1) Một thời Thế Tôn ở tại Vesālī, rừng Ðại Lâm, tại Trùng Các giảng đường.
2) Rồi gia chủ Ugga, người Vesālī, đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ Ugga, người Vesālī, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại không được hoàn toàn tịch tịnh (parinibbàyanti). Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh?
4-9) -- Này Gia chủ, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn... (giống như kinh 118) ... Này Gia chủ, Tỷ-kheo có chấp thủ, không được hoàn toàn tịch tịnh...
10) Này Gia chủ, đây là nhân, đây là duyên, do vậy, ở đây, một số các loài hữu tình ngay trong hiện tại không được hoàn toàn tịch tịnh.
11-16) Này Gia chủ, có những sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn... (giống như kinh 118) ... Này Gia chủ, Tỷ-kheo không có chấp thủ, được hoàn toàn tịch tịnh...
17) Này Gia chủ, đây là nhân, đây là duyên, do vậy, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh.
1) Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Vajjī tại làng Hatthi.
2) Rồi gia chủ Ugga, người làng Hatthi, đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ Ugga, người làng Hatthi, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, có một số loài hữu tình ngay trong hiện tại không được hoàn toàn tịch tịnh? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh?
4-16) (Giống như kinh trước)
17) -- Này Gia chủ, đây là nhân, đây là duyên, do vậy, ở đây, có một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh.
1) Một thời Thế Tôn ở tại Nālandā, tại rừng Pāvārikamba.
2) Rồi gia chủ Upāli đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ Upāli bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại không được hoàn toàn tịch tịnh? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh?...
4-16) (Như kinh trước)
17) -- Này Gia chủ, đây là nhân, đây là duyên, do vậy, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh.
(127) IV. Bhāradvāja (S.iv,110)
1) Một thời Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja trú ở Kosambī, tại vườn Ghositā.
2) Rồi vua Udena đi đến Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, vua Udena thưa với Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja:
-- Thưa Bhāradvāja, do nhân gì, do duyên gì, những Tỷ-kheo trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân lại không tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời, và sống toàn thời gian một cách hoàn mãn (addhānañca āpādentīti)?
4) -- Thưa Ðại vương, Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói như sau: “Hãy đến, này các Tỷ-kheo, đối với những người chỉ là mẹ, hãy an trú tâm người mẹ. Ðối với những người chỉ là chị, hãy an trú tâm người chị. Ðối với người chỉ là con gái, hãy an trú tâm người con gái. Thưa Ðại Vương, đây là nhân, đây là duyên, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân lại không tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời, và sống toàn thời gian một cách hoàn mãn.
5) -- Tham vọng (lobha), này Bhāradvāja, là tâm. Ðôi khi đối với những người chỉ là mẹ, tham pháp khởi lên. Ðối với những người chỉ là chị, tham pháp khởi lên. Ðối với những người chỉ là con gái, tham pháp khởi lên. Này Bhāradvāja, có một nhân khác, có một duyên khác, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... một cách hoàn mãn?
6) -- Thưa Ðại vương, Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói như sau: “Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên từ đảnh tóc trở xuống, bao bọc bởi da và chứa đầy bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Thưa Ðại vương, đây là nhân, đây là duyên, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một cách hoàn mãn.
7) -- Này Bhāradvāja, đối với những Tỷ-kheo nào, thân có tu tập, giới có tu tập, tâm có tu tập, tuệ có tu tập, thời như vậy thật là dễ dàng. Và này Bhāradvāja, đối với những Tỷ-kheo nào, thân không có tu tập, giới không có tu tập, tâm không có tu tập, tuệ không có tu tập thời như vậy thật là khó khăn. Ðôi khi, này Bhāradvāja, có người nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ tác ý bất tịnh”, nhưng lại đi đến tịnh (tướng). Này Bhāradvāja, có nhân nào khác, duyên nào khác, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một cách hoàn mãn?
8) -- Thưa Ðại vương, Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói như sau: “Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy sống hộ trì các căn. Sau khi mắt thấy sắc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì đó nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; hãy thực hành chế ngự nguyên nhân ấy, hãy hộ trì nhãn căn, thực hành hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý nhận thức các pháp, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì đó ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; hãy thực hành chế ngự nguyên nhân ấy, hãy hộ trì ý căn, thực hành hộ trì ý căn. Thưa Ðại vương, đây là nhân, đây là duyên, do vậy những Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một cách hoàn mãn.
