5.3. PHẨM BÌNH BÁT

  1. Điều Học Về Bình Bát
  2. Điều Học Về Chưa Đủ Năm Miếng Vá
  3. Điều Học Về Dược Phẩm
  4. Điều Học Về Vải Choàng Tắm Mưa
  5. Điều Học Về Việc Giật Lại Y
  6. Điều Học Về Yêu Cầu Chỉ Sợi
  7. Điều Học Quan Trọng Về Thợ Dệt
  8. Điều Học Về Y Đặc Biệt
  9. Điều Học Về (Chỗ Ngụ) Nguy Hiểm
  10. Điều Học Về ‘Đã Được Thuyết Phục’

5.3.1. ĐIỀU HỌC VỀ BÌNH BÁT

  • Chuyện tích trữ bình bát của các vị nhóm Lục Sư
  • Sự quy định căn bản
  • Chuyện bình bát phụ trội của Ānanda
  • Sự quy định lần hai
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ nhiều bình bát. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại tích trữ nhiều bình bát? Các Sa-môn Thích tử sẽ làm việc buôn bán bình bát hay sẽ lập nên gian hàng gốm sứ?” Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại cất giữ bình bát phụ trội?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi cất giữ bình bát phụ trội, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại cất giữ bình bát phụ trội vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào cất giữ bình bát phụ trội thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

[Sự quy định căn bản]

2. Vào lúc bấy giờ, có bình bát phụ trội được phát sanh đến đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda có ý định dâng bình bát ấy đến đại đức Sāriputta. Và đại đức Sāriputta ngụ tại Sāketa. Khi ấy, đại đức Ānanda đã khởi ý điều nảy: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được cất giữ bình bát phụ trội,’ và bình bát phụ trội này đã được phát sanh đến ta. Và ta có ý định dâng bình bát này đến đại đức Sāriputta mà đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

3. - “Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta sẽ đi đến đây?” - “Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.” Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép cất giữ bình bát phụ trội tối đa mười ngày. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Bình bát phụ trội nên được cất giữ tối đa mười ngày. Vượt quá hạn ấy thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

[Sự quy định lần hai]

4. Tối đa mười ngày: là nên được cất giữ (hoặc sử dụng) nhiều nhất mười ngày.

Bình bát phụ trội nghĩa là chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.

Bình bát nghĩa là có hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất. Bình bát có ba dạng: bình bát cỡ lớn, bình bát cỡ vừa, bình bát cỡ nhỏ. Bình bát cỡ lớn nghĩa là chứa được một nửa āḷhaka cơm,[4] một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ vừa nghĩa là chứa được một nāḷika cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ nhỏ nghĩa là chứa được một pattha[5] cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Lớn hơn các cỡ ấy không phải là bình bát, nhỏ hơn không phải là bình bát.

Vượt quá hạn ấy thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ:[Đến lúc hừng đông ngày thứ mười một thì phạm vào nissaggiya] (bình bát ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, bình bát này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ bình bát này đến hội chúng. Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực và bình bát đã xả bỏ nên được cho lại.

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại bình bát này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”

Vị tỳ khưu ấy nên đi đến nhiều vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Thưa các ngài, bình bát này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đại đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực và bình bát đã xả bỏ nên được cho lại.

“Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến chư đại đức. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, chư đại đức nên cho lại bình bát này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”

5. Vị tỳ khưu ấy nên đi đến một vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Thưa đại đức, bình bát này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ bình bát này đến đại đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ấy và bình bát đã xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại đại đức bình bát này.”

6. Khi quá hạn mười ngày, nhận biết là đã quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị bể, (lầm) tưởng là đã bị bể, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya. Bình bát phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn mười ngày, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.

7. Trong thời hạn mười ngày, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (bình bát) bị mất trộm, (bình bát) bị hư hỏng, (bình bát) bị bể, (những người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy đi do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

8. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư không cho lại bình bát đã được xả bỏ. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên không cho lại bình bát đã được xả bỏ; vị nào không cho lại thì phạm tội dukkaṭa.”

Dứt điều học về bình bát.

--ooOoo--

5.3.2. ĐIỀU HỌC VỀ CHƯA ĐỦ NĂM MIẾNG VÁ

  • Chuyện yêu cầu bình bát của các vị nhóm Lục Sư
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sakya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, có người thợ làm đồ gốm nọ đã thỉnh cầu các tỳ khưu rằng : - “Các ngài đại đức nào có nhu cầu về bình bát, tôi sẽ dâng bình bát.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát. Những vị có các bình bát nhỏ thì yêu cầu các bình bát lớn. Những vị có các bình bát lớn thì yêu cầu các bình bát nhỏ. Khi ấy, trong lúc làm nhiều bình bát cho các tỳ khưu, người thợ làm đồ gốm ấy không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử này lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát? Người này trong lúc làm nhiều bình bát cho các vị này không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở.” Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát?”

2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên yêu cầu bình bát, vị nào yêu cầu thì phạm tội dukkaṭa.”

3. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có bình bát bị bể. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đã cấm đoán yêu cầu bình bát,’ trong lúc ngần ngại không yêu cầu rồi đi khất thực bằng hai bàn tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đi khất thực bằng hai bàn tay giống như là các ngoại đạo vậy?” Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép vị có bình bát bị hư hỏng hoặc bình bát bị bể được yêu cầu về bình bát.”

4. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Phật đã cho phép vị có bình bát bị hư hỏng hoặc bình bát bị bể được yêu cầu về bình bát,” các vị ấy với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, chỉ với chút ít bị trầy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát. Khi ấy, trong lúc làm nhiều bình bát cho các tỳ khưu, người thợ làm đồ gốm ấy giống như trước đây không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở. Tương tợ y như thế, dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát? Người này trong lúc làm nhiều bình bát cho các vị này không thể làm hàng khác để bán nên không nuôi nổi bản thân, ngay cả vợ con của người này cũng phải chịu khổ sở.”

5. Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, chỉ với chút ít bị trầy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, bị nứt chỉ chút ít, chỉ với chút ít bị trầy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi với (bình bát) bị bể chỉ chút ít, bị lủng chỉ chút ít, bị nứt chỉ chút ít, chỉ với chút ít bị trầy lại không biết chừng mực và yêu cầu nhiều bình bát vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào với bình bát chưa đủ năm miếng vá mà kiếm thêm bình bát mới khác thì (bình bát mới ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya. Vị tỳ khưu ấy nên xả bỏ bình bát ấy đến tập thể các tỳ khưu. Và cái nào là bình bát cuối cùng của tập thể các tỳ khưu ấy, cái ấy nên trao đến vị tỳ khưu ấy: ‘Này tỳ khưu, đây là bình bát của ngươi, nên giữ lấy cho đến khi bể.’ Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.”

6. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Chưa đủ năm miếng vá nghĩa là bình bát không có miếng vá, hoặc một miếng vá, hoặc hai miếng vá, hoặc ba miếng vá, hoặc bốn miếng vá. Bình bát không chỗ đắp vá nghĩa là bình bát không có lỗ thủng rộng hai ngón tay.[6] Bình bát có chỗ đắp vá nghĩa là bình bát có lỗ thủng rộng hai ngón tay.

Bình bát mới nghĩa là liên quan việc yêu cầu được đề cập đến.

Kiếm thêm: vị yêu cầu, trong khi tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (bình bát ấy) cần được xả bỏ ở giữa hội chúng. Tất cả các tỳ khưu nên mang theo bình bát đã chú nguyện và tụ hội lại. Không nên chú nguyện bình bát kém cỏi (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy bình bát cao giá.” Nếu vị chú nguyện bình bát kém cỏi (nghĩ rằng): “Ta sẽ lấy bình bát cao giá” thì phạm tội dukkaṭa.

Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, bình bát này của tôi đã được kiếm thêm khi bình bát chưa đủ năm miếng vá, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ bình bát này đến hội chúng. Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực.

Nên chỉ định vị chuyển đổi bình bát là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, là vị biết vật đã được lấy hay chưa được lấy. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chuyển đổi bình bát. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chuyển đổi bình bát. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị chuyển đổi bình bát xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị chuyển đổi bình bát. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Bình bát nên được chuyển đổi bởi vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy. Nên nói với vị trưởng lão rằng: “Thưa ngài, xin trưởng lão nhận lấy bình bát.” Nếu vị trưởng lão nhận lấy, bình bát của vị trưởng lão nên được chuyển đổi đến vị thứ nhì. Và không nên vì lòng thương hại vị ấy mà không nhận lấy, vị nào không nhận lấy[7] thì phạm tội dukkaṭa. Vị không có bình bát không được chuyển đổi. Nên được chuyển đổi cho đến vị mới tu của hội chúng theo đúng phương thức ấy. Và cái nào là bình bát cuối cùng của tập thể các tỳ khưu ấy, cái ấy nên trao đến vị tỳ khưu ấy: “Này tỳ khưu, đây là bình bát của ngươi, nên giữ lấy cho đến khi bể.” Vị tỳ khưu ấy không nên để xuống bình bát ấy không đúng chỗ, không nên sử dụng sái với cách thức dùng,[8] không nên phân phát đi (nghĩ rằng): “Làm thế nào bình bát này bị trộm, hoặc bị hư hỏng, hoặc bị bể?” Nếu để xuống không đúng chỗ, hoặc sử dụng sái với cách thức dùng, hoặc phân phát thì phạm tội dukkaṭa.

Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy: Đây là điều hợp lý trong trường hợp ấy.

7. Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

8. Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

9. Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

10. Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

11. Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

12. Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá. Với bình bát không miếng vá, vị kiếm thêm bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

13. Với bình bát một miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

14. Với bình bát hai miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

15. Với bình bát ba miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

16. Với bình bát bốn miếng vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

17. Với bình bát không chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá ... Với bình bát một chỗ đắp vá, ... Với bình bát hai chỗ đắp vá, ... Với bình bát ba chỗ đắp vá, ... Với bình bát bốn chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không miếng vá ... bình bát một miếng vá ... bình bát hai miếng vá ... bình bát ba miếng vá ... bình bát bốn miếng vá ... Với bình bát không chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

18. Với bình bát một chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

19. Với bình bát hai chỗ đắp vá, ... Với bình bát ba chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

20. Với bình bát bốn chỗ đắp vá, vị kiếm thêm bình bát không chỗ đắp vá ... bình bát một chỗ đắp vá ... bình bát hai chỗ đắp vá ... bình bát ba chỗ đắp vá ... bình bát bốn chỗ đắp vá thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

21. Vị có bình bát bị hư hỏng, vị có bình bát bị bể, đối với các thân quyến, đối với những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về chưa đủ năm miếng vá.

--ooOoo--

5.3.3. ĐIỀU HỌC VỀ DƯỢC PHẨM

  • Pilindivacchavatthu - Chuyện về vị Pilindivaccha
  • Sikkhāpadapaññatti - Sự quy định điều học
  • Padabhājanīyaṃ - Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindivaccha ở thành Rājagaha có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindivaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindivaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindivaccha điều này: - “Thưa ngài, ngài trưởng lão cho làm cái gì vậy?” - “Tâu đại vương, tôi có ý muốn làm chỗ trú ngụ nên cho người dọn sạch sẽ hang núi.” - “Thưa ngài, ngài có nhu cầu về người giúp việc tu viện không?” - “Tâu đại vương, đức Thế Tôn chưa có cho phép về người giúp việc tu viện.” - “Thưa ngài, như thế thì ngài hãy hỏi đức Thế Tôn rồi báo cho trẫm biết.” - “Tâu đại vương, xin vâng.” Đại đức Pilindivaccha đã đáp lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.” Khi ấy, đại đức Pilindivaccha đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Pilindivaccha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đại đức Pilindivaccha, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

