nhỏ, chở xác này ra ngoài thành hỏa táng, thiêu xong hãy lập Thánh tháp thờ xá lợi.
Các Tỳ khưu làm đúng theo lời của Đức Bổn Sư dặn, rồi trở về chùa báo cho Ngài biết là công việc mình đã làm xong. Kế đó, chư Tăng hỏi về hậu lai của Bāhiya.
Sau khi chỉ dạy cho chư Tăng biết rằng Bāhiya đã Vô Dư Níp Bàn. Đức Bổn Sư nói tiếp:
– Nầy các Tỳ khưu! Các Tỳ khưu Thinh Văn của Ta giác ngộ mau lẹ quả vị tối cao nào, thì ngoại đạo Bāhiyadārucīriya (Ba Hí Dá Mặc Y Vỏ Cây) nầy cũng đạt đến quả vị tối cao đó.
Chư Tăng ngạc nhiên hỏi:
– Bạch Ngài, Ngài nói ngoại đạo Bāhiyadārucīriya (Ba Hí Dá Mặc Y Vỏ Cây) đắc quả A La Hán. Ông ta đắc quả A La Hán hồi nào?
– Nầy chư Tỳ khưu, khi nghe Ta thuyết pháp.
– Bạch Ngài, Ngài có thuyết pháp lúc nào đâu?
– Trong khi trì bình, lúc Ta đã dừng chân lại giữa đường đó!
– Bạch Ngài, khi đứng giữa đường, Ngài thuyết pháp quá ít mà! Làm sao chỉ nghe có bấy nhiêu đó mà ông ấy giác ngộ Níp Bàn?
Khi ấy, Đức Bổn Sư giải thích rằng:
– Này các Tỳ khưu! Pháp của Như Lai thuyết dầu ít hoặc nhiều, chớ có tính bằng số lượng. Quả vậy, dầu cho có thuyết hằng ngàn câu kệ vô ích thì cũng chẳng làm gì!
Thà là chỉ thuyết một câu kệ hữu ích còn quý hơn.
Đức Thế Tôn thuyết pháp giảng giải thêm rồi kết luận bằng bài kệ nầy:
“Sahassamapi ce gāthā,
Anatthapadasañhitā,
Ekaṃ gāthāpadaṃ seyyo,
Yaṃ sutvā upasammati”.
“Dầu cho tụng đến ngàn câu.
Toàn kệ vô nghĩa thì đâu ích gì?
Thà kệ chí lý, thích nghi,
Một câu nghe cũng đoạn ly khổ sầu”.
*
CHÚ GIẢI:
Ekaṃ gāthāpadaṃ: một câu kệ như: Appamādo amataṃ padaṃ (Cần chuyên là lộ trường tồn… Yathā matāti (Kẻ buông lung sống lâm chung khác nào) một câu kệ như thế thì quý hơn.
Phần còn lại lý giải như câu kệ trước.
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng Thánh quả như Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ngoại đạo đón đường hỏi Phật Đà”
“Pháp nào tu chứng Tuệ cao xa?”
Phật rằng: “Trong Kiến, Văn, Tri, Giác,
Hãy giữ tâm Không, chớ chấp ta!”
Ba Hí Dá liền chứng Vô sanh,
Nhờ duyên tiền kiếp đã tu hành.
Bị bò húc chết, thây nằm đó,
Khó biết tâm ông, Đạo quả thành!
Phật dạy chư Tăng hãy trà tỳ,
Thiêu ông ngoại đạo đủ uy nghi,
Như A La Hán Thinh Văn vậy,
Đó thật Tỳ khưu thiếu bát y!
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO BA HÍ DÁ MẶC Y VỎ CÂY
----
VIII. 3 - Tích TỲ KHƯU NI TÓC QUĂN
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 102-103)
102. “Yo ca gāthāsataṃ bhāse,
Anatthapadasañhitā(1);
Ekaṃ dhammapadaṃ seyyo,
Yaṃ sutvā upasammati”.
103. “Yo sahassaṃ sahassena,
Saṅgāme manuse jine;
Ekañca jeyyamattānaṃ,
Sa ve saṅgāmajuttamo”.
“Dầu nói trăm câu kệ
Nhưng không gì lời ích,
Tốt hơn một câu Pháp,
Nghe xong, được tịnh lạc”.
“Dầu tại bãi chiến trường,
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Sư Cô Tóc Quăn (Kuṇḍalakesī).
Tương truyền: Trong thành Rājagaha (Vương Xá) có một nàng tiểu thư con nhà Bá hộ, tuổi vừa hai tám, nhan sắc tuyệt đẹp, khi con gái đến tuổi dậy thì, tình xuân lai láng chớm mộng, thường có ý kiếm chồng. Ông bà Bá hộ cắt một cô tỳ nữ theo giữ gìn, vừa hầu hạ phục vụ tiểu thư và cho hai chủ tớ ở trong một căn phòng sang trọng trên tầng chót của tòa lâu đài bảy tầng.
Khi ấy có một chàng thanh niên con nhà tử tế (Kulaputta) lại hành nghề trộm cướp, bị dân chúng bắt trói thúc ké hai tay sau lưng, dẫn đến pháp trường hành quyết. Đến mỗi ngã tư đường, cậu ta bị dân chúng dùng roi đánh đập.
Tiểu thư nghe tiếng ồn ào của dân chúng tự hỏi: “Cái gì vậy?”. Đứng trên lầu nhìn xuống thấy chàng trai, tiểu thư phát tâm ái luyến, bỏ cả cơm nước nằm liệt giường.
Bà Bá hộ hỏi tiểu thư: “Con ơi! Con đau làm sao vậy?”.
– Nếu con được lấy chồng là chàng thanh niên bị buộc tội trộm cướp và bị dẫn đi đó, thì con sẽ còn sống. Bằng không chắc mạng căn của con sẽ tuyệt, con sẽ chết tại đây cho mẹ coi.
– Con chớ làm như thế. Con muốn có chồng thì để cha mẹ định đôi gả lứa, kiếm nơi môn đăng hộ đối với nhà ta mà kết sui gia. Con sẽ lấy được người khác làm chồng.
– Con không ưng chồng nào khác cả. Nếu không được chàng trai nầy thì nhất định con sẽ chết.
Thuyết phục con gái mình không được, bà Bá hộ báo tin cho chồng biết, ông cũng khuyên nàng không được. Cuối cùng, ông tự nghĩ: “Phải làm gì mới được đây?”.
1 Anatthapadasaṃhitā (theo bản Pāḷi của CSCD/Dhammagiri. India).
Ông sai người nhà cầm ngàn đồng vàng, ra đón đường người lính giải tội, để hối lộ và xin phóng thích tội nhân. Người lính chấp nhận, nhận tiền rồi thả chánh phạm ra và giết chết một tội nhân khác để thế mạng, rồi gởi sớ tâu với Đức vua là tên cướp đã bị hành quyết rồi.
Ông Bá hộ lãnh tên cướp về giao cho tiểu thư.
Muốn làm đẹp lòng chồng, tiểu thư tự mình trang điểm với tất cả nữ trang và lo việc cơm nước cho chồng hết sức chu đáo. Nhưng qua mấy ngày sau, tên cướp khởi manh tâm: “Phải giết con này ở đâu để lấy những nữ trang này đem bán ở quán rượu rồi ăn nhậu cho thỏa thích”. Anh ta lập mưu, từ chối cơm, cháo, nằm liệt giường. Tiểu thư ân cần hỏi chồng: “Anh bị bệnh gì chăng?”.
– Không có bệnh chi cả em à!
– Hay là anh buồn giận cha mẹ em?
– Anh cũng không có buồn giận, em à!
– Nếu vậy anh có tâm sự gì thế?
– Em ơi, trong khi bị bắt dẫn đi, anh có van vái chư thiên ngự nơi vực thẳm, chỗ tử hình (Corappapāte) nên mới được toàn mạng sống. Vả lại, anh được lấy em làm vợ đây, cũng nhờ oai lực của chư thiên. Cho nên anh suy nghĩ: “Phải làm sao trả lễ cúng tế chư thiên đó em à!”.
– Anh ơi! Anh đừng quá lo âu. Để rồi chúng ta sẽ cúng tế trả lễ chư thiên. Anh cho em biết mình cần những thứ gì?
– Cơm sữa nấu với mật ong và ít nước, cùng với ngũ cốc và hương hoa, có vậy
thôi.
– Lành thay! Anh ơi, để em lo sắm sửa đủ lễ vật rồi chúng mình sẽ cùng đi cúng tế.
– Vậy thì, em ơi, em hãy bảo thân quyến lui về hết đi. Còn em hãy mặt y phục và đeo những món trang sức quý giá, rồi cười giỡn và chúng mình sẽ lên đường.
Tiểu thư làm y theo lời chồng bảo.
Khi tới chân núi, tên cướp bảo tiểu thư:
– Em ơi! Từ đây trở đi chúng mình chỉ nên đi hai người thôi. Còn những người khác em hãy cho họ ngồi xe trở về, một mình em tự đội lấy mâm lễ vật.
Tiểu thư làm theo lời chồng dặn, đội mâm lễ vật trèo lên núi, chỗ xử tử bọn cướp (Corappapāta). Núi nầy có hai mặt: một mặt có lối đi, người ta theo đó mà lên núi, còn một mặt đứt chân (Chinnatalaṃ), người ta đứng trên chót núi xô kẻ cướp bị tử hình xuống mặt đó, rơi tới đất là tan xương nát thịt, cho nên nó có tên gọi là vực thẳm xử tử bọn cướp.
Tiểu thư lên đến chót núi rồi, đứng lại bảo chồng:
– Anh hãy cúng tế lễ vật đi!
Tên cướp làm thinh, tiểu thư lại hỏi: “Sao anh lại làm thinh vậy?”.
Nghe giục, tên cướp đáp: “Ta cóc cần cúng tế, ta chỉ nói gạt dụ nàng đến đây mà thôi”.
– Để làm chi thế anh?
– Để giết nàng cướp đoạt trang sức của nàng mà tẩu thoát.
Bấy giờ tiểu thư, bị hăm dọa sợ chết, năn nỉ tên cướp:
– Anh ơi! Cả thân em và những đồ trang sức nầy đều thuộc quyền sở hữu của anh, sao anh lại nói như thế?
Mặc dù tiểu thư nhiều lượt van xin tên cướp: “Anh đừng làm vậy”. Hắn ta cũng nằng nặc quyết một: “Ta phải giết nàng”.
Tiểu thư lại đề nghị: “Thôi anh à, anh khỏi cần giết em làm chi, anh hãy lấy những nữ trang nầy và dung tha mạng sống cho em. Từ giờ trở đi, anh hãy xem như em đã chết rồi. Em nguyện làm nô lệ cho anh”. Nói rồi tiểu thư ngâm kệ rằng:
“Ime suvaṇṇakeyūrā,
Sabbe veḷuriyā mayā
Sabbañca gaṇha bhaddante,
Mamaṃ dāsiñca sāvayāti”.
“Những xuyến vàng nầy, tất cả đều cẩn bằng ngọc bích, anh hãy lấy hết đi. Anh ơi, anh hãy gọi em là nữ nô lệ của anh”.
Nghe vậy tên cướp nói: “Nếu để nàng sống, nàng ta sẽ đi thông tin với cha mẹ nàng, ta phải giết nàng mới được. Nàng đừng khóc than cho lắm vô ích”.
Nói rồi, hắn ngâm kệ ngôn:
“Mā bāḷhaṃ paridevesi,
Khippaṃ bhaṇḍakaṃ bandhāhi;
Na tuyhaṃ jītvitaṃ atthi,
Sabbaṃ gaṇhāmi bhaṇḍakanti”.
“Nàng đừng khóc than chi nhiều, hãy mau mau bó buộc các đồ tư trang. Tuổi thọ của nàng đã hết, ta sẽ lấy tất cả tư trang của nàng”.
Tiểu thư tự nghĩ: “Than ôi, nghiệp của anh nầy quá nặng. Lẽ thường bậc trí tuệ không muốn dùng vật thực chưa được nấu chín. Ta phải dục hoãn cầu mưu, suy tư cho ra phương kế đối phó với anh ta mới được”.
Thế rồi, tiểu thư nói với tên cướp:
– Anh ơi! Khi anh bị bắt vì tội trộm cướp và bị giải đi, em bày biểu cha mẹ xuất ra ngàn đồng vàng để lo cho anh được thả ra và dắt anh về nhà tạo lập gia thất cho anh. Từ đó về sau, em là người nội trợ của anh. Hôm nay anh hãy niệm tình cho em được phép nhìn rõ mặt anh một lần cuối cùng và bái biệt anh.
Tên cướp đồng ý: “Lành thay, em hãy nhìn kỹ và đảnh lễ đi”. Nói rồi, hắn đứng ngay bên bờ vực thẳm trên chóp núi. Tiểu thư nhiễu quanh người chồng bất nghĩa ba vòng, đến vòng thứ tư, nàng quỳ xuống đảnh lễ và nói:
– Anh ơi, đây là lần cuối cùng anh còn thấy em. Bây giờ em không còn dịp gặp anh cũng như anh không còn dịp gặp em nữa.
Sau khi giả vờ ôm chồng hôn từ phía trước mặt rồi tới sau lưng. Tiểu thư đứng tại mép núi phía sau tên cướp, một tay nắm mình, một tay nắm dây lưng hắn ta, kéo ngược hắn ngã nhào xuống vực thẳm. Xác của hắn bị va vào sườn núi, nát ra manh mún mới tới đất.
Vị chư thiên trấn trên đỉnh núi, chỗ xử tử bọn cướp, thấy rõ hành động của cặp vợ chồng này, bèn ngâm kệ ngôn tán dương phụ nữ ấy rằng:
“Na so sabbesu ṭhānesu,
Puriso hoti paṇḍito;
Itthīpi paṇḍitā hoti,
Tattha tattha vicakhaṇāti”.
“Không phải đàn ông luôn luôn là bậc hiền trí ở khắp mọi nơi, phụ nữ đôi khi ở đây đó cũng tỏ ra là bậc hiền trí nữa”.
Sau khi xô tên cướp rơi xuống vực thẳm rồi, tiểu thư tự nghĩ: “Nếu ta về nhà, cha mẹ ta sẽ hỏi: “Còn chồng con đâu?”. Nếu ta trả lời: “Con đã giết anh ấy chết rồi!” ắt cha mẹ ta sẽ mắng xối xả vào mặt ta: “Đồ cứng đầu, đã cho ngàn đồng vàng rước chồng về cho mi, bây giờ mi lại giết hắn đi à?”. Dầu cho ta có nói thật: “Anh ấy muốn giết con để cướp lấy nữ trang”, chắc cha mẹ ta cũng không tin lời ta. Thôi, ta đành vĩnh biệt quê nhà”.
Tiểu thư vứt bỏ hết nữ trang có mặt tại đó, rồi đi lang thang vào rừng, lần hồi đến chỗ trú ẩn của nhóm du sĩ Ta bà (Paribbajakānaṃ). Nàng đảnh lễ các vị nầy, xin cho nàng xuất gia nhập đạo của họ. Họ cho nàng xuất gia, sau đó nàng hỏi: “Bạch các Ngài, người xuất gia trong đạo của Ngài có pháp nào cao thượng nhất?”.
– Nầy hiền hữu! Người xuất gia trong nhóm chúng tôi cần tu hai pháp nầy là tối thượng nhất: Một là đề mục Biến xứ (Kasiṇa) cốt để nhập Định, hai là phải học Thiên ngôn luận (Vādasahassa) cho thật nằm lòng.
– Chắc con không có khả năng tham Thiền nhập Định, vậy con xin học Thiên
ngôn luận, bạch các Ngài!
Các tu sĩ Ta bà liền bắt đầu dạy cho cô tu nữ mới học Thiên ngôn luận, cho đến khi nàng đã thuần thục rồi, họ bảo nàng:
– Bây giờ con đã học được nghề hay rồi, con hãy đi chu du khắp cõi Diêm Phù Đề để tìm người có khả năng tranh luận biện thuyết với mình.
Sư phụ cô trao cho cô một cành cây Diêm Phù (Jambū: Anh Đào) rồi giục cô ra đi.
– Hãy đi, hỡi đệ tử! Nếu con gặp người cư sĩ nào có thể tranh luận với con thì hãy theo hầu hạ người ấy, còn nếu con gặp được bậc xuất gia có khả năng biện thuyết thì con hãy xuất gia với người ấy.
Cô nữ du sĩ từ đây có danh hiệu là nữ du sĩ Diêm Phù (Jambūparibbajikā). Sau khi rời khỏi chỗ ẩn tu, cô đi khắp nơi để tìm cho gặp tay đối thủ biện thuyết.
Nhưng không có ai đủ tài tranh biện cùng nàng. Thế rồi, chỉ cần nghe nói:
“Nữ du sĩ Anh Đào đến kìa!”, mọi người đều bỏ chạy lánh mặt cả.
Nữ du sĩ đi khất thực ở thôn quê lần đến thị thành, mỗi khi vào đến cửa cổng ở đầu làng thì cô vun lên một đống cát cắm cành Anh Đào xuống đó, xong tuyên bố: “Người nào đủ sức tranh luận cùng ta thì hãy chà đạp cành Anh Đào nầy!”. Rồi cô mới đi vào làng.
Chỗ ở của nữ du sĩ ấy không có một người nào có đủ tài lực để bén mảng đến gần cả. Khi rời chỗ đó đi nơi khác, cô ta cũng làm như vậy, cành Anh Đào cũ có héo thì cô thay cành khác tươi hơn. Đến thành Sāvatthī (Xá Vệ), nàng cũng cắm cành Anh Đào tại cổng thành và tuyên bố như trước, rồi vào thành khất thực.
Lúc bấy giờ, Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất) đi trì bình khất thực, độ xong
bữa rồi trở ra ngoài thành, thấy lũ trẻ đứng vây quanh cành Anh Đào. Trưởng lão hỏi: “Cái chi thế?”.
Lũ trẻ tường thuật rành tự sự cho Trưởng lão biết. Trưởng lão bảo chúng:
– Vậy thì, các em hãy chà đạp cành Anh Đào nầy đi.
– Chúng con không dám, bạch Ngài.
– Các em cứ chà đạp đi! Để ta đối đáp với cô ấy!
Nghe Trưởng lão khuyến khích, lũ trẻ hăng hái chà đạp cành Anh Đào, vừa la hét vừa làm cho cát bụi tung lên.
Nữ du sĩ trở về trách mắng lũ trẻ và hỏi chúng rằng:
– Ta với các em không có vấn đề gì để tranh luận. Tại sao các em chà đạp cành Anh Đào của ta?
Lũ trẻ đáp:
– Trưởng lão bảo chúng tôi chà đạp!
– Bạch Trưởng lão! Ngài đã bảo lũ trẻ chà đạp cành Anh Đào của tôi phải chăng?
– Phải đó, này nữ du sĩ!
– Nếu vậy, Ngài hãy tranh luận với tôi.
– Lành thay, ta sẽ tranh luận.
Nữ du sĩ nới rộng áo ở thắt lưng, đến gần Trưởng lão để cật vấn Ngài. Khắp cả kinh thành đều xôn xao vì cái tin hai bậc Đại trí sắp so tài biện bác với nhau. Dân chúng rủ nhau lũ lượt đến đảnh lễ Trưởng lão rồi ngồi nép qua một bên. Nữ du sĩ mở đầu cuộc tranh luận.
– Bạch Ngài, tôi mạn phép được hỏi Ngài một câu.
– Này nữ du sĩ, hãy hỏi đi.
Nữ du sĩ mang “Thiên ngôn luận” của mình ra hỏi, hỏi câu nào cũng đều được Trưởng lão giảng giải rành mạch. Sau cùng, Trưởng lão hỏi lại một câu:
– Ngoài những câu hỏi vừa rồi nàng còn câu hỏi nào nữa chăng?
– Bạch Ngài, chỉ có bấy nhiêu thôi ạ!
– Nãy giờ nàng hỏi ta rất nhiều, ta cũng có một câu muốn hỏi, nàng có hứng giải đáp chăng?
– Bạch Ngài, xin Ngài cứ hỏi, nếu tôi biết thì tôi sẽ giải đáp.
Trưởng lão liền đưa ra một câu hỏi về Danh Pháp, nữ du sĩ không biết lối nào mà giải đáp, phải hỏi lại Trưởng lão rằng:
– Bạch Ngài, câu Ngài hỏi có tên là gì?
– Là Phật Chú (Buddhamanto).
– Bạch Ngài, xin Ngài cho tôi câu Phật Chú đó được chăng?
– Chừng nào nàng cùng một đạo với ta, thì ta sẽ cho nàng.
– Nếu vậy, xin Ngài cho tôi xuất gia đi.
Trưởng lão chỉ dẫn cho nữ du sĩ đến Ni viện và giới thiệu cho cô được xuất gia. Sau khi thọ Cụ túc giới, cô được mệnh danh là Tỳ khưu Ni Tóc Quăn và mấy hôm sau đắc quả A La Hán với Tuệ Phân Tích. Các Tỳ khưu câu hội nơi giảng đường, nêu lên vấn đề này: “Tỳ khưu Ni Tóc Quăn không từng nghe thuyết pháp nhiều, thế mà cũng đắc quả tối thượng của bậc xuất gia. Nghe nói, cô đã một mình đại chiến với tên cướp, thắng được nó mới đến đây xuất gia…”.
Đức Bổn Sư đến hỏi:
– Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy ngồi đây thảo luận chuyện chi?
– Bạch Ngài, chuyện nầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư giải thích:
– Nầy các Tỳ khưu, Pháp của ta thuyết, chớ có trắc lượng bằng số ít hay số nhiều, thà thuyết một câu Pháp Cú còn hơn nói cả trăm câu vô ích. Vả lại, người thắng được tất cả kẻ cướp không đáng gọi là anh hùng vô địch, chỉ có người thắng được những kẻ cướp là phiền não ở nội tâm mới thật xứng danh vô địch.
Nói xong, Đức Bổn Sư thuyết pháp giải thêm và tóm tắt bằng hai bài kệ như sau:
102. “Yo ca gāthāsataṃ bhāse,
Anatthapadasañhitā;
Ekaṃ dhammapadaṃ seyyo,
Yaṃ sutvā upasammati”.
103. “Yo sahassaṃ sahassena,
Saṅgāme manuse jine;
Ekañca jeyyamattānaṃ,
Sa ve saṅgāmajuttamo”.
“Dầu cho tụng đến trăm câu,
Toàn kệ vô nghĩa thì đâu ích gì?
Thà kệ Pháp Cú thích nghi,
Một câu nghe cũng đoạn ly khổ sầu”.
“Chiến trường quyết liệt hơn thua,
Thắng người ngàn trận cũng chưa thật tài,
Thắng mình mới đáng gọi hay,
Chiến công oanh liệ
CHÚ GIẢI:
Gāthāsataṃ: người tụng kệ cho nhiều đếm cho đủ số một trăm câu.
Anatthapadasaṃhitā: nhưng toàn là những câu vô ích, chẳng hạn như giải về màu sắc bầu trời.
Dhammapadaṃ: Pháp cú là câu nào có đầy đủ nghĩa lý, có lợi ích thiết thực. Ngoại đạo du sĩ cũng có bốn câu Pháp Cú, thế nào là bốn? Du sĩ là người không tham. Du sĩ là người không tác hại. Du sĩ là người có sự ghi nhớ (có Chánh niệm). Du sĩ là người có Chánh Định. So với Pháp Cú của ngoại đạo như vậy thì một câu kệ Pháp Cú còn quý hơn!
Yo sahassaṃ sahassena: người nào một mình cầm binh khí ra chiến đấu với một ngàn ngàn (một triệu) người, chỉ trong một trận giao phong mà thắng được cả triệu người, dầu có đem sự thắng lợi về, cũng chưa đáng gọi là người thắng trận tối thượng.
Ekañca jeyya m’attānaṃ: trái lại, người nào luôn cả ngày đêm, ở mọi chỗ, lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm, ghi nhớ đề mục Chỉ Quán, tự mình thắng được những phiền não tham, sân, si trong nội tâm.
Sa ve saṅgāmajuttamo: người này quả thật là người chiến thắng tối thượng, quý báu, lập được chiến công oanh liệt nhất. Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Thiếu nữ làm eo để cưới chồng,
Vì thương kẻ cướp bị lao lung,
Ngờ đâu, ngựa vẫn quen đường cũ,
Hắn chẳng mang ơn, lại trở lòng.
Dụ được nàng lên đỉnh núi cao,
Hắn toan giết, đoạt của, bôn đào,
Nàng khôn, giả cách xin tha mạng,
Lừa thế, xô tên phản bội nhào!…
Giết chồng đâu lẽ trở về nhà?
Sương phụ băng rừng đi xuất gia,
Học được một ngàn câu hỏi đố,
“Diêm Phù” nổi tiếng khắp Ta bà.
Pháp chủ hỏi nàng: “Một là gì?”.
Nàng thưa, xin nhập đạo bên Ni,
Về sau đắc quả A La Hán,
Tăng chúng phàm phu có chỗ nghi,
Phật dạy: Kệ vô nghĩa tụng nhiều,
Trăm câu lợi ích chẳng bao nhiêu!
Sao bằng một kệ nghe vừa dứt,
Tâm được an bình, Khổ não tiêu…
Thắng ngàn quân địch giữa sa trường,
Chẳng phải anh hùng Phật tán dương,
Chỉ có thắng mình là đại thắng,
Chiến công oanh liệt ấy ai đương?…
DỨT TÍCH TỲ KHƯU NI TÓC QUĂN
----
VIII. 4 - Tích BÀ LA MÔN HỎI PHÁP VÔ ÍCH
(Anatthapucchakabrāhmaṇavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 104-105)
104. “Attā have jitaṃ seyyo,
Yā cāyaṃ itarā pajā;
Attadantassa posassa,
Niccaṃ saññatacārino”.
105. “Neva devo na gandhabbo,
Na māro saha brahmunā;
Jitaṃ apajitaṃ kariyā,
Tathārūpassa jantuno”.
“Tự thắng, tốt đẹp hơn,
Hơn chiến thắng người khác,
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự”.
“Dầu Thiên Thần, Thát Bà,
Dầu Ma Vương, Phạm Thiên,
Không ai chiến thắng nổi,
Người tự thắng như vậy”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài an ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến thầy Bà la môn hỏi về Pháp Vô ích (Anatthapucchakabrāhmaṇa).
Tương truyền: Thầy Bà la môn này có ý nghĩ: “Đức Chánh Biến Tri chỉ biết Pháp Hữu ích hay là Ngài biết cả Pháp Vô ích nữa? Để ta hỏi Ngài xem!”.
Thầy đến yết kiến Đức Bổn Sư và hỏi:
– Bạch Ngài, người ta cho rằng Ngài chỉ biết Pháp Hữu ích, chớ không biết Pháp Vô ích phải không?
– Nầy thầy Bà la môn, Ta biết cả Pháp Hữu ích và Pháp Vô ích.
– Nếu vậy, xin Ngài thuyết Pháp Vô ích cho tôi nghe thử coi. Đức Bổn Sư liền thuyết rằng:
“Ussūraseyyaṃ ālasyaṃ,
Caṇḍikkaṃ dīghasotthiyaṃ;
Ekassaddhānagamanaṃ,
Paradārūpaseyanaṃ;
Etaṃ brāhamaṇa sevassu,
Anatthaṃ te bhavissatīti”.
“Ngủ nướng sau khi mặt trời đã mọc, rã rượi, biếng nhác, hung bạo mà hưởng phước lâu dài. Hành trình theo một tà đạo, bám theo sắc đẹp của vợ người khác. Này Bà la môn, nương theo các Pháp ấy, thì thầy sẽ không được lợi ích”.
Nghe hết bài kệ, thầy Bà la môn hoan hỷ tán dương:
– Lành thay! Lành thay! Ngài thật là bậc Thầy Tổ, là bậc đàn anh của một phái (Gaṇajeṭṭhaka). Ngài biết cả Pháp Hữu ích và Pháp Vô ích.
– Này thầy Bà la môn, không có người nào biết cả Pháp Hữu ích và Pháp Vô ích như Ta đâu!
Khi ấy, Đức Bổn Sư quán xét khuynh hướng của thầy Bà la môn rồi hỏi:
– Này thầy Bà la môn, thầy sống bằng nghề gì?
– Sống bằng nghề cờ bạc, thưa Ngài Cồ Đàm.
– Thầy đánh bạc ăn hay thua?
– Ăn cũng có mà thua cũng có.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư bảo:
– Này thầy Bà la môn, người thắng được kẻ khác trong sòng đổ bát không mấy gì có giá trị, không bằng người tự thắng phục phiền não của chính mình. Quả vậy, người đã tự thắng không còn ai có thể thắng người ấy được.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng những bài kệ như vầy:
104. “Attā have jitaṃ seyyo,
Yā cāyaṃ itarā pajā;
Attadantassa posassa,
Niccaṃ saññatacārino”.
105. “Neva devo na gandhabbo,
Na māro saha brahmunā;
Jitaṃ apajitaṃ kariyā,
Tathārūpassa jantuno”.
“Tự mình hãy thắng mình đi,
Hơn thắng kẻ khác làm chi bên ngoài!
Người sống tự chế lâu dài,
Là người khôn khéo, có tài tu thân”.
“Dầu Càn thát bà, Thiền thần,
Ma vương, Đại phạm, mấy tầng trời cao;
Cũng không đánh bại được nào,
Người đã tự thắng, anh hào ai đang”.
CHÚ GIẢI:
Have: là tiếng bất biến phân từ trong văn phạm Pāḷi.
Jitaṃ: người tự thắng bằng cách thắng phục phiền não thì quý hơn (tiếng này đã đổi từ nữ tánh ra nam tánh).
Yā cā’yaṃ itarā pajā: ngoài sự thắng ấy ra, ai thắng phục người khác trong sòng đổ bát, hoặc dùng thế lực kim tiền, hoặc lực lượng vũ trang mà chiến thắng kẻ địch, thì sự thắng phục cũng không quý hơn sự tự thắng. Do đó thà là mình tự thắng còn hơn thắng những kẻ khác vậy.
Attadantassa: tự chế Tathārūpassa jantuno: như trên đã nói, chúng sanh nào là người tự chế ngự, đã dứt trừ được phiền não, là người luôn luôn có sự ghi nhớ biết mình thì thân, khẩu, ý của người được vô nhiễm. Hạng người có ý chí chế ngự được thân tâm như thế thì dầu là chư thiên, Càn thát bà, Ma vương cho đến các phạm thiên có ý muốn thử thách: “Ta sẽ đánh bại người ấy, ta sẽ khiến cho phiền não phát sanh lên để cho người bỏ hết Thiền định, Đạo quả”. Dầu cố gắng như thế nào, chẳng hạn như thắng được bằng tài sản về mọi mặt, rồi thắng được bằng phương tiện nào khác nữa, người đánh bại kẻ khác như vậy cũng không thể đánh bại người tự thắng bao giờ. Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Đức Phật giải rành việc được thua:
Được điều bất lợi chớ tranh đua!
Dậy trưa, ngủ nướng, thua là được,
Quyến rũ vợ người, được cũng thua!
Cờ bạc, được thua ấy sự thường,
Không gì vinh hạnh đáng phô trương!
Tự mình thắng được mình mới quý,
Tự thắng thì ai dám cự đương?…
DỨT TÍCH ĐIẾM CỜ BẠC HỎI ĂN THUA
----
VIII. 5 - Tích BÀ LA MÔN CẬU CỦA TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT
(Sāriputtattherassa mātulabrāhmaṇavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 106)
“Māse māse sahassena,
Yo yajetha sataṃ samaṃ;
Ekañca bhāvitattānaṃ,
Muhuttamapi pūjaye;
Sā yeva pūjanā seyyo
Yañce vassasataṃ hutaṃ”.
“Tháng tháng bỏ ngàn vàng,
Tế tự cả trăm năm,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu,
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến thầy Bà la môn là cậu của Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất).
Tương truyền: Trưởng lão đến thăm người cậu và hỏi:
– Nầy thầy Bà la môn, thầy có làm chút ít điều thiện chi không?
– Bạch Ngài, tôi có làm.
– Thầy làm điều gì?
– Tháng nào tôi cũng xuất ra hằng ngàn đồng vàng để làm phước, bố thí.
– Thầy bố thí cho ai?
– Bạch Ngài, cho nhóm Nigaṇṭha (Ni Kiền Tử).
– Mục đích cứu cánh của họ là gì?
– Bạch Ngài, cõi Phạm thiên.
– Đạo này đưa người lên cõi Phạm thiên phải chăng?
– Dạ phải, bạch Ngài.
– Ai nói vậy?
– Dạ, bạch Ngài, các thầy A Xà Lê thuyết cho tôi nghe như vậy.
– Thầy không hề biết đường lên cõi Phạm thiên, cả mấy thầy A Xà Lê cũng vậy.
Chỉ có mình Đức Bổn Sư biết mà thôi. Lại đây, thầy Bà la môn, ta sẽ đưa thầy đi nghe pháp thuyết về con đường lên Phạm thiên giới. Nói rồi Trưởng lão dắt người cậu đến trước Đức Bổn Sư rồi tường trình hết mọi sự và thỉnh cầu Ngài:
– Bạch Ngài, thầy Bà la môn này đã nói như thế, như thế, xin Ngài từ bi hoan hỷ thuyết pháp về con đường lên Phạm thiên giới cho thầy ấy được nghe.
Đức Bổn Sư hỏi lại: “Nầy thầy Bà la môn, thầy có nói như thế không?”.
– Dạ thưa có, Ngài Cồ Đàm ạ.
Nghe vậy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Nầy thầy Bà la môn, việc thầy đã làm phước bố thí như vậy, dầu thầy có làm liên tục cả trăm năm cũng không bằng trong giây phút thầy có tâm trong sạch nhìn ngắm một vị Thinh Văn của Ta hoặc thầy để bát cúng dường một vá cơm canh đến vị ấy thì sẽ được phước báu còn lớn hơn nhiều. Nói rồi Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ này:
“Māse māse sahassena,
Yo yajetha sataṃ samaṃ,
Ekañca bhāvitattānaṃ,
Muhuttamapi pūjaye”.
Sā yeva pūjanā seyyo
Yañce vassasataṃ hutaṃ”.
CHÚ GIẢI:
Sahassena: bỏ ra ngàn vàng.“Mỗi tháng bỏ ra ngàn vàng, Sắm sanh tế tự đến hàng trăm năm. Không bằng giây phút ân cần, Cúng dường đến bậc chánh chân tu hành. Cúng dường đúng cách, phước lành, Còn hơn tế vật hi sanh mãn đời”.
Yo yajetha sataṃ samaṃ: người mà hàng tháng xuất ra hàng ngàn đồng để bố thí cho quần chúng ở thời gian suốt cả trăm năm.
Ekañca bhāvitattānaṃ: người nào chỉ một lúc cúng dường đến bậc chân tu đã tiến hóa, thấp nhất là bậc Tu Đà Hườn và cao nhất là bậc Lậu tận đến đứng trước cửa nhà, một vá cơm canh, hoặc vật thực để nuôi mạng sống, hoặc một lá y choàng nhỏ thì còn tốt hơn người khác lo việc tế tự quỷ thần cả trăm năm. Sự cúng dường như vậy thì cao cả, quý báu nhất. Cuối thời Pháp, thầy Bà la môn đắc Tu Đà Hườn quả. Những người khác cũng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Pháp chủ cầu mong độ cậu mình,
Thoát vòng tà kiến với vô minh,
Dẫn ông đến Phật, nhờ Phật thuyết,
Chánh pháp cho ông khởi đức tin.
Phật dạy: Dầu ông cúng lửa thần,
Trăm năm lo lắng thật chuyên cần,
Không bằng một phút giây sùng kính,
Các bậc Thinh Văn tu chánh chân!
DỨT TÍCH BÀ LA MÔN CẬU CỦA TRƯỠNG LÃO XÁ LỢI PHẤT
----
VIII. 6 - Tích BÀ LA MÔN CHÁU CỦA TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT
(Sārīputtattherassa bhāgineyyavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 107)
107. “Yo ca vassasataṃ jantu,
aggiṃ paricare vane;
Ekañca bhāvitattānaṃ,
muhuttamapi pūjaye;
Sā yeva pūjanā seyyo,
yañce vassasataṃ hutaṃ.”
107. “Dầu trải một trăm năm,
Thờ lửa tại rừng sâu,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự”.
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú này, Đức Bổn Sư thuyết, khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến cháu Trưởng lão Sārīputta (Xá Lợi Phất).
Trưởng lão cũng đến thăm người cháu và hỏi:
- Này thầy Bà la môn, thầy có làm điều thiện chi không?
- Bạch Ngài, có.
- Thầy đã làm điều gì?
- Tháng tháng tôi giết một con thịt để tế lễ giữ gìn lửa thần.
- Thầy làm như vậy có ích gì?
- Người ta nói đó là con đường lên Phạm Thiên giới.
- Ai nói như thế?
- Bạch Ngài, các vị thầy của tôi.
- Thầy đã dốt mà các thầy của thầy lại cũng không biết con đường lên cõi Phạm Thiên. Lại đây, chúng ta cùng đi yết kiến Đức Bổn Sư.
Trưởng lão dắt người cháu đến ra mắt Đức Bổn Sư và thuật lại câu chuyện giữa hai cậu cháu, rồi nói:
- Bạch Ngài, xin Ngài hoan hỷ thuyết về con đường lên cõi Phạm Thiên cho thầy này nghe.
Đức Bổn Sư hỏi lại:
- Thầy đã nói như thế, phải không?
- Dạ phải, bạch Ngài Cồ Đàm.
Nghe vậy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này thầy Bà La môn, dầu thầy có chăm lo tế tự lửa thần như vậy cả trăm năm đi nữa, sự cúng tế của thầy cũng không bì kịp sự cúng dường đến bậc Thinh Văn của Như Lai, dầu chỉ trong giây lát.
Nói rồi, Đức Thế Tôn thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ:
107. “Yo ca vassasataṃ jantu,
aggiṃ paricare vane;
Ekañca bhāvitattānaṃ,
muhuttamapi pūjaye;
Sā y’eva pūjanā seyyo,
yañce vassasataṃ hutaṃ.”
107. “Trăm năm trọn một kiếp người,
Rừng sâu thờ lửa, chẳng lơi ngày nào.
Không bằng giây phút cần lao,
Cúng dường những bậc tu nào Chánh chân.
Cúng dường chân tu một lần,
Còn hơn tế tự lửa thần trăm năm”.
*
CHÚ GIẢI:
Jantu: chúng sanh.
Aggiṃ paricare vane: dầu cho tránh khỏi mọi chướng ngại, vào rừng lo tế tự lửa thần ở đó…
Phần sau nên giải thích y như bài kệ trước.
*
Cuối thời Pháp, thầy Bà la môn đắc quả Tu Đà Hườn, nhiều người khác cũng chứng đắc Thánh quả, nhất là quả vị Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Pháp Chủ cũng mong độ cháu trai,
Sát sanh hàng tháng cúng thần hoài,
Dẫn chàng đến Phật, nhờ Phật thuyết,
Chánh Pháp, cho chàng tránh ác lai.
Phật dạy: Dầu con cúng lửa thần,
Trăm năm lo lắng thật chuyên cần,
Không bằng với đức tin chơn chánh,
Cúng bậc Thinh Văn chỉ một lần!
DỨT TÍCH BÀ LA MÔN CHÁU CỦA TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT
107. Adoring one who has developed himself excels fire-worship of a hundred years.
107. Tôn kính bậc tu tập thân tâm tốt hơn thờ lửa cả trăm năm.
107. Yo ca vassasataṃ jantu,
aggiṃ paricare vane;
Ekañca bhāvitattānaṃ,
muhuttamapi pūjaye;
Sā yeva pūjanā seyyo,
yañce vassasataṃ hutaṃ. (8:8)
107. One might tend for a hundred years
the forest’s sacred fire,
but if for only a moment
one might honour the self-developed,
such honour then were better by far
than a century of sacrifice.
----
VIII. 7 - Tích BÀ LA MÔN BẠN CỦA TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT
(Sārīputtattherassa sahāyakabrāhmaṇa vatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 108)
108. “Yaṅkiñci yiṭṭhañca hutañca[2] loke,
saṃvaccharaṃ yajetha puññapekkho;
Sabbampi taṃ na catubhāgameti,
abhivādanā ujugatesu[3] seyyo.”
108. “Suốt năm cúng tế vật,
Để cầu phước ở đời,
Không bằng một phần tư,
Kính lễ bậc chánh trực”.
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú này, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến thầy Bà la môn bạn của Trưởng lão Sārīputta (Xá Lợi Phất).
Trưởng lão cũng đến thăm thầy và hỏi:
- Này thầy Bà la môn, thầy có làm điều thiện chi không?
- Bạch Ngài có.
- Thầy đã làm điều gì?
- Tôi đã làm nhiều việc Bố thí hy sinh (Yāgaṃ) to tát. Theo truyền thuyết, người ta dứt bỏ nhiều của để thực hành việc Bố thí hy sinh này.
Trưởng lão cũng tiếp hỏi thêm như trước, rồi dắt người bạn cũ đến yết kiến Đức Thế Tôn, tường trình hết mọi sự cho Ngài nghe rồi yêu cầu:
- Bạch Ngài, xin Ngài từ bi hoan hỷ thuyết pháp về con đường lên cõi Phạm Thiên cho thầy này nghe.
Đức Bổn Sư hỏi lại:
- Nầy thầy Bà la môn, thầy có nói như thế không?
- Dạ thưa có.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư bảo rằng:
- Nầy thầy Bà la môn, việc thầy hằng năm làm việc Bố thí trọng thể đến quần chúng trong thế gian, so với việc người phát tâm trong sạch có tác ý thiện, muốn đảnh lễ những Thinh Văn của Ta thì một phần tư giá trị cũng chưa bằng.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ:
108. “Yaṅkiñci yiṭṭhañca hutañca loke,
saṃvaccharaṃ yajetha puññapekkho;
Sabbampi taṃ na catubhāgameti,
abhivādanā ujugatesu seyyo.”
108. “Cúng dường, Bố thí suốt năm,
Công đức chẳng được cao thâm như là.
Một phần tư được trích ra,
Từ phước kính lễ các nhà Chánh chơn”.
*
CHÚ GIẢI:
Yaṃ kiñci: tiếng nói chung bao gồm tất cả mọi việc Bố thí không dư sót.
Yiṭṭhaṃ: sự Bố thí trọng đại, nhất là trong những ngày lễ.
Hutaṃ: vật Bố thí mà người tích trữ rồi đem ra hậu đãi khách quí, do có đức tin nơi nghiệp quả mà bố thí.
Saṃvaccharaṃ yajetha: sự Bố thí với đầy đủ chi tiết kể trên, suốt trong năm trường như vậy, nhưng chỉ bố thí đến quần chúng thế gian, mặc dầu khắp cõi Ta bà.
Puññapekko: muốn được phước báu.
Ujugatesu: những bậc đã đi trên Thánh đạo, từ bậc thấp nhất là các vị Tu Đà Hườn, đến bậc cao nhất là A La Hán. Đối với những bậc đã nói trên đây, ai có tác ý thiện (Kusalacetanā) do đã phát tâm Tịnh Tín (Pasannena cittena) muốn cúi mình lễ bái, thì quả phước cao quí gấp bốn lần tất cả mọi việc Bố thí thông thường, bởi thế cho nên nói: “Việc kính lễ bậc chánh trực thì quí hơn.”
*
Cuối thời Pháp, thầy Bà la môn bạn của Trưởng lão Xá Lợi Phất đắc quả Tu Đà Hườn. Nhiều người khác cũng đắc Thánh quả nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Pháp Chủ còn mong độ bạn thân,
Sát sanh trọng thể cúng Thiên thần,
Dẫn chàng đến Phật, nhờ Phật thuyết,
Chánh Pháp, cho chàng biết Quả nhân!
Phật dạy: Lửa thần, cúng cả năm,
Sát sanh trọng thể, chẳng ăn nhằm,
Vì không sánh được phần tư phước,
Bố thí bần dân, cúng Thánh Tăng.