9) -- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Bhāradvāja! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhāradvāja, là lời khéo nói này của Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Chính nhân này, thưa Tôn giả Bhāradvāja, chính duyên này, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân, lại không tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời, sống toàn thời gian một cách hoàn mãn.
10) Tôi cũng vậy, thưa Tôn giả Bhāradvāja, khi nào tôi vào trong nội cung với thân không phòng hộ, với lời nói không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an trú, với các căn không chế ngự; thời trong khi ấy, tham pháp chinh phục tôi. Nhưng thưa Tôn giả Bhāradvāja, trong khi tôi vào nội cung, với thân được phòng hộ, với lời nói được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm được an trú, với các căn được chế ngự; thời trong khi ấy, tham pháp không chinh phục tôi.
11) Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhāradvāja! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhāradvāja! Thưa Tôn giả Bhāradvāja, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Bhāradvāja dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay, thưa Tôn giả Bhāradvāja, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Bhāradvāja hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.
1) Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Soṇa, con người gia chủ Soṇa, đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Soṇa, con người gia chủ, bạch Thế Tôn:
-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại, không được hoàn toàn tịch tịnh? Do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh? (... Giống như kinh trước...)
-- Này Soṇa, đây là nhân, đây là duyên... do vậy, ở đây, một số loài hữu tình... ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh.
1) Một thời Tôn giả Ānanda trú ở Kosambī, tại vườn Ghosita.
2) Rồi gia chủ Ghosita đi đến Tôn giả Ānanda...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ Ghosita thưa với Tôn giả Ānanda:
-- “Sai biệt về giới, sai biệt về giới”, thưa Tôn giả Ānanda, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả, Thế Tôn nói đến sai biệt về giới?
4) -- Này Gia chủ, khi nào nhãn giới, sắc khả ý, và nhãn thức cùng khởi lên; do duyên lạc xúc khởi lên lạc thọ. Này Gia chủ, khi nào nhãn giới, sắc không khả ý, và nhãn thức cùng khởi lên; do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ. Này Gia chủ, khi nào nhãn giới sắc trú xả và nhãn thức cùng khởi lên; do duyên bất khổ bất lạc xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
5) Này Gia chủ, khi nào nhĩ giới...
6) Này Gia chủ, khi nào tỷ giới...
7) Này Gia chủ, khi nào thiệt giới...
8) Này Gia chủ, khi nào thân giới...
9) Này Gia chủ, khi nào ý giới, pháp khả ý, và ý thức cùng khởi lên; do duyên lạc xúc khởi lên lạc thọ. Này Gia chủ, khi nào ý giới... pháp không khả ý và ý thức cùng khởi lên; do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ. Này Gia chủ, khi nào ý giới, pháp giới trú xả và ý thức cùng khởi lên; do duyên bất khổ bất lạc xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
10) Cho đến như vậy, này Gia chủ, Thế Tôn đã nói đến về sai biệt các giới.
(130) VII. Hāliddakā (S.iv,115)
1) Một thời Tôn giả Mahā-Kaccāna trú giữa dân chúng Avantī, tại Kuraraghara, trong một hang núi.
2) Rồi gia chủ Hāliddakāni đi đến Tôn giả Mahā-Kaccāna...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ Hāliddakāni thưa với Tôn giả Mahā-Kaccāna:
-- Thưa Tôn giả, Thế Tôn nói như sau: “Do duyên sai biệt về giới khởi lên sai biệt về xúc. Do duyên sai biệt về xúc khởi lên sai biệt về thọ”. Như thế nào, thưa Tôn giả, do duyên sai biệt về giới khởi lên sai biệt về xúc; do duyên sai biệt về xúc khởi lên sai biệt về thọ?