2. Sau đó, đại đức Pilindivaccha đã phái sứ giả đi đến gặp đức Thế Tôn (thưa rằng): - “Bạch ngài, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha có ý muốn ban cho người giúp việc tu viện. Bạch ngài, vậy nên thực hành như thế nào?” Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại, đã nói Pháp thoại, rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép người giúp việc tu viện.” Đến lần thứ nhì, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindivaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindivaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đại đức Pilindivaccha điều này: - “Thưa ngài, người giúp việc tu viện có được đức Thế Tôn cho phép không?” - “Tâu đại vương, đã được rồi.” - “Thưa ngài, như vậy thì trẫm ban cho ngài đại đức người giúp việc tu viện.” Rồi sau khi hứa với đại đức Pilindivaccha về người giúp việc tu viện, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã không ghi nhớ. Sau một thời gian dài, đức vua khi phục hồi lại ký ức đã bảo viên quan đại thần nọ là vị tổng quản rằng: - “Này khanh, người giúp việc tu viện đã được trẫm hứa với ngài đại đức, người giúp việc tu viện ấy đã được ban cho chưa?” - “Tâu bệ hạ, người giúp việc tu viện chưa được ban đến ngài đại đức.” - “Này khanh, tính đến đêm nay là đã bao lâu rồi vậy?” Khi ấy, viên quan đại thần ấy sau khi tính đếm số lượng đêm rồi đã tâu với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này: - “Tâu bệ hạ, năm trăm đêm.” - “Này khanh, như vậy thì hãy ban cho ngài đại đức năm trăm người giúp việc tu viện.” - “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Rồi vị quan đại thần đã vâng lệnh đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha dâng đến đại đức Pilindivaccha năm trăm người giúp việc tu viện. Một ngôi làng riêng biệt đã được thiết lập. Họ đã gọi nơi ấy là “Ngôi làng của những người giúp việc tu viện.” Họ đã gọi nơi làng ấy là “Ngôi làng Pilinda.”

3. Vào lúc bấy giờ, đại đức Pilindivaccha là vị thường hay lui tới ngôi làng ấy. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Pilindivaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilinda để khất thực. Vào lúc bấy giờ, trong ngôi làng ấy có lễ hội. Những đứa trẻ được trang điểm, đeo vòng hoa, và đùa giỡn.

4. Khi ấy, đại đức Pilindivaccha trong lúc đi khất thực theo từng nhà ở làng Pilinda đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện nọ, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Vào lúc bấy giờ, cô bé gái con của người đàn bà giúp việc tu viện ấy nhìn thấy những đứa trẻ khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc: - “Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.” Khi ấy, đại đức Pilindivaccha đã nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này: - “Vì sao bé gái này khóc vậy?” - “Thưa ngài, bé gái này nhìn thấy những đứa trẻ khác được trang điểm, đeo vòng hoa, nên đã oà khóc: ‘Cho con vòng hoa, cho con đồ trang sức.’ Chúng tôi lâm cảnh khó khăn, lấy đâu ra vòng hoa, lấy đâu ra đồ trang sức?” Khi ấy, đại đức Pilindivaccha đã cầm lấy vòng cỏ nọ rồi nói với người đàn bà giúp việc tu viện ấy điều này: - “Vậy thì hãy đội vòng cỏ này lên đầu của bé gái ấy đi.” Khi ấy, người đàn bà giúp việc tu viện ấy đã cầm lấy vòng cỏ ấy rồi đội lên đầu của đứa bé gái ấy. Vòng cỏ ấy đã trở thành vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; trong nội cung của đức vua cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Dân chúng đã trình báo lên đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha rằng: - “Tâu bệ hạ, trong nhà của người giúp việc tu viện kia có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; trong nội cung của đức vua cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.” Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ra lệnh bắt giữ gia đình của người giúp việc tu viện ấy.

5. Đến lần thứ nhì vào buổi sáng, đại đức Pilindivaccha đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào ngôi làng Pilinda để khất thực. Trong khi đi khất thực tuần tự từng nhà ở ngôi làng Pilinda, đại đức Pilindivaccha đã đi đến căn nhà của người giúp việc tu viện ấy, sau khi đến đã hỏi những người hàng xóm rằng: - “Gia đình của người giúp việc tu viện này đã đi đâu?” - “Thưa ngài, họ đã bị đức vua ra lệnh bắt giữ vì nguyên nhân vòng hoa bằng vàng ấy.”

6. Khi ấy, đại đức Pilindivaccha đã đi đến ngự viện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã đi đến gặp đại đức Pilindivaccha, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Pilindivaccha rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Pilindivaccha đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đang ngồi một bên điều này: - “Tâu đại vương, vì sao gia đình của người giúp việc tu viện lại bị ra lệnh bắt giữ?” - “Thưa ngài, trong nhà của người giúp việc tu viện ấy có vòng hoa bằng vàng đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng; trong nội cung của trẫm cũng không có được vòng hoa bằng vàng như thế ấy. Đối với kẻ lâm cảnh khó khăn ấy thì lấy đâu ra? Chắc chắn là có được do trộm cắp.” Khi ấy, đại đức Pilindivaccha đã chú nguyện rằng: “Cung điện của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha là vàng;” cung điện ấy đã trở thành hoàn toàn làm bằng vàng. - “Tâu đại vương, do đâu đại vương lại có nhiều vàng đến thế này?” - “Thưa ngài, trẫm đã hiểu rồi. Việc ấy là năng lực thần thông của chính ngài đại đức.” Rồi đức vua đã ra lệnh thả gia đình người giúp việc tu viện ấy.

7. Dân chúng (đồn rằng): “Nghe nói ngài đại đức Pilindivaccha đã phô bày điều kỳ diệu của thần thông là pháp thượng nhân trước triều thần có cả đức vua nữa!” nên đã hoan hỷ, có niềm tin cao độ, rồi đã đem đến dâng đại đức Pilindivaccha năm loại dược phẩm như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía. Và theo lẽ tự nhiên, đại đức Pilindivaccha trở thành vị thọ lãnh năm loại dược phẩm và phân phát cho hội chúng mỗi khi được thọ lãnh. Và hội chúng của vị ấy trở nên dư dã. Rồi tiếp tục được thọ lãnh, các vị chứa đầy các hũ và các chum rồi để riêng ra; các vị chứa đầy các túi lọc nước và các túi xách rồi treo lên ở các cửa sổ. Các loại dược phẩm ấy đã bị rỉ xuống chảy ra và vẫn ở nguyên chỗ. Các trú xá đã có chuột xuất hiện rải rác rồi tràn ngập. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này là những người tích trữ đồ đạc trong nhà giống như là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha vậy!” Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu lại chấp nhận sự thặng dư như thế này?”

8. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu chấp nhận sự thặng dư như thế ấy, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại chấp nhận sự thặng dư như thế ấy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Các loại dược phẩm nào được dùng cho các tỳ khưu bị bệnh như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía. Các thứ ấy sau khi thọ lãnh nên được thọ dụng với sự cất giữ tối đa là bảy ngày. Vượt quá hạn ấy thì nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

9. Các loại dược phẩm nào được dùng cho các tỳ khưu bị bệnh: Bơ lỏng nghĩa là bơ lỏng từ loài bò, hoặc là bơ lỏng từ loài dê, hoặc là bơ lỏng từ loài trâu, hoặc là bơ lỏng của các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng).[9]

Bơ đặc nghĩa là bơ đặc của chính các loài thú ấy.

Dầu ăn nghĩa là dầu mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa mật ong, dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú.

Mật ong nghĩa là mật của loài ong.

Đường mía nghĩa là được sản xuất từ cây mía.

Các thứ ấy sau khi thọ lãnh nên được thọ dụng với sự cất giữ tối đa là bảy ngày: nên được thọ dụng nhiều nhất là bảy ngày.

Vượt quá hạn ấy thì nên được xả bỏ: Đến lúc hừng đông vào ngày thứ tám thì phạm vào nissaggiya, (dược phẩm ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, dược phẩm này của tôi đã vượt quá hạn bảy ngày, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

10. Khi quá hạn bảy ngày, nhận biết là đã quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn bảy ngày, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn bảy ngày, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa quyết định, (lầm) tưởng là đã quyết định, phạm tội nissaggiya pācittiya.

11. Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya.

12. Sau khi nhận lại vật đã xả bỏ, không nên sử dụng bằng cách dùng ở trên cơ thể, không nên nuốt vào. Nên sử dụng cho đèn hoặc sơn màu đen. Vị tỳ khưu khác có thể sử dụng bằng cách dùng ở trên cơ thể, (nhưng) không nên nuốt vào.

13. Khi chưa quá hạn bảy ngày, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn bảy ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn bảy ngày, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.

14. Trong thời hạn bảy ngày; vị quyết định;[10] vị phân phát; (dược phẩm) bị mất trộm; (dược phẩm) bị hư hỏng; (dược phẩm) bị cháy; (những người khác) cướp rồi lấy đi; (các vị khác) lấy đi do sự thân thiết; vị không mong mỏi với vật đã được hy sinh, đã được từ bỏ, đã được dứt bỏ đến người chưa tu lên bậc trên, sau khi cho rồi được lại và thọ dụng; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về dược phẩm.

--ooOoo--

5.3.4. ĐIỀU HỌC VỀ VẢI CHOÀNG TẮM MƯA

  • Chuyện tìm kiếm vải choàng tắm mưa của các vị nhóm Lục Sư
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm mưa đã được đức Thế Tôn cho phép” nên đã tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các vị) lõa thể và để mưa làm ướt thân hình. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các vị) lõa thể và để mưa làm ướt thân hình?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các ngươi) lõa thể và để mưa làm ướt thân hình, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tìm kiếm y choàng tắm mưa trước thời hạn, sau khi làm trước thời hạn rồi mặc vào, đến khi vải choàng tắm mưa đã cũ thì (các ngươi) lại lõa thể và để mưa làm ướt thân hình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“(Biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là một tháng’ vị tỳ khưu nên tìm kiếm y choàng tắm mưa. (Biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là nửa tháng’ vị làm xong thì nên mặc. Nếu (biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là hơn một tháng’ rồi tìm kiếm y choàng tắm mưa, (nếu biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng’ sau khi làm xong rồi mặc vào thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

2. (Biết rằng): “Mùa nóng còn lại là một tháng” vị tỳ khưu nên tìm kiếm y choàng tắm mưa: Nên đi đến gặp những người nào trước đây dâng y choàng tắm mưa và nên nói như vầy: “Là thời điểm của vải choàng tắm mưa, là lúc của vải choàng tắm mưa, những người khác cũng dâng y choàng tắm mưa.” Không nên nói rằng: “Hãy dâng y choàng tắm mưa cho tôi, hãy mang lại y choàng tắm mưa cho tôi, hãy sắm y choàng tắm mưa cho tôi, hãy mua y choàng tắm mưa cho tôi.”

(Biết rằng): “Mùa nóng còn lại là nửa tháng” vị làm xong thì nên mặc: Khi mùa nóng còn lại là nửa tháng, sau khi làm xong thì nên mặc.

Nếu (biết rằng): “Mùa nóng còn lại là hơn một tháng”: Khi mùa nóng còn lại là trội hơn một tháng, vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm vào nissaggiya.

(Nếu biết rằng): “Mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng”: Khi mùa nóng còn lại là trội hơn nửa tháng, vị làm xong và mặc vào thì phạm vào nissaggiya. (Y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y choàng tắm mưa này của tôi đã được tìm kiếm khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, sau khi làm xong đã được mặc khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

3. Khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, nhận biết là còn hơn (một tháng), vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, có sự hoài nghi, vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi mùa nóng còn lại là hơn một tháng, (lầm) tưởng là ít hơn (một tháng), vị tìm kiếm y choàng tắm mưa thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

4. Khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, nhận biết là còn hơn (nửa tháng), vị làm xong rồi mặc vào thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, có sự hoài nghi, vị làm xong rồi mặc vào thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi mùa nóng còn lại là hơn nửa tháng, (lầm) tưởng là ít hơn (nửa tháng), vị làm xong rồi mặc vào thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

5. Nếu có y choàng tắm mưa mà lõa thể và để mưa làm ướt thân hình thì phạm tội dukkaṭa. Khi mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng, (lầm) tưởng là nhiều hơn (một tháng), phạm tội dukkaṭa. Khi mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng, nhận biết là ít hơn (một tháng) thì vô tội.

6. Khi mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng, (lầm) tưởng là nhiều hơn (nửa tháng), phạm tội dukkaṭa. Khi mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng, nhận biết là ít hơn (nửa tháng) thì vô tội.