DỨT TÍCH BÀ LA MÔN BẠN CỦA TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT
108. Acts of worship and prayer for a year never equal a fourth of homage to the worthy.
108. Cúng bái cầu nguyện một năm không bằng một phần tư kính lễ bậc Thánh xứng đáng được tôn trọng.
108. Yaṅkiñci yiṭṭhañca hutañca loke,
saṃvaccharaṃ yajetha puññapekkho;
Sabbampi taṃ na catubhāgameti,
abhivādanā ujugatesu seyyo. (8:9)
108. Whatever one who merit seeks
should for a year make sacrifice,
all comes not to a quarter part
of honouring the Noble.
----
VIII. 8 - Tích CẬU BÉ ÍCH THỌ
(Āyuvaḍḍhanakumāravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 109)
109. “Abhivādanasīlissa,
niccaṃ vuḍḍhāpacāyino;
Cattāro dhammā vaḍḍhanti,
āyu vaṇṇo sukhaṃ bataṃ.”
109. “Thường tôn trọng, kính lễ,
Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn Pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết, khi Ngài ngự tại xứ Dīghalambika (Đi Khá Lam Bí Cá), ở trong một cái cốc trong rừng (araññakuṭikā), đề cập đến công tử Dīghāyu (Trường Thọ).
Tương truyền: Có hai vị Bà la môn cư ngụ trong thành Dīghalambika, sau khi xuất gia theo ngoại đạo đã đi ta bà thực hành khổ hạnh (Tapacaraṇaṃ) trong bốn mươi tám năm. Một trong hai đạo sĩ ấy nghĩ rằng: “Dòng dõi ta sẽ bị tiêu diệt, ta sẽ hoàn tục”.
Thế rồi, đạo sĩ bán hết cho người khác những đồ đạc dụng cụ đạo sĩ của mình làm ra, lấy tiền mua súc vật về nuôi và về sau khá giả, thầy cưới vợ và tạo lập gia đình. Rồi vợ thầy sanh được một đứa con trai.
Vị đạo sĩ kia đã xuất ngoại, mới trở về thành trong mấy ngày. Nghe tin đạo sĩ trở về, thầy Bà la môn dắt cả vợ con đi thăm bạn cũ. Gặp đạo sĩ, thầy trao con cho vợ ẵm để thầy đảnh lễ. Người mẹ cũng trao con cho cha bồng để mình đảnh lễ đạo sĩ. Đạo sĩ chúc cho cả hai vợ chồng được trường thọ. Đến phiên đứa con đảnh lễ thì đạo sĩ làm thinh.
Người cha bèn hỏi đạo sĩ:
- Bạch Ngài, tại sao khi chúng tôi đảnh lễ Ngài chúc chúng tôi được trường thọ. Còn khi đứa nhỏ nầy đảnh lễ Ngài không nói chi cả?
- Nầy thầy Bà la môn, đứa bé nầy sắp lâm đại nạn.
- Bạch Ngài, nó sẽ sống được bao lâu?
- Nầy Bà la môn, nó sẽ sống được bảy ngày.
- Bạch Ngài, có phép gì tránh khỏi tai nạn chăng?
- Ta chẳng biết phép gì tránh nạn cả.
- Bạch Ngài, có ai biết phép ấy chăng?
- Sa môn Cồ Đàm biết, thầy hãy tìm đến Ngài mà hỏi.
- Đi đến đó tôi sợ đứt Giới hạnh đạo sĩ của mình chăng?
- Nầy thầy có lòng thương tưởng đến con thì đừng quá câu nệ như thế, hãy đi tìm Ngài mà hỏi đi.
Thầy Bà la môn đem cả vợ con đến yết kiến Đức Bổn Sư, khi thầy đảnh lễ, Ngài phúc chúc: “Thầy hãy là người trường thọ.”, khi vợ thầy đảnh lễ, Ngài cũng chúc trường thọ, nhưng khi đứa con đảnh lễ, Ngài cũng lặng thinh.
Thầy Bà la môn cũng hỏi Đức Bổn Sư như đã hỏi đạo sĩ bạn và Đức Bổn Sư cũng đáp lại y như lời của đạo sĩ ấy. Người ta nói: Thầy Bà la môn không hiểu thấu Trí tuệ Toàn Giác (Sabbaññutaññāṇaṃ), chỉ căn cứ theo chú thuật của mình mà so sánh, nên nghĩ rằng bậc Toàn Giác cũng không biết phương pháp nào giúp cho đứa bé thoát khỏi tai họa được.
Thầy Bà la môn hỏi Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài, có phép nào ngăn trở, xa lánh được tai họa chăng?
- Nầy Bà la môn có thể có.
- Có thể có phép gì, bạch Ngài?
- Nếu như thầy che rạp trước cửa nhà mình, giữa rạp thầy cho kê một cái ghế dài, vây quanh ghế ấy thầy cho sắp sẵn tám hoặc mười sáu chỗ ngồi, rồi cho thỉnh các Thinh Văn của Ta ngồi lên đó tụng kinh Pāritta liên tục bảy ngày đêm. Nếu thầy làm được như vậy thì sự tai họa đó có thể tiêu tan.
- Ngài Cồ Đàm à, việc che rạp và sắp xếp chỗ ngồi ở nhà tôi, tôi có thể làm được hết. Nhưng làm sao tôi có thể thỉnh được các vị Thinh Văn của Ngài?
- Thầy cứ về lo phần việc của thầy cho xong, Ta sẽ cho các Thinh Văn của Ta đến.
- Lành thay, thưa Ngài Cồ Đàm.
Thầy Bà la môn trở về lo châu tất mọi việc ở trước cửa nhà xong, trở lại bạch với Đức Bổn Sư. Ngài cho các Tỳ khưu đi với thầy đến ngồi lên các chỗ đã soạn sẵn, đứa con trai nhỏ cũng được nằm trên chiếc ghế dài.
Các Tỳ khưu tụng kinh Pāritta suốt cả bảy ngày đêm không gián đoạn. Đến ngày thứ bảy, Đức Bổn Sư đích thân ngự đến. Trong cổng cửa nhà ấy, Chư Thiên trong khắp cõi Ta bà thế giới vân tập đến đông đặc.
Lúc bấy giờ, có con Dạ xoa tên là Avaruddhaka (A Vá Rúd Thá Ká) sau mười hai năm hầu hạ, phục dịch Đức Thiên Vương Vessavana[4], đã xin được Ngài ân tứ cho phép bắt đứa nhỏ nầy, kể từ hôm nay cho đến ngày thứ bảy, cho nên nó cũng đến đứng ở đó.
Đức Bổn Sư tuyên bố rằng:
- Nơi cổng nhà nầy, Chư Thiên nhiều oai lực câu hội đông đảo, Chư Thiên kém oai lực rút lui ra xa.
Các vị sau nầy không sao tìm được chỗ trống nên phải lui ra xa mười hai do tuần, con Dạ xoa Avaruddhaka cũng phải ra đứng tuốt ngoài ra.
Suốt đêm ấy, Đức Bổn Sư cũng tụng kinh Pāritta. Qua thời hạn bảy ngày, Avaruddhaka chưa bắt được đứa bé, đến ngày thứ tám khi mặt trời vừa mọc lên, người ta mang đứa bé đến đảnh lễ Đức Thế Tôn. Ngài phúc chúc cho nó được trường thọ. Cha đứa bé hỏi:
- Thưa Đức Cồ Đàm, đứa bé nầy sẽ được trường thọ được bao lâu?
- Sống được một trăm hai mươi năm, thầy Bà la môn ạ!
Do đó, cha mẹ đứa bé đặt tên con là Dīghāyu (Trường Thọ hay là Ích Thọ). Theo cổ lệ, nó được danh dự đi chơi nơi nào cũng có năm trăm cận sự nam theo bao vây chung quanh.
Một ngày nọ, Chư Tăng ngồi câu hội tại giảng đường, để khởi câu chuyện như vầy:
- Nầy các đạo hữu, có thấy chăng? Nghe nói cậu bé Dīghāyu phải bị chết trong vòng bảy ngày. Thế mà bây giờ hóa ra lại sống thọ một trăm hai mươi tuổi, khi đi đâu cũng có năm trăm tùy chúng bao quanh. Chắc phải có lý do khiến chúng sanh ấy tăng tuổi thọ…
Đức Bổn Sư đến hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy hội thảo chuyện chi đây?
- Bạch Ngài, chuyện nầy…
Nghe vậy, Đức Thế Tôn giải thích rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, không phải toàn thể chúng sanh đều có thể tăng thêm tuổi thọ như thế đâu! Sở dĩ những chúng sanh nầy được như thế là nhờ đã kính lễ các vị có đức hạnh. Họ đã phát triển bốn lý do khiến cho giải thoát khỏi điều tai họa, nên mới được tăng tuổi thọ.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và tóm tắt kết luận bằng kệ ngôn:
109. “Abhivādanasīlissa,
niccaṃ vuḍḍhāpacāyino;
Cattāro dhammā vaḍḍhanti,
āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ ti.”
109. “Hoan hỉ lễ bái, kính nhường,
Các bậc Trưởng lão thì thường gia tăng.
Bốn điều phước báo cội căn:
Sống lâu, đẹp đẽ, bình an, hùng cường”[5]
*
CHÚ GIẢI:
Abhivādanasīlissa: việc luôn luôn cung kính, lễ bái tỏ vẻ tôn trọng.
Vuḍḍhāpacāyino: người tại gia đối với bậc đã xuất gia, dầu là các Sa di trẻ tuổi và là người xuất gia đối với bậc thọ Cụ túc giới, hoặc lớn tuổi hạ, đạo cao đức cả hơn mình, mà có tâm cung kỉnh đảnh lễ, hoặc thường xuyên cúng dường.
Cattāro dhammā: tăng tuổi thọ, là khi tới tuổi thọ mãn thì được gia tăng, triển hạn. Mấy Pháp kia cũng tăng thêm như vậy. Quả nhiên, như người nào đến năm mươi tuổi thọ mới mãn số, nhưng trọn đời làm việc thiện thì dầu ở tuổi hai mươi lăm có gặp đại nạn gì xảy đến, người ấy cũng giải trừ được nhờ kính lễ bậc trưởng thượng. Do đó, người ấy không bị giảm thọ, chết yểu.
*
Cuối thời Pháp, cậu bé Dīghāyu cùng với năm trăm Cận sự nam đều đắc quả Tu Đà Hườn, nhiều người khác cũng chứng đạt quả vị Dự Lưu.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Bảy ngày nghỉ phép đã trôi qua,
Lỡ dịp báo thù khiến Dạ xoa,
Phải chịu rút lui, nên cậu bé,
Được thêm tuổi thọ, phước toàn gia.
Phật dạy: Không riêng tuổi thọ tăng,
An vui, sắc đẹp, với quyền năng,
Đồng thời thêm mãi nơi người biết,
Lễ bái cúng dường bậc lão Tăng.
DỨT TÍCH CẬU BÉ ÍCH THỌ
109. Acts of worship and prayer for a year never equal a fourth of homage to the worthy.
109. Biết sống tôn trọng chư vị Trưởng thượng sẽ được trường thọ, sắc đẹp, hoan hỉ và sức khỏe.
109. Abhivādanasīlissa,
niccaṃ vuḍḍhāpacāyino;
Cattāro dhammā vaḍḍhanti,
āyu vaṇṇo sukhaṃ bataṃ. (8:10)
109. Whatever one who merit seeks
should for a year make sacrifice,
all comes not to a quarter part
of honouring the Noble.
----
VIII. 9 - Tích SA DI ĐÒN XÓC
(Saṅkiccasāmaṇeravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 110)
110. “Yo ca vassasataṃ jīve,
dussīlo asamāhito;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
sīlavantassa jhāyino.”
110. “Dầu sống một trăm năm,
Ác giới, không Thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Trì giới, tu Thiền định”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài an ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Sa di Đòn Xóc (Saṅkicca).
Tương truyền: Trong thành Xá Vệ có ba mươi vị công tử, sau khi nghe pháp rủ nhau xuất gia trong Giáo Pháp của Đức Bổn Sư. Các vị ấy tu Tỳ khưu được năm hạ rồi, liền đến yết kiến Đức Bổn Sư. Nghe Ngài hỏi muốn tu thêm pháp nào trong hai pháp là: Pháp Học và Pháp Hành (Ganthadhuraṃ - Vipassanādhuraṃ). Các vị đều đồng ý xin Đức Thế Tôn dạy cho đề mục Minh Sát để bổ túc Pháp hành ngõ hầu đắc quả A La Hán, chớ không ưng cố gắng thọ trì Pháp học, vì đã lớn tuổi mới xuất gia. Thọ giáo đề mục xong rồi, các vị ấy xin phép Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài, chúng con sẽ vào hành đạo trong một khu rừng.
- Các thầy vào khu rừng nào?
- Bạch Ngài, khu rừng ấy tên là…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư biết rằng: “Vào nơi đó, các Tỳ khưu nầy sẽ phải một phen kinh sợ vì một gã tàn thực (Vighāsādā), nếu có Sa di Saṅkicca cùng đi thì mọi việc sẽ an bài tốt đẹp, rồi các thầy Tỳ khưu ấy sẽ hoàn tất phận sự xuất gia”.
Sa di Saṅkicca là tên vị Sa di bảy tuổi, đệ tử của Ngài Sārīputta (Xá Lợi Phất).
Người ta nói mẹ của Sa di là con gái của một gia đình giàu có. Khi mang thai, gần đến ngày sanh bà bị bịnh nặng trong chốc lát rồi chết ngay. Khi người ta thiêu xác bà, trừ ra thịt ở bụng, kỳ dư những nơi khác đều cháy rụi, những người thiêu phải đem thịt bụng của bà xuống khỏi giàn hỏa, lấy cây nhọn đâm thủng hai ba chỗ, mũi nhọn cây chỉa chạm nhằm đuôi mắt của thai nhi. Sau khi đâm thủng mãng thịt quanh bụng, người ta vứt nó lên đống than lửa đỏ, cào than cháy phủ khắp cả, rồi bỏ ra về. Thịt tử cung bị cháy rụi, trên mặt đống lửa than sáng ngời như chiếc đĩa bằng vàng, đứa hài tử nằm yên như trong một đóa sen hồng. Quả thật, đối với một chúng sanh kiếp chót, dù có bị rơi vào lửa hay từ đỉnh Sineru (Tu Di) rớt xuống, khi chưa đắc quả A La Hán thì không bao giờ bị mạng chung.
Qua ngày sau, những người thiêu xác đến để dập tắt lửa giàn hỏa, trông thấy đứa bé nằm yên nơi đó, hết sức ngạc nhiên kêu lên: “Sao lạ thế nầy? Với bấy nhiêu củi đó, toàn thể các xác đều cháy rụi. Tại sao đứa nhỏ không bị cháy? Có cái gì đây nhỉ?”.
Người ta mang đứa bé về làng, rồi đi coi thầy bói, các nhà tiên tri nói: “Nếu cậu bé nầy sống tại gia, thì thân quyến cả bảy đời của cậu sẽ không nghèo khó. Còn nếu cậu xuất gia thì lúc đi hành đạo sẽ có năm trăm Sa môn theo hầu”.
Do cái vết thẹo ở đuôi mắt bị bể lúc trước, cậu bé được đặt tên là Saṅkicca (Đòn Xóc), thời gian sau, vết thẹo hiện ra rõ rệt.
Các thân tộc cậu bé ráng nuôi nấng cậu và nguyện rằng: “Dầu cho đứa bé nầy sống đến tuổi lớn khôn, chúng ta cũng cho nó xuất gia với Trưởng lão Sārīputta.”
Khi cậu bé được bảy tuổi, nó được các trẻ khác cho biết:
- Mẹ mày đã chết khi còn mang mày trong thai. Xác bà bị thiêu rụi, riêng mày còn sống, không bị cháy.
Nghe vậy, Saṅkicca suy nghĩ: “Ai cũng bảo ta đã thoát khỏi tai nạn khủng khiếp như thế. Vậy ta còn ở nhà mà làm gì? Ta sẽ xuất gia.”
Cậu bé Saṅkicca ngỏ ý định xuất gia của mình với quyến thuộc, họ vô cùng hoan hỷ tán thành ý của cậu, đưa cậu đến ra mắt Trưởng lão Sārīputta và giao cậu cho Trưởng lão.
- Bạch Ngài, xin Ngài cho cậu bé nầy xuất gia.
Trưởng lão truyền cho cậu niệm năm chi đầu của đề mục thân trược là: tóc, lông, móng, răng, da, rồi cho cậu xuất gia Sa di. Khi cậu xuống tóc, lưỡi dao cạo vừa chạm vào da đầu, cậu liền chứng đắc A La Hán với Tuệ Phân tích. Chính Sa Di Saṅkicca là vị nầy vậy.
Khi biết rằng: “Vào trong khu rừng đó, ông Sa di nầy sẽ làm cho êm sự kinh sợ. Nhờ vậy các Tỳ khưu sẽ đạt đến mức viên mãn phận sự xuất gia.” Đức Bổn Sư bảo các vị ấy: “Nầy các Tỳ khưu, các thầy hãy đi thăm Sư huynh Sārīputta của các thầy đi”.
- Lành thay, bạch Thế Tôn.-Các Tỳ khưu đáp.
- Các đạo hữu, có chuyện chi đến đây?-Trưởng lão Sārīputta hỏi.
- Chúng tôi đã thọ huấn đề mục nơi Đức Bổn Sư, định vào rừng hành đạo, nhưng khi xin phép Ngài, Ngài bảo chúng tôi: “Các thầy hãy đến viếng Sư huynh của các thầy là Sārīputta.” Cho nên chúng tôi mới đến đây.
Trưởng lão Xá Lợi Phất nghĩ thầm: “Chắc Đức Bổn Sư đã thấy được lý do gì đây, nên bảo các Tỳ khưu đến đây? Vậy lý do đó là gì?”.
Khi Ngài quán xét, biết được nguyên nhân, Trưởng lão hỏi:
- Nầy các đạo hữu, các vị có Sa di nào không?
- Thưa đạo hữu [6] , không có.
- Nếu không có, quí vị hãy mang theo Sa di Saṅkicca nầy đi theo.
- Thôi đi, thưa đạo hữu. Đem Sa di đi theo chúng tôi sẽ vướng bận, tu ở rừng thì cần có Sa di mà làm chi?
- Nầy các đạo hữu, không phải vì Sa di nầy khiến các vị thêm ràng buộc, mà trái lại quí vị sẽ là sự ràng buộc đối với ông Sa di nầy. Vả lại, sở dĩ Đức Bổn Sư dạy quí vị đến thăm tôi là có ý muốn tôi cho ông Sa di cùng đi với quí vị. Vậy quí vị hãy mang theo Sa di nầy đi.
- Lành thay.
Các Tỳ khưu chấp thuận cho Sa di cùng đi theo, thành ra một nhóm ba mươi mốt người, từ giã Trưởng lão ra khỏi chùa, rồi đi bộ lần hồi, trải qua độ một trăm hai mươi do tuần (Visayojanasatamatthake), đến một khu làng nọ có ngàn nóc nhà. Dân làng thấy chư Tỳ khưu đến, phát tâm tịnh tín, đặt bát cúng dường xong mới hỏi:
- Bạch các Trưởng lão, chẳng hay các Ngài đi đâu?
- Nầy các đạo hữu, chư Tăng chúng tôi đi tìm chỗ thuận cảnh tiện nghi.
Nghe vậy, dân chúng nằm mọp dưới chân Chư Tăng, yêu cầu:
- Bạch các Trưởng lão, chúng tôi xin cung thỉnh các Ngài dừng bước lại nơi đây kiết hạ an cư, để chúng tôi có thể thọ trì Tam qui và Ngũ giới, thiết lập trai đàn.
Chư Trưởng lão nhận lời.
Dân làng lo cất những thảo am, dọn đường kinh hành, sắp xếp cho có chỗ Chư Tăng hành đạo ban ngày, lẫn ban đêm, dâng đến Chư Tăng. Xong rồi, chia phiên nhau, nay người này mai người khác siêng năng phục dịch hộ độ Chư Tăng.
Vào ngày an cư kiết hạ, chư Tỳ khưu hội thảo cùng nhau rồi quyết định: “Nầy các đạo hữu, chúng ta đã thọ giáo đề mục hành đạo từ nơi Đức Phật, thì không thể nào ta hưởng được ân huệ của Đức Thế Tôn bằng cách hành theo một đường lối nào khác. Vả lại, các cửa vào ác đạo đang mở rộng, chúng ta chẳng khá dễ duôi. Bởi vậy, trừ ra buổi sáng sớm là giờ đi khất thực và buổi tới là giờ phục dịch các bậc Trưởng lão, thì chúng ta không nên ở chung hai người một nơi. Nếu ai có bệnh thì người ấy hãy đánh kiểng (Gaṇḍī), chúng ta sẽ đến săn sóc thuốc men cho người ấy. Trong những giờ khác, ban ngày lẫn ban đêm chúng ta phải tinh cần lo tu niệm đề mục”.
Trong khi Chư Tăng đã giao ước và an cư hành đạo như vậy, thì có một người đàn ông nghèo khổ, sống nương nhờ các con gái. Nơi xứ cô gái ấy lại lâm vào nạn đói, ông ta muốn đến sống nương nhờ nơi cô con gái khác, cất bước lên đường.
Lúc ấy chư Trưởng lão vào làng khất thực xong, trên đường trở về chỗ ngụ, giữa đường các Ngài xuống tắm dưới con sông, rồi lên ngồi trên một bãi cát mà thọ thực.
Ngay lúc ấy, người đàn ông đi đến chỗ đó, đứng một bên nhìn Chư Tăng. Các Trưởng lão bèn hỏi:
- Nầy ông Thiện nam, ông đi đâu đó?
Người chạy nạn đói cho biết mục đích của mình, các Trưởng lão nghe vậy, động lòng bi mẫn nên nói:
- Nầy ông Thiện nam, chắc là ông đói lắm, ông hãy đi tìm lá cây đem lại đây Chư Tăng mỗi vị sẽ bố thí cho ông một vắt cơm.
Khi người ấy mang lá đến, các Tỳ khưu mỗi vị bớt cơm canh của mình đang độ, vắt lại thành một cục, sớt cho ông ta ăn. Đó là một phận sư, người ta nói rằng: Trong giờ ăn mà có người đến xin, vị Tỳ khưu cũng nên Bố thí ít hoặc nhiều vật thực của mình đang độ, trừ ra phần cơm mật (Aggabhatta), cho nên Chư Tăng đã cho như thế.
Sau khi ăn xong bữa, người đàn ông đảnh lễ các vị Trưởng lão và hỏi:
- Bạch các Ngài, hôm nay có ai mời thỉnh các Ngài dự lễ Trai Tăng phải không?
- Nầy ông Thiện nam, không có ai mời thỉnh cả. Mỗi ngày thôn dân đều cúng dường để bát như thế cả.
Người đàn ông suy nghĩ: “Như ta luôn siêng năng làm lụng hết việc nầy đến việc khác mà chưa hề được ăn bữa cơm như thế nầy. Vậy ta còn đi tìm chỗ nào khác làm chi, ta sẽ sống chung với các Ngài là tiện nhất”.
Thế rồi, ông ta nói với Chư Tăng:
- Con muốn ở gần các Ngài để làm công kia việc nọ phục dịch các Ngài.
- Lành thay, nầy Cận sự nam.
Ông Thiện nam theo Chư Tăng về đến chỗ ngụ của các Ngài, phụ trách mọi việc đàng hoàng tử tế rất được lòng các Ngài. Nhưng qua hai tháng sau, ông ta lại muốn đi thăm con gái tự nghĩ: “Nếu ta xin phép chắc chắn các Ngài sẽ không buông thả ta ra. Vậy ta hãy rút đi êm là hơn”. Thế rồi, ông ta ra đi không cáo từ Chư Tăng, người ta nói, ai lén Chư Tăng mà đi như vậy là phạm một lỗi lầm.
Trên đường đi của ông Thiện nam, có một khu rừng rậm, trong rừng ấy có năm trăm tên cướp mới đến làm sào huyệt và nguyện với Chư Thiên trong rừng rằng: “Ai vào rừng nầy, chúng tôi sẽ giết chết, lấy máu và thịt cúng tế linh thần”. Chúng trú ở nơi ấy được bảy ngày. Hôm ấy là ngày thứ bảy, tên chúa đảng trèo lên cây, canh chừng những bộ hành, trông thấy ông Thiện nam đi đến, bèn ra dấu cho đồng đảng. Bọn cướp biết được ông ta đã vào đến giữa rừng, bèn bao vây bắt được. Lấy dây trói tay chân ông thật chặt, lấy cây cọ kéo cho ra lửa để nhóm lửa, gom củi lại chất thành một đống lửa lớn và lấy cây chỉa thọc cho thông hơi. Ông Thiện nam thấy bọn cướp làm như thế bèn hỏi:
- Thưa chủ, nơi đây không có khu rừng như heo, nai chẳng hạn, thế mà ông chủ cho nhóm lửa làm gì thế?
- Chúng ta sẽ giết chết ngươi để lấy thịt và máu cúng tế Thiên địa quỉ thần.
Ông ta quá sợ chết, chỉ lo bảo toàn mạng sống của mình, không còn nhớ đến ân nghĩa của các Tỳ khưu, nên nói:
- Thưa ông chủ, tôi chỉ là một kẻ dùng tàn thực, một kẻ ăn mót cơm thừa, canh cặn, nên có tên là Tàn thực (Vighāsādo) là kẻ xui xẻo bần tiện, mới vừa từ biệt các Trưởng lão mà ra đi. Các bậc xuất gia thuộc dòng Sát Đế Lợi, hiện giờ đang ở nơi địa điểm nọ, tất cả là ba mươi mốt vị Tỳ khưu, ông chủ bắt các vị ấy giết lấy máu và thịt tế chư thần, chắc Chư Thiên sẽ hoan hỷ hơn.
Nghe vậy, bọn cướp suy nghĩ: “Tên nầy nói nghe cũng có lý. Ta giết kẻ xui xẻo này làm chi? Ta nên giết người thuộc giòng Sát Đế Lợi mà tế thần”.
Bọn cướp mở trói cho ông tàn thực, để ông ta dẫn đường, đưa chúng đến chỗ ngụ của Chư Tăng. Đến chùa không thấy Chư Tăng trong chùa, bọn cướp hỏi: “Các Tỳ khưu ở đâu?”.
Ông tàn thực đã từng ngụ ở đây hai tháng, đã biết rành nội qui của Chư Tăng, nên chỉ cách cho bọn cướp: “Các Tỳ khưu vô ngồi trong các chỗ tu hành ban ngày hoặc ban đêm, chớ không có ở đây. Các ông hãy đánh kiểng, nghe tiếng kiểng, các Tỳ khưu sẽ tụ hội”.
Tên đầu đảng đánh kiểng. Các Tỳ khưu nghe tiếng kiểng, nghĩ thầm: “Kiểng đánh phi thời, chắc có vị nào bịnh chi đây?”.
Tất cả Chư Tăng đều tựu vào giữa chùa, theo thứ tự tuổi hạ ngồi lên những thạch bàn đá kê sẵn từ trước.
Vị Trưởng lão Tăng trưởng nhìn bọn cướp rồi hỏi:
- Nầy các Thiện nam, ai đánh kiểng nầy vậy?
- Bạch các Ngài, chính chúng tôi đánh.
- Vì lý do nào vậy?
- Chúng tôi có việc cầu khẩn Chư Thiên trong rừng, nên bây giờ đến bắt một vị Tỳ khưu đem về cúng tế trả lễ Chư Thiên.
Nghe vậy, vị Trưởng lão cao hạ nhất bảo các Tỳ khưu:
- Nầy các đạo hữu, phàm trong đạo nghĩa anh em, hễ có việc chi xảy đến, người anh cả phải đứng ra gánh vác. Tôi nguyện hy sinh mạng sống cho tất cả Chư Tăng mà đi với mấy ông này. Mong cho tất cả đừng bị sự tai hại. Hãy chuyên cần hành Sa môn Pháp.
Vị Phó Trưởng lão nói:
- Bạch Ngài, phàm phận sự nào của người anh thì người em phải đảm đương. Tôi xin ra đi để Ngài và Chư Tăng ở lại Tinh tấn hành đạo.
Cứ theo thứ tự, từ trên xuống dưới, cả ba mươi vị Tỳ khưu đều tình nguyện xin lãnh phần hy sinh như thế. Tất cả những vị nầy không phải con một mẹ, không phải con một cha và cũng không phải là những bậc đã xa lìa tình dục, ấy thế mà không ham muốn được sống sót, các vị ấy tuần tự tự nguyện hy sinh mạng sống, trong nhóm không có vị nào có thể mở miệng bảo vị khác: “Đạo hữu hãy đi đi.”
Sa di Saṅkicca nghe qua những lời tình nguyện của các Tỳ khưu thì bạch rằng:
- Xin các Ngài hãy khoan, để con đi thế mạng cho các Ngài.
- Nầy đạo hữu, chúng tôi thà là chết chung một lượt, chớ không bao giờ đành để cho ngươi ra đi một mình đâu.
- Bạch các Ngài, tại sao vậy?
- Nầy đạo hữu, đạo hữu là Sa di của Pháp chủ là Trưởng lão Sārīputta, nếu như chúng tôi để đạo hữu ra đi, thì Trưởng lão sẽ trách chúng tôi: “ Các thầy đã đem Sa di của tôi đi giao cho bọn cướp.” Chúng tôi sẽ không có lời nào biện để khỏi bị Trưởng lão quở, do đó chúng tôi không để cho đạo hữu đi.
- Bạch các Ngài, Đức Chánh Biến Tri đã khiến các Ngài đến thăm Hòa Thượng của con và thầy con đã khiến con đi chung với các Ngài, bây giờ có việc xảy đến như vầy thì cái lý do khiến con phải đi với các Ngài đã rõ rệt. Vậy xin các Ngài hãy ở lại, để con đi.
Sa di Saṅkicca đảnh lễ ba mươi vị Tỳ khưu để cáo biệt và nói: “Nếu con có lầm lỗi chi, xin các Ngài hãy tha thứ cho con”.
Ông Sa di ra đi, các Tỳ khưu phát tâm kinh cảm, lụy ứa đoanh tròng, tâm tư xúc động. Trưởng lão bảo bọn cướp:
- Nầy các Thiện nam, đứa bé nầy sẽ kinh hãi khi thấy các ông nổi lửa, gom củi trải lá. Vậy các ông hãy để nó qua một bên rồi hãy làm các việc ấy.
Bọn cướp dắt ông Sa di vào rừng, để ông đứng riêng một nơi, rồi lo làm tất cả mọi việc.
Xong việc rồi, tên chánh đảng rút gươm ra khỏi vỏ, đến gần ông Sa di, còn ông Sa di lúc bấy giờ đang ngồi Tham thiền Nhập định. Tên chánh đảng khoa gươm lên rồi chém xuống cổ ông Sa di, lưỡi gươm cong ngược lên, sóng chạm với sóng. Tướng cướp ngỡ là mình chém không đúng cách, uốn nắn lưỡi gươm cho ngay lại, rồi chém một lần nữa, lưỡi gươm lại uốn cong lại như tàu lá thốt nốt, mũi gươm chạm với gốc cán gươm.
Trong khi ấy, ông Sa di dầu có bị xô ngã từ đảnh núi Tu Di xuống cũng không thể chết, huống hồ gì bị chém bằng gươm. Thấy việc lạ thường, tên chánh đảng tự nghĩ: “Lúc trước lưỡi gươm ta chém vào tảng đá hoặc gốc cây keo đứt ngọt như chém vào đọt thốt nốt, bây giờ lần đầu tiên nó bị cong, lần thứ hai nó bị cuốn lại như tàu lá thốt nốt. Lưỡi gươm nầy tuy là vật vô tình vô ý mà nó còn biết Giới đức của ông Sa di nầy, còn ta là người có tình có ý mà ta lại không biết”.
Quăng gươm xuống đất, tên chánh đảng nằm mọp dưới chân ông Sa di và thưa:
- Bạch Ngài, bọn tôi vì lý do của cải chiếm cứ khu rừng nầy, những người vào đây dầu đông đến số ngàn nhưng thấy chúng tôi từ đàng xa cũng đã run sợ không thể nói lên được một lời, còn Ngài vì sao không có chút gì sợ hãi, sắc diện lại sáng rỡ như vàng ròng, dung nhan tươi tốt như chùm hoa nở vậy Ngài?
Tên chánh đảng lại ngâm kệ hỏi rằng:
“Tāso te natthi na bhayaṃ,
Bhiyyo vaṇṇo pasīdati;
Kasmā na paridevesi,
Evarūpe mahabbhayeti.”
“Ngài không run cũng không sợ, hơn thế nữa sắc mặt Ngài trong sáng. Tại sao Ngài không than khóc, trước sự kinh sợ to lớn như vậy?”
Vị Sa di xuất thiền, thuyết pháp cho tên cướp nghe.
- Nầy đạo hữu đảng trưởng, bậc Lậu tận xem cái gọi là tự ngã (xác thân) là một gánh nặng. Cho nên khi có sự phá vỡ tự ngã thì bậc ấy càng hoan hỷ chớ không sợ sệt.
Nói rồi Sa di ngâm lên kệ rằng:
“Natthi cetasikaṃ dukkhaṃ,
Anapekkhassa gāmaṇi;
Atikkhanto bhayaṃ sabbaṃ,
Khīṇasaṃyojano isi.
Khīṇā assa bhavanetti,
Diṭṭhā dhammā yathā tathā;
Nibbhayaṃ maraṇaṃ honti,
Bhāravoropananaṃ yathāti.”
“Nầy đảng trưởng không có sự khổ tâm đối với bậc vô dục, nhà đạo sĩ đã dứt trừ mọi kiết sử, là đã vượt qua tất cả sự lo sợ. Nếu như con mắt hữu được phá vỡ hợp pháp, ngay trong hiện kiếp thì sự chết là sự vô úy, giống như sự trút bỏ gánh nặng ấy vậy?”
Nghe dứt bài kệ tên tướng cướp quay lại nhìn năm trăm đồng đảng hỏi rằng:
- Mấy anh em sẽ làm gì?
- Thưa đại ca, đại ca sẽ làm gì?
- Từ lúc thấy pháp mầu huyền diệu, ta tự nghĩ: “Ta đã hết phận sự ở gia đình rồi.”, cho nên ta sẽ xuất gia với Ngài đây.
- Chúng tôi cũng đồng ý theo gương của đại ca.
- Lành thay, các hiền đệ.
Kế đó, năm trăm tên cướp đồng quì xuống đảnh lễ ông Sa di xin cho mình xuất gia.
Sa di Saṅkicca bảo năm trăm tên cướp lấy lưỡi gươm cạo tóc và cắt bỏ lại quần áo, lấy đất nâu nhuộm màu làm thành y đắp xong rồi, mới truyền mười giới cho đệ tử, lúc dắt họ đi ông thầy tự nghĩ: “Nếu ta đi luôn không về thăm các Trưởng lão thì các Ngài sẽ không thể hành Sa môn Pháp được, vì cứ ngỡ rằng bọn cướp đã bắt giết ta rồi. Từ lúc ta ra đi không một Ngài nào cầm được nước mắt, cứ mãi băn khoăn với ý nghĩ: “Tội nghiệp cho ông Sa di bị bọn cướp giết chết.” Các Ngài không thể định tâm chuyên chú niệm đề mục được, bởi thế ta phải về thăm các Ngài.”
Cùng với đoàn tùy tùng năm trăm Tỳ khưu, Sa di Saṅkicca trở về chỗ ngụ của các Trưởng lão cho các Ngài được thấy mình.
Các Ngài Trưởng lão mừng rỡ hỏi:
- Ồ! Bậc Thiện trí thức (Sappurisa) Saṅkicca, Ngài còn sống phải chăng?
Nghe vậy Saṅkicca đáp:
- Dạ phải, bạch các Ngài. Những vị nầy đã tính giết con nhưng không giết được, trở lại có tâm tịnh tín đối với ân đức của con, sau khi nghe pháp các vị nầy đã xuất gia, con về đây thăm các Ngài. Các Ngài hãy chuyên cần hành Sa môn Pháp từ nay về sau, còn con sẽ về yết kiến Đức Thế Tôn.
Sau khi đảnh lễ các Trưởng lão, Saṅkicca dắt các đệ tử về thăm thầy Tế độ, ông thầy hỏi:
- Nầy Saṅkicca, con mới kiếm được những đệ tử phải không?
- Dạ phải, bạch Ngài.
Rồi Sa di đem những việc đã qua trình cho thầy biết.
Trưởng lão bảo: “Nầy Saṅkicca, con hãy đi yết kiến Đức Bổn Sư đi”.
- Lành thay.
Sa di Saṅkicca đảnh lễ Trưởng lão rồi dắt các đệ tử đến chỗ Đức Bổn Sư đang ngự. Đức Bổn Sư cũng hỏi:
- Nầy Saṅkicca con mới kiếm được những đệ tử phải không?
Sa di Saṅkicca lại đem mọi việc vừa qua trình lên cho Đức Bổn Sư biết. Đức Bổn Sư hỏi các Tỳ khưu đệ tử: “Nầy các Tỳ khưu có đúng như thế không?”.
- Dạ đúng, bạch Ngài.
Nghe vậy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, các thầy đã làm nghề trộm cướp, dầu cho có sống cả trăm năm trong tà Giới hạnh, không bằng bây giờ chỉ sống một ngày mà Trì Giới nghiêm minh”.
Đức Bổn Sư thuyết pháp, rồi kết luận bằng bài kệ rằng:
110. “Yo ca vassasataṃ jīve,
dussīlo asamāhito;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
sīlavantassa jhāyino.”
110. “Sống trăm năm, tuổi thọ trường,
Mà không giữ Giới, không nương pháp Thiền.
Không bằng sống một ngày nguyên,
Trì Giới trong sạch, tu Thiền nhất tâm.”
*
CHÚ GIẢI:
Dussīlo: Đồng nghĩa với Nissīlo là không có hạnh kiểm, phá giới.
Sīlavantassa: Người phá giới dù sống cả trăm năm nếu so với người Trì giới, tu hai pháp Thiền Chỉ Quán, chỉ sống trong một ngày, hoặc là trong giây lát thì người sau này vẫn quí báu cao thượng hơn.
*
Cuối thời pháp, năm trăm Tỳ khưu này đắc quả A La Hán với Tuệ Phân Tích. Đại chúng thính pháp cũng đều hưởng được lợi ích.
Thời gian sau, Sa di Saṅkicca thọ Cụ túc giới và khi tròn đủ mười hạ Tỳ khưu rồi mới thu nhận một vị Sa di, là cháu gọi Trưởng lão Saṅkicca bằng cậu, tên là Adhimuttaka (Siêu Thoát).
Khi Sa di tròn đủ hai mươi tuổi, Trưởng lão gọi ông và bảo: “Ta sẽ cho con thọ Cụ túc giới, con hãy đi về hỏi thân quyến cho biết rõ số tuổi của con rồi trở lại đây.”
Từ giã thầy Tế độ, ông Sa di lên đường về thăm cha mẹ, dọc đường ông bị năm trăm tên cướp bắt, định giết ông để tế Chư Thiên, ông đã thuyết pháp cho họ nghe, khiến họ phát tâm trong sạch, thả ông ra và dặn: “Thầy không nên báo tin cho ai biết là có bọn chúng tôi ở trong chỗ này cả nhé!”.
Trên đường ngược chiều, thấy cha mẹ đến, ông cùng đi với cha mẹ trở lại lối cũ mà không nói cho ông bà biết sự thật để giữ mình, khi bị bọn cướp bắt và làm khó dễ, nên ông bà trách rằng: “Chắc có lẽ ông một phe với bọn cướp, nên không báo tin cho chúng tôi biết”.
Nghe tiếng khóc than của ông bà, bọn cướp mới biết ông Sa di đã giữ đúng lời hứa, dầu với cha mẹ cũng chẳng tiết lộ sự bí mật của họ, nên họ càng phát tâm tịnh tín đồng yêu cầu xin xuất gia.
Ông nầy cũng như Trưởng lão Saṅkicca lúc trước đã cho tất cả bọn cướp xuất gia rồi dắt họ về ra mắt thầy Hòa Thượng. Vâng lời thầy, ông đưa họ đến yết kiến Đức Bổn Sư và tường thuật mọi việc với Ngài. Đức Bổn Sư hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu có đúng thế không?
- Bạch Ngài đúng vậy.
Y như lần trước, Đức Bổn Sư thuyết pháp cho năm trăm Tỳ khưu này nghe, rồi kết luận bằng kệ ngôn rằng:
“Yo ca vassasataṃ jīve,
dussīlo asamāhito;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
sīlavantassa jhāyino.”
Do câu chuyện trên đây, sự tích Chú giải câu Kệ Pháp Cú này cũng được gọi là tích Sa di Adhimuttaka (Siêu Thoát).
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Sa di Đòn Xóc pháp cao cường,
Gươm chém trơ trơ, cướp phải nhường,
Bảy tuổi đã làm thầy Tiếp dẫn,
Giúp năm trăm cướp được hoàn lương,
Đã cứu ba mươi Trưởng lão già,
Khỏi tay cướp giết ở rừng xa,
Thảy đều đắc quả A La Hán,
Ông dắt cướp về lễ Phật Đà.
Phật dạy các thầy mới xuất gia:
Một ngày Đạo hạnh, có Thiền na,
Còn hơn trăm tuổi không tự chế,
Tội lỗi như thời gian đã qua…
DỨT TÍCH SA DI ĐÒN XÓC
110. Virtuous and wise life of a single day outweighs a hundred years of sinful unbridled life.
110. Chỉ sống một ngày giữ giới hạnh và có trí tuệ còn hơn sống cả trăm năm buôn lung theo ác giới.
110. Yo ca vassasataṃ jīve,
dussīlo asamāhito;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
sīlavantassa jhāyino. (8:11)
110. Though one should live a hundred years
foolish, uncontrolled,
yet better is life for a single day
moral and meditative.
----
VIII. 10 - Tích TRƯỞNG LÃO KIỀU TRẦN NHƯ GỐC CÂY
(Khāṇukoṇḍaññattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 111)
111. “Yo ca vassasataṃ jīve,
duppañño asamāhito;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
paññavantassa jhāyino.”
111. “Ai sống một trăm năm,
Ác tuệ, không Thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Có tuệ, tu Thiền định”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Khāṇukoṇḍañña (Kiều Trần Như Gốc Cây).
Tương truyền: Sau khi thọ giáo đề mục nơi Đức Bổn Sư, Trưởng lão an cư trong rừng, hành đạo đắc quả A La Hán, định về báo tin mừng với Đức Bổn Sư. Đi đường xa mệt mỏi, Trưởng lão dừng chân rẽ vào ngồi nhập Định trên một tảng đá bằng phẳng.
Khi ấy, có một bọn cướp năm trăm tên, vừa mới đánh phá một làng nọ, vơ vét tài vật, gói ghém cột lại, phần người nào người ấy mang đi. Đường xa mệt mỏi, chúng định nghỉ chân, tìm một tảng đá phẳng đặt các gói đồ xuống, rẽ vào tảng đá phẳng có vị Trưởng lão ngồi, nhưng chúng không thấy Ngài, tưởng rằng: “Đây là một gốc cây”.
Thế rồi, một tên cướp đặt gói đồ của mình lên đầu Trưởng lão, một tên khác lại đặt một gói nữa chồng lên trên. Cứ như thế năm trăm tên cướp đặt năm trăm gói hàng lên mình Trưởng lão rồi nằm lăn ra ngủ. Ngủ đã rồi khi mặt trời mọc, bọn cướp mới thức dậy, mạnh ai nấy nhặt gói đồ của mình, sực thấy Trưởng lão chúng tưởng là phi nhân, kinh hoàng bỏ chạy, Trưởng lão bèn gọi họ lại:
- Nầy các Thiện nam đừng sợ, ta là người xuất gia mà.
Bọn cướp quay lại nằm mọp dưới chân Trưởng lão xin sám hối:
- Bạch Ngài, xin Ngài từ bi hỉ xả tha tội chúng con, chúng con tưởng lầm Ngài là một gốc cây.
