Lời Giới Thiệu

Bản Thanh Tịnh Ðạo được sư cô Trí Hải dịch từ bản The Path of Purification, bản dịch Anh ngữ của Thượng Tọa Ñāṇamoli, nguyên bản Pāḷi do luận sư Buddhaghosa sáng tác vào thế kỷ thứ V Tây lịch (TL).

Là bộ sách kết tập tinh hoa trí tuệ từ kinh tạng Nikāya, Thanh Tịnh Đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt, và là hành trang chủ yếu của những ai thực hành giải thoát ở đời.

Dịch giả, sư cô Trí Hải, với nhiều kinh nghiệm dịch thuật, với nhiều năm nghiên cứu kinh tạng Nikāya, đã dịch Thanh Tịnh Ðạo rất cẩn trọng và chân xác.

Chúng tôi tin tưởng bản dịch sẽ tự giới thiệu với quý độc giả nhiều hơn những giá trị chúng tôi đề cập.

Với tư cách của người chuyển dịch kinh tạng Nikāya qua Việt ngữ, chúng tôi tán thán công đức phiên dịch của sư cô Trí Hải, và trân trọng giới thiệu bản dịch giá trị này.

Hòa Thượng Thích Minh Châu, 1991

-oo0oo-

Lời Dẫn

Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) do Luận sư Buddhaghosa trước tác vào tiền bán thế kỷ thứ V sau TL, là một bộ sách tóm tắt giáo lý nguyên thủy thuộc Pāḷi tạng, theo một hệ thống đặc biệt dưới những đề mục Bảy thanh tịnh và Ba vô lậu học. Ðây là một chỉ nam rất tốt cho hành giả trong việc thanh lọc bản thân. Sách được Đại Đức Ñāṇamoli (người Anh, tu ở Tích Lan) dịch sang Anh ngữ vào năm 1956. Bản dịch này y cứ bản Anh ngữ ấy.

Về các danh từ chuyên môn, phần lớn y cứ các bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu trong 5 bộ Nikāya, và nhất là hai tập THẮNG PHÁP TẬP YẾU (Abhidhammattha Sangaha). Nếu không nhờ các công trình đã đi trước ấy, dịch phẩm này cũng khó mà hoàn tất. Xin ghi lại đây niềm tri ân.

Bản này khi in lại lần hai đã được rút gọn và sửa sai nhiều, bỏ bớt những chỗ trùng lặp lối hành văn xưa, và thỉnh thoảng dùng một vài danh từ thời thượng cho đỡ khô khan, nhưng bảo đảm là không đi quá xa với nguyên bản. Không tin, quý vị thử so với bản Anh ngữ thì sẽ thấy.

Dịch giả kính đề.
Thích Nữ Trí Hải
Sài Gòn, 1991

-oo0oo-

Lời Tri Ân

Kính lễ thâm ân chư Phật, Bồ tát, Long thiên hộ pháp mật thùy gia hộ:

- Thâm ân sinh thành dưỡng dục
- Thâm ân chư vị tôn túc Tăng Ni, các bậc Thầy và thiện tri thức Kim Cổ Âu Á
- Công ơn các anh, chị, quyến thuộc, Phật tử trong và ngoài nước (đã giúp tài chánh)
- Công ơn các Phật tử đã trực tiếp giúp đỡ kỹ thuật thực hiện dịch phẩm.

Xin hồi hướng công đức đến pháp giới hữu tình.

Thích Nữ Trí Hải

-oo0oo-

Tiểu Sử Ngài Phật Âm
(Buddhaghosa)

Còn gọi là Phật Minh, Giác Âm, Phật Ðà Cù Sa, Người ở Phật đà già da, nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), thuộc Trung Ấn Ðộ, vào thế kỷ thứ V. Sư xuất thân trong gia đình Bà-la-môn, ban đầu học Phệ đà, tinh thông Du già, Số luận v.v..., về sau, Sư quy y Phật giáo, tinh thông các kinh điển. Vì mục đích hoằng truyền Phật pháp, rống tiếng rống của sư tử mà Sư soạn các chú thích bộ luận Phát trí (Nanodaya), luận Thù Thắng Nghĩa (Atthasālinī) và Luận Pháp Tập.