7. Vị tìm kiếm y choàng tắm mưa khi (biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là một tháng;’ vị làm xong và mặc vào khi (biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là nửa tháng;’ vị tìm kiếm y choàng tắm mưa khi (biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là ít hơn một tháng;’ vị làm xong và mặc vào khi (biết rằng): ‘Mùa nóng còn lại là ít hơn nửa tháng;’ khi y choàng tắm mưa đã được tìm kiếm thì mùa mưa bị trễ, khi y choàng tắm mưa đã được mặc vào thì mùa mưa bị trễ, nên giặt rồi cất lại và nên mặc lúc đúng thời; vị có y bị cướp đoạt; vị có y bị mất trộm; khi có sự cố;[11] vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về vải choảng tắm mưa.

--ooOoo--

5.3.5. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC GIẬT LẠI Y

  • Chuyện về việc giật lại y của Upananda
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sakya nói với vị tỳ khưu là đệ tử của người anh điều này: - “Này đại đức, hãy đến. Chúng ta sẽ ra đi du hành trong xứ sở.” - “Thưa ngài, tôi sẽ không đi. Y của tôi thì mảnh mai.” - “Này đại đức, hãy đến. Ta sẽ cho ngươi y,” rồi đã cho y đến vị ấy. Vị tỳ khưu ấy đã nghe được rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn sẽ ra đi du hành trong xứ sở.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Giờ đây ta sẽ không ra đi du hành trong xứ sở với đại đức Upananda con trai dòng Sakya nữa, ta sẽ ra đi du hành trong xứ sở với đức Thế Tôn.” Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sakya đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, hãy đến. Giờ đây, chúng ta sẽ ra đi du hành trong xứ sở.” - “Thưa ngài, tôi sẽ không ra đi du hành trong xứ sở với ngài. Tôi sẽ ra đi du hành trong xứ sở với đức Thế Tôn.” - “Này đại đức, y mà ta đã cho ngươi là sẽ ra đi du hành trong xứ sở với ta.” Rồi nổi giận, bất bình, đã giật lại y.

2. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sakya sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình rồi giật lại?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình rồi giật lại, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình rồi giật lại vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào sau khi tự mình cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất bình, rồi giật lại, hoặc bảo giật lại thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Đến vị tỳ khưu: là đến vị tỳ khưu khác.

Tự mình: sau khi đích thân cho.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

Nổi giận, bất bình: không được hài lòng, có tâm bực bội, nảy sanh lòng cay cú.

Giật lại: tự mình giật lại thì phạm vào nissaggiya.

Bảo giật lại: ra lệnh người khác thì phạm tội dukkaṭa. Được ra lệnh một lần, (vị nghe lệnh) dầu giật lại nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) nissaggiya. (Y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi sau khi tự mình cho đến vị tỳ khưu rồi đã giật lại, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

4. Người đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, sau khi tự mình cho y lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Người đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Người đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, sau khi tự mình cho y lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

5. Sau khi cho vật dụng khác lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa. Sau khi cho y hoặc vật dụng khác đến người chưa tu lên bậc trên lại nổi giận, bất bình rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

6. Vị kia cho lại, hoặc lấy trong khi thân thiết với vị kia, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về việc giật lại y.

--ooOoo--

5.3.6. ĐIỀU HỌC VỀ YÊU CẦU CHỈ SỢI

  • Chuyện yêu cầu chỉ sợi của các vị nhóm Lục Sư
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong thời hạn làm y đã yêu cầu nhiều chỉ sợi. Thậm chí khi y đã làm xong vẫn còn lại nhiều chỉ sợi. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã khởi ý điều này: “Này các đại đức, chúng ta hãy yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y. Thậm chí khi y đã được dệt xong, vẫn còn lại nhiều chỉ sợi. Đến lần thứ nhì, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y. Thậm chí khi y đã được dệt xong, vẫn còn lại nhiều chỉ sợi. Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã yêu cầu thêm chỉ sợi khác nữa rồi bảo các thợ dệt dệt thành y. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y?”

2. Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Tự mình: sau khi đích thân yêu cầu.

Chỉ sợi nghĩa là sáu loại chỉ sợi: loại bằng sợi lanh, loại bằng bông vải, loại bằng tơ lụa, loại bằng sợi len, loại bằng gai thô, loại bằng chỉ bố.

(Bởi) các thợ dệt: vị bảo các người làm công việc dệt vải (ra công) dệt, trong lúc thực hiện, (vị ấy) phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đã được tự mình yêu cầu chỉ sợi rồi đã bảo các thợ dệt dệt thành, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

4. Khi đã bảo dệt, nhận biết là đã bảo dệt, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi đã bảo dệt, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi đã bảo dệt, (lầm) tưởng là chưa bảo dệt, phạm tội nissaggiya pācittiya.

5. Khi chưa bảo dệt, (lầm) tưởng là đã bảo dệt, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bảo dệt, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bảo dệt, nhận biết là chưa bảo dệt thì vô tội.

6. (Yêu cầu chỉ sợi) để may y, trong trường hợp mạng vá, trường hợp dây thắt lưng, dây buộc ở vai, túi mang bình bát, đồ lược nước, của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về yêu cầu chỉ sợi.

--ooOoo--

5.3.7. ĐIỀU HỌC QUAN TRỌNG VỀ THỢ DỆT

  • Chuyện đưa ra sự căn dặn về chỉ sợi đối với thợ dệt của Upananda
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người đàn ông nọ sắp sửa đi vắng nhà đã nói với người vợ điều này: - “Hãy cân chỉ sợi rồi giao cho người thợ dệt kia, bảo dệt y rồi cất lấy, khi nào về tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.” Trong khi người đàn ông ấy đang nói lời này, có vị tỳ khưu nọ là vị hành pháp khất thực đã nghe được. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sakya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sakya điều này: - “Này đại đức Upananda, ngài có phước báu lớn lao. Ở chỗ kia, có người đàn ông nọ sắp sửa đi vắng nhà đã nói với người vợ điều này: ‘Hãy cân chỉ sợi rồi giao cho người thợ dệt kia, bảo dệt y rồi cất lấy, khi nào về tôi sẽ dâng y đến ngài đại đức Upananda.’” - “Này đại đức, đúng vậy. Ông ấy là người hộ độ cho tôi.” Người thợ dệt ấy cũng là người hộ độ cho đại đức Upananda con trai dòng Sakya.

2. Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sakya đã đi đến gặp người thợ dệt ấy, sau khi đến đã nói với người thợ dệt ấy điều này: - “Này đạo hữu, y này được dệt dành riêng cho tôi. Hãy làm (y ấy) dài, rộng, chặt chẽ, hãy dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, khéo chải.” - “Thưa ngài, những người này đã cân chỉ sợi rồi giao cho tôi (nói rằng): ‘Hãy dệt y với số chỉ sợi này.’ Thưa ngài, không thể làm dài, hay rộng, hay chặt chẽ. Thưa ngài, có thể làm là dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, và khéo chải.” - “Này đạo hữu, ngươi hãy làm dài, rộng, và chặt chẽ. Sẽ không bị thiếu hụt về chỉ sợi cho ngươi.”

3. Sau đó, người thợ dệt ấy sau khi đưa vào máy dệt số chỉ sợi đã được mang lại rồi đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này: - “Thưa bà, có nhu cầu về chỉ sợi.” - “Này ông, không phải tôi đã nói với ông rằng: ‘Hãy dệt y với số chỉ sợi này.’” - “Thưa bà, sự thật là tôi đã được bà nói rằng: ‘Hãy dệt y với số chỉ sợi này;’ tuy nhiên, ngài đại đức Upananda đã nói với tôi như vầy: ‘Này đạo hữu, ngươi hãy làm dài, rộng, và chặt chẽ. Sẽ không bị thiếu hụt về chỉ sợi cho ngươi.’” Khi ấy, người đàn bà ấy đã cho số lượng chỉ sợi lần sau y như số lượng lần thứ nhất.

4. Rồi đại đức Upananda con trai dòng Sakya đã nghe được rằng: “Nghe nói người đàn ông ấy đi vắng nhà vừa mới trở về.” Sau đó, đại đức Upananda con trai dòng Sakya đã đi đến tư gia của người đàn ông ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người đàn ông ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sakya, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Upananda con trai dòng Sakya rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, người đàn ông ấy đã nói với người vợ điều này: - “Có phải y ấy đã được dệt?” - “Ông à, đúng vậy. Y ấy đã được dệt.” - “Hãy đem lại. Tôi sẽ dâng y cho ngài đại đức Upananda.” Sau đó, người đàn bà ấy đã đem y ấy đến đưa cho chồng và đã kể lại sự việc ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy sau khi dâng y đến đại đức Upananda con trai dòng Sakya rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này thật ham muốn quá độ, không tự biết đủ. Không dễ gì mà dâng y cho những người này! Vì sao ngài đại đức Upananda khi chưa được tôi thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các thợ dệt và đưa ra sự căn dặn về y?”

5. Các tỳ khưu đã nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sakya khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Upananda, nghe nói ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước đã đi đến gặp các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” - “Này Upananda, là thân quyến của ngươi hay không phải là thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là thân quyến.” - “Này kẻ rồ dại, người không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì đúng hay không đúng đối với người không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các thợ dệt của gia chủ không phải là thân quyến và đưa ra sự căn dặn về y? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Trường hợp có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến bảo các thợ dệt dệt thành y dành riêng cho vị tỳ khưu. Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các thợ dệt và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Này đạo hữu, y này được dệt dành riêng cho tôi. Hãy làm (y ấy) dài, rộng, chắc chắn, hãy dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, khéo chải. Có lẽ chúng tôi có thể biếu xén các ông vật gì đó.’ Và sau khi nói như vậy, nếu vị tỳ khưu ấy biếu xén vật gì dó dầu chỉ là đồ ăn khất thực thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

6. Dành riêng cho vị tỳ khưu: vì nhu cầu của vị tỳ khưu, lấy vị tỳ khưu làm đối tượng rồi có ý định dâng đến vị tỳ khưu.

Không phải là thân quyến nghĩa là người không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.

Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

Nữ gia chủ nghĩa là bất cứ người nữ nào sống trong căn nhà.

(Bởi) các thợ dệt: (bởi) các người làm công việc dệt vải.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

Bảo dệt: bảo đan lại.

Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy: vị tỳ khưu ấy là vị tỳ khưu mà y được dệt dành riêng cho.

Khi chưa được thỉnh cầu trước: Chưa được nói trước rằng: “’Thưa ngài, ngài có nhu cầu với loại y như thế nào?” “Tôi sẽ dệt cho ngài y như thế nào?”

Đi đến gặp các thợ dệt: sau khi đi đến nhà, sau khi đi đến gặp ở bất cứ nơi nào.

Đưa ra sự căn dặn về y: (Nói rằng): “Này đạo hữu, y này được dệt dành riêng cho tôi. Hãy làm (y ấy) dài, rộng, dày, hãy dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, khéo chải.”

Có lẽ chúng tôi có thể biếu xén các ông vật gì đó.” Và sau khi nói như vậy, nếu vị tỳ khưu ấy biếu xén vật gì dó dầu chỉ là đồ ăn khất thực: ― Đồ ăn khất thực nghĩa là cháo, bữa ăn, vật thực cứng, cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời, ngay cả nói Pháp.

7. (Người thợ dệt) làm (y) dài, hoặc rộng, hoặc chặt chẽ theo lời nói của vị ấy; trong khi tiến hành thì (vị ấy) phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ không phải là thân quyến và đã đưa ra sự căn dặn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

8. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, vị khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến các thợ dệt của gia chủ và đưa ra sự căn dặn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

9. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.

10. Của các thân quyến, của những người đã nói lời thỉnh cầu, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bảo dệt (y) có giá trị thấp đối với người có ý định dệt (y) có giá trị cao, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học quan trọng về thợ dệt.

--ooOoo--

5.3.8. ĐIỀU HỌC VỀ Y ĐẶC BIỆT

  • Chuyện về việc vượt quá thời hạn của y đặc biệt
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần nọ sắp sửa đi xa đã phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nhắn rằng): - “Các đại đức hãy đi đến. Tôi sẽ dâng y của mùa (an cư) mưa.” Các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Y của mùa (an cư) mưa đã được đức Thế Tôn cho phép đến các vị đã trải qua mùa (an cư) mưa” rồi trong lúc ngần ngại đã không đi đến. Khi ấy, vị quan đại thần ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các đại đức khi được tôi phái sứ giả đến mời lại không đi đến? Bởi vì tôi đi việc quân đội, việc sống khó biết, việc chết khó hay.” Các tỳ khưu đã nghe được vị quan đại thần ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép thọ lãnh y đặc biệt rồi để riêng.”

2. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Y đặc biệt đã được đức Thế Tôn cho phép thọ lãnh rồi để riêng.” Các vị ấy sau khi thọ lãnh y đặc biệt rồi đã để vượt quá thời hạn về y. Các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y. Đại đức Ānanda trong khi đi dạo quanh các trú xá đã nhìn thấy các y ấy được buộc thành đống treo ở sào máng y, sau khi nhìn thấy đã nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, các y đã được buộc thành đống treo ở sào máng y là của vị nào vậy?” - “Này đại đức, là các y đặc biệt của chúng tôi.” - “Này các đại đức, vậy các y này đã được để riêng bao lâu rồi?” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại cho đại đức Ānanda về việc (y) đã được để riêng như thế nào. Đại đức Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu sau khi thọ lãnh y đặc biệt lại để vượt quá thời hạn về y?” Sau đó, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―

3. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi thọ lãnh y đặc biệt lại để vượt quá thời hạn về y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi thọ lãnh y đặc biệt lại để vượt quá thời hạn về y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Khi còn mười ngày là đến ngày rằm Kattika của ba tháng,[12] trường hợp vị tỳ khưu có y đặc biệt phát sanh, vị tỳ khưu nghĩ rằng là (y) đặc biệt rồi nên thọ lãnh, sau khi thọ lãnh nên để riêng cho đến hết thời hạn về y. Nếu để riêng vượt quá hạn ấy thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

4. Khi còn mười ngày là đến: mười ngày là sẽ đến lễ Pavāraṇā.

Ngày rằm Kattika của ba tháng: lễ Pavāraṇā là Kattika được nói đến.

Y đặc biệt nghĩa là người có ý định đi vào quân đội, hoặc có ý định đi xa, hoặc là bị bệnh, hoặc là mang thai, hoặc là người không có niềm tin đã được sanh khởi niềm tin, hoặc là người không mộ đạo đã được sanh khởi lòng mộ đạo. Nếu người ấy phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): “Các đại đức hãy đi đến. Tôi sẽ dâng y của mùa (an cư) mưa.” Y này gọi là y đặc biệt.

Vị tỳ khưu nghĩ rằng là (y) đặc biệt rồi nên thọ lãnh, sau khi thọ lãnh nên để riêng cho đến hết thời hạn về y: Sau khi ghi nhận rằng: “Đây là y đặc biệt.” rồi nên để riêng.

Thời hạn về y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì một tháng cuối của mùa mưa. Khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng.[13]

Nếu để riêng vượt quá hạn ấy: khi Kaṭhina không được thành tựu, vị vượt qua ngày cuối cùng của mùa mưa thì phạm vào nissaggiya. Khi Kaṭhina được thành tựu, vị vượt qua ngày hết hiệu lực Kaṭhina thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y đặc biệt này của tôi đã vượt quá thời hạn về y, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

5. Y đặc biệt, nhận biết là y đặc biệt, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Y đặc biệt, có sự hoài nghi, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Y đặc biệt, (lầm) tưởng không phải là y đặc biệt, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng riêng, ... Khi chưa chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng chung, ... Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, vị để vượt quá thời hạn về y thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

6. Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Không phải là y đặc biệt, (lầm) tưởng là y đặc biệt, phạm tội dukkaṭa. Không phải là y đặc biệt, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là y đặc biệt, nhận biết không phải là y đặc biệt thì vô tội.

7. Trong thời hạn (về y), vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (những người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy đi do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về y đặc biệt.

--ooOoo--

5.3.9. ĐIỀU HỌC VỀ (CHỖ NGỤ) NGUY HIỂM

  • Chuyện về việc để lại y ở trong xóm nhà
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã trải qua mùa (an cư) mưa sống ở những chỗ trú ngụ trong các khu rừng. Bọn trộm cướp tháng Kattika (nghĩ rằng): “Các tỳ khưu đạt được lợi lộc” nên đã quấy nhiễu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép vị sống ở những chỗ trú ngụ trong các khu rừng được để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà.”

2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép vị sống ở những chỗ trú ngụ trong các khu rừng được để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà” rồi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà và xa lìa hơn sáu đêm. Các y ấy bị mất, bị hư hỏng, bị cháy, bị các con chuột gặm nhấm. Các tỳ khưu trở nên mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu. Các tỳ khưu đã nói như vầy: - “Này các đại đức, tại sao các vị lại trở nên mặc vải tàn tạ và y phục thô xấu?” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu sau khi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà lại xa lìa hơn sáu đêm?”

3. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà lại xa lìa hơn sáu đêm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà lại xa lìa hơn sáu đêm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Khi mùa (an cư) mưa đã qua ngày rằm Kattika, trường hợp có những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, và vị tỳ khưu đang sống ở các chỗ trú ngụ có hình thức như thế, khi mong mỏi có thể để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà. Nếu vị tỳ khưu ấy có lý do nào đó đưa đến việc xa lìa y ấy, vị tỳ khưu ấy nên xa lìa y ấy tối đa là sáu đêm. Nếu xa lìa vượt quá hạn ấy, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu, thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

4. Khi mùa (an cư) mưa đã qua: là mùa mưa đã đuợc trải qua.

Ngày rằm Kattika: ngày rằm Kattika của bốn tháng được đề cập đến.[14]

Những chỗ trú ngụ ở trong rừng: ― Chỗ trú ngụ ở trong rừng nghĩa là cách (căn nhà) cuối cùng khoảng cách 500 cây cung.[15]

Có sự nguy hiểm nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.

Có sự kinh hoàng nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.

Vị tỳ khưu đang sống ở các chỗ trú ngụ có hình thức như thế: là vị tỳ khưu đang sống ở các chỗ trú ngụ có hình thức như vậy.

Khi mong mỏi: khi ước muốn.

Một y nào đó của ba y: hoặc là y hai lớp, hoặc là thượng y, hoặc là y nội.

Có thể để lại ở trong xóm nhà: có thể để lại ở vùng xung quanh ngôi làng là khu vực đi khất thực.

Nếu vị tỳ khưu ấy có lý do nào đó đưa đến việc xa lìa y ấy: nếu có lý do, nếu có nguyên nhân.

Vị tỳ khưu ấy nên xa lìa y ấy tối đa là sáu đêm: nên xa lìa nhiều nhất là sáu đêm.

Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ý của các tỳ khưu

Nếu xa lìa vượt quá hạn ấy: Khi hừng đông ngày thứ bảy mọc lên thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đã bị xa lìa quá sáu đêm, giờ cần được xả bỏ, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

5. Khi quá hạn sáu đêm, nhận biết là đã quá hạn, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Khi quá hạn sáu đêm, có sự hoài nghi, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Khi quá hạn sáu đêm, (lầm) tưởng là chưa quá hạn, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Khi chưa nguyện xả, (lầm) tưởng là đã nguyện xả, ... Khi chưa phân phát, (lầm) tưởng là đã phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, vị xa lìa thì phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.

6. Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn sáu đêm, (lầm) tưởng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn sáu đêm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn sáu đêm, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.

7. Vị xa lìa sáu đêm, vị xa lìa kém sáu đêm, sau khi xa lìa sáu đêm vị ấy đi vào lại trong ranh giới của làng cư ngụ rồi ra đi, vị nguyện xả trong đêm thứ sáu, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (những người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy đi do sự thân thiết, với sự đồng ý của các tỳ khưu, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về (chỗ ngụ) nguy hiểm.

--ooOoo--

5.3.10. ĐIỀU HỌC VỀ ‘ĐÃ ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH’

  • Chuyện các vị nhóm Lục Sư thuyết phục dâng lợi lộc thuộc về hội chúng đến bản thân
  • Sự quy định điều học
  • Phân tích từ ngữ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, trong thành Sāvatthī có bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng của phường hội nọ được chuẩn bị (thông báo rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục sư đã đi đến gặp phường hội ấy, sau khi đến đã nói với phường hội ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho chúng tôi.” - “Thưa các ngài, chúng tôi sẽ không dâng, bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng hàng năm của chúng tôi đã được thông báo.” - “Này các đạo hữu, hội chúng có nhiều thí chủ, hội chúng có nhiều cơ hội. Chúng tôi sống ở đây nương nhờ vào quý vị, trông ngóng nơi quý vị. Nếu quý vị sẽ không bố thí đến chúng tôi, giờ còn ai sẽ bố thí cho chúng tôi? Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho chúng tôi.” Khi ấy, trong lúc bị các tỳ khưu nhóm Lục Sư ép buộc phường hội ấy đã dâng y được chuẩn bị như thế đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi dâng vật thực đến hội chúng. Những vị tỳ khưu nào biết được bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng đã được chuẩn bị mà không biết được là: ‘(Y) đã được dâng đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư,’ những vị ấy đã nói như vầy:

2. - “Này các đạo hữu, hãy dâng y đến hội chúng.” - “Thưa các ngài, không có y như đã chuẩn bị, các ngài đại đức nhóm Lục Sư đã thuyết phục dâng cho bản thân.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng lại thuyết phục dâng cho bản thân?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho bản thân, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng lại thuyết phục dâng cho bản thân vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho bản thân thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc những người khác nói cho vị ấy, hoặc người ấy nói.

(Dâng đến) hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.

Lợi lộc nghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh ngay cả cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.

Đã được khẳng định là dâng đến nghĩa là lời nói đã được phát ra rằng: “Chúng tôi sẽ dâng, chúng tôi sẽ làm.”

4. Vị thuyết phục dâng cho bản thân, trong khi tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, vật này của tôi đã được thuyết phục dâng cho bản thân dầu biết lợi lộc đã được khẳng định là dâng đến hội chúng, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”

5. Khi đã được khẳng định, nhận biết là đã được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho bản thân thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi đã được khẳng định, có sự hoài nghi, vị thuyết phục dâng cho bản thân thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã được khẳng định, (lầm) tưởng là chưa được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho bản thân thì vô tội. Khi đã được khẳng định là dâng đến hội chúng, vị thuyết phục dâng đến hội chúng khác hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã được khẳng định là dâng đến bảo tháp, vị thuyết phục dâng đến bảo tháp khác, hoặc hội chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã được khẳng định là dâng cho cá nhân, vị thuyết phục dâng cho cá nhân khác, hoặc hội chúng, hoặc nhóm, hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa. Khi chưa được khẳng định, (lầm) tưởng là đã được khẳng định, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa được khẳng định, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa được khẳng định, nhận biết là chưa được khẳng định thì vô tội.

6. Khi được hỏi rằng: “Chúng tôi dâng nơi nào?” vị nói rằng: “Nơi nào mà pháp bố thí của quý vị có thể đạt được sự hữu dụng, hoặc có thể được làm vật sửa chữa, hoặc có thể tồn tại lâu dài, hoặc nơi nào tâm của quý vị hoan hỷ thì hãy dâng nơi đó,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về ‘đã được khẳng định.’

Phẩm Bình Bát là thứ ba.

--ooOoo--

TÓM LƯỢC PHẦN NÀY

Hai điều về bình bát, dược phẩm, thuộc mùa mưa, việc lấy lại (y) là thứ năm. Tự mình, việc bảo dệt, (y) đặc biệt, sự nguy hiểm, và thuộc về hội chúng.

--ooOoo--

Bạch chư đại đức, ba mươi điều nissaggiya pācittiya đã được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[(Y) phụ trội, chỉ một đêm, (y) ngoài hạn kỳ, việc giặt y cũ, và việc nhận lãnh ấy nữa, việc yêu cầu, và vượt quá số y ấy, luôn cả hai điều về chưa được thỉnh cầu, và về việc nhắc nhở đến lần thứ ba.

Được trộn lẫn, luôn cả thuần (màu đen), có cân lượng, và hàng năm, tấm trải lót cũ, và việc mang đi các lông cừu, việc giặt (lông cừu), luôn cả vàng bạc, và hai việc (trao đổi với mua bán) dưới nhiều hình thức.

Bình bát phụ trội, và chưa đủ (năm) miếng vá, dược phẩm, vải choàng (tắm mưa), việc giật lại (y) vì bị nổi giận, hai điều về thợ dệt, và với y đặc biệt, với việc xa lìa sáu đêm, và sự thuyết phục dâng cho bản thân.”][16]

Dứt ba mươi điều.

DỨT BỘ PĀRĀJIKAPĀḶI.

--ooOoo--