Được Trưởng lão miễn lỗi rồi, tên đầu đảng ngỏ lời xin xuất gia với Trưởng lão, nghe vậy tất cả đồng đảng cũng đồng xin xuất gia một lượt với chúa đảng.
Y như Sa di Saṅkicca (Đòn Xóc), Trưởng lão đã cho năm trăm tên cướp xuất gia. Từ đó về sau Trưởng lão được biết với biệt danh là: Kiều Trần Như gốc cây (KhāṇuKoṇḍañña).
Trưởng lão vầy đoàn với năm trăm Tỳ khưu mới này về yết kiến với Đức Bổn Sư, Đức Bổn Sư hỏi: “Nầy Kiều Trần Như, thầy mới kiếm được những đệ tử phải không?”.
Nghe vậy Trưởng lão đem hết mọi việc đã qua, thuật lại với Đức Bổn Sư. Ngài hỏi lại: “Nầy các Tỳ khưu, có đúng như vậy chăng?”.
- Bạch Ngài, đúng thật như vậy. Chúng con đã xuất gia với Trưởng lão, vì chúng con chưa từng thấy ai có thần lực như Trưởng lão cả.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, lúc trước các thầy đã tạo nghiệp Vô Trí tuệ như thế, thì dầu có sống cả trăm năm cũng vô ích không bằng bây giờ chỉ sống một ngày thôi mà có đầy đủ Trí tuệ, tu hành Thiền định.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ rằng:
111. “Yo ca vassasataṃ jīve,
duppañño asamāhito;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
paññavantassa jhāyino.”
111. “Dầu cho sống cả trăm năm,
Thiếu Trí tuệ, chẳng hành thâm pháp Thiền.
Không bằng sống một ngày nguyên,
Là có Trí tuệ, tu Thiền nhất tâm”.
*
CHÚ GIẢI:
Duppaññno: đồng nghĩa với Nippañño là Vô Trí tuệ.
Paññavantassa: sáng, suốt, có Trí tuệ.
Phần còn lại đồng nghĩa với bài Kệ trước.
*
Cuối thời Pháp năm trăm Tỳ khưu đắc quả A La Hán với Tuệ Phân tích. Kỳ dư đại chúng đều hưởng được sự lợi ích nhờ thời Pháp của Đức Bổn Sư.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Trưởng lão nhập Thiền như gốc cây,
Nửa đêm, bọn cướp chạy vào đây,
Máng đồ lên đó, lăn ra ngủ,
Sáng dậy, kêu nhau sám hối thầy!
Bỏ nghề cường đạo, xuất gia liền,
Tất cả theo thầy học đạo Thiền,
Thầy trước, trò sau về viếng Phật,
Cùng nhau sấn bước đến Kỳ Viên.
Phật dạy các thầy mới xuất gia:
Một ngày có Tuệ, có Thiền na,
Còn hơn trăm tuổi không Thiền, Tuệ,
Phóng đãng như thời gian đã qua!
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO KIỀU TRẦN NHƯ GỐC CÂY
111. A day’s life of a wise meditator is greater than a hundred years of an immoral fool.
111. Vị thiền gia có trí tuệ sống một ngày còn hơn kẻ ác giới, ngu si sống một trăm năm.
111. Yo ca vassasataṃ jīve,
duppañño asamāhito;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
paññavantassa jhāyino. (8:12)
111. Though one should live a hundred years
foolish, uncontrolled,
yet better is life for a single day
wise and meditative.
----
VIII. 11 - Tích TRƯỞNG LÃO XÀ NÔ
(Sappadāsattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 112)
“Yo ca vassasataṃ jīve,
Kusīto hīnavīriyo;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
Viriyaṃ ārabhato(1) daḷhaṃ”.
“Ai sống một trăm năm,
Lười nhác không Tinh tấn,
Tốt hơn sống một ngày,
Tinh tấn tận sức mình”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Sappadāsa (Xà Nô).
Tương truyền rằng: Trong thành Sāvatthī (Xá Vệ) có một thanh niên con nhà gia giáo, sau khi được nghe Đức Bổn Sư thuyết pháp, đã xuất gia lên Tỳ khưu. Một thời gian sau, vị nầy bất mãn vì hành đạo không tiến triển, nhưng tự nghĩ: “Con nhà gia giáo như ta mà hoàn tục sống đời cư sĩ thì không đứng đắn, thà là chết trong đạo còn hơn”. Thế rồi vị Tỳ khưu bất mãn đi lang thang, tìm phương thế để tự sát.
Một hôm nọ, vào sáng sớm các Tỳ khưu đã tắm gội, thọ thực xong đi vào chùa, gặp con rắn trong nhà khói (Aggisālā), các Ngài bắt nó bỏ vào trong cái bình, đậy nắp lại rồi mang bình ra khỏi chùa.
Vị Tỳ khưu bất mãn cũng vừa thọ thực xong đi vào thì gặp chư Tăng đi ra, liền hỏi:
– Cái chi đây, các đạo hữu?
– Con rắn, này đạo hữu.
– Các Ngài sẽ làm gì nó?
– Chúng tôi đem nó đi quăng cho xa.
Nghe chư Tăng nói vậy, vị Tỳ khưu tính thầm: “Ta sẽ cho con rắn nầy cắn ta chết”. Thế nên, vị này nói với chư Tăng: “Các đạo hữu hãy đưa tôi, tôi sẽ không quăng nó đâu”.
Chư Tăng trao cái bình qua vị Tỳ khưu, vị này ôm cái bình đi kiếm chỗ ngồi và nhử cho con rắn cắn mình, con rắn không chịu cắn, vị Tỳ khưu thọc tay vào bình quậy lung tung, rồi còn cạy miệng con rắn ra, đút ngón tay của mình vào nữa, nhưng con rắn vẫn không cắn vị này. Vị Tỳ khưu nghĩ thầm: “Con rắn nầy không phải loại rắn
độc”. Bèn bỏ nó đó mà đi vào chùa.
Khi ấy chư Tăng hỏi vị Tỳ khưu:
– Đạo hữu đã quăng con rắn rồi phải không?
– Nầy các đạo hữu! Con rắn đó không phải là rắn độc.
– Nầy đạo hữu! Con rắn đó đã phùng mang, thở phì phì. Chúng tôi khó nhọc lắm mới bắt được nó, sao đạo hữu lại nói như vậy?
– Nầy các đạo hữu, chính tôi đã thọc tay vào bình cho nó cắn, đút ngón tay vào miệng chọc cho nó cắn, mà còn không được kia mà!
Nghe vậy chư Tăng làm thinh. Lại một hôm khác, ba Tỳ khưu tắm xong mang theo hai lưỡi dao cạo vào chùa, bỏ dưới đất một lưỡi, còn một lưỡi dùng cạo tóc cho chư Tăng.
Vị Tỳ khưu bất mãn lượm lưỡi dao bỏ quên trên đất, tính thầm: “Với lưỡi dao này ta sẽ cát cổ tự tử”. Đứng thẳng cần cổ, tự ví mình như một cái cây, đưa lưỡi dao sát cuống họng, vị Tỳ khưu quán xét lại Giới hạnh của mình từ lúc thọ Giới Tỳ khưu đến nay thì thấy Giới của mình hoàn toàn trong sạch, không tỳ vết, vô nhiễm như mặt trăng rằm, tinh khiết như ngọc Ma ni. Quán thấy Giới mình được như vậy, vị Tỳ khưu phát tâm hỷ lạc, toàn thân vui sướng chẳng cùng.
Sau khi xả bỏ hỷ lạc, phát triển Tuệ Minh sát vị Tỳ khưu đắc quả A La Hán với Tuệ Phân tích, rồi bèn cầm lưỡi dao cạo đi vào giữa chùa. Chư Tăng hỏi vị ấy:
– Đạo hữu nãy giờ đi đâu?
– Thưa các đạo hữu, với lưỡi dao nầy tôi đã đi cắt cuống họng, tự tử.
– Thế sao đạo hữu không chết?
– Khi cầm con dao nầy đi ra, tôi tự nhủ: “Ta không có thể sống dưới dao bén nầy, ta sẽ cắt đứt cuống họng của ta”. Thì bỗng nhiên lưỡi dao Trí tuệ đã cắt đứt tất cả phiền não của tôi.
Các Tỳ khưu cho là vị này nói dối, phạm giới đại vọng ngữ, nên đi mách với Đức Bổn Sư. Đức Thế Tôn nghe chư Tăng tường trình xong liền giải thích rằng:
– Nầy các Tỳ khưu, các bậc Lậu tận không bao giờ tự tay cắt đi sinh mạng của mình(1).
– Bạch Ngài, Ngài dạy rằng vị này là bậc Lậu tận, nếu đã đầy đủ căn lành để đắc quả A La Hán, tại sao vị này còn bất mãn? Do đâu mà vị ấy đắc quả A La Hán và tại sao con rắn không cắn vị này?
– Nầy các Tỳ khưu, vì lẽ con rắn ấy đã từng là nô bộc của vị ấy trong ba kiếp, cho nên nay nó không cố gắng cắn mổ thân thể của chủ nó.
Như lời Phật dạy, vị A La Hán không bao giờ tự sát, vị Tỳ khưu trong Phật giáo tự sát phạm tội tác ác, phải sa Địa ngục bảy ngày sau khi chết. Nhưng cũng có trường hợp tự sát mà đắc A La Hán
trong giờ phút chót, như Trưởng lão Cồ Điệt (Godhika) (Kệ Pháp Cú số 57, Phẩm Hoa).
Trường hợp của Trưởng lão Xà Nô lại khác: Ngài không chết vì chưa cắt cổ mà đã đắc A La Hán, do đó ý nghĩ tự sát không còn. Ngài chỉ cắt đứt phiền não bằng lưỡi dao Trí tuệ mà thôi. – Chỗ nầy bản dịch của ông Phạm Kim Khánh có hơi khác: “… Thầy lấy dao tự cắt lấy cuống họng, lúc cắt xong Thầy suy niệm về đời sống toàn thiện, tận lực cố gắng Tham thiền và đắc quả A La Hán trước khi nhắm mắt…”. Sự khác biệt nầy có lẽ xuất phát từ nguyên bản Pāḷi, tức là có hai bản chảnh khác nhau vậy. (TKPM).
Bằng bấy nhiêu lời, Đức Bổn Sư đã chỉ cho các Tỳ khưu thấy được một nguyên do. Do vậy, từ đó về sau Trưởng lão được mệnh danh là Sappadāsa (Xà Nô).
Cũng do lời Đức Thế Tôn thuật lại, trong thời của Đức Phật Kassapa (Ca Diếp), có một thanh niên con nhà khá giả, sau khi nghe pháp của Đức Giáo Chủ, phát tâm kinh cảm liền xin xuất gia và được thọ giới Tỳ khưu. Một thời gian sau, sanh tâm buồn chán, vị ấy bày tỏ nỗi lòng cho một Tỳ khưu bạn biết. Vị sau này thường thuyết giảng, nhắc bạn về sự bất lợi tội lỗi của đời sống tại gia. Nhờ nghe pháp, vị trước lại vui thích sống trong Giáo Pháp, mới đem những vật phụ tùng để hành Sa môn pháp mà khi trước mình đã bỏ cho lem uế, đến ngồi bên một bờ ao để giặt giũ cho sạch bụi.
Vị Tỳ khưu bạn cũng đến ngồi gần đó, vị kia nói với bạn rằng:
– Nầy đạo hữu, khi muốn hoàn tục, tôi đã có ý định tặng đạo hữu tất cả những vật phụ tùng nầy.
Vị Tỳ khưu bạn sanh lòng tham muốn, nghĩ rằng: “Bạn ta còn tu hay không còn tu, đối với ta có nghĩa gì? Ta đừng để phí mất những vật phụ tùng này”.
Từ đó về sau, vị Tỳ khưu bạn thay đổi chiều hướng, thuyết pháp ca tụng đời sống tại gia, chẳng hạn như: “Nầy đạo hữu, tại sao ta cứ mãi sống đời sống xuất gia, hằng ngày ôm bát đi khất thực nơi những gia đình người khác? Tại sao ta không ở nhà vui thú đoàn viên, chuyện trò thân mật với vợ con ta?”.
Nghe bạn thốt lời như thế, vị Tỳ khưu kia lại bất mãn, nghĩ thầm rằng: “Bạn ta lúc trước nghe ta ngỏ ý bất mãn đời sống Phạm hạnh thì đã thuyết pháp chỉ rõ sự bất mãn tội lỗi đời sống tại gia, bây giờ lại thường xuyên ca tụng là tại cớ gì?”.
Suy xét kỹ, vị ấy biết bạn mình vì có tâm tham muốn được những vật phụ tùng này nên mới trở lòng như vậy. Đó là cái nhân bất mãn từ thời Đức Phật Kassapa còn lưu lại đến bây giờ, khiến vị Tỳ khưu này có tâm bất mãn. Còn công phu tu hành Sa môn Pháp suốt hai muôn năm qua là nhân khiến cho vị này có duyên đắc quả A La Hán.
Chư Tăng nghe Đức Thế Tôn giải thích đủ ba nguyên do rồi, còn đặt thêm một câu hỏi nữa:
– Bạch Ngài, nghe nói Tỳ khưu này trong lúc đứng kê lưỡi dao sát cuống họng thì đắc A La Hán ngay. Như thế thì A La Hán đạo phát sanh trong một khoảnh khắc ngắn ngủi bằng một sát na hay sao?
– Phải đó! Nầy các Tỳ khưu! Tỳ khưu nào chuyên cần Tinh tấn, giở bàn chân lên rồi đặt trở xuống đất, bàn chân chưa tới đất A La Hán đạo đã phát sanh rồi. Đời sống của vị chuyên cần Tinh tấn, dầu trong giây lát còn quý báu hơn đời sống của người một trăm tuổi mà biếng nhác giải đãi. Nói rồi, Đức Thế Tôn thuyết pháp và kết luận bằng kệ:
“Yo ca vassasataṃ jīve,
Kusīto hīnavīriyo;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
Viriyaṃ ārabhato daḷhaṃ”.
“Dầu cho sống cả trăm năm,
Mà lười biếng, chẳng tận tâm tu hành.
Không bằng sống một ngày lành,
Luôn luôn Tinh tấn, nhiệt thành nhất tâm”.
CHÚ GIẢI:
Kusīto: người miệt mài truy hoan, chú tâm đi tìm dục lạc (bằng ba cái tầm: Tīhi vitakkehi).
Hīnavīriyo: đồng nghĩa với Nibbīriyo là không Tinh tấn.
Viriyaṃ arabhato daḷhaṃ: đây là đề cập đến sự tinh tấn, có thể đưa hành giả chứng Níp Bàn, bằng hai pháp Thiền Chỉ và Quán. Các câu khác còn lại đồng nghĩa như trước.
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Trưởng lão Xà Nô quá chán đời,
Thò tay chọc rắn cắn mình chơi,
Rắn quen chủ cũ, không thèm cắn,
Ngài thả cho đi, bảo: Rắn lười!
Lại lượm con dao, dựa nhánh cây,
Nguyện rằng: “Cắt cổ với dao này,
Não phiền sẽ sạch, không dư sót,
Mạng sống cũng đành dứt tại đây!”.
Nhưng khi quán xét Giới mình xong,
Trưởng lão đắc ngay Lậu tận thông,
Tăng chúng hỏi Ngài: “Sao chẳng chết?”
Ngài rằng: “Nhờ chứng được Tâm không!”
Tăng chúng hoài nghi hỏi Phật đà,
Phật rằng: Chỉ sống một ngày qua,
Chuyên cần Tinh tấn còn hơn sống,
Suốt cả trăm năm giải đãi mà!
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO XÀ NÔ
----
VIII. 12 - Tích NÀNG SA ĐỌA ĐẮC A LA HÁN
(Paṭācārātherīvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 113)
“Yo ca vassasataṃ jīve,
Apassaṃ udayabhayaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
Passato udayabhayaṃ”.
“Ai sống một trăm năm,
Không thấy Pháp Sinh Diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được Pháp Sinh Diệt”.
Kệ Pháp Cú này, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Tỳ khưu Ni Paṭācārā (Sa Đọa).
Tương truyền: Tiểu thơ Paṭācārā là con gái của một ông Bá hộ giàu có đến bốn trăm triệu đồng vàng, nhan sắc của nàng tuyệt đẹp.
Khi nàng đến tuổi cập kê (mười sáu tuổi), cha mẹ nàng cho nàng ở trên tầng lầu thượng của tòa nhà bảy từng để tiện bề gìn giữ nàng.
Nào ngờ nàng ở một mình lại tư thông với người tớ trai của nàng.
Ông bà Bá hộ kén được một chàng rể môn đăng hộ đối và đã hứa lời định ngày làm lễ hỏi với đàng trai. Gần đến ngày đám hỏi, tiểu thư nói với tình nhân rằng:
– Em nghe nói cha mẹ sẽ gả em cho công tử con nhà đó. Họ đàng trai cũng sắp đến để lấy danh thiếp của em về coi tuổi. Anh sẽ không được lưu trú ở đây nữa. Nếu anh có lòng yêu em thì anh hãy dắt em đi trốn khỏi nhà này.
Người tớ trai đáp: “Lành thay, em yêu quý! Vậy thì sáng mai anh sẽ đứng đón em tại một địa điểm ấy, ở cổng thành, còn em thì hãy dùng một phương tiện nào đó mà ra khỏi thành rồi đi đến đó”.
Ngày sau, chàng trai đi trước, đến đứng chờ tại chỗ đã hẹn, còn tiểu thơ từ sáng sớm đã mặc quần áo dơ dáy, bỏ xỏa tóc ra, lấy cám thoa khắp mình mẩy đầu cổ, tay ôm cái bình, trà trộn với đám nữ tỳ mà thoát ra khỏi nhà, rồi đi đến ngay chỗ hẹn.
Chàng trai dắt nàng đi thật xa, đến định cư tại một làng nọ, vào rừng phát rẫy cày ruộng rồi đem cây, củi, lá v.v… về nhà. Còn tiểu thơ thì ở nhà phải ôm bình đi xách nước, chẻ củi nấu cơm, cam lòng chịu đựng hậu quả việc làm quấy ác của mình. Thế rồi tiểu thơ có thai.
Đến khi thai đã đủ tháng, tiểu thư yêu cầu chồng rằng:
– Em ở đây đơn chiếc, không có ai ở đây phụ đỡ tay chân. Cha mẹ nào đối với các con cũng có lòng từ mẫn, vậy anh hãy đưa em về với cha mẹ em, để em sanh con ở đó.
Người chồng từ chối, viện cớ rằng:
– Hiền thê ơi! Sao em nói vậy? Gặp mặt anh ắt là cha mẹ em sẽ hành phạt anh đủ thứ. Anh không thể nào đi về ở đó đâu!
Tiểu thơ nài nỉ, van xin năm lần bảy lượt cũng không được, thừa dịp chồng đi vào rừng, mới tìm người láng giềng dặn rằng: “Nếu chồng tôi về không thấy tôi, ắt sẽ hỏi tôi đi đâu, nhờ bà con nói giùm với anh ấy là tôi đã đi về quê ngoại”.
Khi người chồng về nhà không thấy vợ, hỏi thăm làng xóm thì được nghe lặp lại mấy lời của tiếu thơ đã nhắn. Anh ta hối hả đuổi theo để bắt vợ trở lại, nhưng khi bắt kịp nàng, anh ta năn nỉ cách gì, nàng chẳng chịu quay đầu.
Hai người cùng đi, đến một chỗ nọ, tiểu thư chuyển bụng. Nàng rẽ vào một bên đường, nói với chồng: “Anh ơi! Em chuyển bụng”. Nói rồi, nàng nằm ngay xuống đất, lăn lộn, trăn trở khó nhọc lắm mới sanh ra đứa con trai. Con đã sanh rồi, thì mục đích trở về quê cũng không còn, tiểu thơ bồng con lủi thủi theo chồng trở về nhà cũ, sống chung như trước.
Một thời gian sau, nàng lại có mang. Khi thai đủ tháng, nàng cũng van xin chồng như trước mà không được, rồi cũng lén chồng ẵm con ra đi. Chồng nàng đuổi theo gặp nàng, nhưng nàng không chịu trở lại.
Hai người đang đi, bỗng nhiên trời đổ trận mưa to, chớp giăng tứ phía sáng rực như lửa cháy. Sấm sét nổ vang như trời long đất lở, mưa tuôn xối xả không ngớt hột.
Ngay lúc ấy, tiểu thư lại bắt đầu chuyển bụng. Nàng kêu chồng nói rằng: “Anh ơi! Em chuyển bụng! Em không chịu đựng nổi qua cơn mưa này. Anh ráng làm sao tìm chỗ cho em tránh mưa”.
Người chồng xách dao bên mình đã mang theo, đi đây đi đó, kiếm đồ che mưa thì thấy một bụi rậm trên một cái nổng cao, định leo lên để chặt. Bất ngờ, một con rắn độc từ trong gò nổng chui ra cắn anh ta. Tức khắc, trong mình anh nghe như có ngọn lửa nổi lên thiêu đốt. Mặt mày anh tái xanh, anh ngã ngay xuống đó.
Tiểu thơ nằm chờ chồng trở lại, ráng sức chịu đựng đau khổ lớn lao, nhưng càng trông càng bặt tích vắng tăm, rốt cuộc nàng sanh ra đứa con trai thứ hai trong cô quạnh. Một mình với hai đứa con thơ giữa cảnh mưa gió phũ phàng, tiểu thơ không dằn được nỗi lòng, lớn tiếng khóc la thảm thiết… Nhưng nàng gắng gượng đặt hai con thơ vào giữa bụng, tự mình chống hai đầu gối và hai tay xuống đất mà chịu suốt cả một đêm. Toàn thân nàng trổ màu vàng như chiếc lá úa, coi như là không có máu vậy.
Khi mặt trời mọc, màu đỏ như cục thịt, tiểu thơ tay bồng, tay dắt hai đứa con côi, lần mò đi tìm chồng. Theo dấu chân, nàng đi đến gò mối, thấy chồng đã chết, xác ngã nằm đơ ra đó đã có màu xanh.
Tiểu thơ rống lên khóc than rên xiết: “Chồng ta là chỗ ta nương tựa, đã chết ở giữa đường rồi”.
Trời mưa suốt đêm qua, bây giờ đã tạnh, nhưng nước sông Aciravatī dâng lên cao, có chỗ sâu tới đầu gối, có chỗ sâu tới ngực.
Tiểu thơ thấy mình còn yếu đuối, lại đèo bồng hai đứa con thơ, không dám mạo hiểm băng ngang sông, bèn để đứa lớn ở lại bờ bên này, còn đứa nhỏ thì ẵm qua bên kia sông. Tiểu thơ bẻ cành cây trải ra, đặt đứa nhỏ nằm lên đó, để trở lại rước luôn đứa lớn.
Nhưng vì dỗ đứa nhỏ không được, tiểu thư cứ phải quay đi quay lại nhiều lần, vừa đi mà vừa ngó chừng nó.
Trong lúc tiểu thư đi đến giữa sông, một con diều hâu nhìn thấy đứa bé đỏ hỏn, tưởng là cục thịt, từ trên không đáp xuống, thấy con diều hâu đáp xuống định sớt con mình, tiểu thơ giơ hai tay lên cao, thét lên ba tiếng lớn: hù, hù, hù, để xua đuổi nó.
Nhưng vì tiểu thơ đứng cách xa, con diều hâu không nghe tiếng la, nên cứ sớt đứa con nhỏ mang đi.
Đứa con lớn còn đứng ở bên bờ này, thấy mẹ ở giữa sông giơ hai tay lên la lớn tiếng, thì tưởng rằng mẹ nó gọi nó, nên chạy ào xuống nước. Thế là đứa con nhỏ của tiểu thư đã bị diều hâu sớt mất, đứa con lớn thì lại bị nước cuốn trôi.
Tiểu thơ khóc nức nở than rằng: “Hai con tôi, một đứa bị diều hâu sớt, một đứa bị nước cuốn trôi, chồng tôi chết ở giữa đường”, vừa đi vừa kể lể như thế. Nàng gặp một người đàn ông từ thành Sāvatthī (Xá Vệ) đi lại bèn hỏi:
“Cậu đây là người cư ngụ ở đâu?”.
– Là người ở Sāvatthī cô à.
– Trong thành Sāvatthī, dọc đường đó có một gia đình Bá hộ tên đó, cậu có biết chăng?
– Tôi biết lắm, nhưng cô đừng hỏi về gia đình nầy. Hãy hỏi về gia đình khác đi cô ạ.
– Gia đình khác không dính dáng gì đến tôi, tôi chỉ hỏi về gia đình này mà thôi cậu à.
– Cô à! Chuyện này đáng lẽ thì không nên nói ra cho cô biết làm chi.
– Xin cậu cứ nói cho tôi biết đi cậu.
– Hôm nay cô có thấy trời mưa suốt cả đêm không?
– Có, tôi có thấy trời mưa suốt cả đêm nay. Nhưng thôi cậu đừng đem chuyện trời mưa mà nói với tôi nữa làm chi. Bây giờ xin cậu hãy nói cho tôi biết tin tức về gia đình ông Bá hộ.
– Này cô, hồi hôm này cả nhà ông Bá hộ có ba người là: Ông, bà và cậu công tử đều bị nhà sập đè chết cả. Bây giờ, có nhiều người xúm lại thiêu xác, khói lên ở đây cũng thấy đó cô à!
Nghe vậy, nàng Patācārā phát điên, không còn biết đến quần áo gì nữa, cứ đứng trần truồng mà than khóc kể lể.
“Ubho puttā kālakatā,
Panthe mayhaṃ pati mato;
Mātā pitā ca bhātā cā,
Ekacitakamhi ḍayhareti”.
“Chết rồi hai đứa con thơ,
Giữa đường chồng chết, bơ vơ một mình.
Mẹ, cha, em ở gia đình,
Lửa thiêu mất xác bóng hình còn đâu”.
Nàng Patācārā cứ đi loanh quanh, miệng nói lảm nhảm, dân chúng thấy nàng cứ gọi: “Con điên, con điên”, rồi kẻ lấy rác, người hốt bụi râc lên đầu nàng, hoặc lấy đất cục mà chọi nàng.
Đức Bổn Sư đang ngự tọa trong Kỳ Viên đại tự, đang thuyết pháp giữa tứ chúng.
Trông thấy nàng đi đến, biết là người có tròn đủ nguyện vọng thực hành pháp Thập Độ Ba La Mật (Pāramī) trong một trăm ngàn đại kiếp vừa qua.
Tương truyền vào thời Đức Phật Padumuttara (Thượng Liên Hoa), nàng Patācārā này đã nắm lấy cánh tay của Trưởng lão Ni tinh thông Tạng Luật, đệ tử của đức Giáo chủ Thượng Liên Hoa và hoan hỷ như gặp một vật quý cất giữ trong rừng Khoái Lạc, nàng đã ước mong phát nguyện rằng: “Con nguyện về sau sẽ đạt được quả vị tối cao trong số các Trưởng lão Ni Giới đức, là vị Trì Luật ở Đức Phật vị lai giống như Ngài vậy”.
Đức Phật Padumuttara quán xét về vị lai, biết rằng lời nguyện này sẽ thành tựu, bèn thọ ký cho cô Tín nữ rằng: “Trong ngày vị lai vào thời Đức Phật Gotama (Cồ Đàm), nàng có tên là Patācārā nầy sẽ là vị Tỳ khưu Ni giỏi nhất về Tạng Luật”.
Do nàng đã tròn đủ hạnh nguyện Ba la mật như thế, cho nên vừa thấy nàng từ xa đi đến, Đức Bổn Sư đã nghĩ thầm: “Ngoài Ta ra, không ai có thể là người tế độ cho nàng Patācārā cả”. Rồi Ngài dùng Thần thông khiến cho nàng đi ngay đến trước cổng chùa. Các thiện tín thấy nàng Patācārā, vội bảo nhau: “Cô này điên, ta đừng để cô ấy vào đây”.
Đức Bổn Sư lên tiếng: “Các thiện tín hãy lánh mặt, đừng ai cản đường cô ấy cả”.
Rồi Ngài ra lịnh: “Khi vào đến gần đây, nàng hãy tỉnh trí trở lại!”.
Nhờ oai lực của đức Phật, nàng Patācārā lập tức phục hồi được Chánh niệm. Ngay lúc ấy nàng nhận thấy trạng thái lõa lồ của mình, tự nhiên phát tâm Tàm quý, liền ngồi xổm xuống, một thanh niên ném cho nàng một chiếc y choàng, nàng quấn lá y, đến trước hai bàn chân màu vàng ròng của Ngài, gieo năm vóc xuống đảnh lễ Ngài, mở lời cầu khẩn:
– Bạch Ngài, xin Ngài hãy là người tế độ con, xin Ngài hãy là người giúp đỡ con.
Một đứa con của con đã bị diều hâu sớt mất, một đứa nữa bị nước cuốn trôi, chồng con đã chết giữa đường, cha mẹ và em trai của con đều bị sập nhà đè chết, xác đã thiêu trên giàn hỏa…
Nghe mấy lời thiết yếu của thiếu phụ, Đức Bổn Sư khuyên giải rằng:
– Nầy Patācārā, con chớ bận tâm lo nghĩ, khi con nương nhờ ỷ lại vào các thân nhân thì họ chỉ có thể tế độ cứu giúp con đến ngần ấy thôi. Con hãy ráng nhớ lại coi, cũng như bây giờ con mất hai đứa con, một đứa bị diều hâu sớt, một đứa bị nước cuốn trôi, chồng con bị chết ở giữa đường, cha mẹ và em trai con đã bị nhà sập đè chết.
Thì cũng thế, trong vòng luân hồi nầy, con đã từng chịu tang tóc khóc chồng, khóc con, khóc cha mẹ anh em như vậy đã vô số lần rồi, cho đến nỗi nước mắt con đổ ra, nếu chứa lại để dành thì nhiều hơn nước trong bốn đại trùng dương. Nói rồi, Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:
“Catūsu samuddesu jalaṃ parittakaṃ,
Tato bahuṃ assujalaṃ anappakaṃ;
Dukkhena phuṭṭhassa nārassa socato,
Kiṃkāranā amma tuvaṃ pamajjasīti”.
“Nước trong bốn biển có bao nhiêu?
Nước mắt so ra mới thật nhiều!
Trong cõi nhân gian đây khổ lụy,
Sao con lơ đễnh thả xuôi chiều???”
Trong khi Đức Bổn Sư thuyết giảng về cái vòng sanh tử triền miên mà không ai biết được khởi thủy như thế, thân tâm nàng Patācārā vơi lần những sầu muộn. Biết rằng nàng đã bớt thảm giảm sầu. Đức Bổn Sư lại tiếp gọi nàng và dạy:
– Nầy Patācārā, đến giờ qua thế giới khác, thì dầu cho thân thích như chồng con, cũng không thể làm chỗ cứu giúp, chỗ nương nhờ hoặc chỗ ẩn náu cho nàng được.
Bởi thế cho nên, trong giờ phút hiện tại đây, nàng hãy noi giương bậc Hiền trí, Trì giới trong sạch, tự mình quét dọn con đường đi đến Níp Bàn.
Nói rồi Đức Bổn Sư lại thuyết pháp và ngâm lên hai kệ ngôn:
“Na santi puttā tāṇāya,
Na pitā nāpi bandhavā;
Antakenādhipannassa,
Natthi ñātīsu tāṇatā.
Etamatthavasaṃ natvā,
Paṇḍito sīlasaṃvuto;
Nibbānagamanaṃ maggaṃ,
Khippameva visodhayeti”.
Đến giờ phút lâm chung, không có sự bảo vệ từ nơi con cái, hoặc từ nơi cha mẹ, vợ chồng, cũng không có sự bảo vệ từ nơi thân quyến.
Hiểu biết chân lý nầy rồi, bậc Hiền trí hãy thu thúc trong Giới luật, sớm lo quét sạch con đường Đạo quả Níp Bàn. Cuối thời Pháp, bao nhiêu phiền não của nàng Patācārā nhiều như số bụi phủ đầy mặt địa cầu đều bị thiêu rụi và nàng đắc quả Nhập lưu. Nhiều người khác cũng đắc Thánh quả nhất là Tu Đà Hườn.
Sau khi đắc quả Nhập lưu, nàng Patācārā xin xuất gia với Đức Bổn Sư. Đức Thế Tôn gởi nàng qua xuất gia bên Tỳ khưu Ni. Sau khi thọ cụ túc giới, người ta vẫn gọi nàng là Tỳ khưu Ni Patācārā, nghĩa là “Sa đọa”, do quãng đời bi đát của nàng đã trải qua.
Một hôm nọ, Tỳ khưu Ni Patācārā cầm bình đi múc nước, xối nước rửa chân, nước xối chảy đi một chút rồi đứng lại, lần thứ hai nước chảy xa hơn, lần thứ ba nước xối càng đi xa hơn nữa.
Patācārā lấy việc xối nước làm đối tượng để quán xét ngay lúc ấy: “Những chúng sanh nầy chết khi tuổi thọ đầu tiên, giống như dòng nước ta xối rửa chân lần đầu vậy. Họ chết khi tuổi thọ bậc trung, giống như nước ta xối lân thứ nhì đi xa hơn một chút nữa và họ chết khi hết tuổi thọ lần cuối cùng cũng giống như ta xối nước lần thứ ba càng đi xa một chút vậy thôi(1)”.
Đút Bổn Sư ngự tọa trong huơng thất, phóng tỏa hào quang thị hiện như đứng truớc mặt Tỳ khưu Ni nầy thuyết rằng:
– Nầy Patācārā, những chúng sanh dầu có sống một trăm năm mà không nhận thấy sự sanh diệt trong ngũ uẩn như thế đó, thì không bằng người chỉ sống trong một ngày hoặc một sát na mà nhận thấy sự sanh diệt của chúng.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bâng câu kệ rằng:
“Yo ca vassasataṃ jīve,
Apassaṃ udayabbayaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
Passato udayabbayaṃ”.
“Dấu cho sống cả trăm năm,
Không thấy sanh diệt thân tâm Vô thường.
Không bằng sống một ngày trường,
Mà được thấy Pháp Vô thường diệt sanh”.
CHÚ GIẢI:
Apassaṃ udayabbayaṃ: không thấy hai mươi lăm tướng sanh và hai mươi lăm tướng diệt cùa Ngũ uẩn, gọi là không thấy Pháp Sanh Diệt của Ngũ uẩn.
Passato udayabbayaṃ: người thấy được Pháp Sanh Diệt thì đầu có sống một ngày cũng còn quý hơn người trước.
*
Cuối thời Pháp Tỳ khưu Ni Sa Đọa đắc quả A La Hán với Tuệ Phân Tích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Rửa chân, dội nước đủ ba lần,
Sa Đọa tự mình đạt lý chân:
Tuổi thọ quần sanh như thế cả,
Ngắn dài, tùy thuộc ở nguyên nhân!
Phật dạy: Một ngày thấy Pháp Hành,
Vô thường biến đổi, thật mong manh,
Còn hơn sống thọ trên trăm tuổi,
Mà chẳng suốt thông lẽ diệt sanh.
DỨT TÍCH NÀNG SA ĐỌA ĐẮC A LA HÁN
----
VIII. 13 - Tích NÀNG KIỀU ĐÀM ỐM ĐẮC A LA HÁN
(Kisāgotamīvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 114)
114. “Yo ca vassasataṃ jīve,
apassaṃ amataṃ padaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
passato amataṃ padanti.”
114. “Ai sống một trăm năm,
Không thấy Câu Bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được Câu Bất tử.”
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến nàng Kisāgotamī (Kiều Đàm Ốm).
Tương truyền: Trong thành Sāvatthī (Xá Vệ), có nhà một ông Bá hộ tự nhiên tài sản bốn trăm triệu đồng vàng biến thành than. Ông Bá hộ thấy vậy lấy làm phiền muộn, bỏ cả ăn uống nằm liệt trên giường.
Khi ấy, có một người bạn đến nhà thăm ông và hỏi:
- Bạn à, sao bạn buồn rầu dữ vậy?
Nghe rõ câu chuyện tâm sự của Bá hộ, người bạn khuyên:
- Thôi bạn đừng lo rầu nữa, tôi biết một phương pháp giải khổ cho bạn, bạn hãy làm theo lời tôi chỉ dẫn.
- Tôi làm gì bây giờ hở bạn?
- Nầy bạn, bạn hãy đích thân ra chợ, trải chiếc chiếu lác, đổ than vun thành đống, rồi ngồi giả làm người bán than. Trong số những khách hàng qua lại, gặp người nào hỏi: “Mấy người kia bán vải, dầu, mật ong, mật mía…Còn ông sao lại ngồi bán than?”. Bạn hãy trả lời rằng: “Của tôi mà tôi không bán thì tôi sẽ làm cái chi?”. Còn gặp người nào hỏi: “Mấy người khác bán vải, dầu, mật ong, mật mía… còn ông sao lại ngồi bán vàng bạc ở đây?”, bạn hãy trả lời rằng: “Bạc vàng ở đâu?”, nếu người ấy chỉ “Đây nè!”, bạn hãy bảo: “Đâu mang lại cho tôi xem”. Rồi bạn xòe tay ra thọ lãnh. Khi người ấy trao qua tay bạn như thế than nằm trong tay bạn sẽ trở thành bạc vàng. Nếu đó là một cô gái, bạn hãy cưới về cho con trai bạn cùng ở chung trong nhà, giao hết tài sản bốn trăm triệu đồng vàng cho cô dâu trọn quyền xuất phát. Nếu là cậu con trai, bạn hãy rước về gả con gái tới tuổi cập kê cho cậu, rồi giao hết số tài sản bốn trăm triệu đồng vàng cho chàng rể trọn quyền xuất phát.
Ông Bá hộ mừng rỡ, đem thực hành ngay diệu kế của người bạn, đích thân ra chợ đông, đổ than vun thành đống rồi ngồi giả vờ làm người bán than.
Gặp những người nào hỏi: “Mấy chỗ khác người ta bán vải, dầu, mật ong, mật mía… Còn ông sao ngồi bán than ở đây?”, ông Bá hộ đáp: “Của tôi mà tôi không bán thì tôi sẽ làm gì?”.
Khi ấy cô gái tên là Gotamī (Kiều Đàm) vì có thân hình ốm yếu, mảnh khảnh nên được gọi là Kisāgotamī (Kiều Đàm Ốm) (Kisā: ốm), là con gái của một gia tộc khá giả, hiện đang bị sa sút rõ rệt. Cô có việc cần phải đi ra cửa chợ, khi thấy ông Bá hộ đang ngồi, cô hỏi: “Bác ơi! Mấy người khác người ta bán vải, dầu, mật ong, mật mía… Còn bác sao lại ngồi đây bán bạc vàng”.
- Con ơi! Bạc vàng ở đâu?
- Chớ bác không lấy bạc vàng ra ngồi đây bán sao?
- Đâu con đem lại cho bác một mớ xem sao?
Nàng Kiều Đàm hốt một bụm đặt vào tay ông Bá hộ bụi than hóa ra vàng bạc. Ông Bá hộ liền hỏi cô gái:
- Nhà con ở lối nào?
- Thưa bác ở lối tên ấy.
Nghe nói, ông Bá hộ hỏi tiếp nữa rằng:
- Cô đã thành gia thất chưa?
- Thưa bác chưa.
Ông Bá hộ sắp xếp tài sản lại, rồi cưới nàng Kisāgotamī về cho công tử con trai mình. Kế đó, giao hết tài sản bốn trăm triệu đồng vàng cho nàng Kisāgotamī gìn giữ. Lập tức tất cả tài sản biến thành than ấy đều hoàn lại là bạc vàng như cũ.
Một thời gian sau cô Kisāgotamī có thai. Đủ mười tháng cô hạ sanh một đứa con trai. Đứa bé vừa biết đi chập chừng thì nó bị bạo bệnh mà chết.
Từ trước đến giờ chưa từng thấy ai chết, cho nên thay vì để người ta đem xác đứa bé đi thiêu, cô lại mặc y phục, ẵm xác con đi từng nhà để hỏi xem ai có biết thuốc gì chữa bịnh cho con cô không. Cô được thị dân nói ngay rằng: “Cô ơi, cô phát khùng rồi, nên cô mới đi lang thang, hỏi thuốc trị bịnh cho đứa con trai đã chết!”.
Mặc kệ những lời nhắc nhở, cô Kisāgotamī vẫn cứ đi, tin chắc rằng: “Nhất định thế nào cô cũng gặp được người biết sẽ được phương thuốc trị bịnh cho con trai cô.”
Khi ấy có một Hiền trí thấy cô như vậy, tự nghĩ rằng:
- Con gái ta đây chắc là một thiếu phụ mới đẻ con sợ chưa từng chứng kiến sự chết chóc. Vậy ta nên tế độ chỉ bảo dùm cô.
Vị ấy bảo cô:
- Con ơi! Bác không biết thuốc men gì cả, nhưng bác biết một vị lương y.
- Thưa bác vị đó là ai vậy.
- Đức Bổn Sư là vị lương y, vậy con hãy tìm đến Ngài mà hỏi thuốc.
- Cám ơn bác, để con đi hỏi thuốc.
Nói rồi, cô Kisāgotamī đến yết kiến Đức Bổn Sư đảnh lễ Ngài rồi đứng qua một bên, hỏi rằng:
- Bạch Ngài, nghe đồn rằng Ngài biết được thứ thuốc chữa bệnh cho con trai con phải không?
- Phải, Ta biết.
- Bạch Ngài, có cần kiếm món chi không?
- Chỉ cần kiếm cho được một nhúm hạt cải mà thôi.
- Bạch Ngài, con sẽ kiếm được hột cải, nhưng có cần phải kiếm ở nhà người nào không?
- Ở nhà người nào mà chưa từng có đứa con trai hoặc đứa con gái nào chết cả, mới được.
- Lành thay, bạch Ngài.
Nàng Kisāgotamī đảnh lễ Đức Bổn Sư ẵm đứa con chết ra đi vào xóm làng, đến đứng trước cửa nhà đầu tiên hỏi chủ nhà:
- Trong nhà này có hột cải không? Ông lương y nói đó là món thuốc chữa lành bịnh của con tôi.
- Nầy cô, có.
- Nếu có, cho tôi xin một nhúm.
Khi chủ nhà mang hột cải ra, cô Kiều Đàm lại hỏi thêm:
- Trong nhà nầy chưa từng có đứa con trai hoặc đứa con gái nào chết cả, phải không bác?
- Sao nàng lại nói như vậy? Thật ra thì số sống còn chỉ vài ba người, còn số chết thì lu bù, cô em à!
Nghe nói vậy, cô Kisāgotamī giao trả lại nhúm hạt cải và nói: “Thôi xin bác giữ hột cải của bác, nó không phải là thuốc chữa lành bịnh của con tôi.”
Kể từ đó, cô Kisāgotamī lại tiếp tục đi sâu vào trong xóm, đến nhà cuối cùng khi trời đã xế chiều, cô cầm nhúm hột cải, cô tự nghĩ:
- Ôi! Ta thật là nặng nghiệp! Con ta đã chết rồi mà ta cứ mong cho nó cải tử hoàn sanh. Khắp cả một xóm làng như vầy mà số người sống còn ít, số tử vong lại nhiều hơn…
Càng suy xét, cô Kisāgotamī càng dịu lòng thương yêu con, trái tim lần lần trở nên chai lì. Cô vứt bỏ xác con trong rừng, trở về đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi đứng qua một bên, khi ấy Đức Bổn Sư hỏi cô:
- Con đã kiếm được một nhúm hạt cải phải không?
- Bạch Ngài, con kiếm không được, khắp cả làng số người sống còn thì quá ít, số chết mất lại nhiều hơn.
Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Con cứ mãi băn khoăn nghĩ rằng: “Con trai ta đã chết.” Đó chỉ là thường sự đối với chúng sanh. Quả thật, Tử thần hằng lôi cuốn tất cả mọi người ở thời thiếu niên, vị thành niên… chẳng khác nào thác nước lụt đem vùi thây chúng sanh trong biển cả ác đạo.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ rằng:
“Taṃ puttapasusammattaṃ,
byāsattamanasaṃ naraṃ;
Suttaṃ gāmaṃ mahogho’va,
maccu ādāya gacchati.”