Vào năm 432 Tây lịch kỷ nguyên, Sư vượt biển sang Tích Lan (Sri Lanka), trú tại Ðại tự (Mahāvihāra), theo Trưởng lão Tăng-già-ba-la (Saṅghapāla Thera) nghiên cứu thánh điển tàng trữ tại chùa ấy, rồi đem dịch sang tiếng Pāḷi, và soạn Thanh Tịnh Ðạo luận (Visuddhimagga), Thiện Kiến Luật chú tự (Samantapāsādikā) chú giải luật tạng (Sách nầy còn có tên là Thiện Kiến Luật Tì bà sa; Thiện Kiến luận.) v.v... Ðồng thời, Sư đem giáo nghĩa của Thượng Tọa bộ ra soạn thuật thành một hệ thống hoàn chỉnh. Trong đó, có thể nói Thanh Tịnh Ðạo luận là một tác phẩm toát yếu toàn bộ Tam tạng kinh điển và Luận sớ. Về sau, Sư đem 4 bộ kinh Nikāya dịch sang tiếng Ba lợi (Pāḷi), và soạn chú sớ tại chùa Kiền Ðà la (Granthakara parivena), xứ A nỗ lạp đạt phổ lạp (Anurādhapura). Giải thích Trường Bộ kinh thì có Cát Tường Duyệt ý luận (Sumaṅgalavilāsinī); giải thích Trung Bộ kinh thì có Phá trừ nghi chướng luận (Papañcasūdanī); giải thích Tương Ưng Bộ kinh thì có Hiển Dương Tâm Nghĩa Luận (Sāratthappakāsinī); giải thích Tăng Chi Bộ kinh thì có Mãn túc hi cầu luận (Sāratthappakāsinī). Ðến khi ấy Tam Tạng Ba Lợi mới cực kỳ hoàn bị.

Những chú thích của Sư, không chỉ hạn cuộc chữ nào nghĩa nấy của bản văn, mà bao quát cả các loại giải thích về lịch sử, địa lý, thiên văn, âm nhạc, động vật, thực vật v.v..., đặc biệt, đối với phong tục tập quán của Ấn độ cổ đại, Sư còn làm thêm ký thuật liên quan đến những văn hiến trọng yếu dùng để nghiên cứu về Ấn độ. Người Tích Lan ca ngợi học vấn uyên bác của Sư và sùng kính Sư như là Bồ tát Di Lặc tái thế. Lúc cuối đời, Sư trở về cố quốc an dưỡng tuổi già. Nhưng trong lịch sử Phật giáo Miến Ðiện (Myanmar) bảo Sư là người Miến Ðiện, khoảng năm 400 từ nước Kim Ðịa (Kim địa: ngày nay nằm về hạ lưu Miến Ðiện cho đến bán đảo Mã Lai Á) vào Tích Lan du học, rồi 3 năm sau, đem kinh điển trở về phục hưng Phật giáo Miến Ðiện.

(Căn bản Phật Ðiển nghiên cứu; The Life and Work of Buddhaghosa, PQÐTÐ, tr 2643 a-c).

Thích Phước Sơn

-oo0oo-

Tiểu Sử Ngài Ñāṇamoli Thera
(Na-na-ma-lợi Trưởng lão)
(1905-1960)

Tôn Giả Ñāṇamoli sinh ngày 25-6-1905 tại Anh quốc, thế danh là Osbert Moore (Áo-tư-bá-đặc Ma-nhĩ). Thiếu thời, Tôn Giả tùng học và tốt nghiệp tại Ngưu Tân Ái Tắc Ðặc Học Viện (Oxford). Trong lúc thế chiến thứ 2 xảy ra, Tôn Giả phục vụ trong hàng ngũ lục quân Anh, và đóng quân tại Ý Ðại Lợi (Italy). Do nhân duyên dun rủi, Tôn Giả cùng người bạn là Harold Musson (Cáp-la-đức Mặc-Tốn), đọc được một cuốn sách viết về Phật giáo của người Ý là J. Evola (Nghệ-a-na); vì thế, 2 người phát tâm quy hướng Phật giáo.

Sau khi đệ nhị thế chiến kết thúc, Sư trở về nước, đến năm 1949 Sư cùng Mặc-Tốn quyết tâm sang Tích Lan (Ceylon) nghiên cứu Phật học, và may mắn được một Trưởng lão người Ðức là Nại-na-đề-lộ-biện (Ñāṇatiloka) hướng dẫn gia nhập Tăng đoàn, dưới quyền điều khiển của Ðại đức Ðại-na-nhã-biện-tì-trí-la-na-na (Nyanatiloka Maha Thera). Sang năm sau (1950), hai người thọ giới cụ túc với Ðại-na-nhã-biện nên tôn vị này làm thầy, và được pháp hiệu là Ñāṇamoli.