4) -- Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc khả ý, nghĩ rằng: “Ðây là vậy, đây là vậy”, được biết rõ nhãn thức có lạc xúc. Do duyên lạc xúc khởi lên lạc thọ. Khi mắt thấy sắc bất khả ý, nghĩ rằng: “Ðây là vậy, đây là vậy”, được biết rõ nhãn thức có khổ xúc. Do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ. Khi mắt thấy sắc trú xả, nghĩ rằng: “Ðây là vậy, đây là vậy”, được biết rõ nhãn thức có bất khổ bất lạc xúc. Do duyên bất khổ bất lạc xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
5-9) Lại nữa, này Gia chủ, khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý biết pháp khả ý, nghĩ rằng: “Ðây là vậy, đây là vậy”, được biết rõ ý thức có lạc xúc. Do duyên lạc xúc khởi lên lạc thọ. Khi ý biết pháp bất khả ý, nghĩ rằng: “Ðây là vậy, đây là vậy”, được biết rõ ý thức có khổ xúc. Do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ. Khi ý biết pháp trú xả, nghĩ rằng: “Ðây là vậy, đây là vậy”, được biết rõ ý thức có bất khổ bất lạc xúc. Do duyên bất khổ bất lạc xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
10) Như vậy, này Gia chủ, do duyên sai biệt về giới khởi lên sai biệt về xúc. Do duyên sai biệt về xúc khởi lên sai biệt về thọ.
(131) VIII. Nakulapitā (S.iv,116)
1) Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Bhagga, tại núi Suṃsumāra, rừng Bhesakalā, vườn Lộc Uyển.
2) Rồi gia chủ Nakulapitā...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ Nakulapitā bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, có một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại không được hoàn toàn tịch tịnh? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, có một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh?
4-9) -- Này Gia chủ, có những sắc do mắt nhận thức... (như kinh 118)
10) Này Gia chủ, đây là nhân, đây là duyên, do vậy, ở đây, một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại, không được hoàn toàn tịch tịnh.
11-16) Này Gia chủ, có những sắc do mắt nhận thức...
17) Này Gia chủ, đây là nhân, đây là duyên, do vậy, ở đây, có một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại, được hoàn toàn tịch tịnh.
1) Một thời Tôn giả Mahā-Kaccāna trú ở giữa dân chúng Avantī, tại Makkarakaṭa, tại một chòi lá trong rừng.
2) Rồi một số đông đệ tử của Bà-la-môn Lohicca, là những thanh niên lượm củi, đi đến chòi lá trong rừng của Tôn giả Mahā-Kaccāna; sau khi đến, đi qua đi lại, đi vòng quanh chòi lá, cao tiếng, lớn tiếng, và làm đủ loại trò chơi nghịch ngợm: “Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, đê tiện, đen đủi, sanh từ nơi chân này, lại được các kẻ nô tì khuân vác cung kính, tôn trọng, cúng dường, lễ bái”.
3) Rồi Tôn giả Mahā-Kaccāna từ trong nhà bước ra và nói với các thanh niên ấy:
-- Này các Thanh niên, chớ có làm ồn. Ta sẽ thuyết pháp cho các Ông.
Khi nghe nói vậy, các thanh niên đều im lặng.
4) Rồi Tôn giả Mahā-Kaccāna nói lên những bài kệ với các thanh niên ấy:
1) Những bậc cổ nhân xưa,
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Các căn được hộ trì,
Ðược khéo léo chế ngự,
Họ nhiếp phục đoạn tận
Mọi tức giận phẫn nộ.
2) Họ hân hoan trong pháp,
Họ hân hoan trong Thiền,
Họ là Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Còn kẻ trốn luật này,
Chỉ lắp bắp tụng đọc,
Say mê trong giai cấp,
Họ bước đi khập khểnh.
3) Bị phẫn nộ nhiếp phục,
Dùng nhiều loại gậy gộc,
Họ rơi vào nguy hại,
Giữa kẻ tham, bậc Thánh,
Rỗng không là giới cấm,
Khi căn không chế ngự,
Như người được tài sản,
Trong cơn mộng nằm mơ.
4) Không ăn, quyết nhịn đói,
Nằm ngủ trên đất trần,
Sáng dậy, tắm sạch tội,
Tụng đọc ba Vệ-đà,
Mặc da thú thô cứng,
Bện tóc, da dính bùn,
Tụng đọc các thần chú,
Giới cấm thủ, khổ hạnh.