“Người tâm ý đắm say,
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ”.
Đến cuối bài kệ nàng Kisāgotamī đắc quả Tu Đà Hườn, nhiều người khác cũng đắc Thánh quả nhất là Tu Đà Hườn quả.
Kế đó, nàng Kisāgotamī xin Đức Bổn Sư cho nàng xuất gia. Ngài đã gởi nàng qua xuất gia với các Tỳ khưu Ni. Thọ Cụ túc giới rồi, nàng được gọi là Tỳ khưu Ni Kisāgotamī (Kiều Đàm Ốm).
Một ôm, tới phiên phải sửa soạn chỗ làm lễ Phát lồ (để các Tỳ khưu Ni sám hối với nhau). Sư Cô Kisāgotamī đốt đèn lên rồi ngồi nhìn ngọn đèn chập chờn leo lét, khi tỏ khi mờ, nàng chợt nhận thấy rằng: “Những chúng sanh nầy giống như ngọn đèn, cứ sanh diệt, sanh diệt như thế mãi, chớ không đi đến chỗ tịch diệt là Níp Bàn”. Trong khi Sư Cô đang miên man niệm tưởng đề tài Sanh Diệt, với đối tượng là ngọn đèn thì Đức Bổn Sư ngự tọa trong tòa hương thất phóng tỏa hào quang, thị hiện như ngồi trước mặt Sư Cô mà thuyết giảng rằng:
- Nầy Gotamī (Kiều Đàm), những chúng sanh nầy giống như ngọn đèn cứ sanh diệt, sanh diệt như thế mãi chớ không giác ngộ Níp Bàn là nơi tịch diệt. Người không tịnh tín nơi Níp Bàn như thế dầu sống cả trăm năm, cũng không bằng người tịnh tín nơi Níp Bàn chỉ sống trong giây lát.
Nói rồi, Đức Thế Tôn thuyết pháp và kết luận bằng kệ ngôn rằng:
114. “Yo ca vassasataṃ jīve,
apassaṃ amataṃ padaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
passato amataṃ padanti.”
114. “Sống trăm tuổi thọ lão thành
Không thấy Bất tử Vô sanh pháp mầu
Chẳng bằng sống một ngày lâu
Mà được chứng ngộ pháp mầu Vô sanh”.
*
CHÚ GIẢI:
Amataṃ padaṃ: con đường bất tử ám chỉ Níp Bàn Vô dư, nơi không có sự già, đau, chết [7].
Những tiếng khác cũng đồng nghĩa với mấy bài kệ trước.
*
Cuối thời Pháp, Tỳ khưu Ni Kisāgotamī đắc quả A La Hán với Tuệ phân tích ngay tại chỗ ngồi.
x
Dịch Giả Cần Đề
Kiều Đàm Ốm thắp nến “Xi ma”,
Đèn nến chập chờn gặp gió qua!
Ngọn lửa xuống lên hay tắt phụt,
Khác chi mạng sống của người ta?
Phật dạy: Dầu trăm tuổi thọ trường,
Không thông Khổ não với Vô thường,
Chẳng bằng chỉ sống một ngày ngắn,
Bất tử Vô sanh được tỏ tường.
DỨT TÍCH NÀNG KIỀU ĐÀM ỐM ĐẮC A LA HÁN
114. A day’s life seeing the deathless is greater than a hundred years without seeing it.
114. Sống một ngày thấy pháp Bất tử (Níp Bàn) còn hơn sống một trăm năm không thấy.
114. Yo ca vassasataṃ jīve,
apassaṃ amataṃ padaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
passato amataṃ padanti. (8:15)
114. Though one should live a hundred years
not seeing the Deathless State,
yet better is life for a single day
seeing Deathlessness.
----
VIII. 14 - Tích TỲ KHƯU NI ĐA TỬ ĐẮC A LA HÁN
(Bahuputtikattherīvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 115)
115. “Yo ca vassasataṃ jīve,
apassaṃ dhammamuttamaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
passato dhammamuttamanti.”
115. “Ai sống một trăm năm,
Không thấy Pháp tối thượng,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được Pháp tối thượng”.
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến vị Tỳ khưu Ni tên Bahuputtikā (Đa Tử).
Tương truyền rằng: Trong một gia đình nọ ở thành Xá Vệ, có bảy đứa con trai và bảy đứa con gái, đến tuổi trưởng thành tất cả đều yên bề gia thất. Tuy đã ra riêng nhưng cũng sống hạnh phúc, bình thường. Một thời gian sau, cha chúng qua đời, bà Đại Tín nữ nghĩ rằng: “Dầu chồng ta đã mất, ta cũng không phân chia gia sản cho các con trai và con gái ta đâu.”
Nhưng các con trai bà cứ theo hỏi bà:
- Thưa mẹ, cha chúng con đã mất, mẹ còn giữ gia sản cho ai nữa? Bộ chúng con không bảo quản được gia sản hay sao?
Nghe con hỏi, bà vẫn làm thinh. Nhưng chúng cứ đeo theo hỏi đi hỏi lại mãi. Sau cùng bà tự nghĩ: “Các con trai sẽ phụng dưỡng ta, ta còn giữ gìn gia sản làm của riêng mà làm chi?”.
Thế rồi, bà cho hội các con lại và phân chia tất cả di sản của chồng cho chúng.
Cách mấy ngày sau, người vợ của con trai lớn nói với bà rằng: “Trời ơi! Sao mẹ cứ đến nhà con hoài? Mẹ làm như nhà con là trưởng nam được hưởng hai phần gia tài vậy?”.
Những cô dâu khác cũng đều nói y như con dâu lớn cả. Buồn chán lũ con trai, bà đến ở nhà các con gái, bắt đầu từ nhà đứa lớn, các con gái bà cũng xô đuổi bà với luận điệu như các con dâu.
Bị các dâu con ruồng rẫy, bà Tín nữ tự nghĩ: “Ta còn gần lũ nầy làm chi nữa, thà là ta xuất gia Tỳ khưu Ni, sống hạnh không nhà còn hơn”. Thế rồi, bà đến tịnh xá Ni xin xuất gia, chư Tỳ khưu Ni đã cho bà xuất gia. Sau khi xuất gia, bà được mệnh danh là Tỳ khưu Ni Đa Tử.
Tự xét rằng: “Ta là người lão niên xuất gia, ta phải Tinh tấn siêng năng mới được.” Bà ráng làm hết phận sự của bậc Tỳ khưu Ni, rồi còn tính: “Ta sẽ hành Sa môn Pháp suốt đêm nay.”, nên lấy tay ôm một cây cột ở từng dưới của tòa lầu, rồi hành Sa môn Pháp xoay quanh cây cột ấy. Trong lúc đi kinh hành ở chỗ tối tăm, bà không thấy đường, quơ tay kiếm cây đại thọ, không ngờ va đầu vào cây, rồi lấy tay ôm cây ấy đi vòng quanh mà hành Sa môn Pháp. Bà lại tính thầm: “Ta sẽ hành trì đúng theo Pháp mà Đức thế Tôn đã thuyết.”, rồi bà tham Thiền, quán tưởng về Pháp, ráng nhớ lại Pháp vừa hành Sa môn Pháp ấy.
Khi ấy, Đức Bổn Sư ngự tọa trong hương thất phóng tỏa hào quang, thị hiện như đang ngồi trước mặt mà đàm thoại với bà: “Nầy Đa Tử! Pháp của Ta thuyết, người nào không tham cứu, không nhìn thấy thì dầu sống một trăm năm, cũng không bằng người thấy Pháp của Ta thuyết chỉ sống trong một giây lát.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận tóm tắt rằng:
115. “Yo ca vassasataṃ jīve,
apassaṃ dhammamuttamaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
passato dhammamuttamanti.”
115. “Sống trăm tuổi thọ lão thành,
Không thấy Tối thượng Vô sanh pháp mầu,
Chẳng bằng sống một ngày lâu,
Thấy Pháp Tối thượng nhiệm mầu Vô sanh.”
*
CHÚ GIẢI:
Dhammamuttamaṃ: pháp tối thượng gồm có chín Pháp Thánh, gọi là Siêu Thế Pháp (Lokuttaradhamma), là bốn Đạo, bốn Quả và Níp Bàn. Tên Pāli gọi là Uttama dhammo: người không thấy Pháp nầy, dầu sống một trăm năm, so với người thấy Pháp, thông hiểu Pháp nầy, chỉ sống trong một ngày, hoặc trong một sát na, thì người sau nầy vẫn hơn.
*
Cuối bài kệ, Tỳ khưu Ni Đa Tử đắc quả A La Hán với Tuệ Phân tích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Bất nghĩa, con dâu bỏ mẹ già,
Buồn lòng, góa phụ phải ly gia,
Ban ngày, phận sự lo tròn đủ,
Tối đến, hành thâm Pháp Phật Đà…
Phật dạy: Dầu con sống một ngày,
Thấy rồi Siêu pháp cũng còn hay,
Hơn người sống đến trăm năm chẵn,
Mà vẫn chưa thông Diệu Đế này!
DỨT TÍCH TỲ KHƯU NI ĐA TỬ ĐẮC A LA HÁN
115. A day’s life seeing the supreme dhamma is greater than a hundred years without seeing it.
115. Sống một ngày thấy pháp Tối thượng còn hơn sống một trăm năm không thấy.
115. Yo ca vassasataṃ jīve,
apassaṃ dhammamuttamaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo,
passato dhammamuttamanti. (8:16)
115. Though one should live a hundred years
not seeing Dhamma Supreme,
yet better is life for a single day
seeing Dhamma Supreme.
DỨT PHẨM NGÀN
----
IX. PHẨM ÁC
(PĀPAVAGGA)
----
13 bài kệ: Pháp Cú số 116-128.
12 tích truyện.
----
IX. 1 - Tích BÀ LA MÔN MỘT ÁO[8]
(Cūḷekasāṭakabrāhmaṇavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 116)
116. “Abhittharetha kalyāṇe,
pāpā cittaṃ nivāraye;
Dandhaṃ hi karoto puññaṃ,
pāpasmiṃ ramatī mano.”
116. “Hãy gấp làm điều lành,
Ngăn tâm làm điều ác,
Ai chậm làm việc lành,
Ý ưa thích việc ác.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến ông Bà la môn Cūḷekasāṭaka (Bà la môn Một Áo) (Tiểu Trung Y).
Trong thời kỳ Giáo Pháp của Đấng Thập Lực hồng danh là Vipassī (Tỳ Bà Thi), có ông Bà la môn tên là Mahāekasāṭaka (Đại Nhất Trung Y).
Còn bây giờ, ông nầy ở trong thành Xá Vệ, có tên là Tiểu Trung Y (Cūḷekasāṭaka), ông chỉ có một cái y hạ (củn, cái váy, cái chăn, để vận theo lối Ấn Độ không có mặc quần) và vợ ông cũng chỉ có một cái y hạ mà thôi. Hai người thay nhau xài chung một cái y trung để đắp lên mình khi ra khỏi nhà.
Một hôm nghe có loa kêu gọi đi chùa thính pháp, ông Bà la môn bảo vợ rằng: “Nầy bà có loa kêu gọi đi thính pháp, vậy bà sẽ đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm? Vì chỉ có một cái y choàng nên chúng ta không thể cùng đi một lượt được.”
Bà Bà la môn đáp: “Tôi sẽ đi ban ngày ông à.”
Nói rồi bà khoác y lên mình ra đi.
Ông Bà la môn ở nhà cả ngày, tới tối mới ra đi, đến ngồi trước mặt Đức Bổn Sư nghe pháp. Ông thỏa thích đến nỗi phỉ lạc ngũ sắc (xanh, vàng, trắng, đỏ, cam) phát khởi lên thấm đều khắp châu thân ông, ông có ý muốn cúng dường Đức Bổn Sư nhưng lại nghĩ rằng: “Nếu ta đem dâng lá y nầy thì cả bà Bà la môn và ta đều không có y choàng.” Sau hàng ngàn tâm bỏn xẻn sanh lên, các Tâm Chánh tín lại phát khởi để rồi biến đi hết, để cho tâm bỏn xẻn phát sanh. Ông Bà la môn bị sự bỏn xẻn buộc chặt như kềm hãm ông, nên ông phủ nhận Tín tâm của ông.
Trận giặc lòng kéo dài suốt một canh đầu: “Ta sẽ dâng, ta sẽ không dâng.”, ông cứ phân vân giữa hai ý tưởng như thế.
Từ đó đến hết canh giữa, cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn, nên ông ta không thể cúng dường lá y. Đến canh chót, ông ta suy nghĩ thầm: “Tín tâm và Lận tâm (tâm hà tiện) của ta đã chiến đấu với nhau suốt hai canh qua, mà Tín tâm vẫn không thể thắng. Bây giờ, bằng ấy tâm bỏn xẻn đang tăng trưởng, nó sẽ không cho ta cất đầu lên khi sa xuống bốn đường ác đạo. Ta sẽ dâng lá y choàng.”
Khi đã xóa được hàng ngàn Lận tâm và để cho Tín tâm làm hướng đạo. Ông Bà la môn đem lá y choàng đặt trước chân Đức Bổn Sư và hô to lên ba lần: “Ta đã thắng, ta đã thắng!”.
Đức Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) đang thính pháp, nghe tiếng hô như vậy, bèn phán hỏi: “Nầy ông Bà la môn, ông nói thắng là thắng ai vậy?”. Các quan hộ giá đến hỏi ông Bà la môn thì ông ta đem hết tâm sự của mình ra tỏ bày thật cho các quan biết, nhờ các quan tâu lại với đức Vua. Đức Vua nghe chuyện nầy, tự nghĩ: “Ông Bà la môn này đã làm chuyện khó làm, Trẫm sẽ tiếp độ ông ta.” Đức Vua sai quân hầu tặng ông ta cặp y choàng, ông Bà la môn đem dâng luôn đến Đức Bổn Sư.
Thấy vậy, đức Vua sai quân hầu đem tặng ông tấm vải choàng, ông cũng dâng lên Đức Thế Tôn, rồi đức Vua lại tăng lên gấp đôi, ông cũng dâng tám cặp y, rồi đến mười sáu cặp y. Khi đức Vua ban cho ông ta ba mươi hai cặp y, lần này ông Bà la môn suy nghĩ: “Cứ mỗi lần được y, ta không giữ mà xả ra, rồi lại được nhiều hơn. Như vậy, sợ e người bảo rằng ta bỏ con tép bắt con tôm. Thôi, ta hãy giữ lại hai cặp y, ta một cặp còn vợ ta một cặp”. Rồi ông Bà la môn lãnh hai cặp, còn lại ba mươi cặp y ta sẽ dâng đến Đức Thế Tôn.
Hồi đời xưa, ông Đại Nhất Trung Y được sáu mươi bốn cặp y mà ông chỉ nhận có hai cặp. Đời này, Tiểu Trung Y được ba mươi hai cặp và cũng chỉ nhận có hai cặp[9] mà thôi.
Đức Vua bèn ra lịnh sai các quan hầu: “Nầy các hiền khanh! Việc làm của ông Bà la môn nầy thật là khó làm, các khanh hãy trở về hoàng cung cho người mang hai lá cẩm y (áo gấm) của trẫm đến đây!”. Các quan làm theo lịnh của đức Vua. Đức Vua sai đem tặng ông Bà la môn hai tấm y gấm trị giá cả trăm ngàn đồng vàng.
Ông Bà la môn tự nghĩ: “Những y nầy không thích ý với thân hình ta, mà thích ứng với Giáo Pháp của Đức Phật.”, ông bèn đem một lá y gấm vào trong hương thất treo lên giường nằm của Đức Bổn Sư, còn một lá đem về nhà treo trên chỗ Chư Tăng thường xuyên thọ thực.
Chiều hôm sau, đức Vua đến viếng Đức Bổn Sư nhìn biết lá cẩm y, bèn hỏi:
- Bạch Ngài, ai dâng y nầy vậy?
- Ông Một Áo.
Nghe vậy, đức Vua rất hoan hỷ với ông Bà la môn, bèn ra lịnh ban cho ông bốn con voi, bốn con ngựa, bốn ngàn đồng vàng, bốn phụ nữ, bốn tỳ nữ, bốn tớ trai, bốn làng nộp thuế… Cả trăm thứ, thứ gì cũng là bốn hết thảy.
Các Tỳ khưu đề khởi vấn đề này trong giảng đường: “Ôi! Thật là kỳ lạ. Việc làm của Tiểu Trung Y trong giây lát như vậy mà kết quả được ân tứ đủ thứ, thứ gì cũng bốn cái. Rõ ràng là do thiện nghiệp gieo trồng vào phước điền mà quả dị thục trổ ngay hôm nay vậy.” Đức Bổn Sư đến hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy ngồi đây thảo luận việc chi vậy?
- Bạch Ngài, việc nầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư dạy:
- Nầy các Tỳ khưu, nếu ông Tiểu Trung Y nầy đã có thể cúng dường đến Ta trong canh đầu thì ông đã được tất cả mọi thứ, mỗi thứ là mười sáu cái. Nếu ông đã có thể cúng dường đến Ta vào canh giữa thì ông đã có tất cả mọi thứ, thứ nào cũng tám cái. Vì ông trì hoãn để đến canh chót mới cúng dường, cho nên tất cả mọi thứ, thứ nào cũng bốn cái như vậy. Bởi thế, trong việc tạo thiện nghiệp, hễ tâm khởi lên muốn làm lúc nào, nên làm ngay lúc ấy đừng trì hoãn. Làm lành mà chậm trễ thì quả phước phát sanh cũng chậm trễ. Do đó, khi tâm vừa phát sanh muốn tạo thiện nghiệp thì phải nên làm ngay lập tức, đừng hẹn lại.
Nói rồi, Đức Thế Tôn thuyết pháp và ngâm kệ rằng:
116. “Abhittharetha kalyāṇe,
pāpā cittaṃ nivāraye;
Dandhaṃ hi karoto puññaṃ,
pāpasmiṃ ramatī mano.”
116. Hãy gấp làm việc lành, chế chỉ tâm tội ác. Hễ biếng nhác làm việc lành giờ phút nào thì tâm ưa chuyện ác giờ phút ấy.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Abhittharetha: hãy cấp tốc làm theo, gấp rút thật mau lẹ làm điều lành. Quả thật đối với người cư sĩ tại gia, khi tâm khởi lên: “Ta sẽ làm điều lành, chẳng hạn như rút thẻ để bát”, thì họ nên hối hả dành lấy thẻ trước, kẻo hết thẻ thì không còn dịp nào khác được để bát. Còn bậc xuất gia hoặc người có phận sự phải làm như phục vụ thầy Tế độ chẳng hạn, sợ không xin được dịp nào khác nên cũng gấp rút giành phần trước về mình.
Pāpā cittaṃ: tất cả các việc ác từ thân, ngữ, ý nhất là thân ác hạnh, khi tâm bất thiện khởi lên, muốn tạo nghiệp ác do cửa nào thì phải ngăn chặn ngay tại cửa ấy tất cả.
Dandhaṃ hi karoto: người nào cứ đắn đo “Ta sẽ bố thí, ta sẽ làm phước, nhưng không biết ta có thành tựu hay không”, rồi trì hoãn việc làm phước, giống như con người đi trên con đường lầy lội, giống như ông Một Áo đã để cho hàng ngàn tâm bỏn xẻn có dịp khởi lên, lúc ấy, tâm người vui thích trong việc ác. Trái lại, trong khi làm việc lành thì tâm vui thích trong việc lành, nhờ đó mà khỏi sa đọa xuống trong cảnh ác quấy.
*
Cuối thời Pháp, nhiều người chứng quả Thánh, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Canh đầu, canh giữa, đến canh ba,
Mới cởi áo choàng cúng Phật Đà.
Thỏa thích la to: “Ta đã thắng!”
Làm Vua đẹp ý, thưởng ông ta.
Nhờ đó, kẻ nghèo bỗng hóa giàu,
Chư Tăng bèn nói: “Thật là mau!”
Nhưng theo Phật dạy thì hơi chậm,
Chỉ hưởng những phần phước nhỏ sau.
Phật khuyên nên gấp rút làm lành,
Chớ để bơ thờ, ác ý sanh,
Cứ một ý lành, ngàn ý ác,
Khó lòng toàn thắng được cho nhanh!
DỨT TÍCH BÀ LA MÔN MỘT ÁO
116. Hasten to cultivate goodness. Restrain the mind from vice. Delay diverts the mind to evil.
116. Hãy nhanh chóng làm việc lành. Hãy ngăn chận tâm khỏi làm ác. Sự trì hoãn làm cho tâm hướng về điều ác.
116. Abhittharetha kalyāṇe,
pāpā cittaṃ nivāraye;
Dandhaṃ hi karoto puññaṃ,
pāpasmiṃ ramatī mano. (9:1)
116. Make haste towards the good
and check the mind from evil.
The one who’s slow to merit make
delights the mind in evil.
----
IX. 2- Tích TRƯỞNG LÃO XÂY DÁ XÁ KÁ
(Seyyasakattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 117)
117. “Pāpañce puriso kayirā,
na naṃ kayirā punappunaṃ;
Na tamhi chandaṃ kayirātha,
dukkho pāpassa uccayo.”
117. “Nếu người làm điều ác,
Chớ tiếp tục làm thêm,
Chớ ước muốn điều ác,
Chứa ác, tất chịu khổ.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Seyyasaka (Xây Dá Xá Ká).
Trong Tạng Luật quyển hai có ghi: Tỳ khưu Seyyasaka là đệ tử sống chung với thầy là Trưởng lão Loḷuḍāyi (Lô Lưu Đà Di). Khi đệ tử có tâm buồn bực không vui (vì không chiến thắng nổi tình dục) và đã thú thật tâm trạng của mình với thầy, ông thầy lại xúi dục đệ tử thủ dâm (giới Tăng Tàn số một): “Mỗi khi tâm buồn bực nổi lên thì trò hãy làm như tôi vậy!”.
Được Chư Tăng báo cáo việc này, Đức Bổn Sư cho gọi Tỳ khưu Seyyasaka đến hỏi:
- Nghe nói thầy đã làm như thế có không?
- Bạch Ngài, có!
Nghe vậy, Đức Bổn Sư quở:
- Nầy kẻ ngu, tại sao ngươi tạo nghiệp nặng nề, không thích đáng như vậy?...
Sau khi trách cứ vị Tỳ khưu phạm lỗi bằng nhiều lối nói…, Đức Bổn Sư đã ban hành học giới Tăng Tàn thứ nhất, rồi kết luận: “Quả thật nghiệp quấy như vậy, dầu trong hiện kiếp, hay kiếp vị lai, cũng đều dắt người vào vòng luân hồi Khổ não.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ rằng:
117. “Pāpañce puriso kayirā,
na naṃ kayirā punappunaṃ;
Na tamhi chandaṃ kayirātha,
dukkho pāpassa uccayo.”
117. Nếu đã lỡ làm ác, chớ nên thường làm hoài, chớ vui làm việc ác, hễ chứa ác, nhất định thọ khổ
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
*
CHÚ GIẢI:
Ý nghĩa của Kệ ngôn nầy là:
Nếu người mới làm ác một lần đầu mà biết suy xét ngay rằng: “Việc nầy không đẹp, thô bạo lắm!”, rồi quyết định không tái phạm thì lần sau dục vọng có nổi lên người ấy cũng dẹp bỏ, không làm việc quấy ấy nữa. Vì sao? Vì sự chất chứa tích trữ làm cho ác càng ngày càng tăng trưởng khiến cho con người thọ khổ trong hiện kiếp và đưa người vào khổ cảnh trong kiếp vị lai.
*
Cuối thời Pháp, nhiều người chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Lửa dục hừng lên, khó nén cầm,
Nhà sư cố gắng tự dằn tâm,
Nhưng nghe thầy dạy dùng phương tiện,
Nên bắt chước thầy phạm Thủ dâm.
Chư Tăng vào mách Phật việc nầy,
Phật gọi Tỳ khưu đến quở rầy,
Rồi bắt ghi liền trong Giới Bổn,
Tăng Tàn số một kể từ đây.
Phật nhắc: Không nên lập lại hoài,
Mọi điều quấy ác hoặc đơn sai.
Sợ e phải bị luân hồi khổ,
Giờ phút lâm chung, khó trở tay.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO SEYYASAKA
117. Never repeat an act of evil. Never more incline that way. Evil amassed leads to unhappiness.
117. Đừng bao giờ tái phạm điều ác. Đừng bao giờ hướng về ác đạo nữa. Ác nghiệp chồng chất sẽ đưa đến khổ đau.
117. Pāpañce puriso kayirā,
na naṃ kayirā punappunaṃ;
Na tamhi chandaṃ kayirātha,
dukkho pāpassa uccayo. (9:2)
117. If one should some evil do
then do it not again, again.
Do not wish for it anew
for evil grows to dukkha.
----
IX. 3 - Tích THIÊN NỮ CỐM RANG[10]
(Lājadevadhītāvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 118)
118. “Puññañce puriso kayirā,
kayirāthenaṃ punappunaṃ;
Tamhi chandaṃ kayirātha,
sukho puññassa uccayo.”
118. “Nếu người làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm,
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Thế Tôn đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến nàng Thiên nữ Lājā (Cốm Rang).
Tích truyện nầy phát khởi trong thành Sāvatthī (Vương Xá). Thật vậy, Trưởng lão Mahākassapa (Ma Ha Ca Diếp) ngụ trong động Pipphali (Bíp Phá Lí), nhập vào Đại Định hưởng vị Thiền Diệt, đến ngày thứ bảy, xuất Thiền định, dùng Thiên nhãn quán xét lối đi khất thực, trông thấy một phụ nữ giữ ruộng lúa nếp Sāli (Xa li) đang rang những hột lúa của mình.
“Cô nầy có đức tin hay không?”.
Khi quán thêm, biết rõ phụ nữ ấy có đức tin, Trưởng lão quán tiếp: “Cô có tiếp độ cho ta chăng?” thì được biết rằng: “Cô gái nầy thuộc gia đình lễ giáo, có đức tin vững chắc, sẽ tiếp độ ta và hưởng quả phước lớn”.
Thế rồi, Trưởng lão đắp y, mang bát đến đứng gần ruộng lúa Sāli. Thấy Trưởng lão, cô gái con nhà lễ giáo, phát Tâm tịnh tín, phỉ lạc ngũ sắc tràn ngập cả thân thể.
- Bạch Ngài, hãy chờ một chút.
Nói rồi, cô gái lật đật lấy cốm rang đến sớt vào bát của Trưởng lão, gieo năm vóc xuống đảnh lễ rồi phát nguyện:
- Bạch Ngài, xin cho con sẽ đắc pháp của Ngài đắc trong lúc hiện tại đây.
Trưởng lão chúc: “Mong cho cô được như ý nguyện.”
Phụ nữ ấy đảnh lễ cáo từ Trưởng lão, rồi quay đi, vừa suy tư đến việc cúng dường của mình vừa làm.
Lúc bấy giờ, có một con rắn độc nằm trong cái hang trên đường đi giáp ranh bờ ruộng lúa. Nó không cắn được bắp chân Trưởng lão vì có y che phủ.
Cô gái vừa đi vừa suy tư đến việc cúng dường, đến ngay chỗ hang rắn, con rắn bò ra khỏi hang, mổ trúng chân cô và cô ngã xuống tại chỗ đó. Nhờ chết khi tâm đang trong sạch, y như người ngủ thức dậy, cô được sanh lên cung trời Đao Lợi, ở trong một ngôi đền vàng cao ba mươi do tuần, khắp mình đeo đủ thứ nữ trang. Cô Thiên nữ vận lá y trời dài mười hai hắc tay, trên khoác một lá nữa, chung quanh có hàng ngàn Thiên nữ theo hầu. Cô đứng tại cửa tòa Kim ốc có trang trí những chung rượu bằng vàng, những tua bông lúa vàng rũ lòng thòng sáng ngời, tự quán xét phước báu của mình và tự hỏi: “Ta đã làm gì mà được quả phước như vầy đây?”. Nhờ Thiên nhãn cô quán thấy: “Nhờ ta đã để bát cốm rang đến Trưởng lão Ca Diếp mới được phước nầy.” Cô suy nghĩ: “Chỉ làm phước nhỏ như vậy mà được quả lớn thế này, bây giờ ta không nên dể duôi, ta sẽ làm công quả giúp đỡ Trưởng lão để duy trì phước báu nầy cho được lâu dài bền vững.”
Thế rồi, từ sáng sớm, nàng Thiên nữ xách theo cây chổi vàng và cái rổ dùng để hốt rác, xuống quét dọn chung quanh cốc của Trưởng lão. Quét xong, cô xách nước uống, nước xài châm đầy sẵn cho Trưởng lão dùng.
Trưởng lão thấy lạ, tự hỏi: “Chắc có lẽ ông Sa di hoặc vị Sa môn trẻ nào làm công quả đây!”
Ngày hôm sau, cô Thiên nữ cũng xuống làm công quả như cũ và Trưởng lão cũng nghĩ là các vị sư trẻ làm. Đến ngày thứ ba Trưởng lão nghe tiếng quét của nàng Thiên nữ và nhìn thấy hào quang của thân cô lọt qua kẻ vách, liên mở cửa ra hỏi:
- Ai quét đó?
- Bạch Ngài, con! Con là Thiên nữ Lājā (Cốm Rang), là người hộ độ của Ngài.
- Bần Tăng không có người hộ độ nào tên như thế cả!
- Bạch Ngài, trong khi giữ ruộng lúa Sāli (Xa Li), con đã cúng dường cốm rang đến Ngài với tâm tịnh tín, khi con quay về bị con rắn độc cắn chết, sanh lên cung trời Đao Lợi. Nhờ Ngài con có được quả phước như thế, nên bây giờ con đến làm công quả với Ngài để duy trì phước báu cho lâu dài đó Ngài!
- Hôm qua và hôm kia cũng chính cô đã đến đây quét dọn và múc nước uống, nước xài, châm sẵn để dành cho bần tăng phải không?
- Dạ phải, bạch Ngài.
- Thôi được rồi, này Thiên nữ, hãy lãng xa đi lo việc của cô đi! Từ rày về sau cô đừng đến nơi này nữa!
- Bạch Ngài, xin Ngài đừng để con thiệt thòi, hãy để cho con hộ độ đến Ngài, để bảo trì phước báu của con.
- Hãy biến mất đi, cô Thiên nữ! Đừng để từ đây về sau, các vị Pháp Sư cầm quạt ngồi lên Pháp tọa thuyết rằng: Nghe nói có một cô Thiên nữ hằng đến làm công quả múc nước uống, nước xài hộ độ Trưởng lão Mahākassapa. Cô hãy đi, từ rày về sau đừng đến đây nữa!
Cô Thiên nữ van lơn nhiều lượt:
- Bạch Ngài, xin Ngài đừng để cho con chịu thiệt thòi.
Trưởng lão tự nghĩ: “Cô nầy không chịu vâng lời ta!” Trưởng lão vỗ tay quở rằng: “Cô không biết độ lượng!”.
Cô Thiên nữ không thể đứng yên tại chỗ, phải bay lên hư không, chắp tay đứng nửa lừng mà khóc than rằng:
- Bạch Ngài, xin Ngài đừng làm con mất phước. Xin Ngài ban ân cho con giữ phước được lâu dài!
Đức Bổn Sư ngồi bên trong hương thất, nghe tiếng khóc của Thiên nữ, bèn phóng hào quang tỏa ra, thị hiện như đang ngồi trước mặt cô mà thuyết giảng rằng: “Nầy Thiên nữ, con trai Ta là Kassapa (Ca Diếp), là người nghiêm trì Giới Luật, thu thúc Lục căn, đã xét kỹ không cần đến những người muốn làm phước, đảm đang gánh nặng của mình. Tuy nhiên sự làm phước là một gánh nặng mà đưa con người đến chỗ an vui ngay trong kiếp nầy và trong những kiếp vị lai nữa.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm kệ rằng:
118. “Puññañce puriso kayirā,
kayirāth’enaṃ punappunaṃ;
Tamhi chandaṃ kayirātha,
sukho puññassa uccayoti.”
118. Nếu đã làm việc lành, hãy nên thường làm mãi, nên vui làm việc lành, hễ chứa lành nhất định thọ lạc.
(Bản dịch của Ngài T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Puññaṃ: nếu một người làm phước tự nhủ: “Ta đã làm phước được một lần rồi, thì không nên lấy đó làm tự mãn mà hãy rán làm phước nhiều lần nữa. Ngay trong lúc làm phước hãy siêng năng, sốt sắng thỏa thích trong việc phước của mình làm. Tại sao?”.
Sukho puññassa uccayo: quả nhiên người tích trữ phước, phước càng tăng trưởng, đưa người đến nơi an vui, hạnh phúc ngay trong đời này và những đời sau.
*
Cuối thời Pháp, cô Thiên nữ đứng cách xa độ bốn mươi lăm do tuần liền chứng đắc Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Để bát vừa xong, kế chết liền,
Lên trời, hưởng phước lộc Chư Thiên,
Biết mình được phước do làm phước,
Thiếu nữ càng ham hưởng phước điền!
Nhưng Ngài Ca Diếp chẳng ưng cho,
Thiên Nữ hộ Ngài việc nhỏ to,
Lại đuổi cô đi, cô phát khóc,
Phật nghe, bèn dạy: Chớ buồn lo!
Điều lành, nên gắng lập thêm hoài,
Phước báu về sau hưởng mới dai!
Nếu cả một đời tu phước nghiệp,
Lâm chung nào sợ khổ lâu dài!
DỨT TÍCH THIÊN NỮ CỐM RANG
118. Repeat your acts of goodness. Delight therein. Goodness amassed brings happiness.
118. Hãy làm nhiều điều thiện. Hãy thích thú hành thiện. Tích tụ thiện hành sẽ đưa đến hạnh phúc.
118. Puññañce puriso kayirā,
kayirāthenaṃ punappunaṃ;
Tamhi chandaṃ kayirātha,
sukho puññassa uccayo. (9:3)
118. If one should some merit make
do it then again, again.
One should wish for it anew
for merit grows to joy.
----
IX. 5 - Tích TỲ KHƯU KHINH GIỚI NHỎ
(Asaññataparikkhāravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 121)
121. “Māvamaññetha pāpassa,
na mattaṃ āgamissati;
Udabindunipātena,
udakumbhopi pūrati;
Pūrati bālo pāpassa,
thokathokampi ācinaṃ.”
121. “Chớ chê kinh điều ác,
Cho rằng “chưa đến mình”,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác,
Do chất chứa dần dần”.
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến một vị Tỳ khưu không quí trọng Tăng sản.
Tương truyền: Tỳ khưu nầy sau khi dùng xài Tăng sản, bất cứ vật chi như giường, ghế dài chẳng hạn, thường bỏ luôn vật ấy bên ngoài. Bị dầm mưa dang nắng làm hư hoại hay bị mọt mối đục khoét, đồ đạc bị hư hao, Chư Tăng thấy vậy nhắc nhở rằng:
- Nầy đạo hữu, đồ đạc dùng rồi, đạo hữu nên đem đi cất cho đàng hoàng tử tế.
Nghe vậy, vị Tỳ khưu ấy cãi rằng:
- Nầy chư đạo hữu, việc tôi làm ấy thật là nhỏ nhen quá mà! Đồ đạc ấy không có tâm, chúng vô tâm mà!
Nói rồi, vị Tỳ khưu ấy vẫn tiếp tục làm như cũ.
Chư Tăng đem hành động của vị này mách lại với Đức Bổn Sư. Đức Bổn Sư cho gọi Tỳ khưu nầy đến và hỏi:
- Nầy Tỳ khưu, nghe nói thầy đã làm như thế phải chăng?
Tỳ khưu nầy không đáp ngay câu hỏi của Đức Bổn Sư mà lại chống chế rằng:
- Bạch Ngài, chuyện ấy có gì đâu? Việc làm của con nhỏ nhen quá mà! Sở dĩ con coi thường đồ đạc là vì chúng không có tâm, chúng là vật vô tâm mà!
Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Các Tỳ khưu không nên làm như vậy, nghiệp ác dù là nhỏ nhen cũng không nên coi thường. Như cái bình không đậy nắp, để ngoài trời mưa, dầu rằng một giọt nước nhỏ nhen không làm đầy bình được, nhưng nếu trời cứ mưa đi mưa lại mãi thì bình sẽ tràn đầy nước mưa, kẻ tạo nghiệp ác cũng như thế, cứ ngày một ngày hai, lần lần các nghiệp ác lớn nhỏ sẽ chồng chất dồn lại, sẽ thành một đống lớn.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ rằng:
121. “Māvamaññetha pāpassa,
na mattaṃ[11] āgamissati;
Udabindunipātena,
udakumbho pi pūrati;
Pūrati bālo pāpassa,
thokathokampi[12] ācinanti.”
121. Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng: chẳng đưa lại quả báu cho ta. Phải biết giọt nước nhễu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từ khi ít mà nên.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Māvamaññetha: đừng khi dễ (Avajāreyya). Có nhiều bổn chép Mappamaññetha (Mā appa maññati) chớ tưởng ít.
Pāpassa pāpaṃ: điều ác (Vibbatti assa) ở đây không phải cách thứ tư hay thứ sáu, mà ở đối cách thứ hai.
Na mattaṃ āgamissati: việc ác của tôi làm nhỏ nhen lắm, chừng nào nó mới trổ quả? Đừng coi thường việc ác nhỏ như thế.
Udakumbhopi: bất kỳ thứ đồ gốm nào như cái bình, cái chậu mà để ngoài mưa không đậy nắp, giọt mưa cứ nhễu mãi vào, lần lần nó cũng phải đầy. Kẻ ác cũng vậy, cứ tiếp tục làm điều ác nhỏ, lần lần nghiệp ác dồn dập cũng tăng trưởng thành điều ác to.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng đắc quả thánh, nhất là quả Tu Đà Hườn. Nhân dịp nầy, Đức Bổn Sư ban hành Học giới, Tỳ khưu nào sử dụng Tăng sản như giường ghế…, khi ra đi không xếp cất thì phạm Ưng đối trị.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Giường chiếu của Tăng cứ mượn xài,
Khi đi bỏ cả ở bên ngoài,
Tăng khuyên, viện cớ rằng lỗi nhỏ,
Chẳng đáng lưu tâm nhắc nhở hoài!
Phật dạy: Đừng khinh lỗi nhen,
Phạm đi phạm lại riết thành quen,
Giọt mưa tuy nhỏ, bình tuy lớn,
Nhễu mãi đầy bình, việc chẳng hèn!
DỨT TÍCH TỲ KHƯU KHINH GIỚI NHỎ
121. Ignore not the effects of evil. Even bit by bit they gather like water drops in a pot.
121. Đừng xem thường hậu quả ác nghiệp. Chúng tích tụ dần dần như nước nhỏ giọt vào bình.
121. Māvamaññetha pāpassa,
na mattaṃ āgamissati;
Udabindunipātena,
udakumbhopi pūrati;
Pūrati bālo pāpassa,
thokathokampi ācinaṃ. (9:6)
121. Think lightly not of evil,
‘It will not come to me’,
for by the falling of water drops
a water jar is filled.
The fool with evil fills himself,
he soaks up little by little.
----
IX. 7 - Tích PHÚ THƯƠNG TRÁNH HIỂM LỘ
(Mahādhanavāṇijavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 123)
123. “Vāṇijova bhayaṃ maggaṃ,
appasattho mahaddhano;
Visaṃ jīvitukāmova,
pāpāni parivajjaye.”
123. “Ít bạn đường, nhiều tiền,
Người buôn tránh đường hiểm,
Muốn sống, tránh thuốc độc,
Hãy tránh ác như vậy.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự tại Kỳ Viên Tự (Jetavana Vihāra), đề cập đến ông lái buôn Đại Phú.
Tương truyền rằng: Có năm trăm tên cướp muốn đột nhập vào nhà ông lái buôn nầy, nhưng tìm chưa được cơ hội thuận tiện.
Một thời gian sau, ông lái buôn cho chở hàng hóa đầy năm trăm cỗ xe bò, rồi bạch với các Tỳ khưu rằng:
- Tôi sắp đi buôn hàng hóa ở một địa phương nọ. Nếu chư Trưởng lão nào muốn đi đến đó, xin các Ngài hãy cùng đi với tôi, dọc đường các Ngài khỏi lo khất thực vất vả.
Nghe vậy, năm trăm vị Tỳ khưu tháp tùng với ông lái buôn lên đường.
Bọn cướp hay tin ông lái buôn đã khởi hành, bèn đứng đón ở một ven rừng.
Ông lái buôn ra đi, đến đầu truông rậm thì dừng xe lại, tạm trú trong làng ở cận rừng độ vài ba ngày, để cho người và xe bò được nghỉ ngơi sửa chữa. Trong lúc ấy, chư Tăng vẫn được để bát thường xuyên.
Bọn cướp chờ lâu không được, bèn sai một tên đồng bọn ra đi thám thính: “Hãy đi dò cho biết ngày họ xuất hành, rồi hãy về.” Tên nầy đến làng hỏi một người bạn:
- Chừng nào ông lái buôn khởi hành?
Người bạn đáp:
- Quá hai ba ngày!
Rồi hỏi lại: “Anh hỏi để làm gì?”.
Tên cướp tỏ thật cho biết: “Chúng tôi, năm trăm tên cướp, đang ở trong rừng, đón chặn bắt ông lái buôn.”
Người bạn tiễn chân tên cướp đi và nói: “Vậy thì anh hãy đi! Ông ta sẽ đi cấp tốc.”
Tên cướp đi rồi, người dân làng suy nghĩ: “Giữa bọn cướp và ông lái buôn, ta nên bênh ai và bỏ ai?”.
Rồi người ấy quyết định: “Ta bênh bọn cướp làm gì? Ông lái buôn là chỗ nương, để nuôi mạng sống của năm trăm vị Tỳ khưu. Vậy ta sẽ mật báo cho ông ta biết.”
Đến gặp ông lái buôn, người dân làng hỏi:
- Chừng nào ông mới khởi hành?
- Đến ngày thứ ba.
Nghe vậy, người dân làng nói: “Ông hãy làm theo lời tôi. Nghe nói có năm trăm tên cướp núp ở trong rừng để chận đường các ông, vậy các ông đừng nên đi.”
- Sao anh biết tin nầy?
- Trong nhóm ăn cướp có người quen với tôi, y đã nói cho tôi biết.
- Nếu vậy tôi sẽ không đi tới làm chi, tôi sẽ quay trở về nhà.
Trong khi chờ đợi quá lâu, bọn cướp lại sai tên đồng đảng đi lấy tin. Tên nầy đến hỏi người bạn, biết được dự tính của ông lái buôn, quay trở về thông tin với bọn cướp: “Nghe nói ông ta sẽ trở về nhà.”
Hay tin nầy, bọn cướp lại chuyển đến một con đường khác để chặn lối về của ông lái buôn. Ở đó đợi quá lâu, bọn cướp lại sai tên đồng đảng đi tiếp xúc với người bạn lấy tin, người nầy biết được chỗ núp của bọn cướp lại thông tin cho ông lái buôn biết.
Ông lái buôn suy xét rằng: “Ở đây ta không biết thiếu sót thứ gì. Nếu vậy, ta sẽ không đi tới hay đi lui chi cả. Ta nhất định sẽ lưu lại nơi đây.” Thế rồi, ông đến gặp chư Tỳ khưu và nói: “Bạch Ngài, nghe nói có bọn cướp định đón đường, cướp giựt hàng hóa. Bây giờ chúng hay tin tôi định trở về, chúng lại chuyển qua chận đón lối về, phần tôi tấn thối lưỡng nan, chắc phải lưu lại ở đây lâu. Nếu các Ngài muốn ở lại đây thì cứ ở, còn các Ngài muốn đi thì cũng tùy thích ra đi.”
Các Tỳ khưu đáp: “Nếu vậy, chúng tôi sẽ quay về.”
Qua ngày sau, chư Tăng cáo từ ông lái buôn rồi trở về Sāvatthī đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi ngồi xuống.
Đức Bổn Sư hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, các thầy không cùng đi với ông lái buôn Đại Phú phải không?”.