Ðến năm 49 tuổi (1954), ngài Na-na-ma-lợi chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ Pāḷi, Tân cáp lợi (Sinhalese) và Miến Ðiện (Burmese). Không bao lâu sau đó, Sư rất tinh thông các ngôn ngữ nầy, nhờ vậy có điều kiện nghiên cứu sâu về Phật pháp, và trở thành một học giả uyên thâm. Từ đó, Sư cộng tác với Hiệp hội Thánh điển Pāḷi (Pāḷi Text Society, PTS) để phiên dịch các kinh luận Pāḷi sau đây sang Anh văn: 1. Thanh Tịnh Ðạo Luận (Visuddhi-magga); 2. Vô Ngại Giải Ðạo (Paṭisambhidā-magga) 3. Chỉ Ðạo Luận (Nettipakarana); 4. Tạng Luận Thích (Petakopadesa). Ngoài ra, Sư còn viết về Lịch sử đức Phật và dịch kinh Trung bộ. Chừng ấy công trình phiên dịch cũng đủ chứng minh trình độ Phật học uyên thâm của Sư.

Sư sống rất giản dị, tuân thủ giới luật một cách tinh nghiêm (trong suốt 11 năm trường, Sư chỉ mặc ròng y vàng, tượng trưng cho sự thanh khiết, và cũng hiếm khi xỏ chân vào dép). Tính tình hòa nhã, trầm lặng, ít nói, và mỗi lời nói của Sư đều là lời vàng ngọc, đầy tính chất trí tuệ và truyền cảm. Sư xem việc sinh tử nhẹ như lông hồng. Thế nên, trong lúc chiến tranh, đã bao lần đối diện với cái chết, nhưng Sư đều thoát khỏi.

Sư viên tịch năm 1960. Từ lúc xuất gia cho đến lúc xả báo thân, ròng rã 11 năm trời, Sư cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp phiên dịch kinh điển, và truyền bá chánh pháp. Sư mất sớm, thật là một tổn thất lớn đối với Phật giáo.

(Tây Dương Phật giáo học giả truyện (The Western Contribution to Buddhism), William Peiris soạn bằng Anh văn, Mai Nãi Văn dịch ra Hán văn, xb. 1986, tr. 73)

Thích Phước Sơn

-oo0oo-

Tổng Luận

Bộ Thanh Tịnh Ðạo Luận (Visuddhi-magga) gồm 3 quyển, do vị cao tăng Phật Âm (Buddhaghosa) người Ấn Ðộ trước tác khoảng giữa thế kỷ thứ 5, và được đưa vào Ðại tạng kinh thuộc Nam truyền, quyển 62-64. Ðây là một bộ luận trọng yếu thuộc Nam phương Thượng Tọa bộ. Gần đây, nó được ngài Thủy Dã Hoằng Nguyên người Nhật bản dịch ra Nhật văn (1937- 1940), và ngài Diệp Quân (Liễu Tham) dịch ra Hán văn và xuất bản năm 1987. Ðồng thời, Trưởng lão Ñāṇamoli cũng đã dịch ra Anh văn và xuất bản tại Colombo Ceylon, năm 1956.

Trọn bộ luận gồm 23 chương, nhằm giải thích giáo nghĩa của Thượng Tọa bộ phái, thứ tự tổ chức và nội dung tương tự như Giải Thoát Ðạo luận (Vimutti-magga, do ngài Upatissa soạn khoảng thế kỷ thứ III), nhưng bên trong có xen những lời luận biện về kiến giải của sách ấy. Bản luận trình bày theo thứ tự Giới, Ðịnh và Tuệ. Chương 1 và 2 luận về Giới. Từ chương 3 đến 13 luận về Ðịnh, trình bày khúc chiết các phương pháp tu tập một cách có hệ thống. Chương 14 đến 23 luận về Tuệ. Trong đây, từ chương 14 đến 17 chủ yếu mô tả về 5 uẩn, Tứ đế, Bát chánh đạo, và 12 nhân duyên. Ngoài ra, còn bàn tổng quát về 3 tướng vô thường, khổ, và vô ngã. Các chương còn lại luận về các tuệ quán thanh tịnh một cách rất tinh mật. Trước và sau sách, có bài tự thuật về nhân duyên tạo luận và dùng 3 vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ như con đường đạt đến Niết Bàn làm lời kết luận.

Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Tọa Hữu bộ. Nhà Phật học Ái Ðức Hoa nhận xét: “Thanh Tịnh Ðạo Luận là một tác phẩm kinh điển vĩ đại nhất về phương diện tâm linh của nhân loại. Tính chất trọng yếu của nó có thể xem như một mô hình văn học tiêu biểu để cho các nhà học giả quốc tế dùng làm cơ sở.”

Tóm lại, bộ luận này dùng ba vô lậu học Giới-Định-Tuệ làm nhân tố để tu tập quán chiếu về tính chất vô thuờng, khổ, vô ngã của vạn pháp, hầu đạt đến kiến thanh tịnh và tâm thanh tịnh, tức Niết Bàn tịch diệt.