5) Giả dối và lừa đảo,
Sử dụng các gậy gộc,
Dùng nước để tắm rửa,
Dùng nước để súc miệng,
Ðó là những sắc tướng,
Các hàng Bà-la-môn,
Họ làm và thực hiện,
Mong hưởng những lợi nhỏ.
6) Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
5) Rồi các thanh niên ấy, tức giận và không vui, đi đến Bà-la-môn Lohicca; sau khi đến, thưa với Bà-la-môn Lohicca:
-- Mong Tôn giả biết rằng, Sa-môn Mahā-Kaccāna đang một mạch chỉ trích và mạ lị thần chú của các Bà-la-môn.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Lohicca tức giận và không vui.
6) Rồi Bà-la-môn Lohicca suy nghĩ: “Thật không thích đáng cho ta khi ta nghe một mình các thanh niên Bà-la-môn, rồi phỉ báng và công kích Sa-môn Mahā-Kaccāna. Vậy, ta hãy đi đến và hỏi vị ấy”.
7) Rồi Bà-la-môn Lohicca cùng với các thanh niên Bà-la-môn ấy đi đến Tôn giả Mahā-Kaccāna; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
8) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Lohicca nói với Tôn giả Mahā-Kaccāna:
-- Tôn giả Kaccāna, có phải có một số đông đệ tử của chúng tôi, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi đã đến đây?
-- Này Bà-la-môn, một số đông đệ tử của Ông, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi có đến tại đây.
-- Thưa Tôn giả Kaccāna, Tôn giả có nói chuyện với những thanh niên Bà-la-môn ấy không?
-- Này Bà-la-môn, tôi có nói chuyện với những thanh niên Bà-la-môn ấy.
-- Như thế nào là câu chuyện giữa Tôn giả Kaccāna với những thanh niên Bà-la-môn ấy?
-- Này Bà-la-môn, như thế nầy là câu chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy:
1) Những bậc cổ nhân xưa
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn
Ghi nhớ các cổ luật.
2-5) ...
6) Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
Như vậy, này Bà-la-môn, là cuộc nói chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy.
9) -- Tôn giả Kaccāna có nói đến hộ trì các căn. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Kaccāna, là hộ trì các căn?
10) -- Ở đây, này Bà-la-môn, có người sau khi mắt thấy sắc, có tâm hướng đến các sắc khả ái, có tâm ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác, bất thiện pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt không có dư tàn.
11-14) ... sau khi tai nghe tiếng... sau khi mũi ngửi hương... sau khi lưỡi nếm vị... sau khi thân cảm xúc...
15) ... sau khi ý biết các pháp, tâm hướng đến các pháp khả ái, tâm ghét bỏ các pháp không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác, bất thiện pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt không có dư tàn.
16) Như vậy, này Bà-la-môn, là các căn không có hộ trì.
17) -- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Kaccāna, thật là hy hữu, thưa Tôn giả Kaccāna, cách thức Tôn giả Kaccāna đã định nghĩa các căn không hộ trì. Các căn có hộ trì, các căn có hộ trì, Tôn giả Kaccāna đã nói như vậy; cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Kaccāna, là các căn có hộ trì?
18) -- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, tâm không hướng đến các sắc khả ái, tâm không ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác, bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
19-22) ... sau khi tai nghe tiếng... sau khi mũi ngửi hương... sau khi lưỡi nếm vị... sau khi thân cảm xúc...
23) ... sau khi ý nhận biết các pháp, tâm không hướng đến các pháp khả ái, tâm không ghét bỏ các pháp không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác, bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
24) Như vậy, này Bà-la-môn, là các căn được hộ trì.
25) -- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Kaccāna, thật là hy hữu, thưa Tôn giả Kaccāna, cách thức Tôn giả Kaccāna đã định nghĩa các căn được hộ trì. Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccāna! Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccāna! Thưa Tôn giả Kaccāna, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho những ai có mắt được thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Kaccāna dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay, thưa Tôn giả Kaccāna, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Kaccāna hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng. Và như Tôn giả Kaccāna đi đến viếng các gia đình cư sĩ, cũng vậy, cũng vậy, mong Tôn giả Kaccāna hãy đến viếng các gia đình Lohicca. Tại đấy, các thanh niên và thanh nữ sẽ đảnh lễ Tôn giả Kaccāna, sẽ soạn chỗ ngồi, hay cúng dường nước cho Tôn giả Kaccāna, và như vậy, họ sẽ được hạnh phúc, an lạc trong một thời gian dài.