- Bạch Ngài, phải. Cả hai đường tới lui của ông lái buôn đều bị bọn cướp chận đón. Do đó, ông ta phải đình trú ở một nơi, chúng con thấy vậy, cáo từ ông ta mà trở về.
Nghe vậy, Đức Thế Tôn dạy:
- Nầy các Tỳ khưu, người lái buôn lớn biết né tránh con đường có nhiều kẻ cướp. Con người muốn sống biết né tránh chất độc của thuốc độc dữ. Tỳ khưu nào biết được con đường tương đương bị bọn cướp Tam giới đang ngăn đón thì phải biết né tránh điều ác.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết giảng thêm và kết luận bằng kệ rằng:
123. “Vāṇijova bhayaṃ maggaṃ,
appasattho mahaddhano;
Visaṃ jīvitukāmova,
pāpāni parivajjaye.”
123. Như người đi buôn mang nhiều của báu mà thiếu bạn đồng hành, tránh xa con đường nguy hiểm làm sao, như kẻ tham sống tránh xa thuốc độc thế nào, thì các người phải tránh xa điều ác thế đó.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Bhayaṃ: Ở đâu có nghĩa là đáng sợ (Bhāyitabbaṃ), nguy hiểm, vì có nhiều kẻ cướp chặn đường.
Như người thương khách có nhiều của cải, nhưng ít người vầy đoàn cùng đi, né tránh con đường nguy hiểm, như người ham sống né tránh thuốc độc thế nào thì Tỳ khưu là bậc Hiền trí phải né tránh các điều ác, không nên dể duôi cũng như thế ấy.
*
Cuối thời Pháp, các Tỳ khưu ấy chứng đắc A La Hán quả với Tuệ phân tích. Đại chúng thính pháp cũng đều hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Phú thương đi bán thỉnh Tăng theo,
Làm phước mong qua chỗ hiểm nghèo,
Bị cướp chận đường lui tới hết,
Thỉnh Tăng quay lại, tạm gieo neo!
Tăng trở về thăm Đức Bổn Sư,
Ngài rằng: Cần nhất phải suy tư,
Lánh xa điều ác, như ngừa độc,
Như phú thương ngừa cướp ẩn cư.
DỨT TÍCH PHÚ THƯƠNG TRÁNH HIỂM LỘ
123. Shun evil ways like a wealthy merchant with little escort shunning a bandit-infested road.
123. Hãy tránh ác đạo như thể vị phú thương ít người hộ tống phải tránh con đường đầy ác tặc quấy phá.
123. Vāṇijova bhayaṃ maggaṃ,
appasattho mahaddhano;
Visaṃ jīvitukāmova,
pāpāni parivajjaye. (9:8)
123. As merchant on a perilous path,
great wealth having but little guard,
as life-loving man with poison
so with evils heedful be.
----
IX. 8 - Tích THỢ SĂN KÊ HỮU
(Kukkuṭamittanesādavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 124)
124. “Pāṇimhi ce vaṇo nāssa,
hareyya pāṇinā visaṃ;
Nābbaṇaṃ visamanveti,
natthi pāpaṃ akubbato.”
124. “Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc,
Không thương tích, tránh độc,
Không làm, không có ác.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến người thợ săn Kê Hữu (Kukkuṭamitta).
Tương truyền rằng: Trong thành Sāvatthī (Vương Xá) có một tiểu thư con nhà triệu phú, khi nàng đến tuổi cập kê, cha mẹ cho ở riêng trong một gian phòng trên chót tòa lầu bảy từng, và cấp cho một cô nữ tỳ để chăm sóc, gìn giữ tiểu thư.
Trong khi còn ở chung với cha mẹ như thế, tiểu thư không đi ra khỏi nhà, nhưng một hôm, vào lúc xế chiều, tiểu thư ngó qua cửa sổ nhìn xuống đường, trông thấy chàng thợ săn tên Kê Hữu, hằng ngày mang theo năm trăm cái bẫy, năm trăm mũi tên vào rừng để săn dã thú nuôi mạng sống. Hôm nay anh ta bắn được năm trăm con thú rừng, chất đầy thịt thú lên một cỗ xe bò lớn, ngồi lên gọng xe mang vào thành bán thịt. Vừa thấy mặt anh thợ săn, tiểu thư sanh lòng ái luyến, trao thơ cho nữ tỳ cầm đi và dặn:
- Hãy đi trao thơ nầy cho anh ấy, hãy điều tra biết được chừng nào anh ấy sẽ đi, rồi trở về đây nhé.
Nữ tỳ đem thơ trao cho anh thợ săn, rồi hỏi:
- Chừng nào anh sẽ đi?
- Hôm nay bán hết thịt rồi, sáng mai tôi sẽ ra cửa thành nọ mà đi.
Nghe nói vậy, con nữ tỳ về học với tiểu thư. Tiểu thư tự mình sắp đặt đồ tế nhuyễn để đem theo phòng thân, rồi sáng hôm sau mặc quần áo dơ, mang vò đi chung với các nữ tỳ ra bến nước xách nước, tiểu thư ra khỏi nhà, đến chỗ cửa thành đứng đón anh thợ săn đi ra. Quả nhiên, anh Kê Hữu từ sáng sớm đã đánh xe ra khỏi cổng làng, tiểu thư chạy theo sau anh ta. Thấy vậy, thợ săn hỏi:
- Cô là con gái nhà ai, tôi chưa từng quen biết cô? Xin cô vui lòng đừng bám sát theo tôi!
- Không phải anh quyến rũ tôi đi, mà chính tôi tự theo anh. Anh cứ làm thinh đánh xe bò của mình đi là đủ!
Anh thợ săn ngăn cản nhiều lượt, tiểu thư bèn nói:
- Khi hạnh phúc đến gần thì không nên ngăn cản.
Được biết tiểu thư tự ý muốn về sống chung với mình, anh thợ săn để tiểu thư lên xe và tiếp tục đi.
Ông bà Bá hộ cho tìm kiếm tiểu thư khắp nơi không thấy, nghĩ rằng con mình đã chết, nên bày nghi lễ cúng tế vong hồn con mình.
Còn tiểu thư chung sống với thợ săn Kê Hữu, lần hồi có được bảy người con trai. Khi con trai khôn lớn, tiểu thư lo bề gia thất cho chúng để cầm chân chúng lại.
Một hôm, vào lúc gần sáng, Đức Bổn Sư xả Thiền rồi, quan sát thế gian, nhìn thấy anh Kê Hữu cùng với các con và dâu lọt vào Võng trí của Ngài. Quán thêm nữa, Ngài thấy tất cả những chúng sanh nầy có căn đắc Tu Đà Hườn, cho nên sáng sớm hôm sau, Ngài đắp y và mang bát đi ngay đến khu gần bẫy sập của anh Kê Hữu.
Ngày ấy, không có con thú rừng nào mắc bẫy cả. Đức Bổn Sư lưu lại một dấu chân tại chỗ gài bẫy rồi đi thẳng tới ngồi dưới bóng mát của một chòm cây.
Sáng sớm hôm ấy, Kê Hữu xách cung tên đi đến nơi gài bẫy, trước hết thăm các bẫy không thấy có con thú nào mắc cả mà lại thấy dấu chân của Đức Bổn Sư lưu lại đó. Anh ta nghĩ thầm: “Ai đã đến đây thả hết những con thú mắc bẫy như vậy cà?”. Lần theo, anh ta thấy Đức Bổn Sư đang ngồi dưới gốc cây, anh liền cột oan trái với Đức Bổn Sư. Anh ta nghĩ thầm: “Tên nầy đã thả hết thú của ta, ta sẽ giết chết nó.”, rồi giương cung lên. Đức Bổn Sư để yên cho anh thợ săn giương cung, nhưng không cho anh ta buông tên đi. Anh ta buông tên không được mà bỏ tay không xuống cũng không được, nghe hai bên cạnh sườn như nứt bể ra, từ miệng, nước miếng chảy xuống ròng ròng, cứ đứng trân trân mà chịu khổ như vậy.
Khi ấy, các con trai của Kê Hữu ở nhà, thấy cha đi lâu về, hỏi mẹ thì bà mẹ cũng chẳng biết nguyên do, bèn bảo:
- Các con hãy đi tìm cha con đi!
Bảy người con trai mang cung tên ra đi, thấy cha còn đứng nguyên một chỗ. Nghĩ Đức Bổn Sư là kẻ nghịch với cha mình, cả bảy người con đều giương cung lên và cũng đứng trân như cha của họ, do oai lực Thần thông của Đức Phật.
Bà mẹ ở nhà trông ngóng “Không biết cha con ông nầy đi sao mà lâu về vậy?”. Bà với bảy nàng dâu cùng đi vào rừng, thấy dạng người thợ săn và bảy người con trai, bà tự hỏi: “Mấy cha con giương cung nhắm bắn ai đây vậy?”. Khi nhìn thấy Đức Bổn Sư bà chấp hai tay la lớn lên:
- Mấy người đừng giết cha tôi! Mấy người đừng giết cha tôi!
Thợ săn Kê Hữu nghe la, tự nghĩ: “Ác hại thay! Té ra ông nầy là cha vợ của ta mà ta không biết. Nếu vợ ta không nói thì nghiệp của ta tạo ra nặng nề không biết nầy?”.
Các con của Kê Hữu cũng nghĩ rằng: “Nghe nói ông nầy là ông ngoại của ta! Ôi! Nếu ta giết hại ông thì nghiệp của ta nặng lắm vậy!”.
Khi Kê Hữu nhìn nhận: “Ông nầy là nhạc phụ của ta” thì tâm Từ phát khởi. Các con của anh ta cũng phát khởi Từ tâm khi nghĩ rằng: “Đây là ông ngoại của ta.”
Khi ấy, mẹ của chúng là tiểu thư con ông Bá hộ bảo:
- Hãy vứt bỏ hết cung tên xin sám hối với cha ta!
Đức Bổn Sư biết tâm của cha con thợ săn đã mềm dịu, liền cho phép họ hạ cung xuống. Tất cả đều đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch:
- Xin Ngài tha thứ tội lỗi cho chúng con!
Rồi họ ngồi xuống một bên, khi ấy Đức Bổn Sư liền thuyết lên Tuần tự pháp (Anupubbīkathaṃ) cho họ nghe. Cuối thời Pháp, thợ săn Kê Hữu cùng các con và dâu, tất cả mười lăm người đều đắc quả Tu Đà Hườn.
Kế đó, Đức Bổn Sư đi khất thực và sau bữa ngọ trai, Ngài trở về chùa. Khi ấy, Trưởng lão Ānanda hỏi:
- Bạch Ngài, hôm nay Ngài đi đâu?
- Nầy Ānanda! Ta đến viếng thợ săn Kê Hữu.
- Bạch Ngài, Ngài có tế độ cho anh ta bỏ nghiệp sát sanh chăng?
- Có, Ānanda ạ! Cả cha, con và dâu, mười lăm người sau khi có đức tin bất động, không còn hoài nghi Tam Bảo rồi, đều ngưng hẳn nghiệp sát sanh.
Các Tỳ khưu hỏi:
- Bạch Ngài, thế còn vợ anh ta có đắc quả Thánh không?
- Nầy các Tỳ khưu! Vợ anh ấy khi còn là con gái ở nhà với cha mẹ đã đắc Tu Đà Hườn rồi!
Các Tỳ khưu ráp nhau lại đề khởi câu chuyện nầy: “Nghe nói vợ của Kê Hữu khi còn là con gái đã chứng đắc Tu Đà Hườn rồi mới về làm vợ của Kê Hữu có được bảy người con trai. Bấy lâu nay, mỗi lần chồng bảo: “Đem cung, đem tên, đem dao găm, đem lao, đem lưới lại đây!”, thì chị ta đem những thứ khí giới ấy trao cho chồng, để chồng mang đi mà giết thịt. Thử hỏi một vị Thánh nhân Tu Đà Hườn cũng còn sát sanh hay sao?”.
Đức Bổn Sư đến hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy ngồi đây thảo luận chuyện gì?”.
- Bạch Ngài, chuyện nầy…
Nghe vậy Đức Bổn Sư giải thích:
- Nầy các Tỳ khưu, vị Nữ Thánh Dự Lưu không tạo tội sát sanh. Nàng chỉ nghĩ: “Ta phải vâng lời chồng mà làm việc”, chớ không có tâm xúi dục chồng: “Hãy cầm lấy cái nầy, đi đến đó và giết hại chúng sanh đi!”. Quả thật, nếu trong lòng bàn tay không có thương tích, ta lấy tay cầm nắm thuốc độc, thuốc độc không thể đốt lòng bàn tay như thế nào, thì cũng thế ấy, người không làm tội ác do không có tác ý bất thiện, dầu có cầm cung tên, khí giới mà trao ra cũng không bị tội.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm kệ rằng:
124. “Pāṇimhi ce vaṇo nāssa,
hareyya pāṇinā visaṃ;
Nābbaṇaṃ visamanveti,
natthi pāpaṃ akubbato.”
124. Với bàn tay không thương tích, có thể nắm thuốc độc mà không bị nhiễm độc, với người không làm ác thì không bao giờ bị ác.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Nāssa: không có.
Hareyya: có thể cầm lấy.
Vì sao? Vì không có thương tích thì thuốc độc không thể ngấm vào cơ thể tác hại được. Quả thật, bàn tay không bị thương, thuốc độc không thể ngấm, cũng vậy, người không có Tác ý bất thiện tính làm việc ác, thì dầu có cầm cung tên, khí giới trao ra cũng không bị quả báo ác hại. Cũng như bàn tay không vết tích, không bị nhiễm độc, tâm không có ý ác không bị ác theo dõi.
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đạt Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn.
*
Một thời gian sau, các Tỳ khưu lại đề khởi lên câu chuyện nầy: “Do nhân duyên nào mà Kê Hữu với các con trai và con dâu lại chứng đắc Tu Đà Hườn đạo? Tại lý do nào mà họ lại tái sanh vào gia đình thợ săn?”.
Đức Bổn Sư ngự đến hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy ngồi đây, thảo luận về chuyện gì?
- Bạch Ngài, chuyện nầy…
Nghe vậy, Đức Bổn Sư giải thích:
- Nầy các Tỳ khưu, thuở xa xưa, các Phật giáo đồ cùng nhau hội họp bàn tính việc xây cất Thánh tháp để tôn trí Xá lợi Phật Ca Diếp. Họ hỏi nhau: “Lấy thứ đất gì, lấy nước gì để xây Thánh tháp nầy?”. Rồi họ đi đến quyết định lấy hùng hoàng vàng và thạch tín đỏ làm đất, lấy dầu mè làm nước. Họ bèn lấy hai thứ đá nghiền nát như bột, trộn với dầu mè thành hồ để gắn gạch, cẩn vàng lót bên trong tháp. Ngoài mặt, ngay cửa lót toàn loại gạch đặc bằng vàng khối, mỗi cục gạch trị giá cả trăm ngàn đồng. Khi đã hoàn thành Thánh tháp, sắp tôn trí Xá lợi Phật, các Thiện tín nghĩ rằng: “Cuộc lễ tôn trí Xá lợi sẽ rất cần nhiều tiền của. Vậy ta nên bầu ai làm chủ tịch đảm trách việc nầy đây?”.
Khi ấy, ông Bá hộ cư ngụ tại làng lên tiếng: “Tôi sẽ làm chủ lễ.”, rồi ông xuất ra mười triệu đồng để lo tổ chức lễ tôn trí Xá lợi. Thấy vậy, dân làng trong nước phàn nàn rằng: “Bá hộ trong thành nầy tích chứa nhiều tiền của mà không thể làm chủ cuộc lễ Thánh tháp như vậy, lại để cho ông Bá hộ ở làng bên bỏ ra mười triệu đồng mà làm chủ lễ.”
Câu chuyện bàn tán nầy lọt vào tai ông Bá hộ trong thành, ông bèn bỏ ra hai mươi triệu đồng và nói:
- Tôi xin chịu xuất ra hai mươi triệu đồng để làm chủ lễ nầy.
Ông Bá hộ làng nói:
- Tôi xin bỏ ra ba mươi triệu đồng sẽ làm chủ lễ.
Ông Bá hộ thành cũng không chịu thua, tăng số tiền xuất ra để làm chủ lễ là tám mươi triệu đồng.
Gia sản của Bá hộ trong làng chỉ có tất cả chín mươi triệu đồng, còn gia sản của Bá hộ thành giàu có đến bốn trăm triệu, nên ông ở làng suy nghĩ: “Nếu ta nói: “Tôi chịu bỏ ra chín mươi triệu đồng.”, thì ông nầy sẽ nói: “Tôi sẽ bỏ ra một trăm triệu.”, chừng ấy mọi người sẽ biết là ta hết của rồi.” Ông liền tuyên bố:
- Tôi cũng xin bỏ ra bấy nhiêu tiền để làm phước, và hơn nữa, tôi sẽ đem cả vợ con ra làm công quả.-Nói rồi, ông dắt cả bảy đứa con trai, bảy nàng dâu cùng với vợ đến làm công quả cho Thánh tháp.
Ông Bá hộ thành có thể tăng thêm số tiền làm phước nhưng phải nhường cho đối phương phần công quả của tự mình lẫn con và dâu cho Bá hộ làng, nên tuyên bố rằng: “Xin hãy để cho ông nầy làm chủ lễ.”, và tất cả Thiện tín bầu ông ở làng làm chủ lễ ngay. Như thế là cả mười sáu người đều làm công quả nơi bảo tháp Xá lợi, còn Bá hộ thành người ta cho rảnh rang tự do.
Nhờ suốt đời chăm sóc Thánh tháp như thế, sau khi chết, cả mười sáu người được sanh lên Thiên giới. Họ ở đó hưởng phước của trời suốt một thời gian không có Phật. Đến thời Đức Phật hiện tại ra đời, người vợ hạ sanh vào làm tiểu thư con ông Bá hộ trong thành Vương Xá. Lúc còn con gái, tiểu thư đã đắc quả Tu Đà Hườn.
Người chồng vì nghiệp còn nặng, không thấy chân lý nên sau khi chết đi, chuyển kiếp đầu thai vào gia đình thợ săn. Tiểu thư con ông Bá hộ sở dĩ vừa thấy mặt người thợ săn là phát tâm ái luyến vì họ đã từng là vợ chồng với nhau, nay chỉ nối lại mối tình xưa, như Phật ngôn có bài kệ rằng:
“Pubbe va sannivāsena,
paccuppannahitena vā;
Evantaṃ jāyate pemaṃ,
uppalaṃ va yathodaketi.”
“Xưa từng chung chạ ra vào,
Giờ may tái ngộ, lòng nào chẳng lay.
Men tình vừa nhấp đã say,
Bèo kia gặp nước càng ngày càng tăng.”
Tiểu thư con Bá hộ theo về với thợ săn Kê Hữu là vì mối tình tiền kiếp. Các con trai, từ Thiên giới đầu thai vào lòng người mẹ cũ. Còn các nàng Thiên nữ là con dâu cũng tái sanh vào chỗ nầy, chỗ nọ, nhưng đến tuổi cập kê đều quần tụ về một nhà với cha mẹ chồng cũ. Tất cả gia đình đã nhờ công quả chăm sóc Thánh tháp thờ Xá lợi mà kiếp nầy được chứng quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Sơ quả lấy chồng gã thợ săn,
Bởi duyên chung sống ở tiền căn,
Hằng ngày phụ tiếp chồng hành ác,
Tăng hỏi: “Như nàng có tội chăng?”
Phật dạy: Nàng không có ác tâm,
Thì không thể tạo nghiệp si lầm!
Thuốc kia dầu độc, không phương hại,
Người có bàn tay chẳng vết cầm.
DỨT TÍCH THỢ SĂN KÊ HỮU
124. With no evil deeds no evil effects indeed. A woundless hand safely carries any poison.
124. Không làm ác nghiệp sẽ không hưởng quả ác, giống như bàn tay không bị thương tích sẽ không nhiễm chất độc nào cả.
124. Pāṇimhi ce vaṇo nāssa,
hareyya pāṇinā visaṃ;
Nābbaṇaṃ visamanveti,
natthi pāpaṃ akubbato. (9:9)
124. If in the hand’s no wound
poison one may bear.
A woundless one is poisoned not,
non-doers have no evil.
----
IX. 9 - Tích THỢ SĂN GẶP THIỀN SƯ
(Kokasunakhaluddakavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 125)
125. “Yo appaduṭṭhassa narassa dussati,
suddhassa posassa anaṅgaṇassa;
Tameva bālaṃ pacceti pāpaṃ,
sukhumo rajo paṭivātaṃva khitto.”
125. “Hại người không ác tâm,
Người thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Kỳ Viên Tự (Jetavana Vihāra), đề cập đến tên thợ săn Kô Ká (Koka).
Tương truyền rằng: Tảng sáng sớm một ngày nọ, tên thợ săn nầy mang cung tên và dắt theo bầy chó săn đi vào rừng. Dọc đường anh ta gặp một Tỳ khưu Đầu đà thường khất thực, đang đi bát, liền nổi giận nói thầm rằng: “Ta gặp đồ xui xẻo, chắc bữa nay sẽ không được chút chi cả!”, rồi anh ta đi luôn.
Còn vị Trưởng lão vào làng khất thực, độ cơm xong, đi trở về chùa. Tên thợ săn đi loanh quanh trong rừng không được chi cả, khi trở về lại gặp vị Trưởng lão. Anh ta đã giận sẵn, càng giận thêm: “Hôm nay vì gặp đồ xui xẻo nầy mà ta đi vào rừng không săn được chút chi cả. Bây giờ trở về lại gặp thứ kỳ đà cản mũi nầy nữa, ta sẽ xuỵt chó cho cắn nó mới được.” Anh ta ra hiệu lịnh rồi thả chó ra.
Vị Trưởng lão van lơn: “Đừng làm vậy, nầy Thiện nam.”
Thợ săn đáp: “Hôm nay ta xuất hành bị mi cản mũi mà ta săn không có thịt chi cả. Bây giờ trở về, lại bị mi cản mũi nữa, nên ta phải xuỵt chó cho cắn chết mi đi!”. Nói rồi ông ta thúc giục đàn chó xốc tới.
Vị Trưởng lão lật đật trèo lên một nhánh cây cao khỏi đầu người, ngồi tránh chó. Đàn chó bao vây quanh gốc cây.
Thợ săn Kô Ká đi đến nói:
- Dầu mi có trèo lên cây, mi cũng không thoát khỏi tay ta.
Anh ta bắn một mũi tên vào gót chân vị Trưởng lão. Trưởng lão lại van xin:
- Ông đừng làm vậy.
Thợ săn bất chấp lời van xin của Trưởng lão, cứ tiếp tục bắn tên. Vị Trưởng lão bị trúng tên ở một gót chân, phải rút chân lên và chân kia vẫn phải thòng xuống. Tên thợ săn lại nhắm chân đó buông tên, không đếm xỉa gì đến lời van xin của người tu hành khổ hạnh, tên thợ săn bắn trúng cả hai gót chân của Trưởng lão. Trưởng lão cảm thấy trong mình phát nóng lên như bị lửa đốt. Vì thọ khổ quá mạnh. Trưởng lão không giữ được Chánh niệm, vô ý để rơi chiếc y trên (Uttarasaṅgaṃ), chiếc y rơi xuống ngay đầu gã thợ săn Kô Ká và trùm luôn cả mình anh ta.
Bầy chó tưởng là vị Trưởng lão té xuống, áp lại chui đầu vào chiếc y, kéo lôi chủ mình và cắn xé tận xương. Khi nạn nhân đã chết, đàn chó chui ra đứng ngoài lá y. Khi ấy Trưởng lão bẻ một nhánh cây khô liệng xuống, đàn chó nhìn lên thấy Trưởng lão, biết rằng chúng đã cắn lầm chủ của chúng, liền bỏ chạy vào rừng.
Trưởng lão khởi tâm áy náy: “Tại cái y của ta bao trùm, khiến cho anh ta thọ hại, không biết Giới của ta có còn lành mạnh (Arogaṃ) chăng?”.
Trưởng lão tuột xuống đất, về đảnh lễ Đức Bổn Sư, thuật lại tự sự từ đầu đến cuối rồi hỏi:
- Bạch Ngài, vì lá y của con rơi xuống mà ông thợ săn bị thiệt mạng, không biết Giới của con còn lành mạnh chăng? Không biết Phạm hạnh của con có còn tồn tại chăng?
Sau khi nghe dứt câu chuyện của vị Tỳ khưu, Đức Bổn Sư giải thích rằng:
- Nầy Tỳ khưu, Giới của thầy vẫn còn lành mạnh, Phạm hạnh của thầy vẫn có như thường. Kẻ làm hại người vô tội phải gặp tai họa. Không những bây giờ gã thợ săn bị như thế, mà thời quá khứ sau khi hại những người vô tội, kẻ ấy cũng đã bị thọ hại như thế rồi.
Tiếp theo đó, Đức Bổn Sư thuyết lên Bổn sanh như sau:
Tương truyền rằng: Trong thời quá khứ có một ông y sĩ đi khắp các làng mạc để hành nghề, nhưng không kiếm được việc chi để làm cả, bụng đói, ông đi ra khỏi cổng làng, thấy nhiều đứa trẻ đang chơi thì nghĩ thầm rằng: “Cho rắn cắn mấy đứa nhỏ nầy, rồi cho thuốc chữa, ta sẽ có cơm ăn.” Ông y sĩ bèn kêu lũ trẻ, chỉ cho chúng thấy một con rắn nằm trong bọng cây, thò đầu ra ngoài: “Nầy các em bé, đây có con cưởng con, hãy bắt lấy nó đi.”
Khi ấy, có một cậu bé lanh tay, chụp được cổ con rắn, nắm thật chặt, lôi rắn ra ngoài bọng cây. Khi nhận biết đó là con rắn, cậu bé kêu rú lên rồi ném rắn đi. Bất ngờ con rắn rơi ngay trên đầu gã y sĩ đang đứng gần đó. Con rắn quấn quanh cổ ông ta mổ thật mạnh một cái, khiến ông ta chết liền tại chỗ đó. Tên thợ săn chó Kô Ká trong tiền kiếp cũng từng mưu hại người vô tội rồi tự mình đi đến chỗ diệt vong như thế.
Sau khi kể tích xưa, Đức Bổn Sư thuyết pháp chỉ rõ mối liên hệ giữa tiền kiếp và hiện kiếp, rồi Ngài ngâm kệ kết luận rằng:
125. “Yo appaduṭṭhassa narassa dussati,
suddhassa posassa anaṅgaṇassa;
Tameva bālaṃ pacceti pāpaṃ,
sukhumo rajo paṭivātaṃva khitto.”
125. Đem ác ý xâm phạm đến người không tà vạy, thanh tịnh vô nhiễm, tội ác sẽ trở lại kẻ ấy, như ngược gió tung bụi.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Appaduṭṭhassa: không tội ác đối với tự thân hoặc đối với tất cả chúng sanh.
Narassa: chúng sanh.
Dussati: phạm lỗi, phạm hình luật.
Suddhassa: vô tội, không phạm lỗi.
Posassa: một lời khác để chỉ định chúng sinh như tiếng Narassa ở trên.
Anaṅgaṇassa: vô nhiễm, không phiền não, cấu uế.
Pacceti = Paṭeti: ngược trở lại.
Paṭivātaṃ: Cũng như một người đứng phía dưới gió mà muốn tung bụi lên phía trên gió, thì tự nhiên bụi tung ra sẽ bay ngược trở lại rơi lên người đó. Khi người nào làm hại một người vô tội chẳng hạn như đánh bằng tay, thì tự nhiên người ngu ác ấy trong hiện kiếp hoặc kiếp vị lại phải thọ khổ, như bị thiêu đốt trong hỏa ngục. Đó là quả dị thục của nghiệp ác đã làm đối với người vô tội, dội ngược lại người làm ác vậy.
*
Cuối thời Pháp, vị Tỳ khưu ấy chứng đắc quả A La Hán. Tứ chúng thính pháp cũng hưởng được sự lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Sáng dắt chó đi, gặp trọc đầu,
Thợ săn tà kiến tự lo âu,
Đến trưa, chẳng được con chi cả,
Về gặp ông sư, quyết trả thù.
Xít chó rượt nà kẻ tu hành,
Sư trèo cây nọ để đào sanh,
Bị tên trúng gót, buông y xuống,
Chó chụp thợ săn, xé nát banh.
Vì mình vô ý hại thợ săn,
Hỏi Phật: Như con có tội chăng?
Phật bảo: Vô tâm thì chẳng tội,
Thợ săn chết bởi hắn làm nhăng!
DỨT TÍCH THỢ SĂN GẶP THIỀN SƯ
125. Whatever evil act is done against a virtuous person its evil will boomerang on the doer.
125. Bất cứ ác nghiệp nào được dùng để phá hại người đức hạnh cũng đem ác báo trở lại cho kẻ làm ác kia.
125. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati,
suddhassa posassa anaṅgaṇassa;
Tameva bālaṃ pacceti pāpaṃ,
sukhumo rajo paṭivātaṃva khitto. (9:10)
125. Who offends the inoffensive,
the innocent and blameless one,
upon that fool does evil fall
as fine dust flung against the wind.
----
IX. 10 - Tích TRƯỞNG LÃO ĐỀ XÁ VÀ ANH THỢ NGỌC
(Maṇikārakulūpakatissattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 126)
126. “Gabbhameke uppajjanti,
nirayaṃ pāpakammino;
Saggaṃ sugatino yanti,
parinibbanti anāsavā.”
126. “Một số sinh bào thai,
Kẻ ác sinh Địa ngục,
Người thiện lên cõi trời,
Vô lậu chứng Níp Bàn.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Tissa (Đề Xá ) và anh thợ ngọc là người hộ độ Trưởng lão.
Tương truyền rằng: Vị Trưởng lão này thường xuyên đến thọ thực suốt mười hai năm trong gia đình của một anh thợ ngọc. Trong gia đình nầy, cả hai vợ chồng đều chăm lo phụng sự Trưởng lão như cha mẹ ruột của Trưởng lão vậy.
Thế nhưng, một hôm anh thợ ngọc nầy đang ngồi xắt thịt trước mặt vị Trưởng lão Tissa, bỗng nhiên có sứ giả đức vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) phái đến, trao cho anh ta một viên bảo châu và nói: “Anh hãy trau giồi và xoi lỗ hòn ngọc nầy rồi dâng lại đức vua.”
Anh thợ ngọc tay đang dính máu, thọ lãnh viên ngọc, đặt tạm lên nắp hộp, rồi vào trong nhà rửa tay. Trong nhà anh thợ ngọc có nuôi một con thiên nga (ngỗng trời) trông thấy viên ngọc dính máu, tưởng là cục thịt, nên mổ nuốt vào bụng trước mặt vị Trưởng lão.
Anh thợ ngọc trở ra không thấy viên ngọc Ma ni, bèn đi hỏi khắp trong nhà từ vợ đến con trai, con gái:
- Có ai lấy viên ngọc không?
Tất cả đều trả lời:
- Chúng tôi không có lấy!
Nghe vậy, anh thợ ngọc nghĩ: “Chắc là Trưởng lão lấy viên ngọc!”, bèn ngỏ ý với vợ rằng:
- Chắc Trưởng lão lấy chớ không ai khác.
Người vợ khuyên can rằng:
- Anh ơi, anh đừng nói vậy. Từ bấy lâu nay chúng ta chưa hề thấy Trưởng lão phạm lỗi gì! Không lẽ Trưởng lão lấy cắp viên ngọc?
Anh thợ ngọc trai hỏi ngay Trưởng lão:
- Bạch Ngài, viên ngọc con để trong chỗ nầy, Ngài đã lấy cất phải không?
- Nầy ông Thiện nam, ta không có lấy cất.
- Bạch Ngài, ở đây không có ai khác, vậy ngoài Ngài ra thì ai lấy? Xin Ngài hãy trao trả lại viên bảo châu lại cho con!
Anh thợ ngọc lại vào bàn với vợ một lần nữa rằng:
- Vị Trưởng lão đã ăn cắp viên bảo châu của anh, để anh tra khảo ông ta mới được!
- Anh ơi! Anh đừng báo hại chúng ta. Thà là chúng ta chịu làm nô lệ còn hơn. Ta đừng nói lời như thế với Trưởng lão.
Anh thợ ngọc nói:
- Dầu tất cả chúng ta đi làm nô lệ cũng không đủ đền tiền viên ngọc Ma ni.
Thế rồi, anh ta lấy dây luộc quấn, niền đầu Trưởng lão và lấy gậy gõ mạnh vào. Từ đầu Trưởng lão máu chảy ra như xối, hai mắt Trưởng lão gần lòi ra ngoài. Thọ khổ khốc liệt, Trưởng lão ngã nằm xuống đất.
Con thiên nga đánh hơi mùi máu, chạy đến uống máu của Trưởng lão. Sẵn trớn giận Trưởng lão, anh thợ ngọc hét: “Còn mầy nữa, mầy đã làm gì?”, và lấy chân đá hất con Thiên Nga đi. Bị một đá của anh ta, con thiên nga chết ngay, nằm lăn trên đất. Trưởng lão nhìn thấy vậy mới nói:
- Ông Thiện nam, ông hoan hỷ cởi lỏng bớt vòng dây xiết chặt đầu ta, để ta nhìn cho rõ xem con thiên nga đã chết rồi hay chưa?
Khi ấy, người thợ ngọc nói:
- Rồi ông cũng sẽ chết như nó vậy đó!
- Nầy ông Thiện nam, con thiên nga nầy đã nuốt viên ngọc Ma ni, nếu nó chưa chết thà ta chịu chết chớ không nói cho ông biết chuyện nầy.
Người thợ ngọc mổ bụng con thiên nga, thấy được viên bảo châu rồi, liền phát run lên, tâm thần hoảng hốt, quì mọp dưới chân Trưởng lão xin sám hối.
- Bạch Ngài, xin Ngài xá tội cho con. Vì con mù quáng mà lỡ xúc phạm đến Ngài!
- Nầy ông Thiện nam, ông không có tội chi mà ta cũng không có tội. Đây chẳng qua là nghiệp quả trong vòng luân hồi, ta tha thứ cho ông rồi đó.
- Bạch Ngài, nếu Ngài tha thứ tội cho con thì con xin thỉnh Ngài vẫn đến ngồi ở nhà con mà thọ bát!
- Nầy ông Thiện nam, từ rày về sau, ta sẽ không bao giờ đi vào trong mái nhà của những người khác. Quả thật, vì sự xâm nhập vào nhà người mới có phát sanh tội khổ nầy đây. Từ rày về sau, nếu ta còn khỏe, chân đi được, thì ta chỉ sẽ đến đứng trước cửa nhà mà thọ bát mà thôi!
Nói rồi, Trưởng lão nguyện giữ Hạnh Đầu đà bằng bài kệ nầy:
“Paccati munino bhattaṃ,
thokaṃ thokaṃ kule kule;
Piṇḍikāya carissāmi,
atthi jaṅghabalaṃ mamā'ti.”
“Cơm đã nấu để cho người tịnh sĩ, mỗi nhà một ít, nhà nầy nhà kia; ta sẽ đi trì bình khất thực, vì chân ta có sức khỏe!”
Sau khi nguyện Đầu đà thường khất thực, Trưởng lão vì bị đánh đến mang bịnh, nên không bao lâu Ngài Níp Bàn. Con thiên nga chết, tái sanh vào thai bào của vợ người thợ ngọc. Còn anh ta, sau khi chết bị đọa vào Địa ngục. Vợ anh sau khi chết được thọ sanh về Thiên giới, nhờ lúc trước có tâm dịu hiền đối với Trưởng lão.
Các Tỳ khưu bạch hỏi Đức Bổn Sư về cảnh giới tái sanh của những nhân vật trên đây, Đức Bổn Sư đáp:
- Nầy các Tỳ khưu, một số đi đầu thai vào cõi Nhân giới, một số kẻ ác bị đọa xuống Địa ngục, một số thiện nhân vãng sanh lên Thiên đàng, các bậc vô lậu thì Níp Bàn Vô Dư.
Nói rồi, Ngài thuyết pháp và kết luận bằng kệ ngôn rằng:
126. “Gabbhameke uppajjanti,
nirayaṃ pāpakammino;
Saggaṃ sugatino yanti,
parinibbanti anāsavā.”
126. Một số sinh ra từ bào thai, kẻ ác thì đọa vào Địa ngục, người chính trực thì sinh lên Chư Thiên, nhưng cõi Níp Bàn chỉ dành riêng cho những ai đã diệt sạch nghiệp sanh tử.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Gabbhaṃ: ở đây chỉ bào thai người.
Ba câu kệ sau nghĩa lý đã rõ rệt.
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Nói thật thì e phạm sát sinh,
Nhẫn từ, Trưởng lão cứ làm thinh,
Chủ nhả sợ mất kim cương quí,
Tra khảo nhà sư, chẳng niệm tình.
Chim chết, sư liền được giải oan,
Nhưng Tâm nhàm chán việc trần gian,
Từ nay nhất nguyện xa gia chủ,
Thọ pháp Đầu Đà, đến Níp Bàn.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO ĐỀ XÁ VÀ ANH THỢ NGỌC
126. Evil-doers get reborn in hell, and to heavens the virtuous go. The undefiled in Nibbàna end.
126. Người làm ác hạnh tái sanh địa ngục, người thiện hạnh lên Thiên giới, bậc Vô Lậu (A La Hán) đắc Níp Bàn.
126. Gabbhameke uppajjanti,
nirayaṃ pāpakammino;
Saggaṃ sugatino yanti,
parinibbanti anāsavā. (9:11)
126. Some find birth within a womb,
evil-doers quicken in hell,
good-farers to the heavens go,
the Unpolluted wholly cool.
----
IX. 11 - Tích BA NHÓM TỲ KHƯU
(Tayojanavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 127)
127. “Na antalikkhe na samuddamajjhe,
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa;
Na vijjate[13] so jagatippadeso,
yatraṭṭhito[13] mucceyya pāpakammā.”
127. “Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Kỳ Viên Tự (Jetavana Vihāra), đề cập đến ba nhóm Tỳ khưu.
Tương truyền rằng: Trong thời Đức Bổn Sư đang ngự tại Kỳ Viên, có nhiều vị Tỳ khưu đang trên đường về yết kiến Ngài, ghé vào một làng nọ để khất thực.
Dân làng thỉnh bát các Tỳ khưu, mời các Ngài ngồi nơi nhà khách, dâng cháo và bánh ngọt các Ngài điểm tâm xong, ráp nhau ngồi nghe thuyết pháp, vì chưa đến giờ dâng bữa cơm ngọ.
Trong khi ấy, một phụ nữ đã nấu cơm ở nhà bếp, đang còn nấu canh và các món ăn phụ, chụm lửa quá nhiều, ngọn lửa từ lò bốc lên cháy mái tranh. Một bựng tranh cháy bay bổng lên không.
Ngay lúc ấy, một con quạ đang bay qua, đút cổ vào trong bựng tranh đang cháy, bị cỏ tranh quấn khắp mình thiêu đốt, rơi xuống giữa làng.
Các Tỳ khưu thấy vậy, nghĩ thầm: “Ôi! Tội nghiệp thay! Các đạo hữu hãy coi đó! Con quạ nầy chết dữ do tạo nghiệp gì, ngoài Đức Bổn Sư ra, ai mà biết được? Chúng ta sẽ hỏi Ngài cho biết tiền nghiệp của nó!”. Rồi các Tỳ khưu lại ra đi.
Một nhóm Tỳ khưu khác, cũng đáp thuyền về Kỳ Viên để yết kiến Đức Thế Tôn. Thuyền đi giữa biển, bỗng nhiên đứng khựng lại.
Hành khách xôn xao hỏi: “Trong đây chắc có người xui xẻo.” Họ đồng ý bắt thăm xem ai là người phải chịu hi sinh để tế hải thần. Đợt đầu tiên, vợ của thuyền trưởng rút trúng thăm ấy. Thuyền trưởng lại yêu cầu bắt thăm một lần nữa. Đợt thứ hai, cũng vợ ông ta trúng thăm. Đến đợt thứ ba, lá thăm cũng về phần phụ nữ nầy.
Hành khách nhìn mặt thuyền trưởng và hỏi:
- Phải tính sao đây, ông chủ?
Thuyền trưởng đáp:
- Ta không thể vì một phụ nữ mà để cho đại chúng phải thọ nạn. Quí vị hãy thảy cô ta xuống biển đi!
Khi bị bắt thảy xuống nước, phụ nữ ấy kinh hãi sợ chết, khóc thét lên. Thuyền trưởng nghe la, bèn nói:
- Cần gì phải làm hủy hoại những nữ trang của cô ấy cho uổng?
Ông ta cởi hết nữ trang của cô vợ, cho cô ta mặc một cái váy cũ, rồi bảo mọi người:
- Hãy ném cô ta đi! Vì ta không thể chịu được khi thấy xác cô ta nổi phình trên mặt nước, cho nên mấy người hãy lấy bình đầy cát cột vào cổ cô ta rồi liệng cô ta xuống biển cho ta khỏi trông thấy cô ta nữa.
Mọi người làm theo lời thuyền trưởng.
Ngay chỗ bị ném xuống, phụ nữ ấy bị cá và rùa bao vây cắn rỉa.
Chư Tỳ khưu nghe hết câu chuyện nầy, tự nghĩ: “Ngoài Đức Bổn Sư ra, nào ai khác biết được tiền nghiệp của phụ nữ ấy? Chúng ta sẽ hỏi Đức Bổn Sư về tiền nghiệp của nàng!”.
Khi thuyền đến bến, các Tỳ khưu lên bờ và đi bộ về chùa.
Một nhóm Tỳ khưu khác gồm có bảy vị, nhập hạ ở miền biên địa, mãn hạ, trở về yết kiến Đức Bổn Sư. Dọc đường, chiều tối các vị vào một ngôi chùa xin tạm trú.
Trong một cái động đá có bảy cái giường, chư Tăng được vào nằm nghỉ trong đó. Đến nửa đêm, một tảng đá to bằng nóc nhà, từ trên núi lăn xuống, chắn bít cửa động đá.
Chư Tăng ở chùa bảo nhau: “Chúng ta đã để cho các Tỳ khưu khách ngụ trong động đá nầy, bây giờ tảng đá to nầy đứng chắn lấp cửa động. Chúng ta hãy dẹp nó đi!”. Tất cả dân chúng trong bảy làng họp lại, rán hết sức đẩy cũng không nhúc nhích nổi tảng đá. Bên trong động, các Tỳ khưu cũng tận lực một cách vô ích.
Suốt bảy ngày liền, dân chúng không dời được tảng đá. Các Tỳ khưu khách phải nhịn đói trong bảy ngày, thọ khổ rất khốc liệt.
Đến ngày thứ bảy, tảng đá tự động lăn đi.
Các Tỳ khưu được thoát nạn, tự nghĩ: “Quả ác nầy của chúng ta, trừ Đức Bổn Sư ra thì có ai biết được? Chúng ta sẽ hỏi Ngài!”.
Ra khỏi chùa nầy, các Tỳ khưu nầy gặp hai nhóm Tỳ khưu trước, liền vần đoàn cùng nhau đi về đảnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi đáp lời vấn an của Đức Bổn Sư, chư Tăng lần lượt hỏi Ngài về lý do của những điều mình đã mục kích. Đức Bổn Sư tuần tự giải thích những lý do ấy như sau:
- Nầy các Tỳ khưu, con quạ ấy, tự nó đã tạo nghiệp ác nên mới chịu quả báo như vậy. Quả nhiên, trong thời quá khứ, nơi thành Bārāṇasī (Ba La Nại), có một nông phu, tự mình tập con bò của mình mà tập không được. Con bò của anh ta cứ đi một chút lại nằm xuống. Anh ta đánh nó đứng dậy thì nó cũng chỉ đi một chút rồi lại nằm ỳ xuống như trước. Rán hết sức mình mà tập con bò lỳ không được, anh ta nổi nóng nói rằng: “Từ đây về sau mầy sẽ nằm ngủ an vui nhé!”. Anh ta lấy rơm quấn cổ con bò coi như cục rơm, rồi lấy lửa châm đốt.”