Thích Phước Sơn
(Trích “Thanh Tịnh Đạo Luận Toát Yếu”, Sài Gòn 1996)

-oo0oo-

Bảng Tra Chữ Tắt
(List Of Abbreviations Used)

A Aṅguttara Nikāya
AA (A-a) Aṅguttara Nikāya Aṭṭhakathā (Commentary) = Manorathapūraṇī
Cp Cariyāpitaka
Cp-a Cariyāpitaka Aṭṭhakathā
Dh (Dhp) Dhammapada
DhA (Dhp-a) Dhammapada Aṭṭhakathā (Commentary)
Dhs Dhammasaṅganī
DhsA (Dhs-a) Dhammasaṅganī Aṭṭhakathā (Commentary) = Atthasālinī
DhsAA (Dhs-ṭ) Dhammasaṅganī Tikā (Sub-commentary) = Mūla Tikā (pt. I)
Dhk (Dhātu-k) Dhātukathā
D Dīgha Nikāya
DA (D-a) Dīgha Nikāya Aṭṭhakathā (Commentary) = Sumaṅgalavilāsinī
It Itivuttaka
Jā (J-a) Jātaka (Fausboll's ed.)
Kv Kathāvatthu
Mv (Mhv) Mahāvamsa
M Majjhima Nikāya
MA (M-a) Majjhima Nikāya Aṭṭhakathā (Commentary) = Papañcasūdanī
Miln (Mil) Milinda-pañha
Netti Netti-pakarana
Nd1 (Ndd I) Mahā Niddesa
Nd2 (Ndd II) Cūla Niddesa (Siamese ed.)
ND Người Dịch
Ps (Paṭis) Paṭisambhidāmagga
PsA (Paṭis-a) Paṭisambhidāmagga Aṭṭhakathā (Commentary) = Saddhammappakāsinī (Sinhalese Hewavitarne ed.)
Ptn1 (Paṭṭh I) Paṭṭhāna, Tika Patthāna
Ptn2 (Paṭṭh II) Paṭṭhāna, Duka Patthāna (Siamese and Burmese eds.)
Pe (Peṭ) Peṭakopadesa
Pv Petavatthu
S Saṃyutta Nikāya
SA (S-a) Saṃyutta Nikāya Aṭṭhakathā (Commentary) = Sāratthappakāsinī
Sn Sutta-nipāta
SnA (Sn-a) Sutta-nipāta Aṭṭhakathā (Commentary) = Paramatthajotikā
Thag (Th) Thera-gāthā
Ud Udāna
Vbh (Vibh) Vibhaṅga
VbhA (Vibh-a) Vibhaṅga Aṭṭhakathā (Commetary) = Sammohavinodanī
VbhAA (Vibh-ṭ) Vibhaṅga Tikā (Sub-commentary) = Mūla-Tikā (pt. 2)
Vv Vimāna-vatthu
Vin I Vinaya Piṭaka (3) - Mahāvagga
Vin II Vinaya Piṭaka (4) - Cūlavagga
Vin III Vinaya Piṭaka (1) - SuttaVibhaṅga 1
Vin IV Vinaya Piṭaka (2) - SuttaVibhaṅga 2
Vin V Vinaya Piṭaka (5) - Parivāra
Vis (Vism) Visuddhimagga (P.T.S. ed. and Harvard Oriental Series ed.)
Vm (Vism-mhṭ) Visuddhimagga Aṭṭhakathā (Commentary) = Mahā Tikā (Vis. Chs. I to XVII Sinhalese Vidyodaya ed.; Chs. XVIII to XXIII Burmese ed.)

-oo0oo-

Phần Thứ Nhất: Giới

(Sīla)

---

Chương I
Giảng Nghĩa Về Giới

(Sīla-niddesa)

----

I. Dẫn Nhập

1.

“Người trú giới có trí,
Tu tập tâm và tuệ,
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ-kheo ấy thoát triền” (S I 13).

Do duyên gì bài kệ trên đây được nói? Khi đức Thế tôn ở Xá vệ, một vị trời đi đến và để dứt trừ nghi hoặc, vị ấy đã đặt câu hỏi này:

“Nội triền và ngoại triền—
Chúng sinh bị triền phược.
Con hỏi Gotama:
Ai thoát khỏi triền này?” (S I 13).