(133) X. Verahaccāni (S.iv,121)
1) Một thời Tôn giả Udāyī trú ở Kāmaṇḍāya, tại vườn xoài của Bà-la-môn Todeyya.
2) Rồi một đệ tử thanh niên của nữ Bà-la-môn, thuộc dòng họ Verahaccāni, đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến, nói với Tôn giả Udāyī những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
3) Rồi Tôn giả Udāyī với bài pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thanh niên Bà-la-môn ấy đang ngồi xuống một bên.
4) Rồi thanh niên ấy, sau khi được Tôn giả Udāyī với bài pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền đi đến nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đến, nói với nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni:
-- Mong nữ Tôn giả biết cho, Sa-môn Udāyī thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với văn, và trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.
5) -- Vậy này Thanh niên, hãy nhân danh ta, mời Sa-môn Udāyī ngày mai đến dùng cơm.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Thanh niên Bà-la-môn ấy vâng đáp nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến thưa với Tôn giả Udāyī:
-- Tôn giả Udāyī, hãy nhận đạo sư phí của chúng tôi là buổi cơm ngày mai từ nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni.
Tôn giả Udāyī im lặng nhận lời.
6) Rồi Tôn giả Udāyī, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đi đến, liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
7) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni tự tay dâng cúng, hầu hạ Tôn giả Udāyī với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.
8) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni sau khi thấy Tôn giả Udāyī đã dùng cơm xong, tay đã rút lui khỏi bát, liền mang dép, ngồi trên chỗ ngồi cao, trùm đầu, và thưa với Tôn giả Udāyī:
-- Này Sa-môn, hãy thuyết pháp.
-- Này Chị, thời gian ấy sẽ đến.
Nói xong, Tôn giả Udāyī từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
9) Lần thứ hai, thanh niên Bà-la-môn ấy đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Udāyī những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Udāyī với lời pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thanh niên Bà-la-môn đang ngồi xuống một bên.
10) Lần thứ hai, thanh niên Bà-la-môn ấy sau khi được Tôn giả Udāyī với pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đến nói với nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni:
-- Nữ Tôn giả hãy biết, Sa-môn Udāyī thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với văn và trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
11) -- Như vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, Ông nói lời tán thán Sa-môn Udāyī. Nhưng Sa-môn Udāyī khi được nói: “Này Sa-môn, hãy thuyết pháp”, sau khi trả lời: “Này Chị, thời ấy sẽ đến”, từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi về tịnh xá.
12) -- Thưa nữ Tôn giả, vì rằng nữ Tôn giả đã đi dép, ngồi trên chỗ cao, trùm đầu và nói: “Này Sa-môn, hãy thuyết pháp”, các bậc Tôn giả ấy cung kính pháp, tôn trọng pháp.
13) -- Vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, hãy nhân danh ta, ngày mai mời Sa-môn Udāyī đến dùng cơm.
-- Thưa vâng, nữ Tôn giả.
Thanh niên Bà-la-môn ấy vâng đáp nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến, nói với Tôn giả Udāyī:
-- Tôn giả Udāyī, hãy chấp nhận đạo sư phí của chúng tôi là buổi cơm ngày mai từ nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni.
Tôn giả Udāyī im lặng nhận lời.
14) Rồi Tôn giả Udāyī, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
15) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, tự tay dâng cúng, hầu hạ Tôn giả Udāyī với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.
16) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, sau khi thấy Tôn giả ăn xong, tay đã rút lui khỏi bát, liền cởi dép, ngồi trên chỗ ngồi thấp, cởi khăn trùm đầu, rồi thưa Tôn giả Udāyī:
-- Thưa Tôn giả, do cái gì hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày về lạc khổ? Do cái gì không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ?
17) -- Này Chị, do mắt hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do mắt không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ... Do ý hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do ý không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ.
18) Khi được nói vậy, nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni thưa với Tôn giả Udāyī:
-- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thưa Tôn giả, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Udāyī dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Và nay, thưa Tôn giả Udāyī, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Tôn giả Udāyī nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.