Con bò bị thiêu sống, phải chết ngay nơi ấy.
- Nầy các Tỳ khưu, đó là tiền nghiệp của con quạ tạo. Do quả dị thục, nó đã bị thiêu trong hỏa ngục rất lâu và do quả còn dư sót nó đã đầu thai làm quạ bảy lần và bị chết cháy trên không như thế.
- Nầy các Tỳ khưu, sau đây là tiền nghiệp của phụ nữ ấy. Trong thời quá khứ, nơi thành Bārāṇasī (Ba La Nại), vợ của một gia chủ nọ, một tay quán xuyến tất cả công việc nhà, nào là gánh nước, giã gạo, nấu cơm v.v… Có một con chó đực, cứ ngồi nhìn chị ta trong khi chị ta đang làm các công việc nhà. Khi chị ta đem cơm ra ruộng cho chồng, hoặc vào rừng kiếm củi, lá v.v… con chó cũng đi theo chị ta.
Thấy vậy, các thanh thiếu niên chế nhạo rằng: “Anh em ơi, bữa nay thợ săn dắt con chó đi săn, chúng mình sẽ có thịt ăn!”.
Nghe lũ trẻ nói vậy, chị ta mắc cỡ, lấy gậy, lấy đá đánh đuổi con chó chạy đi xa. Theo truyền thuyết, con chó nầy đã là chồng của chị ta trong ba tiền kiếp, cho nên không thể đoạn tuyệt luyến ái được. Quả thật, mặc dầu trong cái vòng luân hồi vô thỉ, ban đầu không có ai là vợ hoặc là chồng của ai cả, nhưng trong những kiếp gần đây, vì tình thân thuộc mà phát sanh sự ái luyến thái quá, cho đến nỗi con chó lìa xa chị ta không được.
Phụ nữ nổi giận, muốn giết con chó, bèn lấy một cuộn dây đem theo mình, khi đem cháo ra ruộng cho chồng ăn, con chó vẫn lẽo đẽo theo sau phụ nữ ấy.
Sau khi đưa cháo cho chồng ăn rồi, chị ta cầm cái bình không đi đến một ao nước, hốt cát đổ đầy bình. Nhìn thấy con chó đứng gần đó, chị ta tróc kêu nó đến.
Con chó nghĩ thầm: “Từ lâu lắm, hôm nay ta mới được nghe những lời dịu ngọt.”, nó ngoắt đuôi chạy lại.
Phụ nữ ấy nắm chặt cổ con chó. Một đầu dây đã cột sẵn vào bình đầy cát, còn một đầu chị ta cột cổ con chó, rồi ném cái bình xuống ao nước. Con chó bị lôi theo cái bình và bị chết chìm dưới ao.
Do quả dị thục của ác nghiệp nầy, phụ nữ đã bị thiêu đốt rất lâu dưới Địa ngục. Do quả dư sót, chị ta bị cột cổ dính với cái bình đầy cát, thảy xuống nước và chết đuối như vậy trong một trăm kiếp nữa, khi được trở lại làm người.
- Nầy các Tỳ khưu, các thầy đã gặp nạn cũng là do quả tiền nghiệp. Thật vậy, trong thời quá khứ, có bảy cậu bé chăn bò cư ngụ nơi thành Bārāṇasī, thường đuổi bò cho ăn trong một chỗ đất hoang ở ven rừng, cứ bảy ngày thì trở lại chỗ ban đầu.
Một hôm, khi đuổi bò về, chúng gặp một con kỳ đà và rượt theo nó. Con kỳ đà chạy thoát, chun xuống một gò mối. Cái gò nầy có bảy ngách. Lũ trẻ nói: “Bây giờ chúng ta không thể bắt được nó. Ngày mai ta hãy trở lại bắt nó!”. Nói rồi, bảy đứa bé, mỗi đứa bẻ một nhánh cây làm gậy, thọc xuống bít bảy lỗ ngách rồi bỏ đi.
Hôm sau, không nhớ đến con kỳ đà, lũ trẻ đuổi bò cho đi ăn ở một nơi khác. Đến ngày thứ bảy, chúng đuổi bò đáo trở lại chỗ cũ, nhìn thấy gò mối mới nhớ đến con kỳ đà: “Con kỳ đà bây giờ ra sao nhỉ?”. Mỗi đứa bé tự khai mở lỗ ngách của mình đã bít.
Con kỳ đà đã ngất ngư gần chết, thân hình ốm chỉ còn xương với da, run rẩy bò lê ra ngoài. Thấy nó như vậy, lũ trẻ thương xót khuyên nhau: “Thôi đừng phá nó nữa, nó đã nhịn đói bảy ngày rồi.”, chúng xoa lưng nó và nói: “Hãy đi an vui nhé!”, rồi thả nó ra. Nhờ con kỳ đà chưa chết, bọn trẻ không bị thiêu ở Địa ngục. Tuy nhiên, bảy đứa trẻ đã tạo cộng nghiệp, nên mười bốn kiếp về sau, mỗi kiếp chúng đều bị bỏ đói bảy ngày như thế cả.
- Nầy các Tỳ khưu, thuở xa xưa, khi sanh làm bảy đứa trẻ chăn bò, các thầy đã tạo ác nghiệp như thế.
Khi ấy, một vị Tỳ khưu hỏi Đức Thế Tôn rằng:
- Bạch Ngài, nếu vậy thì khi con người đã tạo nghiệp ác rồi, dầu cho bay lên trời, lặn xuống biển, hoặc vào trong hang núi, cũng không thoát khỏi quả của nghiệp phải chăng?
Đức Bổn Sư xác nhận:
- Nầy các Tỳ khưu, đúng như vậy! Bất cứ nơi đâu, như trên trời chẳng hạn, cũng không có chỗ trú để tránh khỏi quả của nghiệp ác.
Nói rồi, Đức Thế Tôn ngâm kệ rằng:
127. “Na antalikkhe na samuddamajjhe,
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa;
Na vijjate so jagatippadeso,
yatraṭṭhito mucceyya pāpakammāti.”
127. Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy biển, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian nầy, chẳng có nơi nào trốn khỏi ác nghiệp đã gây.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Ý nghĩa của kệ ngôn nầy là:
Dầu cho ai có giỏi nói: “Bằng phương thế nầy ta sẽ tránh khỏi quả của ác nghiệp.”, rồi bay lên ngồi trên không, hoặc lặn xuống đáy biển sâu đến tám muôn bốn ngàn do tuần, hoặc vào ngồi trong hang núi, người ấy cũng không bao giờ thoát khỏi quả của ác nghiệp. Khắp bốn phương tám hướng trên mặt đất nầy, không có một chỗ đứng an toàn nhỏ bằng mảy lông để tránh khỏi quả của ác nghiệp được.
*
Cuối thời Pháp, ba nhóm Tỳ khưu đều đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả. Kỳ dư đại chúng thính pháp đều hưởng được lợi ích.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ba nhóm Tỳ khưu lễ Phật Đà,
Tường trình mọi việc thấy vừa qua:
Một con quạ tự bay vào lửa,
Thiếu phụ bị thần biển chẳng tha.
Bảy vị Tỳ khưu bị bảy ngày,
Nhốt trong hang núi, lạ lùng thay!
Cầu xin Phật giải Nhân tiền nghiệp,
Phật bảo: “Các thầy lắng nghe đây!”
Con quạ trước là một dân cày,
Đốt bò chứng chẳng nương tay.
Ngày xưa, thiếu phụ dìm con chó,
Xuống một ao hồ, chết rã thây.
Bảy đứa chăn trâu, nhốt kỳ đà,
Bảy ngày đói khát, mới buông tha,
Nhân nào Quả nấy không sai chạy,
Chẳng có nơi đâu khỏi Nghiệp mà!
DỨT TÍCH BA NHÓM TỲ KHƯU
127. An evil doer has no escape from his bad actions wherever he tries to hide.
127. Người làm ác không thể tránh được ác nghiệp đã tạo dù họ có trốn ở bất kỳ nơi nào.
127. Na antalikkhe na samuddamajjhe,
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa;
Na vijjate so jagatippadeso,
yatraṭṭhito mucceyya pāpakammā. (9:12)
127. Neither in sky nor surrounded by sea,
nor by dwelling in a mountain cave,
nowhere is found that place on earth
where one’s from evil kamma free.
----
IX. 12 - Tích VUA THIỆN GIÁC BỊ ĐẤT RÚT
(Suppabuddhasakyavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 128)
128. “Na antalikkhe na samuddamajjhe,
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa;
Na vijjate[14] so jagatippadeso,
yatraṭṭhitaṃ[14] nappasaheyya maccu.”
128. “Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn khỏi tay thần chết.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại chùa Nigrodha (Ni Câu Luật Đà), đề cập đến Đức vua Thiện Giác (Suppabuddhasakka).
Tương truyền rằng: Đức vua Thiện Giác vì hai lý do sau đây mà đã buộc oan trái với Đức Phật: một là Ngài đã bỏ con gái Đức vua là công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) mà ra đi xuất gia, hai là Ngài đã cho con trai Đức vua là Hoàng tử Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) xuất gia, cho nên Đức vua căm thù Ngài lắm.
Một ngày nọ, Đức vua có ý nghĩ: “Bây giờ trẫm nhất định không cho Cồ Đàm đi đến chỗ thỉnh bát để thọ thực.” Đức vua truyền lịnh cho đóng cửa chận đường đi của Đức Thế Tôn, rồi ngồi giữa đường mà uống rượu.
Khi Đức Bổn Sư cùng chư Tăng tùy tùng sắp đến chỗ Đức vua gác, có tin báo trước cho Vua Thiện Giác hay rằng “Đức Bổn Sư sắp đến.”
Đức vua phán: “Hãy đi đón đường nói cho Cồ Đàm biết: Cồ Đàm không phải lớn hơn trẫm! Trẫm sẽ không cho nó đi qua lối nầy!”. Rồi Đức vua cứ ngồi nguyên một chỗ mà lập đi lập lại như thế mãi.
Đức Bổn Sư thấy những người đến xin cậu mình cho phép đi qua đều không được chấp thuận, nên Ngài quay trở về.
Đức vua lại phái một mật thám theo dõi Đức Bổn Sư: “Hãy đi, nghe ngóng lời nói của Sĩ Đạt Ta, rồi trở về phục lịnh.”
Lúc quay trở về, Đức Bổn Sư mỉm cười. Trưởng lão Ānanda thấy lạ bèn hỏi:
- Bạch Ngài, do nhân duyên nào mà Ngài đã mỉm cười?
Đức Bổn Sư hỏi lại:
- Nầy Ānanda! Thầy đã thấy Vua Thiện Giác rồi chứ?
- Bạch Ngài, con đã thấy.
- Đức vua đã tạo nghiệp rất nặng là dám cản đường một vị Phật như Ta. Từ đây đến bảy ngày, tại chân cầu thang của đền Vua, Đức vua Thiện Giác sẽ bị đất rút.
Nghe được lời tiên tri nầy, mật thám về báo cáo lại với Vua Thiện Giác. Đức vua hỏi:
- Lúc quay trở về, cháu trẫm đã nói những gì?-Mật thám nghe sao thì thuật lại y như vậy.
Nghe dứt những lời báo cáo, Đức vua nghĩ thầm: “Quả thật, cháu của ta chưa hề nói sai trật, hễ nói điều gì là có y điều đó xảy ra. Tuy nhiên, bây giờ đây ta sẽ quở trách Sĩ Đạt Ta về tội nói láo. Quả nhiên, cháu ta đã tiên tri bảy ngày nữa ta sẽ bị đất rút, nó không nói bằng cách mơ hồ mà lại xác quyết rằng ta sẽ bị đất rút ngay chân cầu thang của vương cung. Kể từ bây giờ trở đi, ta sẽ không đặt chân đến đó, và sau khi khỏi bị đất rút tại nơi đó, ta sẽ quở nó về tội nói láo!”.
Đức vua cho mang tất cả đồ vật nhu dụng của mình lên tầng lầu thứ bảy, khiến dẹp cầu thang rồi đóng cửa cái lại. Tại mỗi cửa của mỗi tầng lầu, Đức vua bố trí hai người lực sĩ đứng canh và dặn họ: “Nếu thầy trẫm dể duôi muốn đi xuống lầu, hai người hãy ngăn cản lại!”. Nói rồi, Đức vua ngự tọa trong tư phòng trên chót tầng lầu thứ bảy.
Đức Bổn Sư nghe được câu chuyện nầy thì phán rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, dầu Đức vua Thiện Giác không ngồi trên đỉnh thượng của tòa lầu bảy từng mà lên ngồi giữa hư không, hoặc đáp thuyền ra giữa biển lớn, hoặc là vào ngồi trong hang núi cũng mặc. Lời Chư Phật không bao giờ lưỡng ước, y như lời của Ta đã tiên tri, Đức vua sẽ bị đất rút ngay tại chỗ mà Ta đã nói.
Nói rồi Đức Thế Tôn thuyết pháp và ngâm kệ rằng:
128. “Na antalikkhe na samuddamajjhe,
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa;
Na vijjate so jagatippadeso,
yatraṭṭhitaṃ nappasaheyya maccu.”
128. Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy bể sâu, chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù tìm khắp thế gian nầy, chẳng có nơi nào trốn khỏi Tử thần.
(Bản dịch của Ngài T.K Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Nappasaheyya maccu: Khắp trên mặt địa cầu, không có một chỗ nào, dầu nhỏ bằng sợt tóc mà ta có thể nói: “Đứng tại đây tử thần sẽ không áp đảo mình được.”
Ba câu trên đồng nghĩa với các câu ở bài kệ trước.
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là quả Tu Đà Hườn.
*
Đến ngày thứ bảy, thời hạn ngăn cấm con đường đi bát của Đức Bổn Sư đã mãn. Bên dưới tòa lầu, con ngựa báu mang tên Maṅgala (Hạnh Phúc) của Vua Thiện Giác sanh chứng bất kham, cứ đá mãi vào tường vách.
Đức vua ngồi trên lầu, nghe tiếng động, hỏi quan hầu:
- Cái gì thế?
- Tâu hoàng thượng, con ngựa Maṅgala sanh chứng!
Con ngựa nầy không ai chế ngự nổi, chỉ có thấy mặt Đức vua Thiện Giác thì nó mới chịu đứng yên. Khi ấy, Đức vua muốn xuống lầu để bắt con ngựa, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi ra đến ngạch cửa, hai cánh cửa tự động mở hoác ra, thành Đức vua lại đứng ngay đầu cầu thang. Hai lực sĩ đứng gác liền nắm cổ Đức vua ném xuống tầng dưới. Cùng một cách như thế, cả bảy từng cửa đều tự động mở ra, các đầu cầu thang cũng lần lượt hiện ra trước mặt Đức vua và ở mỗi từng, hai người lực sĩ đều nắm cổ Đức vua mà ném xuống phía dưới. Thế rồi, khi Đức vua tuột xuống đến chân cầu thang ở dưới tòa vương cung, mặt đất liền nứt ra một khoảng lớn thâu hút Đức vua. Đức vua băng hà sanh vào Địa ngục A tỳ.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Đức vua giận Phật bỏ con mình,
Bắc ghế ra ngồi giữa lộ trình,
Cản Phật không cho qua lấy bát,
Phật cười, quay lại, chỉ làm thinh!
Trưởng lão A Nan Đa bạch rằng:
“Ngài cười có ý nghĩa chi chăng?”
“Đến ngày thứ bảy thì Vua chết,
Đất sụp, chôn Ngài dưới cuối thang.”
Quả nhiên Đức Phật nói không sai!
Tránh được tử thần chẳng có ai,
Dưới biển, trên trời, trong động đá,
Không nơi ẩn úp sống dằng dai.
DỨT TÍCH VUA THIỆN GIÁC BỊ ĐẤT RÚT
128. Wherever a person may hide, in the sky or sea or mountain, there is no escape from Death.
128. Dù con người có trốn ở trên trời, dưới biển hay trong núi cũng không tránh được Tử thần.
128. Na antalikkhe na samuddamajjhe,
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa;
Na vijjate so jagatippadeso,
yatraṭṭhitaṃ nappasaheyya maccu.(9:13)
128. Neither in sky nor surrounded by sea,
nor by dwelling in a mountain cave,
nowhere is found that place on earth
where one’s by death not overcome.
DỨT PHẨM ÁC
----
X. PHẨM ĐAO TRƯỢNG
(DAṆḌAVAGGA)
----
17 bài kệ: Pháp Cú số 129-145.
11 tích truyện.
----
X. 1 - Tích NHÓM LỤC SƯ HÀNH HUNG
(Chabbaggiyabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 129)
129. “Sabbe tasanti daṇḍassa,
sabbe bhāyanti maccuno;
Attānaṃ upamaṃ katvā,
na haneyya na ghātaye.”
129. “Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong,
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến một nhóm Lục Sư gồm có sáu vị Tỳ khưu.
Quả vậy, một lúc nọ, các Tỳ khưu trong nhóm mười bảy vị vừa sửa sang chỗ ngụ xong, liền bị các Tỳ khưu trong nhóm Sáu vị (Lục Sư) đến đuổi:
- Các đạo hữu hãy đi ra, chúng tôi lớn hạ hơn, mới có quyền cư ngụ chỗ nầy.
Các Tỳ khưu nhỏ hạ đáp:
- Chúng tôi sẽ không nhường chỗ cho các Ngài, vì lẽ chúng tôi đã đến đây trước và đã quét dọn sửa sang rồi.
Nghe nói vậy, nhóm Lục Sư đánh đập nhóm Thập Thất Sư. Nhóm sau nầy hoảng hốt, sợ chết, la hét rầm lên. Đức Bổn Sư nghe tiếng kêu la của họ, bèn hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Chư Tăng bạch: “Chuyện nầy…”.
Đức Bổn Sư ban hành Học giới cấm đánh đập Tỳ khưu rằng: “Nầy các Tỳ khưu, từ rày về sau, các Tỳ khưu không nên làm như vậy, thầy nào làm vậy phạm tội Ưng đối trị.”
Ngài dạy tiếp rằng: “Nầy các Tỳ khưu, phàm là Tỳ khưu thì nhất định không nên đánh đập, không nên giết hại, vì đã biết rằng: những người khác cũng như ta, ai ai cũng đều sợ đao trượng, đều sợ tử thần cả.” Nói rồi, Ngài thuyết pháp và kết luận bằng bài kệ nầy:
129. “Sabbe tasanti daṇḍassa,
sabbe bhāyanti maccuno;
Attānaṃ upamaṃ katvā,
na haneyya na ghātaye.”
129. Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng sợ sự chết; vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết.
(Bản dịch của Ngài T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Sabbe tasanti: tất cả chúng sanh đều sợ ăn đòn, sợ đao trượng phạm đến mình.
Maccuno: sợ tử thần, tức là sợ chết. Hai câu kệ đầu nói phổ cập đến tất cả mọi người, không bỏ sót một ai, là nói theo lối thông thường.
Quả nhiên, ví như Đức vua cho người đi cổ động (đánh trống) truyền rao dân chúng tập họp, trừ ra quan Tể tướng, kỳ dư tất cả đều phải tập họp vì sợ hình phạt của nhà vua. Tuy nhiên, cũng có bốn hạng là bậc Lậu Tận, voi thuần chủng, ngựa thuần chủng và bò mộng không bị khép trong số tất cả những người rung động vì sợ chết.
Bậc Lậu Tận đã dứt bỏ Thân kiến, không thấy chúng sanh nào không chết cho nên không sợ chết. Còn ba hạng kia, tuy còn Thân kiến nhưng tự tin nơi sức khỏe của mình, không thấy có chúng sanh nào là tay đối thủ cho nên cũng không sợ.
Na haneyya na ghātaye: hãy tự xét: “mình thế nào thì những chúng sanh khác cũng không giống vậy”, không nên giết, không nên xúi giết kẻ khác.
*
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Mới dọn cốc rồi, chưa ở yên,
Lục Sư chợt đến, đuổi đi liền,
Các Sư “Thập thất” không tuân lệnh,
Bị đánh, la ầm tợ lũ điên,
Phật biết, ban hành Luật cấm ngăn,
Tỳ khưu không được đánh chư Tăng!
Người người sợ chết, e đao trượng,
Phải cử sát sanh, giữ Đạo hằng!
DỨT TÍCH NHÓM LỤC SƯ HÀNH HUNG
129. All dread death and physical harassment. Taking oneself as the example, kill not, hurt not.
129. Mọi loài vật đều sợ chết và sợ hành hạ thể xác. Vậy hãy lấy mình làm ví dụ, đừng giết hại ai.
129. Sabbe tasanti daṇḍassa,
sabbe bhāyanti maccuno;
Attānaṃ upamaṃ katvā,
na haneyya na ghātaye. (10:1)
129. All tremble at force,
of death are all afraid.
Likening others to oneself
kill not nor cause to kill.
----
X. 2 - Tích NHÓM LỤC SƯ ĐE DỌA
(Chabbaggiyabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 130)
130. “Sabbe tasanti daṇḍassa,
sabbesaṃ jīvitaṃ piyaṃ;
Attānaṃ upamaṃ katvā,
na haneyya na ghātaye.”
130. “Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người thương sống còn;
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài an ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến nhóm Lục Sư như trước.
Quả vậy, trong lúc nọ, do nhóm Lục Sư đánh Tỳ khưu nhóm Thập Thất Sư, nên Học giới trước đã được ban hành. Lần này cũng do nhóm đó sanh chuyện, nhưng chỉ giá tay hăm đánh các vị sau mà thôi.
Ở đây, Đức Bổn Sư nghe tiếng kêu la của các Tỳ khưu trẻ, bèn hỏi:
- Chuyện chi vậy?
- Bạch Thế Tôn, chuyện nầy…
Đức Bổn Sư dạy: “Nầy các Tỳ khưu, từ rày về sau, Tỳ khưu không nên làm vậy, thầy nào làm, phạm Ưng đối trị.” Sau khi ban hành Học giới cấm các Tỳ khưu giá tay đánh các vị khác. Đức Bổn Sư giải thích: “Nầy các Tỳ khưu, phàm là Tỳ khưu thì không nên đánh đập, không nên giết hại, vì biết rằng: “Cũng như ta, những người khác đều sợ đao trượng, hễ ta yêu đời, ham sống như thế nào thì họ cũng giống như ta vậy.”
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm kệ rằng:
130. “Sabbe tasanti daṇḍassa,
sabbesaṃ jīvitaṃ piyaṃ;
Attānaṃ upamaṃ katvā,
na haneyya na ghātaye.”
130. Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng thích được sống còn; vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Sabbesaṃ jīvitaṃ piyaṃ: trừ bậc Lậu Tận, tất cả chúng sanh còn lại đều yêu quí đời sống. Đối với việc sống chết ở đời, bậc Lậu Tận cũng chỉ có tâm Xả (Uppekkhā), là thản nhiên mà thôi.
Ba câu kệ kia thì nghĩa như trước.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Lục Sư đã bị cấm đánh rồi.
Nên chỉ giơ tay dọa nạt thôi,
Nhóm Thập Thất Sư còn khiếp sợ,
La ầm như bị phỏng dầu sôi.
Phật cấm Tỳ khưu dọa nạt nhau,
Người người thích sống, sợ gươm đao,
Không nên bảo giết, không nên giết,
Ai cũng như ai, có khác nào?
DỨT TÍCH NHÓM LỤC SƯ ĐE DỌA
130. Life is dear to all. Taking oneself as the example, kill not, hurt not.
130. Mọi loài đều thích sống. Vậy hãy lấy mình làm ví dụ, đừng giết hại ai.
130. Sabbe tasanti daṇḍassa,
sabbesaṃ jīvitaṃ piyaṃ;
Attānaṃ upamaṃ katvā,
na haneyya na ghātaye. (10:2)
130. All tremble at force,
dear is life to all.
Likening others to oneself
kill not nor cause to kill.
----
X. 3 - Tích LŨ TRẺ ĐẬP RẮN
(Sambahulakumārakavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 131-132)
131. “Sukhakāmāni bhūtāni,
yo daṇḍena vihiṃsati;
Attano sukhamesāno,
pecca so na labhate sukhaṃ.”
131. “Chúng sanh cầu an lạc,
Ai dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình,
Đời sau không được lạc.”
132. “Sukhakāmāni bhūtāni,
yo daṇḍena na hiṃsati;
Attano sukhamesāno,
pecca so labhate sukhaṃ.”
132. “Chúng sanh cầu an lạc,
Không dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình,
Đời sau được hưởng lạc.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến một lũ trẻ con.
Một ngày nọ, đang vào thành Sāvatthī (Xá Vệ) để khất thực, giữa đường, Đức Bổn Sư gặp nhiều đứa trẻ cầm gậy đánh đập một con rắn hổ, Ngài bèn hỏi:
- Nầy các cậu bé, các cậu làm gì vậy?
- Bạch Ngài, chúng con đập con rắn.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư hỏi tiếp:
- Tại sao đập nó?
- Bạch Ngài, vì sợ nó cắn.
Đức Bổn Sư liền dạy rằng:
- Các con tự nghĩ: “Ta sẽ làm cho mình được an vui”. Vậy mà các con lại đánh đập con rắn nầy, làm như thế, khi chuyển kiếp tái sanh ở cảnh giới nào, các con cũng sẽ không được an vui. Quả thật, người muốn tự mình hưởng được sự an vui thì không nên đánh đập kẻ khác.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm hai kệ ngôn nầy:
131. “Sukhakāmāni bhūtāni,
yo daṇḍena vihiṃsati;
Attano sukhamesāno,
pecca so na labhate sukhaṃ.”
131. Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà lại lấy đao gậy phá hại hạnh phúc kẻ khác, thì sẽ không được hạnh phúc.
132. “Sukhakāmāni bhūtāni,
yo daṇḍena na hiṃsati;
Attano sukhamesāno,
pecca so labhate sukhaṃ.”
132. Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà không lấy đao gậy phá hại hạnh phúc kẻ khác, thì sẽ được hạnh phúc.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Yo daṇḍena: người nào làm khó, phá hại kẻ khác bằng gậy, hoặc bằng đất cục, đá chẳng hạn.
Pecca so na labhate sukhaṃ: người ấy sẽ không được hưởng hạnh phúc khi tái sanh ở cảnh giới khác, dầu là hạnh phúc cõi Nhân thiên hoặc hạnh phúc tối cao ở Níp Bàn cũng không có.
Pecca so labhate sukhaṃ: (ở kệ thứ hai): người ấy khi tái sanh ở cảnh giới khác sẽ hưởng được một trong ba hạnh phúc đã kể trên.
*
Cuối thời Pháp, cả năm trăm đứa bé đều đắc Thánh quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Lũ trẻ cầm cây đập hổ mang,
Bất ngờ gặp Đức Phật đi ngang,
Ngài dừng chân hỏi: “Vì sao đập?”,
Trẻ đáp: “Vì e nó cắn càn…”.
Phật dạy: Khi cần hạnh phúc mình,
Mà dùng đao trượng hại sanh linh,
Đời sau mất phước, luân hồi khổ,
Vô hại, đời sau mới phúc vinh!
DỨT TÍCH LŨ TRẺ ĐẬP RẮN
131. Harassing others in quest of one’s own happiness, one gains not happiness hereafter.
131. Nếu làm hại các loài khác để cầu hạnh phúc cho mình, thì ta sẽ gặp bất hạnh đời sau.
131. Sukhakāmāni bhūtāni,
yo daṇḍena vihiṃsati;
Attano sukhamesāno,
pecca so na labhate sukhaṃ. (10:3)
131. Whoever harms with force
those desiring happiness,
as seeker after happiness
one gains no future joy.
132. Harassing not others, those who seek happiness gain their own happiness hereafter.
132. Nếu những ai mưu tìm hạnh phúc không làm hại các loài khác, thì họ sẽ được hạnh phúc đời sau.
132. Sukhakāmāni bhūtāni,
yo daṇḍena na hiṃsati;
Attano sukhamesāno,
pecca so labhate sukhaṃ. (10:4)
132. Whoever doesn’t harm with force
those desiring happiness,
as seeker after happiness
one then gains future joy.
----
X. 4 - Tích TRƯỞNG LÃO KON ĐÁ THA NÁ
(Koṇḍadhānattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 133-134)
133. “Māvoca pharusaṃ kañci,
vuttā paṭivadeyyu taṃ;
Dukkhā hi sārambhakathā,
paṭidaṇḍā phuseyyu taṃ.”
133. “Chớ nói lời ác độc,
Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẫn nộ,
Đao trượng phản chạm người.”
134. “Sace neresi attānaṃ,
kaṃso upahato yathā;
Esa pattosi nibbānaṃ,
sārambho te na vijjati.”
134. “Nếu tự mình yên lặng,
Như chiếc chuông bị bể,
Ngươi đã chứng Níp Bàn,
Người không còn phẫn nộ.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Koṇḍadhāna (Kon Đá Tha Ná).
Tương truyền rằng: Kể từ ngày xuất gia về sau, Trưởng lão đi đâu cũng có một hình bóng người phụ nữ đi theo sau lưng cả. Chính Trưởng lão thì không thấy bóng phụ nữ ấy, nhưng đại chúng đều thấy.
Khi Trưởng lão vào làng khất thực, mọi người để bát một phần ăn xong, lại đặt thêm một phần nữa, nói rằng: “Bạch Ngài, đây là phần của Ngài, và đây là phần của cô bạn Ngài.”
Thử hỏi: Trưởng lão đã tạo nghiệp gì trong quá khứ?
Đức Bổn Sư đã giải rằng:
Trong thời của Đức Phật Kassapa (Ca Diếp), có hai vị Tỳ khưu hết sức hòa thuận cùng nhau, chẳng khác nào hai anh em ruột cùng một mẹ sanh đôi.
Suốt thời gian trường thọ của Đức Cổ Phật, cứ đúng một năm hoặc sáu tháng chư Tăng lại nhóm họp một lần để làm lễ Phát lồ (Sám hối chung). Bởi thế, hai vị rủ nhau: “Chúng ta đi về chùa dự lễ Phát lồ”, rồi từ chỗ ngụ ra đi.
Một vị chư Thiên mới sanh lên cõi trời Đao Lợi nhìn xuống thấy hai vị nầy, nghĩ thầm rằng: “Hai Tỳ khưu nầy hòa thuận với nhau quá! Có thể nào ly gián hai ông nầy được chăng?”.
Trong lúc vị chư Thiên ngu muội nầy đang nghĩ quấy như vậy, thì một trong hai vị Tỳ khưu bảo bạn rằng:
- Nầy đạo hữu hãy đi thủng thẳng, chờ tôi đi đại một chút.
Nghe vậy, vị chư Thiên hóa hình thành một phụ nữ đi theo vị Trưởng lão vào trong bụi rậm, đến khi trở ra chỗ trống thì một tay bới lại đầu tóc, một tay vận lại y hạ, đi theo sau lưng vị Trưởng lão mà vị nầy không hay biết.
Trong khi vị nầy đi ra thì vị Tỳ khưu đứng ngoài quay lại nhìn thấy một người nữ đi ra với dáng điệu khả nghi như vậy. Người nầy biết rằng vị Tỳ khưu đã nhìn thấy mình rồi, liền biến mất.
Vị Tỳ khưu ở ngoài chờ bạn ra đi đến gần mình rồi, bèn hỏi:
- Nầy đạo hữu! Đạo hữu đứt Giới rồi phải chăng?
- Không bao giờ tôi phá Giới đâu đạo hữu?
- Bây giờ, chính mắt tôi thấy, từ phía sau đạo hữu đi ra một thiếu phụ dáng điệu như vậy, mà đạo hữu còn chối, nói: “Tôi không có như thế hay sao?”.
Như bị sét đánh lên đầu, vì bị cáo oan không thể nhẫn nại, bèn cãi lại:
- Đạo hữu đừng phá hại tôi, quả tôi không có như thế mà!
Vị kia cứ nhất quyết:
- Chính mắt tôi trông thấy, tôi tin đạo hữu thế nào được?
Nói rồi, như người bẻ gãy cây gậy, vị ấy bỏ đi tự bảo mình rằng: “Dầu đến chỗ làm lễ Phát lồ, ta cũng sẽ không ngồi sám hối chung với Tỳ khưu nầy.”
Vị Tỳ khưu bị tình nghi thanh minh với chư Tăng rằng:
- Bạch các Ngài, tôi không có một chút lỗi nào, dầu nhỏ như hột mè.
Còn vị Tỳ khưu bạn thì vẫn đề quyết: “Chính mắt tôi trông thấy.”
Thấy hai vị Tỳ khưu bạn không chịu làm lễ Phát lồ chung, vị chư Thiên nghĩ rằng: “Ôi nặng thay là nghiệp của ta tạo!”. Vị chư Thiên bèn ứng tiếng lên hòa giải:
- Bạch các Ngài, vị Trưởng lão của chúng tôi không đứt Giới, đây chỉ là một việc làm của tôi để thử lòng các Ngài đó thôi. Vậy các Ngài cứ làm lễ Phát lồ chung với vị Trưởng lão đi.
Khi ấy, vị chư Thiên đứng giữa hư không nói xuống, làm các Tỳ khưu phát sanh đức tin và làm lễ Phát lồ chung với nhau. Tuy nhiên, vị Tỳ khưu không còn giữ được lòng dịu hòa như trước nữa. Đó là tiền nghiệp của vị chư Thiên.
Đến khi mãn tuổi thọ, hai vị Trưởng lão tùy theo phước nghiệp được sanh lên cõi Trời. Còn vị chư Thiên bị đọa xuống A Tỳ Địa ngục suốt thời gian không có Phật, chịu sự thiêu đốt nơi Địa ngục đó cho đến thời Đức Phật hiện tại, được tái sanh làm người trong thành Xá Vệ, đến tuổi trưởng thành xuất gia trong Phật Pháp và được thọ Cụ túc giới. Từ ngày xuất gia về sau, một bóng hình phụ nữ thường xuất hiện lên sau lưng Tỳ khưu nầy. Do đó vị nầy được mệnh danh là Koṇḍadhāna (Kon Đá Tha Ná).
Thấy vị nầy có hiện tượng như vậy, chư Tăng đốc xúi Bá hộ Cấp Cô Độc:
- Nầy Bá hộ, vị nầy phá giới, ông hãy đuổi ra khỏi chùa đi, để vị nầy ở chung với chư Tăng, sẽ mang tiếng xấu hết!
Bá hộ Cấp Cô Độc hỏi:
- Bạch các Ngài, có chuyện gì đây? Đức Bổn Sư không có trong chùa ư?
- Có, ông Bá hộ à!
- Vậy thì bạch các Ngài, Đức Bổn Sư sẽ biết rõ việc nầy!
Các Tỳ khưu đi mách với bà Thiện Chi. Bà cũng từ chối không làm theo lời đề nghị của chư Tăng.
Các Tỳ khưu không được hai vị đại thí chủ chấp thuận lời mình, liền báo lên Đức vua.
- Tâu Đại vương! Tỳ khưu Koṇḍadhāna đi đâu cũng dắt theo một phụ nữ, làm cho tất cả chư Tăng mang tiếng xấu chung, xin Đại vương hãy thắng phục và đuổi vị ấy đi!
- Bạch các Ngài, vị ấy hiện ở đâu?
- Tâu Đại vương, vị ấy ở trong chùa.
- Trong chỗ ngụ nào trong chùa?
- Trong cốc tên đó.
- Nếu vậy, các Ngài hãy đi, trẫm sẽ cho người bắt vị ấy.
Buổi xế chiều, Đức vua ngự đến chùa, cho binh lính bao vây chỗ ngụ chư Tăng đã chỉ, rồi đi thẳng đến trước cốc của Trưởng lão Koṇḍadhāna.
Nghe tiếng ồn ào, Trưởng lão đi ra khỏi chùa đứng sát trước sân cốc. Đức vua nhìn thấy thấp thoáng bóng một phụ nữ đứng sau lưng Trưởng lão.
Trưởng lão biết có Đức vua ngự đến, bèn leo lên ngồi trên chùa. Đức vua không đảnh lễ Trưởng lão, nhưng đến gần thì không thấy bóng phụ nữ đâu cả. Đức vua nhìn qua cửa lớn, nhìn xuống gầm giường cũng không thấy, bèn nói với Trưởng lão rằng:
- Bạch Ngài, trong chỗ nầy, trẫm có thấy một phụ nữ, cô ta ở đâu rồi?
- Tâu Đại vương! Bần Tăng không thấy.
- Rõ ràng vừa mới đây trẫm thấy cô ta đứng sau lưng Trưởng lão mà!
Dầu nghe như vậy, Trưởng lão cũng đáp:
- Tâu Đại vương! Bần Tăng không thấy!
Đức vua nghĩ thầm: “Thế nầy là nghĩa gì?”.
Đức vua bèn thỉnh Trưởng lão:
- Bạch Ngài, xin Ngài hoan hỷ đi ra khỏi chỗ nầy xem!
Khi Trưởng lão ra ngoài cốc, đứng trước sân thì có phụ nữ lại đứng sau lưng vị ấy. Đức vua thấy phụ nữ bèn trèo lên nền chùa. Biết Đức vua sắp đến, Trưởng lão bèn ngồi xuống.
Một lần nữa, Đức vua nhìn soát lại khắp mọi nơi mà chẳng thấy gì, bèn hỏi Trưởng lão:
- Cô phụ nữ đâu rồi?
Trưởng lão cũng trả lời như trước.
- Tâu Đại vương, Bần Tăng không trông thấy!
- Bạch Ngài, xin Ngài hãy nói thật, chính trẫm vừa mới thấy một phụ nữ phía sau lưng Ngài mà!
- Vâng, tâu Đại vương! Mặc dù đại chúng đều nói Bần Tăng đi đâu cũng dắt theo một phụ nữ, nhưng sự thật Bần Tăng chẳng thấy phụ nữ nào cả.
Đức vua suy xét, cho rằng chắc có chuyện gì bí ẩn, bèn nói với Trưởng lão:
- Bạch Ngài, xin Ngài hoan hỷ bước xuống khỏi đây xem!
Khi Trưởng lão bước xuống khỏi nền, đứng trước sân chùa, Đức vua lại thấy hình phụ nữ đứng sau lưng Trưởng lão, nhưng sau khi vị ấy trèo lên nền chùa thì Đức vua lại hết thấy phụ nữ.
Đức vua hỏi Trưởng lão, Trưởng lão lại đáp:
- Bần Tăng không thấy phụ nữ ấy!
Nghe vậy, Đức vua nghĩ: “Việc nầy có chỗ bí ẩn.”, và để chấm dứt, Đức vua nói với Trưởng lão rằng:
- Bạch Ngài, có bóng phiền não đi theo sau lưng Ngài như vậy, ngoài trẫm ra chắc không có một ai đặt bát cho Ngài. Vậy xin thỉnh Ngài hãy thường xuyên vào hoàng cung để trẫm dâng cúng tứ vật dụng.
Sau khi ngỏ lời thỉnh Trưởng lão, Đức vua ra đi. Các Tỳ khưu than phiền với nhau rằng: “Các đạo hữu hãy xem việc làm của nhà vua quấy ác đó. Tưởng đâu nghe lời báo cáo, Đức vua đến đuổi thầy ấy ra khỏi chùa, té ra bây giờ Đức vua lại thỉnh thầy ấy vào cung dâng tứ sự, rồi ra đi.”
Chư Tăng cũng nói với Trưởng lão rằng:
- Nầy ông phá giới, bây giờ ông được lên chức Quân sư rồi đấy.
Từ trước không thể nói lời gì nghịch lại chư Tăng, nhưng bây giờ đã có chỗ dựa, vị Trưởng lão liền nói trả lại:
- Các ông phá Giới, các ông làm Quân sư, các ông đem phụ nữ đi theo!
Chư Tăng mang việc nầy trình với Đức Thế Tôn:
- Bạch Ngài, thầy Koṇḍadhāna nghe chúng con nói, thầy mắng trả lại chúng con rằng: “Các ông cũng phá Giới v.v…”
Đức Bổn Sư cho gọi Tỳ khưu ấy đến và hỏi:
- Nầy Tỳ khưu, nghe nói thầy đã nói như thế có thật chăng?
- Bạch Ngài! Có thật vậy.
- Nầy Tỳ khưu! Tại sao vậy?
- Tại vì các thầy ấy đã nói con.
- Nầy các Tỳ khưu! Tại sao các thầy lại nói với thầy nầy như vậy?
- Bạch Ngài, vì chúng con thấy cô phụ nữ đi theo thầy nầy.
- Các thầy nầy nói vì có thấy phụ nữ đi chung với thầy, còn thầy không thấy phụ nữ đi chung với họ, mà sao lại nói vậy? Trong tiền kiếp, thầy há đã chẳng nương theo tà kiến tội lỗi mà có quả xấu đến kiếp nầy, bây giờ tại sao thầy còn cố chấp tà kiến tội lỗi nữa vậy?
Chư Tỳ khưu cùng nhau bạch hỏi: “Bạch Ngài! Kiếp trước thầy ấy đã làm gì?”.
Khi ấy, Đức Bổn Sư bèn đem tiền nghiệp của vị Tỳ khưu nầy kể lại cho chư Tăng nghe, rồi bảo vị nầy rằng:
- Nầy Tỳ khưu, do ác nghiệp nầy mà thầy đã có tướng trạng kỳ quái như vậy, bây giờ thầy lại cố chấp tà kiến như trước nữa hay sao? Chớ nói lời chi trả treo với chư Tăng nữa! Hãy là người câm lặng như chiếc chuông bể miệng, làm như vậy thầy sẽ là người chứng Níp Bàn chẳng sai.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm hai bài kệ nầy:
133. “Māvoca pharusaṃ kañci,
vuttā paṭivadeyyu taṃ;
Dukkhā hi sārambhakathā,
paṭidaṇḍā phuseyyu taṃ.”
133. Chớ nên nói lời thô ác. Khi ngươi dùng lời thô ác nói với người khác, người khác cũng dùng lời thô ác nói với ngươi. Thương thay, những lời nóng giận thô ác chỉ làm cho ngươi đau đớn khó chịu như đao gậy mà thôi!
134. “Sace neresi attānaṃ,
kaṃso upahato yathā;
Esa pattosi nibbānaṃ,
sārambho te na vijjati.”
134. Nếu ngươi mặc nhiên như cái đồng la bể, trước những người đem lời thô ác cãi vả đến cho mình, tức là ngươi đã tự tại đi trên con đường Níp Bàn, người kia chẳng làm sao tìm sự tranh cãi với ngươi được nữa.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Kañci: đừng nói lời thô ác với một người nào cả.
Vuttā: ngươi nói kẻ khác phá Giới thế nào, kẻ ấy cũng nói trả lại ngươi thế ấy.
Sārambhakathā: những lời thô ác để tranh lấn áp chế nhau là khổ.
Paṭidaṇḍā: các thứ hình phạt, nhất là hành phạt thân, người dùng đánh đập kẻ khác như thế nào, thì chính ngươi phải bị chúng rơi lên đầu hành phạt người trả lại.
Sace neresi: nếu ngươi có thể giữ mình yên lặng.
Kaṃso upahato yathā: hãy làm như cái đồng la, cái cồng đã bể miệng, nó không phát ra tiếng được như ngươi đã bảo dùng tay chân hoặc đao trượng mà đánh đập kẻ khác.
Esa patto’si: nếu ngươi có thể giữ mình như thế, pháp Hành được kiện toàn rồi, bây giờ ngươi không dể duôi, tức là ngươi đã đắc Níp Bàn vậy.
Sārambho te na vijjati: được như thế thì những lời nói qua nói lại của chư Tăng, nói ngươi phá giới và ngươi nói chư Tăng phá giới là những lời thô ác thái quá, không có và sẽ không bao giờ có nữa.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả. Riêng phần Trưởng lão Koṇḍadhāna nhờ huấn từ Đức Bổn Sư ban cho mà đắc quả A La Hán, liền bay lên hư không, nắm lá phiếu đầu tiên.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Bóng người phụ nữ bám sau thầy,
Ai biết là do nghiệp báo gây,
Trong kiếp chư Thiên, vì vọng niệm,
Thử xem tình bạn chắc không đây?...
Chẳng Nhẫn để mà trả quả xưa,
Lời qua tiếng lại cứ dây dưa,
Phật khêu nhớ lại nhân tiền kiếp,
Đắc quả Vô sanh, ác khẩu chừa!