2. Ðây là ý nghĩa tóm tắt. Triền là lưới tham. Vì đó là một trói buộc theo nghĩa đan mắc vào nhau, như những cành cây chằng chịt như mạng lưới trong các khu rừng tre v.v... Tham cứ tiếp tục khởi qua lại giữa những đối tượng của tâm, từ sắc pháp đến tâm pháp và trái lại. Tham được gọi là nội triền và ngoại triền, vì nó khởi lên dưới hình thức khát ái đối với vật dụng của mình và đối với vật dụng của người, đối với tự ngã của mình và tự ngã của một người khác, đối với nội xứ và ngoại xứ. Vì tham khởi theo cách ấy, nên chúng sinh bị triền phược. Như những cây tre bị vướng mắc bởi bụi tre, thế gian này cũng vậy, nói cách khác, tất cả chúng sinh này đều bị vướng mắc vì mạng lưới chằng chịt của dục vọng. Con hỏi Gotama: và bởi vì thế gian bị trói buộc như thế, cho nên con muốn hỏi điều này. Vị trời xưng hô với đức Thế tôn bằng tộc tánh của Ngài là Gotama. Ai thoát khỏi triền này: ai có thể giải tỏa, tháo gỡ trói buộc này, cái mớ bòng bong làm cho chúng sinh trong tam giới đều bị quấn quít như thế? — Ðiều vị trời ấy hỏi là, ai có khả năng tháo gỡ triền phược?

3. Khi được hỏi như vậy, đức Thế tôn, đấng Vô ngại giải, Trời của các vị trời, vượt hơn Ðế Thích, Phạm Thiên, đấng Thành tựu bốn vô úy, đấng Mười lực, đấng Chánh biến tri, đã nói bài kệ này để trả lời:

“Người trú giới có trí,
Tu tập tâm và tuệ,
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ-kheo ấy thoát triền.”

4.

Bây giờ tôi sẽ, đưa ra ý nghĩa chân thực,
Chia làm giới v.v...
Của câu kệ do bậc Ðại Thánh nói.
Trong giáo pháp đấng Chiến thắng
Có những người tầm đạo đã từ bỏ gia đình, sống không nhà
Những người mặc dù khát khao sự thanh tịnh
Nhưng vẫn chưa có được cái chánh kiến về con đường thắng, bảo đảm—
Gồm Giới, Ðịnh và Tuệ,
Con đường khó tìm, dẫn đến thanh tịnh—
Cho những người chưa được an, dù đã cố gắng.
Tôi sẽ giảng Ðạo lộ an ổn
Về Thanh tịnh
Y cứ lời dạy của những vị cư trú
Trong ngôi Ðại tinh xá;
Những người ưa thích thanh tịnh
Hãy chú tâm nghe trình bày.

5. Ở đây, thanh tịnh nên hiểu là Niết Bàn. Niết Bàn không có các cấu uế, nên hoàn toàn thanh tịnh. Thanh tịnh đạo là con đường dẫn đến sự thanh tịnh ấy, cách đến gọi là con đường. Tôi sẽ giải thích con đường đưa đến sự thanh tịnh ấy.

6. Trong vài trường hợp, con đường dẫn đến thanh tịnh được dạy là do tuệ quán (về vô thường, khổ, vô ngã), như khi nói:

“Tất cả hành vô thường
Với tuệ quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh” (Dhp 227).

Trong vài trường hợp, được giảng do thiền-na và trí tuệ, như khi nói:

“Người có thiền có tuệ
Nhất định gần Niết Bàn” (Dhp 372).

Khi thì được giảng là do nghiệp, như khi nói:

“Nghiệp, minh và chánh pháp
Giới - tối thượng sanh mạng
Chính nhờ các pháp trên
Khiến chúng sinh thanh tịnh
Không phải do giai cấp
Không phải do tài sản” (M III 262).

Khi thì được giảng là do Giới, v.v..., như khi nói:

“Vị luôn luôn trì giới
Trí tuệ khéo định tĩnh
Chí siêng năng dõng mãnh
Vượt bộc lưu khó vượt” (S I 53).

Và có trường hợp, thanh tịnh đạo được giảng là do bốn niệm xứ v.v... như khi nói: “Nầy các Tỷ-kheo, con đường này là con đường duy nhất để thanh tịnh các hữu tình... để chứng Niết Bàn, đó là bốn Niệm xứ” (D II 290). Cũng tương tự với bốn chánh cần v.v... Nhưng để trả lời câu hỏi này, thì con đường thanh tịnh được giảng là Giới, Định và Tuệ.

7. Ðây là bình chú vắn tắt về bài kệ. Trú giới là đứng vững trên đất giới. Chỉ có người thực sự thành tựu trọn vẹn giới, mới được gọi là “trú giới”. Cho nên câu này có nghĩa: trú giới do thành tựu viên mãn giới. Người là một hữu tình. Có trí có tuệ do nghiệp sinh, nhờ một kiết sanh có ba nhân (là vô tham, vô sân và vô si). Tu tập tâm và tuệ: tu tập cả định và tuệ. Tâm ở đây chỉ Định, còn tuệ là Quán. Nhiệt tâm (ātāpin): có nghị lực. Nghị lực được gọi là tinh cần hay nhiệt tâm (ātāpa) với ý nghĩa đốt cháy những phiền não. Vì có nghị lực, nên vị ấy nhiệt tâm tinh cần.

Thận trọng: Là có tuệ giác, chỉ tuệ phòng hộ. Trong câu trả lời, tuệ được nhắc đến ba lần: lần đầu (có trí) là tuệ bẩm sinh, lần thứ hai là tuệ với nghĩa “quán”, còn lần này chỉ tuệ “phòng hộ” hướng dẫn mọi công việc.

Tỷ-kheo (bhikkhu) là kẻ thấy sự khủng khiếp (bhayam ikkhati) trong vòng luân hồi sinh tử. Thoát triền: như người đứng trên đất, dùng con dao bén có thể phát quang một bụi tre chằng chịt, cũng thế, vị Tỷ-kheo có được sáu yếu tố này là giới, định, tuệ, gồm ba thứ nói trên, và sự nhiệt tâm tinh cần - đứng trên đất giới, dùng tay tuệ (phòng hộ) nỗ lực bằng tinh cần, cầm dao tuệ (bẩm sinh) được mài sắc trên đá thiền định - có thể tháo gỡ, cắt đứt, phá hủy tất cả các dây nhợ tham dục. Chính ở giai đoạn này, thuộc Ðạo lộ, vị ấy mới được gọi là đã “thoát triền”: Ở sát-na chứng quả, vị ấy đã tháo gỡ xong sự trói buộc và xứng đáng sự cúng dường tối thượng của thế gian và chư thiên, nên Thế tôn nói:

Người trú giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ-kheo ấy thoát triền.

Ở đây, không có gì vị ấy phải làm về trí tuệ bẩm sinh nhờ đó mà vị ấy được gọi là người “có trí”, bởi vì trí tuệ này đã an trú thuần nhờ ảnh hưởng của nghiệp đời trước. Song nhiệt tâmthận trọng có nghĩa rằng, bằng nghị lực kiên trì như đã nói, và bằng hành vi đầy giác tỉnh với tuệ quán, vị ấy cần phải - khi đã an trú trong giới - tu tập, phát triển Chỉ và Quán được mô tả bằng từ ngữ Tâm và Tuệ. Ðây là cách đức Thế tôn chỉ rõ đạo lộ đưa đến thanh tịnh dưới những đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ.

9. Từ trước đến đây, những điều được nêu lên là Ba môn học, giáo lý tốt đẹp trong ba phương diện, điều kiện cần thiết để chứng ba minh v.v... Sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo, cách vượt khỏi những đọa xứ, đoạn trừ ô nhiễm dưới ba khía cạnh, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô, và lý do đạt đến những quả Dự Lưu v.v... Nêu lên như thế nào?

10. Ở đây, sự tu tập tăng thượng giới được nêu bằng Giới; tu tăng thượng tâm bằng Ðịnh; và tu tăng thượng trí tuệ bằng Tuệ.

Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn đầu được nêu bằng Giới, do đoạn kinh: “Và gì là khởi điểm của các thiện pháp? Chính là giới hoàn toàn thanh tịnh” (S V 143) và do Pháp cú 183 “Không làm mọi điều ác” (Dhp 183). Giới là khởi đầu của giáo lý. Và giới tốt đẹp, vì nó đem lại những đức đặc biệt là bất hối, v.v... Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn giữa được nêu bằng Ðịnh. Do Pháp cú 183 “Thành tựu các hạnh lành” (Dhp 183), định là chặn giữa của giáo lý.

(Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy)

Và Ðịnh tốt đẹp, vì đem lại các đức đặc biệt như thần thông v.v... Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn cuối được nêu bằng Tuệ. Do câu “Tâm ý giữ trong sạch. Chính lời chư Phật dạy” (Dhp 183) và vì tuệ là cao điểm của nền giáo lý, nên Tuệ là chặn cuối. Tuệ tốt đẹp vì đem lại đức bình thản đối với những điều khả ý và bất khả ý. Như kinh dạy:

“Như núi đá kiên cố
Không bị gió lay động
Huỷ báng hoặc tán dương
Không lay động bậc trí” (Dhp 81).