Khác nào chuông bể, hết âm vang,
Người giữ tâm yên, chứng Níp Bàn,
Không nói lời thô, không uất hận,
Đâu còn hình phạt, khổ nhân gian.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO KOṆḌADHĀNA
133. Use no harsh words. It is painful. More harsh words will follow with retaliatory action.
133. Đừng nói lời ác độc gây khổ đau. Những lời ác độc sẽ gặp hành động trả oán.
133. Māvoca pharusaṃ kañci,
vuttā paṭivadeyyu taṃ;
Dukkhā hi sārambhakathā,
paṭidaṇḍā phuseyyu taṃ. (10:5)
133. Speak not harshly to other folk,
speaking so, they may retort.
Dukkha indeed is quarrelsome speech
and force for force may hurt you.
134. Let one hold one’s peace like a cracked gong. In this silence one is already in Nibbàna.
134. Hãy giữ sự an tịnh của mình như cái chuông vỡ. Trong sự yên lặng như vậy, ta đã chứng Niết Bàn.
134. Sace neresi attānaṃ,
kaṃso upahato yathā;
Esa pattosi nibbānaṃ,
sārambho te na vijjati. (10:6)
134. “If like a broken gong
never you reverbrate,
quarrelling’s not part of you,
that Nibbàna’s reached.”
----
X. 5 - Tích BÁT QUAN TRAI CỦA PHỤ NỮ
(Uposathaka-itthīnaṃ vatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 135)
135. “Yathā daṇḍena gopālo,
gāvo pājeti gocaraṃ;
Evaṃ jarā ca maccu[15] ca,
āyuṃ pājenti pāṇinaṃ.”
135. “Với gậy người chăn bò,
Lùa bò ra bãi cỏ,
Cũng vậy, già và chết,
Lùa người đến mạng chung.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết, khi Ngài ngự an tại Pubbārāma (Đông Phương Tự), đề cập đến Giới Bát quan của các Tín nữ, nhất là bà Visākhā (Thiện Chi).
Tương truyền rằng: Trong một ngày Giới Bát quan nọ, năm trăm phụ nữ thọ Giới Bát quan rồi mới đi chùa. Bà Visākhā đến gần các phụ nữ cao niên trong nhóm ấy và hỏi:
- Thưa các bà, các bà giữ Giới Bát quan để làm gì?
Họ đáp: “Nguyện cho tôi được hưởng phước chư Thiên.”
Bà Visākhā lại hỏi các phụ nữ trung niên, các phụ nữ nầy đáp: “Để thoát khỏi cảnh chồng chung[16] .”
Bà Visākhā lại hỏi tiếp các thiếu phụ, các cô đáp: “Để được sanh con đầu lòng.”
Nghe vậy, bà Visākhā lại hỏi tiếp các thiếu nữ, các cô đáp: “Để sớm được về làm dâu gia đình tử tế.”
Sau khi nghe lời nguyện ước của tất cả phụ nữ, bà Visākhā dắt họ đi yết kiến Đức Bổn Sư và tuần tự kể lại những lời họ đã nói cho bà nghe. Nghe xong câu chuyện, Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Nầy Visākhā! Những chúng sanh hằng bị tứ khổ nhất là sự sanh, như kẻ chăn bò tay cầm gậy lùa đi từ sanh đến lão, từ lão đến bịnh, từ bịnh đến tử, để cho sự tử như búa bén chặt đứt mạng sống. Mặc dầu vậy, họ không nguyện giảm bớt sự sanh bao giờ cả, mà chỉ nguyện tăng thêm luôn luôn.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm lên kệ ngôn rằng:
135. “Yathā daṇḍena gopālo,
gāvo pājeti gocaraṃ;
Evaṃ jarā ca maccu ca,
āyuṃ pājenti pāṇinaṃ.”
135. Như với chiếc gậy, người chăn trâu xua trâu ra đồng, sự già chết cũng thế, thường xua chúng sanh đến tử vong
(Bản dịch của Ngài T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Pājeti: người chăn bò khôn khéo dùng gậy ngăn chận không cho bầy bò xâm phạm chỗ đất có trồng hoa màu, lùa chúng đi tới chỗ đồng trống có nhiều cỏ và nước uống.
Āyuṃ pājenti: cắt đứt, làm hao mòn mạng căn. Quả vậy, lão và tử ví như đồng cỏ. Nơi đây, bao giờ sự sanh cũng đưa mạng căn của chúng sanh đến sự già, sự già đưa đến sự bịnh và sự bịnh đưa đến sự chết. Đến mức nầy sự tử vong, như tử thần cầm chiếc búa bén chặt đứt mạng căn. Đây là cách nói ví dụ để đối chiếu.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng Thánh quả, nhất là quả Tu Đà Hườn.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Năm trăm Tín nữ, bạn Visākhā,
Giữ giới Bát quan, nguyện phước gì?
Các cụ già mong: Khi tạ thế,
Lên trời hưởng lộc, sống quang huy!
Các bà đứng tuổi sợ chồng chung:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng”!
Thiếu phụ ước sanh trai trưởng tử,
Để làm nữ chủ tại gia trung.
Thiếu nữ thì mơ được tấm chồng,
Con nhà tử tế, khỏi long đong…
Không ai nguyện thoát luân hồi khổ,
Mong khỏi sanh, già, bịnh, tử vong…
DỨT TÍCH BÁT QUAN TRAI CỦA PHỤ NỮ
135. A cowherd goads cattle to pasture, decay and death all beings to their end.
135. Người chăn bò thúc đẩy đàn bò ra đồng cỏ. Cũng vậy, già, chết thúc đẩy mọi loài vật đến mạng chung.
135. Yathā daṇḍena gopālo,
gāvo pājeti gocaraṃ;
Evaṃ jarā ca maccu ca,
āyuṃ pājenti pāṇinaṃ. (10:7)
135. As with force the cowherds drive
their cattle out to graze,
like this decay and death drive out
the life from beings all.
----
X. 6 - Tích NGẠ QUỶ MÌNH TRĂN
(Ajagarapetavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 136)
136. “Atha pāpāni kammāni,
karaṃ bālo na bujjhati;
Sehi kammehi dummedho,
aggidaḍḍhova tappati.”
136. “Người ngu làm điều ác,
Không ý thức việc làm,
Do tự nghiệp, người ngu,
Bị nung nấu, như lửa.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài an ngự tại Trúc Lâm, đề cập đến Ngạ quỷ Mình Trăn (Ajagara).
Một thuở nọ, trong khi đang đi với Trưởng lão Lakkhaṇa (Lắc Khá Ná) từ núi Kỳ Xà Quật (Gijjhakūṭa) xuống, Trưởng lão Moggallāna (Mục Kiền Liên) đã thấy bằng Thiên nhãn, một con Ngạ quỉ mình trăn dài đến hai mươi lăm do tuần. Từ đầu nó ngọn lửa bốc lên đến đuôi, từ đuôi nó ngọn lửa bốc lên đi đến đầu, từ đầu và đuôi nó hai phía ngọn lửa bốc lên đi vào khoảng giữa mình nó. Trưởng lão thấy vậy hé miệng cười, bị Trưởng lão Lakkhaṇa hỏi về lý do cái cười đó, Trưởng lão đáp: “Nầy đạo hữu, không phải thời giải đáp câu hỏi nầy, chừng nào đến trước Đức Thế Tôn, đạo hữu hãy hỏi lại tôi.”
Nói rồi, hai Trưởng lão bước vào thành Sāvatthī (Vương Xá) khất thực. Khi về đến trước Đức Bổn Sư rồi, Trưởng lão Lakkhaṇa liền hỏi lại và Trưởng lão Moggallāna đáp rằng:
- Nầy đạo hữu, lúc ấy tôi đã thấy một Ngạ quỷ, vì thân hình nó kỳ dị, tôi chưa từng thấy như thế bao giờ, cho nên tôi mỉm cười.
Đức Bổn Sư xác nhận lời nói của Trưởng lão rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Quả thật các Thinh Văn của Ta đều có Chánh kiến như thế cả.
Rồi Ngài nói tiếp rằng: “Nầy các Tỳ khưu, Ngạ quỷ ấy chính Ta đã từng nhìn thấy sau khi chứng Đạo Quả dưới cội Bồ Đề, nhưng Ta không nói ra vì e rằng những người không tin lời Ta, ắt không được lợi ích. Bây giờ có được Moggallāna làm chứng, nên Ta mới nói.” Chư Tăng hỏi về tiền nghiệp của con Ngạ quỷ ấy, Đức Bổn Sư bèn giải rằng:
Tương truyền: Trong thời Đức Phật Ca Diếp (Kassapa), có Bá hộ tên là Sumaṅgala (Xú Măng Gá Lá) đã lót gạch bằng vàng một khoảng đất rộng hai mươi usabha[17], đã xuất ra một số tiền của nhiều như thế nữa để kiến tạo một ngôi chùa và xuất thêm một số tiền của tương đương như thế để khánh thành ngôi chùa ấy.
Một hôm, Bà hộ đi viếng Đức Bổn Sư từ sáng sớm, đi đến cổng thành thấy một kẻ trộm nằm trong cái trại (sālā) đầu trùm bằng một chiếc y vàng, hai chân dính đầy bùn, Bá hộ nói rằng:
- Người có chân dính đầy bùn nầy, chắc đã đi rong ban đêm, mới về nằm đây.
Tên trộm giở y chường mặt ra, thấy Bá hộ liền buộc oan trái với ông rằng:
- Rồi đây, ta sẽ tìm cách đối phó với ông.
Anh ta đã lén đốt ruộng của ông Bá hộ bảy lần và lén đốt nhà ông bảy lần nữa. Làm bấy nhiêu chuyện ác để trả thù cũng chưa đã nư giận, tên trộm còn tìm đến làm quen kết bạn với người hầu riêng của Bá hộ, rồi lựa dịp hỏi: “Ông Bá hộ ưa thích cái gì?”.
Khi nghe đáp: “Ngoài hương thất ra, ông Bá hộ không còn ưa thích cái gì hơn nữa cả.” Nghe vậy, tên trộm quyết tâm: “Ta sẽ đốt rụi hương thất mới hả lòng căm giận của ta.”
Chờ khi Đức Phật vào thành khất thực, tên trộm lẻn vào đập bể tan những vò nước uống, nước xài rồi châm lửa đốt hương thất.
Hay tin cấp báo hương thất bị đốt, Bá hộ đến ngay trong lúc lửa còn cháy, nhìn hương thất đang cháy đã không mảy may chút buồn phiền ông còn vỗ tay cười lớn. Khi ấy, dân chúng đứng gần ông thấy lạ, liền hỏi:
- Thưa chủ, tại sao ông đã bỏ ra nhiều tiền để tạo hương thất, mà ông lại vỗ tay cười khi nó đang cháy như vậy?
- Nầy bà con! Bao nhiêu công trình của ta làm đó là của chôn trong chỗ đặc biệt là Phật giáo, không có sự tai hại nào, nhất là lửa có thể lấy mất được. Vả lại, ta sẽ có dịp xuất ra một số tiền của như vậy nữa để tái tạo hương thất dâng cúng Đức Bổn Sư, nên ta thỏa thích vỗ tay cười.
Sau khi xuất ra một số tiền của nhiều như trước, cho cất xong hương thất, Bá hộ làm phước Trai Tăng đến Đức Bổn Sư với hai mươi ngàn Tỳ khưu tùy tùng. Thấy Bá hộ làm như thế, tên trộm nghĩ thầm: “Ta mà không giết chết được ông nầy thì ta không thể nào rửa được cái nhục nầy. Ta phải giết ông mới được.” Thế rồi, anh ta cột dao găm giấu trong thắt lưng, đi vơ vẩn trong chùa suốt cả bảy ngày mà không gặp được cơ hội thuận tiện.
Riêng ông Đại Bá hộ, sau bảy ngày Trai Tăng đến Tăng chúng có Đức Phật cầm đầu, mới đảnh lễ Đức Giáo Chủ và nói:
- Nhờ một người đốt ruộng con bảy lần, chặt chân bò trong chuồng con bảy lần, bây giờ đây cũng nhờ người ấy đốt hương thất con mới có dịp làm phước. Vậy trong cuộc phước thí nầy, phần phước thứ nhất con xin chia cho người ấy.
Nghe ông Bá hộ nói như thế, tên trộm tự nghĩ: “Ôi! Nặng thay là nghiệp của ta đã tạo. Ta đã xúc phạm đến ông như vậy mà ông chẳng có chút gì giận ta, lại còn chia cho ta phần phước thứ nhất trong cuộc phước thí nầy. Ta là một kẻ phản bội, nếu ta không xin sám hối một người như thế, hình phạt của chư Thiên sẽ giáng xuống đầu ta.
Tên trộm đến quì mọp trước chân ông Bá hộ và nói:
- Thưa ông chủ, xin ông chủ xá tội cho con.
- Việc chi đây?
Nghe vậy, tên trộm đáp:
- Thưa chủ, bao nhiêu việc ông vừa kể ra đó, chính con đã làm. Xin ông hãy tha tội ấy cho con.
Ông Bá hộ hỏi lại tên trộm về tất cả mọi hành vi của anh ta: “Bao nhiêu việc nầy việc nọ chính con đã làm ra cho ta phải không?”.
- Thưa phải, chính con đã làm.
Nghe vậy, Bá hộ hỏi: “Con chưa từng gặp ta, tại sao lại căm thù ta mà làm như vậy?”.
Tên trộm bèn nhắc lại mấy lời ông đã nói, ngày mà ông Bá hộ đi ra cổng thành, thấy anh ta nằm ngủ, rồi nói tiếp rằng:
- Vì lẽ đó mà con đã giận ghét ông chủ.
Ông Bá hộ nhớ lại mình có nói mấy lời ấy, bèn nhận lỗi: “Ờ, ta có nói như vậy, thôi con hãy miễn lỗi cho ta.”
Xin lỗi tên trộm xong rồi, ông nói:
- Thôi con hãy đứng dậy, ta tha tội cho con, con hãy đi đi.
- Thưa ông chủ, nếu ông chủ đã tha tội cho con, xin ông chủ nhận cho con đưa cả vợ con đến làm tôi tớ trong nhà ông chủ.
- À, bấy nhiêu việc con làm đối với ta, là đã dứt khoát rồi. Ta không thể bàn đến chuyện ở chung trong một nhà. Con không có phận sự chi ở trong nhà ta cả. Ta tha tội cho con, thôi con hãy đi.
Vì tạo nghiệp ấy, khi hết tuổi thọ, tên trộm bị sa xuống Địa ngục A Tỳ, bị thiêu đốt rất lâu nơi đó. Do quả còn dư sót, bây giờ tái sanh làm Ngạ quỉ mình trăn ở trên đỉnh núi Gijjhakūṭa, hằng bị lửa thiêu đốt.
Sau khi giải rõ tiền nghiệp của Ngạ quỉ đó, Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, hạng người ngu khi làm các nghiệp ác thì không tự biết, nhưng về sau chính những nghiệp của họ đã tạo thiêu đốt họ, chẳng khác nào lửa rừng tự nhiên bốc cháy lấy mình vậy.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm kệ rằng:
136. “Atha pāpāni kammāni,
karaṃ bālo na bujjhati;
Sehi kammehi dummedho,
aggidaḍḍhova tappati.”
136. Kẻ ngu phu tạo các ác nghiệp vẫn không tự biết có quả báo gì chăng? Người ngu tự tạo ra nghiệp để chịu khổ, chẳng khác nào tư lấy lửa đốt mình.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Atha pāpāni: Không phải hoàn toàn do sân hận mà người ngu làm việc ác, chính trong lúc làm ác họ cũng không biết mình tạo ác nghiệp. Không có người nào trong lúc làm ác mà không biết “Ta làm ác”. Đây chỉ nói là người làm ác không biết đến hậu quả của cái nghiệp này sẽ thế nào mà thôi.
Sehi: do những nghiệp là của riêng họ.
Dummedho: người Vô trí bị sa Địa ngục, bị lửa thiêu đốt.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Vì câu nói trống bị căm thù,
Bá hộ không hờn giận kẻ ngu,
Đốt ruộng, đốt nhà, mong báo oán,
Đốt luôn hương thất bậc chân tu.
Lại đem hồi hướng phước đầu tiên,
Cho kẻ giúp mình tạo phước duyên,
Rốt cuộc kẻ gian ra sám hối,
Dứt ngay oan trái kiếp hiện tiền.
Kẻ trộm về sau đọa A Tỳ,
Rồi làm ngạ quỉ, bởi ngu si,
Không lường hậu quả hành vi ác,
Thậm thượt mình trăn, kéo lết đi.
DỨT TÍCH NGẠ QUỈ MÌNH TRĂN
136. Evil doer who is unmindful of consequences suffers consequently because of his own deeds.
136. Người làm ác không biết hậu quả về sau sẽ phải chịu khổ đau vì ác nghiệp của mình.
136. Atha pāpāni kammāni,
karaṃ bālo na bujjhati;
Sehi kammehi dummedho,
aggidaḍḍhova tappati. (10:8)
136. When the fool does evil deeds
their end he does not know,
such kamma burns the one unwise
as one who’s scorched by fire.
----
X. 8 - Tích TỲ KHƯU NHIỀU VẬT DỤNG
(Bahubhaṇḍikabhikkhuvatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 141)
141. “Na naggacariyā na jaṭā na paṅkā,
nānāsakā taṇḍilasāyikā[18] vā;
Rajo jallaṃ[18] ukkuṭikappadhānaṃ,
sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ.”
141. “Không phải sống lõa thể,
Bện tóc, tro trét mình,
Tuyệt thực, lăn trên đất,
Sống nhớp, siêng ngồi xổm,
Làm con người được sạch,
Nếu không trừ nghi hoặc.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến vị Tỳ khưu có nhiều vật dụng.
Tương truyền rằng: Một phú trưởng giả cư ngụ trong thành Xá Vệ, sau khi vợ chết bèn đi xuất gia. Khi sắp xuất gia, vị ấy cho cất chỗ ngụ riêng, cùng với nhà khói (Aggisālā), nhà kho rồi cho chất đầy nhà kho tất cả các thứ thuốc ngừa bệnh (Bhesajja) nhất là bơ trong, dầu v.v…
Sau khi xuất gia, vị ấy cho gọi những đầy tớ của mình đến nấu các món ăn theo sở thích rồi độ. Vị ấy có nhiều vật dụng, có nhiều đồ đạc, ban đêm mặc y nội và khoác y khác, ban ngày mặc y nội và khoác y khác và ở cách biệt trong ranh của chùa.
Một hôm khi vị ấy đem các y phục của mình trải ra phơi nắng, các Tỳ khưu đi ta bà từ tịnh thất nầy sang tịnh thất khác, đến thấy vậy, bèn hỏi:
- Những y phục nầy của ai vậy đạo hữu?
- Của tôi đó.
Nghe vậy, các Tỳ khưu trách:
- Nầy đạo hữu, Đức Thế Tôn chỉ cho phép có tam y, đạo hữu đã xuất gia trong Giáo Pháp Đức Phật, có hạnh Tri túc, Thiểu dục như thế, đạo hữu lại là người có nhiều vật dụng như vậy sao?
Chư Tăng liền đưa vị ấy đến Đức Bổn Sư và báo lại rằng:
- Bạch Ngài, Tỳ khưu nầy là người có quá nhiều vật dụng.
Đức Bổn Sư hỏi rằng: “Nầy Tỳ khưu, lời nói về thầy như thế có đúng chăng?”.
- Bạch Ngài! Đúng như vậy.
Đức Bổn Sư quở trách rằng:
- Nầy Tỳ khưu, tại sao Ta đã thuyết giảng về pháp Thiểu dục mà thầy còn làm người có nhiều vật dụng như thế?
Chỉ nghe bấy nhiêu lời, vị ấy nổi giận đáp rằng:
- Ngay bây giờ, tôi sẽ cởi bỏ đồ mà đi ngay đây.
Vị ấy cởi bỏ vứt y choàng ngoài, chỉ còn mặc một lá y nội, đứng giữa hội chúng. Khi ấy, Đức Bổn Sư nói lời xây dựng phấn khích vị ấy rằng:
- Nầy Tỳ khưu! Trước kia thầy há chẳng phải là người đi tìm Tàm Quý (Hiri Ottappa) hay sao? Trong thời gian là Thủy thần, thầy đã mải miết tìm Tàm Quý suốt mười hai năm. Tại sao bây giờ xuất gia trong Giáo Pháp của Đức Phật tôn nghiêm như vầy, thầy lại vứt bỏ y choàng ngoài giữa Tứ chúng, từ bỏ cả Tàm Quý mà đứng như vậy?
Nghe lời của Đức Bổn Sư, vị ấy lấy lại được Tàm Quý, bèn nhặt y đắp lên mình, đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi ngồi xuống một bên.
Các Tỳ khưu muốn biết rõ nghĩa lý của việc nầy, nên yêu cầu Đức Bổn Sư giải thích.
Đức Thế Tôn liền kể lại chuyện tiền kiếp như sau:
Thuở xưa kia, Đức Bồ Tát tái sanh vào lòng Hoàng hậu của Đức vua đóng đô ở Bārāṇasī (Ba La Nại). Đến ngày lễ đặt tên, Bồ Tát có được tên là Thái tử Đại Cung Nỏ (Mahissāsa). Kế đó, Bồ Tát có được một em trai tên là Hoàng tử Nguyệt (Canda). Khi Hoàng hậu, mẹ của hai hoàng tử băng hà, Đức vua phong cho một bà phi khác lên làm Hoàng hậu, bà này cũng sanh được một Hoàng nam. Hoàng tử út được đặt tên là Nhật (Suriya). Thấy mặt Hoàng tử út, Đức vua rất hoan hỷ phán rằng:
- Trẫm sẽ ân tứ cho con ái hậu một lời yêu cầu.
Hoàng hậu đáp:
- Tâu Hoàng thượng, thần thiếp sẽ nhận lãnh ân huê nầy khi nào có ý muốn.
Khi Hoàng tử út đến tuổi trưởng thành, Hoàng hậu tâu với Đức vua:
- Tâu Hoàng thượng, khi thần thiếp sanh Hoàng tử út, Hoàng thượng đã chuẩn hứa ban cho một lời yêu cầu. Vậy, nay xin yêu cầu Hoàng thượng ban vương vị cho con của thần thiếp.
Đức vua từ khước, bảo rằng:
- Hai con trai của Trẫm như hai đốm lửa sáng ngời, Trẫm không thể ban vương vị cho con Hoàng hậu được.
Tuy lời mình bị Vua bác, nhưng Hoàng hậu cứ tiếp tục yêu cầu mãi, thấy vậy, Đức vua nghĩ: “Hoàng hậu có thể làm điều bất lợi đến hai con của Trẫm chăng?”. Cho gọi hai Hoàng tử đến, Đức vua phán rằng:
- Nầy hai con, khi Hoàng tử Nhật ra đời, cha có hứa ban cho một ân huệ theo lời yêu cầu. Nay mẫu hậu của Hoàng tử xin cho con mình được vương vị. Trẫm không muốn ân tứ. Tuy nhiên, sợ e Hoàng hậu sẽ mưu hại hai con. Hai con hãy đi lánh mặt ngụ trong rừng, chờ khi Trẫm thăng hà rồi hãy trở về mà kế vị. Nói rồi, Đức vua giục hai con ra đi.
Hai Hoàng tử cáo biệt Vua cha, xuống khỏi đền vua gặp Hoàng tử Nhật đang chơi ở sân ngự, bèn tỏ thật sự tình. Biết rõ nguyên do của cuộc xuất hành, Hoàng tử út cùng theo hai anh ra đi.
Khi đến rừng Tuyết Lãnh, Bồ Tát bỏ đại lộ, rẽ vào một con đường mòn đến ngồi dưới một gốc cây rồi bảo Hoàng tử Nhật:
- Hoàng đệ hãy đến cái ao kia tắm rửa và giải khát đi, rồi lấy lá sen bọc nước đem về cho hai anh.
Cái ao nầy có một Thủy thần đã được Thiên Vương Tỳ Sa Môn (Vessavaṇa) cho phép đến trấn giữ, với vương lịnh rằng: “Ngoại trừ người biết Thiên pháp, ngươi được phép ăn thịt tất cả những người khác lội xuống dưới ao nầy.” Từ đó về sau, hễ người nào lội xuống ao, Thủy thần hỏi về Thiên pháp mà không biết là nó bắt lấy ăn thịt hết.
Hoàng tử Nhật lội xuống ao mà không dò xét trước, bị Thủy thần hiện lên chận hỏi:
- Ngươi biết Thiên pháp chăng?
Hoàng tử đáp:
- Thiên pháp đó là mặt trăng và mặt trời.
- Ngươi không biết Thiên pháp.
Rồi bắt lấy Hoàng tử Nhật đem an trí tại Thủy cung của mình. Bồ Tát thấy Nhật đi lâu, bèn sai Hoàng tử Nguyệt đi tìm. Hoàng tử cũng bị Thủy thần chận đường hỏi:
- Ngươi có biết Thiên pháp chăng?
Hoàng tử đáp:
- Thiên pháp, đó là bốn hướng.
Thủy thần bắt nhốt luôn Nguyệt dưới Thủy cung.
Thấy hai em đi lâu, Bồ Tát sanh nghi: “Chắc có sự gì tai hại?”, liền tự mình đi đến ao nước, thấy dấu chân hai em đi xuống, biết là ao nầy có Thủy thần trấn giữ, bèn rút gươm ra và cầm sẵn cung tên trên tay đứng chờ.
Thấy Bồ Tát không lội xuống ao, Thủy thần hóa làm một người thợ rừng đi đến nói với Bồ Tát:
- Nầy bạn, bạn đi đường mệt sao không xuống ao nầy tắm rửa, uống nước, ăn củ sen, hái hoa trang điểm rồi hãy đi?
Thấy người thợ rừng, Bồ Tát biết ngay là Thủy thần, bèn hỏi:
- Phải ngươi đã bắt hai em của ta chăng?
- Phải, ta bắt!
- Tại sao vậy?
- Ta được quyền bắt những người lội xuống ao nầy.
- Ngươi được quyền bắt tất cả sao?
- Ngoại trừ những người biết Thiên pháp, kỳ dư ta có quyền bắt hết.
- Ngươi có cần biết Thiên pháp chăng?
- Có, ta cần biết.
- Ta sẽ thuyết Thiên pháp.
- Nếu vậy, xin ông thuyết đi.
- Mình ta dơ dáy, Ta không thể thuyết pháp được.
Dạ xoa để cho Bồ Tát tắm rửa, dâng nước cho Bồ Tát uống, trang điểm cho Bồ Tát, thỉnh Bồ Tát ngồi lên cái bồ đoàn đặt chính giữa một rạp được trang trí đàng hoàng, còn tự mình thì ngồi dưới chân Bồ Tát.
Bồ Tát bảo Dạ Xoa: “Hãy lắng tai nghe cho kỹ.”
Nói rồi, ngâm kệ rằng:
“Hiri ottappasampannā,
sukkadhammasamāhitā
Santo sappurisā loke
devadhammāti vuccareti.”
“Đầy đủ Tàm và Quý,
Chuyên tâm về Bạch pháp,
An tịnh bậc chân nhân,
Ở đời gọi Thiên pháp.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Dạ xoa nghe bài pháp nầy phát sanh tâm tịnh tín, nói với Bồ Tát: “Thưa Hiền trí, tôi có tâm tịnh tín với Hiền trí! Tôi cho lại Hiền trí một người em, tôi sẽ mang người nào đây?”.
- Hãy đem đến đứa em út.
- Thưa Hiền trí, Ngài biết rành Thiên pháp như vậy, mà Ngài lại không hành Thiên pháp?
- Sao vậy?
- Vì Ngài đã phế trưởng lập thứ, Ngài không tôn trọng quyền của người anh!
- Nầy Dạ xoa, ta biết Thiên pháp và thực hành đúng theo Thiên pháp. Quả vậy, vì đứa em út ấy mà chúng ta vào rừng nầy, lại cũng vì hạnh phúc của nó mà mẹ nó đã xin vương vị nơi cha của chúng ta. Phụ vương chúng ta đã không ban cho nó ân huệ ấy mà còn ra lịnh cho chúng ta đi ở trong rừng, cốt để bảo vệ chúng ta. Hoàng tử út không chịu quay trở lại mà đã cùng đi với chúng ta. Nếu nghe nói: “Một con Dạ xoa đã ăn thịt nó trong rừng.”, chắc sẽ không một ai tin lời chúng ta, sợ bị chê trách cho nên ta mới bảo ngươi đem nó lại cho ta.
Dạ Xoa càng trong sạch đối với Bồ Tát, nó nói:
- Lành thay, thưa Hiền trí, Ngài biết Thiên pháp và xử sự đúng theo Thiên pháp.
Rồi Dạ xoa mang cả hai người em trai trao lại cho Bồ Tát. Kế đó, Bồ Tát thuyết pháp giải về những tội lỗi của kiếp sống làm Dạ xoa, rồi cho nó thọ trì Ngũ giới. Từ đó, Bồ Tát sống an vui trong rừng ấy, nhờ có Dạ xoa hộ trì và phục vụ chu đáo, cho đến khi phụ vương thăng hà, dắt cả Dạ xoa về thành Bārāṇasī, lấy lại vương quốc, phong cho hoàng đệ Nguyệt là Phó vương, đặt hoàng đệ Nhật làm Tổng lãnh binh. Còn đối với Dạ xoa, Bồ Tát cho đào một cái ao tạo một địa điểm tốt đẹp, cho nó nhận được lễ lộc vật thực quí báu nhất.
Sau khi thuyết dứt tích nầy, Đức Bổn Sư tổng kết Túc Sanh truyện, cho biết: Thủy thần khi ấy nay là vị Tỳ khưu có nhiều vật dụng, Nhật nay là Ānanda, Nguyệt nay là Sārīputta, Thái tử Đại Cung Nỏ nay chính là Đấng Như Lai vậy.
Đức Bổn Sư giảng xong tích Bổn sanh rồi dạy rằng:
- Nầy Tỳ khưu, trước kia thầy đã là người đi tìm Thiên pháp như vậy đó, trong mình có đủ cả Tàm Quý. Bây giờ thầy cởi bỏ y choàng giữa Tứ chúng, đứng trước mặt Ta mà nói: “Tôi Thiểu dục!” là làm điều không thích hợp. Một vị Sa môn không bao giờ nên cởi bỏ y mà ở trần như thế cả!
Nói rồi, Đức Thế Tôn thuyết pháp, và Ngài ngâm kệ rằng:
141. “Na naggacariyā na jaṭā na paṅkā,
nānāsakā taṇḍilasāyikā vā;
Rajo jallaṃ[19] ukkuṭikappadhānaṃ,
sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ.”
141. Chẳng phải đi chân không[20], chẳng phải để tóc xù (bờm), chẳng phải thoa tro đất vào mình, chẳng phải tuyệt thực, chẳng phải nằm trên đất, chẳng phải để thân hình nhớp nhúa, cũng chẳng phải ngồi xổm mà người ta có thể trở nên thanh tịnh, nếu không dứt trừ nghi hoặc.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Nānāsakā (Na anāsakā): không phải là người nhịn ăn, bỏ cơm (tuyệt thực).
Taṇḍilasāyikā: nằm ngủ trên đất.
Rajojallaṃ: bụi dơ, ngoại đạo lõa thể hay lấy bùn thoa khắp mình mẩy để cho bụi đóng dơ dáy.
Ukkuṭikappadhānaṃ: cố rán sức ngồi chồm hổm, theo một lối đặc biệt để hành hạ xác thân.
Theo các cách trên đây, người nào nghĩ rằng: Ta sẽ đạt đến chỗ thanh tịnh, thoát khỏi thế gian hữu hạn, rồi thọ trì tu tập theo bất cứ một cách nào trong các lối khổ hạnh của ngoại đạo, nhất là sống lõa thể, thì người ấy chỉ phát triển toàn diện cái Tà kiến và nhọc nhằn vô ích mà thôi. Không bao giờ những pháp ấy là những pháp lợi ích, nên thọ trì như Bát Chánh Đạo, vì chúng không dứt trừ được hoài nghi, lẽ cố nhiên, không tẩy sạch phiền não được.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Tỳ khưu Trưởng giả thích tiện nghi,
Vật thực dồi dào, đủ thứ y,
Tăng trách: Sư sao không Thiểu dục?
Phật khuyên thầy giữ Hạnh Xả ly!
Nổi giận, Sư quăng bỏ y ngoài,
Mình trần, đứng nói: “Sẽ đi ngay!”.
Phật rằng: “Tàm Quý xưa đâu vậy?”,
Sư nhặt y lên, mặc khỏa vai.
Nguyên do kiếp trước trấn ao thần,
Tàm Quý luôn luôn có tại thân,
Nay tự cho mình là Thiểu dục,
Cởi y như thế chỉ vì sân!
Phật dạy: Không dứt trừ hoặc nghi,
Ở truồng, bện tóc, nhịn ăn chi,
Nằm lăn trên đất, hay ngồi xổm,
Chẳng thể thành tâm đến Vô vi.
DỨT TÍCH TỲ KHƯU CÓ NHIỀU VẬT DỤNG
141. Neither nudity nor fasting, nor diverse penances will cleanse a mortal who is steeped in doubt.
141. Lõa thể, tuyệt thực hay mọi hình thức khổ hạnh đều không thể làm trong sạch một người có tâm đầy nghi hoặc.
141. Na naggacariyā na jaṭā na paṅkā,
nānāsakā taṇḍilasāyikā vā;
Rajo jallaṃ[18] ukkuṭikappadhānaṃ,
sodhenti maccaṃ avitiṇṇakaṅkhaṃ. (10:13)
141. Not going naked, nor matted hair, nor filth,
nor fasting, not sleeping on bare earth,
no penance on heels, nor sweat nor grime
can purify a mortal still overcome by doubt.
----
X. 9 - Tích ĐẠI THẦN SAN TÁ TÍ
(Santatimahāmattavatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 142)
142. “Alaṅkato cepi samañ careyya[21],
santo danto niyato brahmacārī;
Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ,
so brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhu.”
142. “Ai sống tự trang sức,
Nhưng an tịnh, nhiếp phục,
Sống kiên trì, Phạm hạnh,
Không hại mọi sinh linh,
Vị ấy là Phạm chí,
Hay Sa môn, Khất sĩ.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến quan Đại thần Santati (San Tá Tí).
Một thời nọ, quan Đại thần nầy trở về kinh đô, sau khi vâng lịnh vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) xứ Kosala (Kiều Tát La) đi tiểu trừ phiến loạn và bình định biên cương. Đức vua rất hài lòng, ban cho ông làm Quốc vương trong bảy ngày và thưởng cho ông một cô vũ nữ danh ca tuyệt sắc. Trong bảy ngày, ông ăn uống say sưa. Đến ngày chót, ông đeo tất cả đồ trang sức lên mình, cỡi trên lưng con tượng báu của Vua đi ra bến tắm, bỗng gặp Đức Bổn Sư vào trong cổng thành khất thực, ông ngồi trên lưng thớt tượng gật đầu vái chào Ngài, Đức Bổn Sư mỉm cười, Trưởng lão Ānanda hỏi:
- Bạch Ngài, do nhân gì, duyên gì mà Ngài mỉm cười?
Đức Bổn Sư giải thích lý do nụ cười nầy rằng:
- Nầy Ānanda! Hãy để ý xem: hôm nay, quan đại thần Santati mình đeo tất cả những vật trang điểm sẽ đến gặp Ta, rồi nhờ kệ ngôn tứ cú mà đắc quả A La Hán, sẽ ngồi trên không trung cao độ khoảng bảy cây thốt nốt mà Vô Dư Níp Bàn.
Đại chúng đều nghe rõ lời tiên tri của Đức Bổn Sư đã nói với Trưởng lão Ānanda. Lúc bấy giờ, những người Tà kiến nghĩ rằng: “Bà con hãy coi hành động của Sa môn Gotama (Cồ Đàm)! Ông ta tự mình dám mở miệng nói rằng: Hôm nay, một ông say rượu như vậy, trang điểm xuê xang bậc ấy mà đến gần nghe ông ta thuyết pháp rồi sẽ Níp Bàn. Hôm nay, chúng ta sẽ khiển trách ông ta về tội nói dối.”
Nhóm người Chánh kiến thì bảo nhau: “Ôi to lớn thay là oai thần của chư Phật! Hôm nay chúng ta sẽ được trông thấy tướng hấp dẫn của Đức Phật và tướng hấp dẫn của quan Đại thần Santati.”
Quan đại thần Santati cả ngày đùa giỡn nước tại bến tắm, rồi đi đến vườn Ngự Uyển, ngồi trong nhà đãi khách. Cô vũ nữ bước vào giữa sân khấu để biểu diễn tài nghệ ca vũ của mình. Vì đã nhịn ăn suốt bảy ngày để bảo vệ thân hình duyên dáng của mình để trình diễn, nên ngày ấy khi đang ca vũ cho quan Đại thần xem, trong bụng cô, gió độc bén như những dao nhỏ khởi lên, cắt xén thịt của quả tim cô. Bỗng nhiên, cô vũ nữ ngã xuống chết ngay, miệng há hốc, mắt mở trao tráo.
Quan Đại thần bảo thủ hạ:
- Hãy xem coi nàng ra sao?
Thủ hạ đáp:
- Thưa chủ, nàng đã tắt thở!
Nghe nói vậy, quan Đại thần Santati cảm thấy khổ sầu không thể tả. Mặc dầu đã uống rượu suốt cả bảy ngày, giờ phút ấy rượu tiêu mất hết, hầu như trong đầu ông không còn lấy một giọt.
Ông than rằng: “Mối sầu nầy, không ai khác có thể làm cho ta nguôi ngoai được ngoại trừ Đức Như Lai.”
Xế chiều hôm ấy, cùng đoàn quân hộ giá, quan Đại thần Santati đến bái yết Đức Bổn Sư và bạch rằng:
- Bạch Ngài, lòng con mang nặng mối sầu dường ấy, chỉ có Ngài có thể giải khổ được cho con mà thôi, nên con đến đây, xin Ngài từ bi làm chỗ nương nhờ cho con!
Đức Bổn Sư khuyên giải quan Đại thần rằng:
- Hôm nay ông đến đây vì nghĩ rằng: Đức Bổn Sư có thể dập tắt lửa sầu của ta được. Quả thật, vì phụ nữ nầy, cũng vì cái chết của cô ta mà ông đã đổ bao dòng suối lệ, nếu dồn chung lại thì còn nhiều hơn là nước trong bốn đại trùng dương.
Nói rồi, Ngài ngâm kệ rằng:
“Yaṃ pubbe taṃ visosehi,
pacchā te māhu kiñcanaṃ;
Majjhe ce no gahessasi,
upasanto carissasīti.”
“Dĩ vãng từ trước quên đi,
Hậu lai chưa đến, can chi mà hòng?
Hiện tại cứ để Tâm không,
Vô cầu, Vô chấp, bền lòng an vui.”
Cuối bài kệ, quan Đại thần Santati đắc quả A La Hán, tự quán xét thấy tuổi thọ của mình đã hết, bèn xin với Đức Bổn Sư:
- Bạch Ngài, xin phép Ngài cho con được Níp Bàn.
Mặc dầu biết quan Đại thầy Santati đã tạo thiện nghiệp gì, nhưng Đức Bổn Sư suy xét: “Những người Tà kiến đã tụ tập nơi đây để bắt quả tang Ta nói dối, sẽ không gặp được dịp may. Những người Chánh kiến cũng tụ tập nơi đây để được mục kích tướng hảo quang minh của quan Đại thần Santati. Sau khi nghe tiền nghiệp của ông ta sẽ hoan hỷ trong các việc làm phước.”
Đức Bổn Sư bảo:
- Vậy thì, ông hãy bày tỏ tiền nghiệp của ông cho Ta nghe trước đã! Ông đừng đứng dưới đất mà kể chuyện; hãy đứng trên hư không cao độ bảy cây thốt nốt mà kể chuyện cho Ta nghe!
Quan đại thần đáp:
- Lành thay, bạch Ngài!
Đảnh lễ Đức Bổn Sư xong rồi, ông bay lên cao độ một cây thốt nốt, lại đảnh lễ Ngài, rồi lần lượt bay lên cao độ bảy cây thốt nốt, ngồi kiết già giữa hư không, nói rằng:
- Bạch Ngài, xin Ngài hãy nghe câu chuyện tiền nghiệp của con!
“Cách đây chín mươi mốt kiếp trái đất, vào thời Đức Phật Vipassī (Tỳ Bà Thi), con được sanh trong một gia đình lễ giáo cư ngụ trong thành Bandhumatī (Ban Thú Má Ti). Con có ý nghĩ: “Làm thế nào để đừng tạo nghiệp gì chia rẽ, hoặc là áp bức kẻ khác?”. Suy nghĩ tiếp nữa, con thấy: “Chỉ có đi cổ động (Ghosanakammaṃ) kêu gọi người ta làm phước là hơn hết!”. Kể từ đó về sau, con chuyên môn làm có một việc ấy, là đi đốc xúi đại chúng: “Hãy làm phước, hãy thọ trì Bát giới vào những ngày Bát Quan trai, hãy bố thí Trai Tăng, hãy nghe thuyết pháp. Không có chi sánh bằng Tam Bảo, nhất là Phật Bảo, hãy tôn kính Tam Bảo!”.
Lúc con đang đi lớn tiến kêu gọi đại chúng như thế, Phụ vương của Đức Phật, là Đức vua trong thành Bandhumatī nghe tiếng truyền rao của con, bèn cho gọi con vào cung phán hỏi:
- Nầy khanh, khanh đi rao truyền tin chi vầy?
- Tâu bệ hạ! Hạ thần đi truyền bá, ân đức Tam Bảo, đốc thúc đại chúng tạo phước nghiệp.
Nghe vậy, Đức vua phán hỏi: “Khanh đi bằng phương tiện gì?”.
- Tâu bệ hạ! Hạ thần đi bộ.
- Nầy khanh, khanh đi bộ như vậy coi không được. Khanh hãy trang điểm với vòng hoa nầy và cưỡi trên lưng ngựa mà đi!
Đức vua đã ban cho con một vòng hoa quý như xâu chuỗi ngọc và một con ngựa thuần hóa. Khi con gìn giữ những lộc Vua ban mà đi cổ động như thế, rồi Đức vua lại cho gọi con vào cung phán hỏi: “Khanh còn đi cổ động chăng?”. Và khi biết việc con làm, Đức vua phán rằng:
- Nầy khanh, khanh cưỡi ngựa đi cũng chưa xứng đáng, hãy ngồi lên xe nầy mà đi!
Rồi Đức vua ban cho con một cỗ xe kéo bằng bốn con tuấn mã. Lần thứ ba, Đức vua lại nghe tiếng con cổ động, cho gọi vào và phán hỏi: “Khanh đi làm công tác chi vậy?”. Con đáp xong, Đức vua phán rằng:
- Nầy khanh, cỗ xe tứ mã cũng chưa xứng đáng với khanh.
Đức vua ân tứ cho con một huy chương lớn với nhiều tài sản và ban thêm một thớt tượng. Từ đó, con mang đầy mình những đồ trang sức và ngồi trên lưng tượng mà đi cổ động cho Chánh Pháp suốt tám muôn năm. Trong thời gian đó, từ thân con xông ra mùi hương Chiên Đàn, từ miệng con phát ra mùi thơm của hoa sen. Đây là nghiệp của con đã tạo vậy.”
Sau khi kể hết tiền nghiệp của mình, quan Đại thần vẫn ngồi yên trên hư không, nhập vào đề mục Lửa mà viên tịch. Trong thân Ngài, một ngọn lửa bốc lên thiêu hết máu thịt, chỉ còn lại những Ngọc Xá Lợi trắng muốt như những hoa lài. Đức Bổn Sư trải vải sạch ra hứng, những Ngọc Xá Lợi rơi xuống đó. Những Xá Lợi nầy, tôn trí vào những Thánh tháp xây dựng ở những ngã tư đường, đại chúng đến lễ bái ắt sẽ được hưởng phước báo.