11. Cũng thế, điều kiện cần thiết để chứng ba minh được nêu bằng Giới. Vì nhờ sự hỗ trợ của Giới viên mãn mà người ta đắc ba minh. Ðiều kiện cần thiết để đắc sáu thông được nêu bằng Ðịnh, vì chính nhờ sự hỗ trợ của định viên mãn mà đạt đến sáu thông. Ðiều kiện cần thiết để đắc bốn vô ngại giải được nêu bằng Tuệ, vì chính nhờ sự hỗ trợ của tuệ viên mãn mà được bốn vô ngại giải.

[Chú thích: Ba minh: túc mạng minh, nhớ được các đời trước; thiên nhãn minh: biết sự chết và tái sinh của các hữu tình; lậu tận minh, đoạn trừ tất cả lậu hoặc (M I 22-3). Bốn vô ngại giải là nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, từ vô ngại, biện tài vô ngại (A II 160)]

Sự tránh xa cực đoan mê đắm dục lạc được nêu bằng Giới, cực đoan ép xác khổ hạnh được nêu bằng Ðịnh, và sự tu tập trung đạo được nêu bằng Tuệ.

12. Cũng vậy, Giới được nêu làm phương tiện để vượt khỏi các đọa xứ (*), Ðịnh để vượt khỏi các dục, và Tuệ để vượt tất cả hữu. Lại nữa, sự từ bỏ những ô nhiễm do thay thế những pháp ngược lại là Giới, do nhiếp phục là Ðịnh, do đoạn tận là Tuệ.

[(*) súc sanh, địa ngục, a-tu-la và ngạ quỷ]

13. Ðề phòng vi phạm những điều ô nhiễm là nhờ Giới, đề phòng các ám ảnh của ô nhiễm là nhờ Ðịnh, đề phòng các tùy miên (khuynh hướng nội tại đưa đến ô nhiễm) là nhờ Tuệ.

Sự thanh lọc những ô nhiễm do tà hạnh là nhờ Giới; thanh lọc những ô nhiễm do dục tham là nhờ Ðịnh; và thanh lọc những ô nhiễm do tà kiến là nhờ Tuệ.

14. Lý do đắc quả Dự Lưu và Nhất Lai là Giới, quả Bất Hoàn là Ðịnh và quả A-la-hán là Tuệ. Vì bậc Dự Lưu được gọi là người “thành tựu viên mãn các phẩm loại của giới”, bậc nhất lai cũng vậy, bậc bất hoàn được gọi là “viên mãn định” và A-la-hán là bậc “tuệ viên mãn”.

15. Ðến đây, chín nhóm “ba pháp” đã được nêu lên về các đức đặc biệt của giới định tuệ, đó là ba môn học, giáo lý tốt đẹp ở ba phương diện, điều kiện cần để chứng ba minh, sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo, cách vượt khỏi đọa xứ, khỏi dục và khỏi hữu, sự từ bỏ ô nhiễm ở ba bực, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô và lý do đắc các quả.

II. Giới

16. Mặc dù thanh tịnh đạo được nêu như trên, với ba đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ, mỗi thứ có những đức đặc biệt khác nhau, song sự chỉ dẫn ấy cũng còn quá vắn tắt, không đủ giúp ích mọi người, nên có loạt vấn đề sau nói về Giới trước:

(i) Giới là gì?
(ii) Giới có nghĩa là gì?
(iii) Gì là đặc tính, nhiệm vụ, tướng trạng và nhân gần của giới?
(iv) Gì là lợi ích của giới?
(v) Có mấy loại giới?
(vi) Cái gì làm giới ô nhiễm?
(vii) Cái gì làm giới thanh tịnh?

17. Ðây là giải đáp.

(i) Giới là gì? Ðó là các pháp khởi từ tư tâm sở (cetanā) hiện hữu nơi một người từ bỏ sát sinh, v.v... Hay nơi một người thực hành viên mãn các học giới (vatta). Paṭisambhidā nói: “Giới là gì? có giới là tư tâm sở (cetanā), có giới là các tâm sở, thọ, tưởng, và hành (gọi chung là cetasika), có giới là sự chế ngự, có giới là không vi phạm” (PS I 44).

Ở đây, Giới theo nghĩa tư tâm sở, là ý chí (tác ý) có mặt nơi người từ bỏ sát sinh, v.v... Hay nơi người thực hành viên mãn các giới. Giới theo nghĩa thọ, tưởng, hành là sự kiêng giữ nơi người từ bỏ sát sinh, v.v... Lại nữa, Giới tư tâm sở là bảy tác ý đi kèm bảy trong mười nghiệp nơi một người từ bỏ sát sinh, v.v... Giới thọ, tưởng, hành tâm sở là ba pháp còn lại gồm vô tham, vô sân và chánh kiến, như kinh nói: “Từ bỏ tham, vị ấy an trú với tâm vô tham” (D I 71).