Các vị Tỳ khưu ngồi trong giảng đường, đề khởi câu chuyện nầy:
- Nầy các đạo hữu, Đại thần Santati chỉ nghe có một bài kệ tứ cú mà đắc quả A La Hán, mình vẫn còn trang điểm xuê xang, ngồi giữa hư không mà tịch diệt. Thử hỏi, chúng ta nên gọi ông là một Sa môn, như một vị Tỳ khưu, hoặc là chỉ gọi ông là một Bà la môn thôi?
Đức Bổn Sư ngự đến hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các người ngồi chung bàn chuyện chi đây?
- Bạch Ngài, chuyện nầy…
Nghe vậy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu, con trai của Ta đáng gọi là Sa môn mà cũng đáng gọi là Bà la môn nữa!
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm bài kệ sau đây:
142. “Alaṅkato cepi samañ careyya,
santo danto niyato brahmacārī;
Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ,
so brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhu.”
142. Người nào nghiêm giữ thân tâm, chế ngự khắc phục ráo riết, thường tu Phạm hạnh, không dùng dao gậy gia hại sinh linh, thì chính người ấy là Bà la môn, là Sa môn, là Tỳ khưu vậy.
(Bản dịch của Ngài T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Alaṅkato: người mặc y phục tốt đẹp và đeo đồ trang sức lộng lẫy. Theo lý nầy thì một người phục sức, trang điểm lộng lẫy, nhưng nếu có nếp sống bình thản, an tịnh dục vọng, nhiếp phục Lục căn, Đạo quả kiên cố, Phạm hạnh tròn đủ (Saṭṭhacariyāya), đã buông bỏ đao trượng (dao, gậy), không còn làm hại một chúng sanh nào khác nữa, người như thế gọi là Bà la môn cũng phải vì đã xa lìa ác pháp, gọi là Sa môn cũng phải vì đã bình định các ác pháp mà gọi Tỳ khưu cũng phải vì đã đoạn tuyệt với các phiền não.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ân sủng Vua ban đủ bảy ngày,
Ngũ trần toại hưởng mặc vui say,
Bỗng nhiên nhận thấy Vô thường, Khổ,
Giấc mộng kê vàng, thức tỉnh ngay!
Tình yêu vũ nữ quá đậm đà,
Nàng chết, lòng ông thật xót xa,
Phật dạy: Vì nàng, ông đổ lệ,
Nước trong bốn biển chẳng nhiều qua!
Chư Tăng thắc mắc hỏi nhau rằng:
La Hán Đại thần mặc xuê xang,
Tịch diệt giữa trời, ta phải gọi:
Bà la môn, Khất sĩ hay chăng?
Phật dạy: Người ăn mặc rất sang,
Nhưng Tâm an tịnh, chế ngự căn,
Kiên trì sống cuộc đời Phạm hạnh,
Đáng gọi Bà la môn Thánh Tăng.”
DỨT TÍCH ĐẠI THẦN SAN TÁ TÍ
142. The celibate who’s restrained and is full of love for the entire world is indeed a true bhikkhu.
142. Vị sống thanh tịnh độc cư, tự điều thân và đầy lòng Từ đối với toàn thế giới mới thật là Tỳ kheo chân chánh.
142. Alaṅkato cepi samañ careyya,
santo danto niyato brahmacārī;
Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ,
so brāhmaṇo so samaṇo sa bhikkhu. (10:14)
142. Even though adorned, if living at peace
calm, tamed, established in the holy life,
for beings all laying force aside:
one pure, one peaceful, a bhikkhu is he.
----
X. 10 - Tích TRƯỞNG LÃO KHỐ RÁCH
(Pilotikatissattheravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 143-144)
143. “Hirīnisedho puriso,
koci lokasmi vijjati;
Yo niddaṃ apabodheti,
asso bhadro kasāmiva.”
143. “Thật khó tìm ở đời,
Người biết thẹn, tự chế,
Biết tránh né chỉ trích,
Như ngựa hiền tránh roi.”
144. “Asso yathā bhadro kasāniviṭṭho,
ātāpino saṃvegino bhavātha;
Saddhāya sīlena ca vīriyena ca,
samādhinā dhammavinicchayena ca;
Sampannavijjācaraṇā patissatā,
pahassatha dukkhamidaṃ anappakaṃ.”
144. “Như ngựa hiền chạm roi,
Với Tín, Giới, Tinh tấn,
Thiền định cùng Trạch pháp.
Minh hạnh đủ, Chánh niệm,
Đoạn khổ này vô lượng.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Trưởng lão Pilotika (Khố Rách ).
Một ngày nọ, Trưởng lão Ānanda gặp một cậu bé mặc y phục rách rưới, tay cầm cái chén đi xin ăn, bèn hỏi nó:
- Sao con sống lang thang như thế làm gì? Xuất gia chẳng là cao thượng hơn chăng?
- Bạch Ngài, ai sẽ cho con xuất gia?
Nghe vậy, Trưởng lão nói: “Ta sẽ cho con xuất gia.” Rồi Trưởng lão dắt cậu bé về chùa, bảo cậu ta tắm rửa sạch sẽ, cho nó thọ đề mục và cho cậu ta đắp y xuất gia. Khi trải quần áo cũ vá ra xem, thấy không có chút nào mót làm vải lọc nước được, ông Tân Sa di nầy liền máng chúng nó trên nhánh cây chung với cái chén xin ăn.
Về sau, Sa di ấy tu lên Tỳ khưu, gặp thời Phật giáo đang hưng thịnh, lợi lộc phát sanh rất nhiều, ông thọ hưởng quá đầy đủ, đắp toàn những lá y quí giá, thân thể phì nộn, ông lấy làm bất mãn, tự trách: “Ta cần gì đắp y để cho người đời phát sanh đức tin? Ta sẽ mặc lại y phục cũ vá của ta.”
Đến chỗ nhánh cây, ông cầm lấy quần áo cũ và tự mắng rằng: “Nầy kẻ vô sĩ, không biết hổ thẹn, ngươi muốn Xả bỏ những y lành lặn như thế nầy, để mặc lại bộ đồ giẻ rách, cầm cái chén đi xin ăn hay sao?”.
Đây là ông mượn cách nầy làm đối tượng để tự mình khuyến giáo lấy mình, nhờ sự huấn dụ cảnh giác như thế, tâm ông sư lắng dịu. Sau khi ra khỏi chỗ treo quần áo cũ vá, tẩy sạch phiền não trong tâm rồi, ông lại trở ra chỗ đó và tự giáo hóa tâm như trước, khi tâm lắng dịu, ông lại trở về chùa. Ông cứ đi đi lại lại như thế mãi, khiến chư Tăng thấy lạ, hỏi ông:
- Đạo hữu đi đâu vậy?
Trưởng lão đáp:
- Bạch các Ngài, tôi đến viếng thầy A Xà Lê!
Nhờ lấy quần áo vá cũ của mình lúc trước làm đề mục quán tưởng. Trưởng lão ngăn được tâm bất mãn, tự chế được mình, nên mấy hôm sau đắc quả A La Hán.
Các Tỳ khưu hỏi:
- Nầy đạo hữu, sao bây giờ đạo hữu không đi viếng thầy A Xà Lê nữa? Đây há không phải là con đường hành đạo của đạo hữu ư?
- Bạch các Ngài, tôi đến tiếp xúc với thầy A Xà Lê để nhờ thầy nhắc nhở, bây giờ, tôi đoạn giao với Thầy rồi, nên tôi không đến viếng Thầy nữa[22]?
Chư Tăng bèn mách với Đức Như Lai:
- Bạch Ngài! Tỳ khưu Vải Rách phạm đại vọng ngữ!
- Nầy các Tỳ khưu! Thầy ấy đã nói những gì?
- Bạch Ngài, thầy ấy đã nói như vầy…
Nghe rõ câu chuyện, Đức Bổn Sư xác nhận rằng: “Đúng vậy, nầy các Tỳ khưu, con trai Ta lúc cần tiếp xúc để được nhắc nhở thì đến viếng thầy A Xà Lê, bây giờ đã đoạn giao với thầy, tự mình cấm ngăn lấy mình và đã đắc A La Hán rồi!”.
Nói rồi, Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:
143. “Hirīnisedho puriso,
koci lokasmi vijjati;
Yo niddaṃ apabodheti,
asso bhadro kasāmiva.”
143. Biết lấy điều hổ thẹn để tự cấm ngăn mình, thế gian ít người làm được. Nhưng người đã làm được, họ đã khéo tránh hổ nhục như ngựa hay khéo tránh roi da.
144. “Asso yathā bhadro kasāniviṭṭho,
ātāpino saṃvegino bhavātha;
Saddhāya sīlena ca vīriyena ca,
samādhinā dhammavinicchayena ca;
Sampannavijjācaraṇā patissatā,
pahassatha dukkhamidaṃ anappakaṃ.”
144. Các người hãy nỗ lực sám hối như ngựa đã hay còn thêm roi. Hãy ghi nhớ lấy Chánh tín, Tịnh giới, Tinh tiến, Tam Ma Địa (Thiền định), Trí phân biệt Chánh Pháp và Minh hạnh túc, để tiêu diệt vô lượng thống khổ.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Hirinisedho: người biết hổ thẹn, tự ngăn cấm những ý tưởng bất thiện, không cho sanh lên trong tâm mình.
Koci lokasmiṃ: những như vậy thật khó tìm gặp trong đời, khó có được trong thế gian.
Yo niddaṃ: người nào không dể duôi hành Sa môn Pháp, biết tránh lời chê trách, không để sanh lên đến mình, nên không biết (Apabodheti) đến sự hổ nhục.
Kasāmiva: như ngựa hay khéo tránh roi da, không để phạm đến mình, người khéo tránh sự chê trách , thật khó gặp gỡ vậy.
Bài kệ thứ hai giảng vắn tắt như vầy: “Nầy các Tỳ khưu, như ngựa hay mà sanh chứng phóng dật, người ta phải dùng đến roi da. Ta đây cũng đánh bằng một thứ roi da khác để phấn khích các thầy. Như vậy các thầy hãy có nhiệt tâm, hãy có kinh cảm, có đủ cả hai loại: Đức tin phàm và Thánh, Tứ thanh tịnh Giới, Thân ý Tinh cần, Tám bậc Thiền, Thiền diệt, do có Trí phân biệt lý và phi lý, và do có Trạch pháp rồi đắc Tam Minh hoặc Bát Minh với Mười lăm cái Hạnh , gọi là Minh Hạnh Túc, với Chánh Niệm hiện tại, hãy tiêu trừ cái khổ vô lượng trong vòng luân hồi nầy đi!”.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Tỳ khưu biết thẹn, tự chế mình,
Mỗi lúc tâm phiền não phát sinh,
Ra chỗ cây treo đồ cũ rách,
Quán về thống khổ kẻ cùng đinh.
Lần lần, tâm chứng cảnh an vui,
Nẻo đến cây rừng vắng tới lui,
Tăng thấy khác thường, kêu hỏi thử,
Sư rằng: “Thầy hết nhắc thời thôi!”
Tăng trách Sư khoe Đạo quả linh,
Phật rằng: “Ai khéo biết cảm kinh,
Ngựa hay, chẳng đợi gì roi đánh,
Tín, Tấn, Niệm thường, Định, Huệ sinh.”
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO KHỐ RÁCH
143. Man deterred by a sense of shame is apprehensive of censure like a good horse of the whip.
143. Người tự chế vì biết hổ thẹn, sợ lời chỉ trích như ngựa hiền sợ roi.
143. Hirīnisedho puriso,
koci lokasmi vijjati;
Yo niddaṃ apabodheti,
asso bhadro kasāmiva. (10:15)
143. Where in the world is found
one restrained by shame,
awakened out of sleep
as splendid horse with whip?
144. Do ye discipline and restrain yourselves like a noble steed at whip-lash.
144. Hãy chế ngự, điều phục bản thân như ngựa thuần chạm roi da vậy.
144. Asso yathā bhadro kasāniviṭṭho,
ātāpino saṃvegino bhavātha;
Saddhāya sīlena ca vīriyena ca,
samādhinā dhammavinicchayena ca;
Sampannavijjācaraṇā patissatā,
pahassatha dukkhamidaṃ anappakaṃ. (10:16)
144. As splendid horse touched with whip,
be ardent, deeply moved,
by faith and virtue, effort too,
by meditation, Dhamma’s search,
by knowledge, kindness, mindfulness:
abandon dukkha limitless!
----
X. 11 - Tích SA DI HẠNH PHÚC
(Sukhasāmaṇeravatthu)
----
KỆ NGÔN: (Pháp Cú số 145)
145. “Udakaṃ hi nayanti nettikā,
usukārā namayanti tejanaṃ;
Dāruṃ namayanti tacchakā,
attānaṃ damayanti subbatā.”
145. “Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn ván,
Bậc tự điều, điều thân.”
(Bản dịch của Ngài H.T. Minh Châu)
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự) đề cập đến Sa di Sukha (Hạnh Phúc).
Thuở xưa, có chành thanh niên tên Gandha (Gan Thá) là con ông Bá hộ trong thành Bārāṇasī (Ba La Nại). Khi thân phụ chàng thất lộc, Đức vua triệu chàng về triều, an ủi, vỗ về, rồi long trọng phong cho chàng chức Bá hộ. Từ đó về sau, mọi người gọi chàng là Bá hộ Gandha.
Một hôm, người quản gia của Bá hộ cũ dắt ông Bá hộ mới đi mở cửa kho, trình với chủ rằng:
- Thưa chủ, bấy nhiêu tài sản đây là phần di sản thân phụ ông, bấy nhiêu đây là phần di sản của tổ phụ ông v.v…
Bá hộ Gandha nhìn khắp tài sản kếch xù, rồi hỏi người quản gia:
- Tại sao các cụ không mang tài sản nầy đi vậy?
- Thưa ông chủ, chẳng có ai mang tài sản đi bao giờ cả! Khi ra đi, chúng sanh chỉ mang theo mình những nghiệp thiện và nghiệp bất thiện của mình mà thôi!
Bá hộ Gandha suy nghĩ: “Các Ngài đã khờ dại tom góp tài sản, rồi bỏ lại hết mà ra đi tay không, đến phiên ta, ta sẽ mang hết tài sản nầy mà đi.” Đó là ý nghĩ của Bá hộ trẻ, ông đã tính thầm: “Ta sẽ tiêu xài cho hết tài sản nầy, rồi mới ra đi.”, thay vì có dự định: “Ta sẽ bố thí cho kẻ nghèo khó hoặc ta sẽ cúng dường đến các bậc đáng cúng dường.” Ông ta xuất ra một trăm ngàn đồng khiến người cất nhà tắm bằng thủy tinh. Đã bỏ ra một trăm ngàn đồng cất nhà tắm bằng thủy tinh như thế rồi, ông còn xuất ra một trăm ngàn đồng lót nền nhà làm bằng thủy tinh, xuất ra một trăm ngàn đồng đặt làm cái ghế dài (trường kỷ) cũng bằng thủy tinh, xuất ra một trăm ngàn đồng để làm rạp ngay tại chỗ ông ngồi ăn cơm, xuất ra một trăm ngàn đồng để làm mâm bưng đồ ăn cho ông. Cánh cửa sổ đặc biệt gắn trong nhà ông cũng đáng giá một trăm ngàn đồng…
Ông đưa cho đầu bếp một ngàn đồng để lo bữa ăn sáng, bữa ăn chiều cũng đáng giá một ngàn đồng. Riêng vào ngày rằm, ông đưa cho đầu bếp một trăm ngàn đồng để lo bữa ăn ngọ cho ông. Đến ngày ông ăn ngọ, ông xuất ra một trăm ngàn đồng để trang hoàng thành phố và cho người đi khắp nơi đánh trống truyền rao: “Nghe đây, nghe đây! Hôm nay ngày rằm, bà con hãy đến mục kích sự sang trọng của bữa cơm ngọ mà ông Bá hộ Gandha dùng.”
Đại chúng mang theo giường lớn, giường nhỏ được kết dính với nhau đến tụ hội rất đông.
Ông Bá hộ vào trong nhà tắm trị giá một trăm ngàn đồng, ngồi trên nền nhà tắm trị giá trăm ngàn đồng, tắm gội bằng mười sáu vòi nước thơm, xong rồi cho mở cánh cửa sổ đặc biệt ra, lên ngồi trên ghế trường kỷ. Trong lúc ấy, ngoài bát cơm để trên cái mâm bưng đồ ăn, người hầu bàn còn dâng thêm cho bữa ăn ông đáng giá một trăm ngàn đồng. Khi ông đang dùng bữa cơm ấy, cả đoàn vũ nữ vây quanh múa hát giúp vui cho bữa ăn sang trọng càng thêm tưng bừng rộn rịp.
Một thời gian sau, có một người dân quê, muốn có tiền tiêu xài nên mang những lâm sản, nhất là củi khô chất đầy một cỗ xe bò nhỏ, rồi đánh xe ra thành, đến ở đậu nơi nhà một người bạn. Hôm ấy trúng ngày rằm, người đi cổ động khắp thành phố truyền rao: “Bà con hãy đến xem cảnh ngoạn mục của Bá hộ Gandha ăn cơm.” Nghe vậy, người bạn hỏi người dân quê:
- Nầy, anh đã từng thấy cảnh ăn ngoạn mục của ông Bá hộ Gandha chưa?
- Thưa, chưa anh à.
- Vậy thì bạn theo tôi, chúng ta cùng đi với anh đánh trống trong thành nầy, đến xem sự nghiệp lớn lao của Bá hộ Gandha cho biết!
Thế rồi, người dân thành dắt người dân quê ra đi. Đến nơi, hai người thấy đại chúng đã leo lên trên cả những giường nhỏ, giường lớn mà coi.
Ngửi được mùi cơm thơm ngát bay vào mũi, người dân quê bảo bạn:
- Chà, tôi thấy thèm khát được cục cơm trong cái bát ấy quá chừng!
- Anh ơi! Đừng có ước mơ như thế, không bao giờ có thể được ăn đâu mà hòng!
- Anh ơi! Nếu không được ăn, chắc tôi sẽ không sống nổi!
Không thể can gián bạn được, người dân thành đành len lỏi vào đứng sát ranh các lớp rào đại chúng mà la to ba lần:
- Kính thưa ông chủ, tôi xin lễ bái ông chủ!
- Ai đó?
- Dạ thưa ông chủ, tôi đây!
- Có việc chi vậy?
- Dạ, đây là một người dân quê sanh tâm thèm khát miếng cơm trong bát của ông chủ. Xin ông chủ vui lòng bố thí cho anh ta một miếng cơm!
- Hắn không thể có được.
Người dân thành hỏi bạn:
- Đó, anh có nghe rõ chưa?
- Anh ơi! Tôi có nghe! Tuy vậy, nếu được ăn thì tôi sẽ sống, còn nếu không được ăn, chắc là tôi phải chết.
Người dân thành lại la to một lần nữa:
- Kính thưa ông chủ, anh nầy nói: Nếu không được ăn cơm của ông chủ thì anh ta sẽ chết. Xin ông chủ cứu mạng anh ta!
- Bạn ơi! Mỗi miếng cơm của ta đáng giá một trăm hoặc hai trăm đồng; nếu ai ai cũng xin và ta cho đủ hết mọi người thì ta còn gì mà ăn?
- Ông chủ ơi, anh nầy sẽ chết nếu không được ăn cơm của ông, xin ông mở lòng nhân cứu giùm mạng sống của anh ta!
- Không thể ăn không cơm của ta được! Nếu quả hắn không sống nếu không được ăn, thì hắn hãy làm công trong nhà ta ba năm đi, rồi ta sẽ đãi cho hắn ăn một bát cơm của ta như thế nầy.
Nghe vậy, người dân quê chấp nhận ngay và nói với bạn:
- Vậy là được rồi anh ạ.
Về nhà từ biệt vợ con xong, anh đến xin ở với ông Bá hộ để làm công không ba năm.
Trong khi ở đợ, anh ta làm tất cả mọi việc rất là đàng hoàng tử tế. Dầu ở nhà hoặc đi rừng, dầu ban ngày hay ban đêm, mọi công việc nào anh cần phải làm thì anh đều làm chu đáo. Khắp cả thành phố, ai cũng biết là anh làm công không để đổi lấy bữa ăn, nên gọi anh là Bhattabhatika (Phát Tá Phá Tí Ká).
Khi số ngày làm công của anh ta đã đủ, người tổng khậu lo việc sắp đặt bữa ăn báo cho Bá hộ biết: “Thưa ông chủ! Hôm nay đã đủ số ngày ba năm làm công khó nhọc của anh Bhattabhatika, anh ta không hề phạm lỗi trong một công việc nào cả.”
Ông Bá hộ liền bảo người quản gia xuất ra ba ngàn đồng: hai ngàn đồng để lo bữa cơm trưa và bữa cơm chiều cho mình, còn một ngàn để lo bữa cơm trưa cho người làm công. Rồi ông dặn: Hôm nay tất cả mọi người nhà, trừ nàng Cintamaṇī (Chin Tá Má Ni) là vợ yêu của ông, phải lo phục vụ hầu hạ anh ấy cũng y như là ông vậy. Thế rồi, ông Bá hộ giao hết tài sản của ông cho Bhattabhatika được quyền hưởng thụ trong một ngày ấy. Anh ta bèn vào phòng tắm của Bá hộ, ngồi lên nền tắm sang trọng của ông, tắm bằng nước thơm của ông. Người cổ động của ông Bá hộ cũng đi khắp thành phố loan tin rằng: “Anh Bhattabhatika đã làm công không ba năm trong nhà Bá hộ Gandha, nay được hưởng một bữa cơm đắt giá. Bà con hãy đến xem anh ấy thọ dụng bữa cơm sang trọng của ông Bá hộ!”.
Đại chúng đua nhau đem giường nhỏ, giường lớn đến kê cho cao để đứng xem cho mãn nhãn. Người dân quê nhìn đến đâu cũng thấy vẻ xôn xao, náo nhiệt. Các vũ nữ thì vây quanh mình anh ta. Những người hầu bàn đã dọn mâm cơm canh lên dâng trước mặt anh ta và đứng chờ lịnh…
Lúc anh ta đang rửa tay thì trên núi Gandhamādana (Hương Sơn) có một vị Độc Giác Phật vừa xuất Thiền Diệt sau bảy ngày nhập Đại định. Ngài quán xét rằng: “Hôm nay ta đi khất thực ở đâu?”, Ngài thấy anh Bhattabhatika. Quán thêm nữa, Ngài biết: “Anh nầy đã làm công không ba năm mới được bữa ăn hôm nay, nhưng anh ta có đức tin hay không?”. Biết là anh ta có đức tin, nhưng cũng có một số người tuy có đức tin mà không thể hộ độ.
“Thử hỏi anh nầy có thể hộ độ cho ta không?”, sau khi quán xét kỹ, Ngài thấy: “Anh nầy sẽ có thể hộ độ cho Ta và hơn nữa, nhờ sự hộ độ nầy anh ta sẽ được quả phước lớn.” Ngài bèn đắp y mang bát bay xuống, rẽ đám đông đến đứng trước mặt Bhattabhatika cho anh ta thấy Ngài.
Anh ta thấy Đức Phật Độc Giá liền nghĩ thầm: “Vì kiếp trước ta không bố thí, nên kiếp nầy phải làm công không ba năm ở nhà người khá để được một bát cơm ngon. Bữa cơm nầy chỉ hộ trì ta trong một ngày đêm mà thôi, nếu ta đem nó cúng dường đến vị Trưởng lão nầy, ắt nó sẽ hộ trì ta trong vô số mười ngàn triệu kiếp. Thế thì ta sẽ dâng cúng nó đến Ngài vậy.” Thế là bữa cơm mà anh ta đã bỏ công không ra ba năm mới có được, từ trong bát anh chưa đặt vào miệng một miếng nào, nhưng anh đã đánh tan ái dục, tự mình bưng bát lên, đến gần Đức Phật Độc Giác, trao bát qua tay một người khác, gieo năm vóc xuống đảnh lễ, rồi tay trái cầm bát cơm, tay phải xúc cơm để vào bát dâng Đức Phật. Ngài lấy tay đậy lên bát của Ngài khi bát cơm của thí chủ chỉ còn lại có phân nửa. Khi ấy, thí chủ bạch với Ngài: “Bạch Ngài, một khẩu phẩn không thể chia ra làm hai. Xin Ngài chớ phụ lòng con. Xin tế độ con cả kiếp nầy và những kiếp về sau, con xin cúng dường Ngài trọn phần ăn chứ không ưng để dư sót lại đâu!”. Một người làm việc Bố thí dầu ít, nhưng rất lớn. Do đó, thí chủ làm đúng theo lẽ nầy, dâng cúng tất cả rồi đảnh lễ một lần nữa và nói:
- Bạch Ngài, vì một bát cơm nầy mà con đã ở làm công nơi nhà người đến ba năm, cực khổ vô cùng. Bây giờ xin cho con dầu tái sanh đi cảnh giới nào cũng hằng được an vui và sẽ đắc Quả nào mà Ngài đã đắc trong hiện tại.
Đức Phật Độc Giác phúc chúc: “Mong cho con được mãn nguyện, như ngọc Ma Ni có thể làm cho tất cả sự ước muốn của con đều được thành tựu, hoặc các tư duy của con sẽ tròn đủ như trăng rằm.”
Rồi Ngài ngâm kệ ngôn rằng:
“Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ
khippameva samijjhatu
Sabbe pūrentu saṅkappā
cando paṇṇaraso yathā.”
“Cầu cho bao nhiêu phước đã ước nguyền,
Của Tín thí mau kết quả nhãn tiền,
Bao nhiêu tư duy đạt thành viên mãn,
Như tối rằm trăng sáng khắp miền.”
“Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ
khippameva samijjhatu
Sabbe pūrentu saṅkappā
maṇi jotiraso yathāti.”
“Cầu cho bao nhiêu phước đã ước nguyền,
Của Tín thí mau kết quả nhãn tiền,
Bao nhiêu tư duy đạt thành viên mãn,
Như được Ma Ni ngọc ước chơn truyền.”
Dứt lời, Đức Phật nguyện rằng: “Đại chúng nầy đứng ở đây, hãy thấy Ta trở về núi Gandhamādana (Hương Sơn).” Rồi Ngài bay lên hư không trở về núi Gandhamādana và đại chúng, quả thật, ai cũng đứng thấy Đức Phật cả.
Ngài về núi rồi đem bát cơm của Ngài ra chia làm năm trăm phần dâng đến năm trăm vị Phật Độc Giác. Tất cả chư Phât đều thọ bát đầy đủ, ta không nên nghĩ rằng: “Một bát cơm quá ít, làm sao chia cho đủ?”. Quả thật, Đức Phật đã dạy: Có bốn điều bất khả tư nghị mà cảnh giới của Phật Độc Giác là một trong bốn điều ấy.
Đại chúng thấy một bát cơm mà chia sớt đến Chư Phật Độc Giác như thế thì hoan hô cả ngàn lần, vang rền như sấm nổ: “Lành thay! Lành thay!”. Bá hộ Gandha nghe tiếng hoan hô thì nghĩ thầm: “Chắc anh Bhattabhatika không chịu nổi sự sang trọng của ta ban cho, nên vụng về lúng túng đến nỗi bị dân chúng la ó lên chế nhạo.” Ông sai người nhà ra xem cho biết chuyện gì! Họ đi rồi vào thưa lại cho ông biết rõ tự sự đáng gọi là vinh hạnh vô cùng. Nghe xong câu chuyện, Bá hộ phát sanh năm thứ phỉ lạc tràn trề khắp châu thân, buột miệng kêu lên: “Ôi, việc làm của anh nầy thật là quá khó! Nghĩ lại như ta bấy lâu nay, với sự sản lớn như vầy mà ta không thể bố thí chút gì!”. Bá hộ cho gọi anh làm công vào hỏi rằng:
- Nghe nói anh đã làm như thế, có thật không?
- Dạ vâng, thưa ông chủ.
Nghe vậy, ông nói:
- Nầy anh, anh hãy cầm lấy một ngàn đồng vàng rồi chia phước cúng dường của anh cho ta!
Anh làm công làm theo lời chủ, sau đó ông Bá hộ lại đem tất cả tài sản của mình chia hai, rồi cho bớt cho anh ta một phần.
(Có bốn yếu tố Hoàn mãn khiến cho phước nghiệp trổ quả nhãn tiền. Đó là Đối tượng hoàn mãn (Vatthusampadā), Vật dụng hoàn mãn (Paccayasampadā), Tác ý hoàn mãn (Cetanāsampadā), và Ân đức đặc thù hoàn mãn (Guṇātirekasampadā).
1. Đối tượng hoàn mãn là bậc xứng đáng cúng dường (Dakkhiṇeyya) như bậc A La Hán, hoặc A Na Hàm đã chứng đắc Thiền diệt hay Đại định (Nirodhasamāpatti).
2. Vật dụng hoàn mãn là những vật dụng phát sanh hợp theo lẽ đạo.
3. Tác ý hoàn mãn là tròn đủ trong cả ba thời, trước khi, trong khi, và sau khi làm phước tâm lúc nào cũng có sự hoan hỷ.
4. Ân đức đặc thù hoàn mãn là bậc xứng đáng cúng dường vừa xuất Thiền diệt.)
Anh dân quê nầy đã có một đối tượng hoàn mãn để cúng dường là vị Lậu Tận Độc Giác Phật, anh đã làm công không để được bữa cơm là có vật dụng hoàn mãn phát sanh hợp lẻ đạo, anh lại có tác ý trong sạch trọn cả ba thời là có tác ý hoàn mãn, và Đức Phật Độc Giác vừa xuất Đại định thọ bát cơm của anh, tức là ân đức đặc thù hoàn mãn. Do oai lực bốn pháp hoàn mãn hợp chung, anh dân quê được phước báu trổ quả nhãn tiền, cho nên anh mới được ông Bá hộ chia sớt cho phân nửa gia tài như thế.
Một thời gian sau, Đức vua được biết sự kiện hy hữu nầy của anh dân quê, cũng triệu anh vào triều, ban cho anh một ngàn đồng vàng để xin phước của anh. Đức vua rất đẹp ý, đã ban cho anh nhiều của cải lại còn phong cho anh làm Bá hộ nữa. Thế là anh trở thành Bá hộ Bhattabhatika. Bá hộ mới nầy kết bạn với Bá hộ Gandha. Hai người ở chung, ăn, uống, đi, đứng lúc nào cũng chung nhau cả.
Khi mệnh chung, Bá hộ Bhattabhatika sanh về Thiên giới hưởng lộc chư Thiên suốt khoảng thời gian không có Phật. Đến thời Đức Phật hiện tại, ông tái sanh vào một gia đình đại thí chủ của Trưởng lão Sārīputta ở trong thành Sāvatthī (Xá Vệ). Mấy ngày sau khi biết mình thọ thai, bà mẹ có ý muốn tha thiết được thỉnh Trưởng lão Sārīputta với năm trăm vị Tỳ khưu đến cúng dường vật thực bá vị, còn bà sẽ mặc y vàng bưng cái ly bằng vàng, ngồi sau chư Tăng và thọ dụng vật thực dư của chư Tăng. Bà đã thực hiện ý ước muốn đó và bịnh ốm nghén của bà đã hết. Bà vẫn tiếp tục làm phước như thế trong những ngày tháng tốt cho đến khi sanh con. Đến ngày đặt tên Hài tử, bà yêu cầu Trưởng lão:
- Bạch Ngài, xin Ngài hãy truyền giới cho con của con!
Trưởng lão hỏi: “Hài tử tên gì?”.
- Bạch Ngài, từ khi con của con đầu thai vào lòng con, trong nhà nầy chưa hề có điều chi khốn khổ. Do đó, con muốn đặt tên hài nhi là đồng tử Hạnh Phúc (Sukhakumāra).
Nghe vậy, Trưởng lão chấp thuận đặt tên ấy cho Hài tử và truyền Giới cho nó. Từ đó, bà mẹ phát tâm tự nguyện: “Ta sẽ không bao giờ làm sái ý muốn của con trai ta!”.
Trong các ngày lễ, chẳng hạn như lễ xỏ lỗ tai cho đứa bé, bà đều cung thỉnh chư Tăng đến nhà để làm phước.
Đến khi cậu bé được bảy tuổi, cậu thưa với mẹ rằng:
- Con thật muốn được xuất gia tu theo Trưởng lão Sārīputta quá mẹ à!
- Lành thay! Mẹ không bao giờ làm sái ý muốn của con!
Bà thỉnh Trưởng lão Sārīputta đến nhà, để bát xong, bạch rằng:
- Bạch Ngài, con trai của con nó muốn xuất gia. Chiều nay con sẽ mang nó đến chùa.
Sau khi tiễn Trưởng lão đi rồi, bà mời các thân bằng quyến thuộc đến nói rằng:
- Hôm nay, tôi sẽ làm những việc cần thiết đối với con trai của tôi, khi nó còn là cư sĩ.
Nói rồi, bà sửa soạn trang điểm cho cậu bé hết sức sang trọng và dắt cậu bé đến chùa giao cho Trưởng lão. Trưởng lão hỏi thử cậu bé:
- Nầy con, đời sống xuất gia rất khó khăn, con liệu có thể vui thú được chăng?
- Bạch Ngài, con sẽ làm theo những lời dạy của Ngài.
Nghe vậy, Trưởng lão truyền đề mục năm thể trược cho cậu bé niệm và cho cậu xuất gia Sa di. Trong bảy ngày liền, cha và mẹ cậu thiết lễ Trai Tăng trong chùa, dâng cúng đến Tỳ khưu Tăng có Đức Phật cầm đầu, những thực phẩm ngon lành bá vị, rồi mới trở về nhà.
Đến ngày thứ tám, sau khi chư Tăng vào làng trì bình khất thực, Trưởng lão làm xong phận sự ở chùa, rồi mới bảo ông Sa di đắp y mang bát đi theo Ngài vào làng khất thực. Dọc đường ông Sa di trông thấy những sự việc, nhất là việc dẫn nước vào trong, cũng hỏi Trưởng lão y như Sa di Paṇḍita (Hiền Trí) và Trưởng lão cũng giải đáp y như trước.
Sau khi nghe rõ hết các lý do, ông Sa di bạch với Trưởng lão:
- Bạch Ngài, nếu Ngài nhận lấy y bát của Ngài thì con xin quay trở lại.
Thay vì bảo: “Hãy mang y bát hộ ta.” Trưởng lão lại không làm trái ý muốn của Sa di, nên nhận lấy bát. Sa di đảnh lễ cáo từ Trưởng lão và dặn thầy rằng:
- Bạch Ngài, khi mang vật thực của con đem về. Xin Ngài hoan hỷ mang về những món ăn bá vị!
- Nầy Sa di, Ta có được vật thực ấy từ đâu?
- Bạch Ngài, nếu Ngài không được do phước báu của Ngài, thì Ngài sẽ được do phước báu của con!
Trưởng lão bèn trao chìa khóa cốc cho ông Sa di, rồi đi vào làng khất thực.
Ông Sa di về chùa, mở cốc của Trưởng lão, vào trong đóng cửa lại, ngồi xuống, lấy Niệm Tuệ quán rõ nội thân. Do oai lực Thiền quán của ông Sa di, ngai vàng của Đức Vua Trời Đế Thích bỗng phát nhiệt, Thiên Vương tự hỏi: “Có chuyện gì đây?”. Khi nhìn xuống thấy rằng: Sa di Sukha sau khi trao y bát lại cho thầy Hòa thượng, đã trở về với ý định “Ta sẽ hành Sa môn Pháp.” Thiên Vương tự nghĩ: “Vậy trẫm phải đến nơi đó.” Ngài cho triệu Tứ Đại Thiên Vương đến và phán bảo:
- Chư Vương hãy đi xuống khu rừng gần chùa Kỳ Viên và đuổi hết những con chim làm ồn ào để giữ yên lặng nơi ấy.
Tứ Thiên Vương vâng lịnh xuống canh giữ khắp cả khu vườn chùa. Đức Đế Thích lại khiến cho Thần mặt trăng, Thần mặt trời nhập cung của mình để chờ lịnh và hai vị Thiên Tử cũng vâng lời Ngài. Đích thân Đức Đế Thích đứng giữ sợi dây giật cái then cài cửa. Cả khu chùa trở nên yên lặng.
Với Nhất tâm, Sa di Sukha phát triển Thiền quán chứng đạt ba Quả vị. Trong khi ấy, Trưởng lão Sārīputta đang suy nghĩ: “Sa di nầy dặn ta mang vật thực ngon lành bá vị về cho ông ta, nhưng ta phải đến nhà ai mới có thể được để bát đây?”. Trưởng lão quán thấy một gia đình hộ Tăng có đầy đủ Tín tâm, nên Ngài ngự đến nơi ấy. Quả nhiên, các Tín thí vô cùng hoan hỷ chào mời: “Bạch Ngài, chúng con thật là may mắn, nên hôm nay được Ngài đến nơi đây!”. Họ thỉnh bát, mời Trưởng lão ngồi, dâng cháo điểm tâm rồi xin Trưởng lão thuyết pháp trong khi chờ buổi cơm ngọ.
Trưởng lão thuyết pháp nhắc nhở các thí chủ và chấm dứt Pháp thoại khi xét thấy đến giờ thọ bát. Thí chủ đặt bát đủ thức ăn bá vị cho Trưởng lão, khi thấy Trưởng lão tỏ ý muốn ra về, thì bạch thỉnh rằng: “Bạch Ngài, xin thỉnh Ngài hãy độ hết, chúng con sẽ dâng thêm một bát nữa.” Khi Trưởng lão độ xong, họ dâng thêm bát đầy nữa, thọ bát rồi Trưởng lão lật đật đi nhanh về chùa, tự nghĩ rằng: “Ông Sa di của ta chắc đang đói bụng!”,
Ngày ấy, từ sáng sớm, Đức Bổn Sư đã trì bình khất thực về ngồi trong hương thất. Ngài quán thấy: “Hôm nay Sa di Sukha giao y bát lại cho thầy Hòa thượng rồi quay trở về cốc để hành Sa môn Pháp.” Ngài tự hỏi: “Việc hành đạo của ông Sa di có kết quả gì chăng?”. Ngài thấy ông đã đắc được ba Quả đầu, Ngài quán tiếp để xem ông ta có thể đắc Quả tối thượng chăng?”. Ngài thấy: “Hôm nay, ông sẽ đắc quả A La Hán và Sārīputta đang hối hả mang vật thực ra đi, vì sợ Sa di đói bụng. Nếu như trong lúc ông Sa di chưa đắc A La Hán mà đem cơm về thì chắc sẽ có sự tai hại đến Đạo Quả của ông Sa di. Vậy ta nên trợ giúp Sa di mới được.
Thế rồi, Đức Bổn Sư ngự ra khỏi hương thất, đứng canh giữ cửa cốc cho ông Sa di.
Khi Trưởng lão đem cơm về đến dưới nền chùa, Đức Bổn Sư đón lại hỏi bốn câu thông thường (đã ghi trong bản Chú giải Kệ Sa di Paṇḍita).
Đây xin nhắc lại, Đức Bổn Sư hỏi Trưởng lão Sārīputta rằng:
- Nầy Sārīputta! Thầy mang cái chi về thế?
- Bạch Ngài! Vật thực.
- Nầy Sārīputta! Vật thực sanh ra cái chi?
- Bạch Ngài! Cảm thọ.
- Nầy Sārīputta! Cảm thọ sanh ra cái chi?
- Bạch Ngài! Sanh ra Sắc.
- Nẩy Sārīputta! Sắc sanh ra cái chi?
- Bạch Ngài! Sanh ra Xúc.
(Trích Chú giải Kệ Pháp Cú số 80)
Khi Trưởng lão giải đáp xong thì ông Sa di đắc Thánh quả A La Hán, Đức Bổn Sư gọi Trưởng lão và bảo:
- Nầy Sārīputta, hãy đi và đem cơm cho Sa di độ!
Trưởng lão về cốc, gõ cửa, ông Sa di đi ra đảnh lễ Thầy Tế độ. Nghe thầy bảo: “Hãy độ cơm đi!”, ngay lúc ấy, cậu bé bảy tuổi đắc quả A La Hán biết rằng cơm Trưởng lão mang về không có lợi ích, tâm đã an trụ Níp Bàn, cậu vừa thọ thực vừa quán tưởng, xong rồi đi rửa bát.
Trong khi ấy, Tứ Thiên Vương đã nghỉ sự canh phòng, mặt trời và mặt trăng thoát ra khỏi cung điện và Đức Đế Thích cũng trở về Thiên cung, thôi giữ sợi dây giật gài then cửa. Mặt trời đã xế qua khỏi chánh ngọ.
Chư Tăng thấy bóng xế nhanh, hỏi nhau rằng:
- Bây giờ, ông Sa di đã độ cơm xong, không biết do mãnh lực gì mà hôm nay buổi sáng lại dài ra, buổi xế lại đến chậm thế?
Đức Bổn Sư đến hỏi:
- Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy ngồi đây bàn luận chuyện gì?
- Bạch Ngài, hôm nay buổi sáng có sức mạnh, còn buổi xế thì đến chậm. Ông Sa di vừa độ cơm xong, mặt trời lại vượt qua khỏi chánh ngọ.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư giải thích rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Lẽ dĩ nhiên là như vậy, trong khi bậc hữu phước đang hành Sa môn Pháp! Hôm nay Tứ Đại Thiên Vương canh phòng khắp mọi nơi trong tịnh xá Kỳ Viên, mặt trăng và mặt trời đình trú trong cung điện, Đức Đế Thích gìn giữ sợi dây giật then gài cửa, đích thân Ta cũng phải trợ giúp cho Sa di. Hôm nay Sa di Sukha được nhìn thấy người đào mương dẫn nước vào ruộng, thấy thợ làm cung nỏ uốn nắn mũi tên cho ngay, thấy thợ mộc làm xe nhất là bánh xe, rồi tự mình chế ngự lấy mình mà đắc A La Hán quả.
Nói rồi, Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:
145. “Udakaṃ hi nayanti nettikā,
usukārā namayanti tejanaṃ;
Dāruṃ namayanti tacchakā,
attānaṃ damayanti subbatā.”
145. Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm tên lo uốn tên, thợ mộc lo nẩy mực của cây, người làm lành thì tự lo chế ngự.
(Bản dịch của T.K. Trí Đức)
*
CHÚ GIẢI:
Subbatā: nêu huấn dụ nhắc nhở bằng lời êm dịu chơn chánh cho mình được an vui. Kỳ dư toàn bài kệ nầy giống như bài Kệ Pháp Cú câu 80 đã giải rồi.
*
Cuối thời Pháp, nhiều Tỳ khưu chứng đạt Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
x
Dịch Giả Cẩn Đề
Ba năm làm mướn chẳng nài công,
Một bữa cơm sang mãi ước mong,
Gặp Phật, thắng liền tâm ái dục,
Nhịn ăn, sớt bát, nguyện Viên thông.
Do quả phước xưa khiến kiếp nầy,
Sa di Hạnh Phúc đủ duyên may,
Đi đường thấy vật người điều chế,
Về cốc hành Thiền sửa ý ngay!
Đế Thích rời ngôi xuống, đứng canh,
Chư Thiên túc trực khắp chung quanh,
Phật cầm Pháp Chủ khoan kêu cửa,
Nhật nguyệt ngừng chờ quả chót sanh.
Phật, Thầy, Thiên địa, thảy chung lo,
Hỗ trợ Sa di có phước to,
Độ ngọ xong rồi, trời mới xế,
Chư Tăng phàm tục, biết đâu dò?...
DỨT TÍCH SA DI HẠNH PHÚC
145. The morally good ones discipline themselves like irrigators the water, fletchers the arrow…
145. Người hiền thiện tự chế ngự thân tâm như người dẫn thủy trị nước, thợ làm tên uốn tên.
145. Udakaṃ hi nayanti nettikā,
usukārā namayanti tejanaṃ;
Dāruṃ namayanti tacchakā,
attānaṃ damayanti subbatā. (10:17)
145. Irrigators govern waters,
fletchers fashion shafts,
as joiners shape their timber
those of good conduct tame themselves.
DỨT PHẨM ĐAO TRƯỢNG
DỨT QUYỂN II