18. Giới theo nghĩa chế ngự là sự chế ngự theo năm cách: Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pātimokkha chế ngự bằng tỉnh giác, chế ngự bằng tri kiến, chế ngự bằng kham nhẫn và chế ngự bằng tinh tiến. Chế ngự bằng Giới bổn là: “Vị ấy được trang bị đầy đủ với sự chế ngự của Giới bổn Pātimokkha” (Vbh. 246); chế ngự bằng chánh niệm tỉnh giác là: “vị ấy hộ trì nhãn căn, sống với sự chế ngự nhãn căn” (D I 70) Chế ngự bằng tri kiến là như đức Thế tôn dạy:

Những dòng thác chảy trên đời
Này Ajita, được ngăn chận là nhờ chánh niệm.
Ta tuyên bố sự chế ngự những bộc lưu
Do tuệ, chúng bị chận đứng (Sn 1035).

Cách sử dụng bốn vật dụng cũng được bao gồm trong sự chế ngự này. Nhưng chế ngự bằng kham nhẫn thì như kinh dạy: “Vị ấy là người kham nhẫn lạnh, nóng” (M I 10). Và chế ngự bằng tinh tấn là “Vị ấy không chấp nhận một ý tưởng thuộc tham dục khi nó khởi lên” (M I 11); ở đây, thanh tịnh sinh mạng được bao gồm. Vậy sự chế ngự gồm năm phần ấy và sự kiêng giữ nơi những thiện nam, thiện nữ biết sợ điều ác mỗi khi gặp cơ hội vi phạm, đều gọi là Giới theo nghĩa chế ngự. Giới theo nghĩa không phạm là sự không vượt qua, bằng thân hoặc lời, các giới điều đã thọ.

19. (ii) Giới Có Nghĩa là Gì? Giới, Sīla, được gọi như thế là vì nói có nghĩa kết hợp (Sīlana). Kết hợp có hai nghĩa: một là phối hợp (samādhāna), chỉ sự không bất nhất trong ba nghiệp thân, lời và ý nhờ đức hạnh; hai là nâng lên (upadhāraṇa), nghĩa là nền tảng (ādhāra) vì giới là nền tảng cho những thiện pháp. Những người hiểu ngữ nguyên chỉ chấp nhận hai nghĩa này, song cũng có những người luận về ý nghĩa của giới là cái đầu (sira), là mát mẻ (sītala).

20. (iii) Gì Là Ðặc Tính, Nhiệm Vụ, Tướng Trạng Và Nhân Cần Của Giới?

Ðặc tính của giới là phối hợp
Dù phân tích nhiều cách
Cũng như “thấy được” là đặc tính của Sắc.
Dù phân tích nhiều cách.

Như đặc tính “có thể trông thấy” là đặc tính của sắc xứ, dù phân tích thành những loại xanh, vàng, v.v... Vì dù có phân ra như vậy, sắc pháp cũng không vượt ngoài tính “thấy được”. Cũng thế, sự kết hợp - gồm hai nghĩa “phối hợp” và “nền tảng” - ở trên là đặc tính của giới, dù chia nhiều loại như tư tâm sở, v.v... Vì dù có chia ra những loại như vậy, giới cũng không ra ngoài hai đặc tính là phối hợp và nền tảng (các thiện pháp).

21.

Trong khi đặc tính của giới là như vậy,
Nhiệm vụ của nó gồm hai nghĩa:
Hành động để chấm dứt tà hạnh
Và sự thành tựu kể như đúc
Không lỗi nơi người có giới.

Bởi thế, khi gọi là giới, cần hiểu rằng nó có nhiệm vụ chận đứng tà hạnh là nhiệm vụ (hay bản chất, rasa) của nó theo nghĩa hành động, và bản chất không lỗi kể như nhiệm vụ nó trong nghĩa thành tựu. Vì ở đây chính hành động (kicca) hoặc sự thành tựu (sampatti) được gọi là nhiệm vụ.

22.

Theo lời những người trí,
Giới thể hiện ở sự thanh tịnh
Và nhân gần của giới
Chính là tàm và quý.

Giới này được thể hiện bằng các thứ “Thanh tịnh của thân, ngữ và ý” (A I 271). Giới được hiện rõ, được nhận chân qua sự thanh tịnh. Nhưng tàm và quý là cái nhân gần của giới, vì khi tàm quý có mặt, thì giới phát sinh và tồn tại; còn khi tàm quý vắng mặt, thì giới không phát sinh, cũng không tồn tại.

23. (iv) Những Gì Là Lợi Ích Của Giới?

Ðó là có được nhiều đức đặc biệt mà đầu hết là bất hối, vì kinh dạy: “Này Ānanda, giới là thiện; nó có mục đích là bất hối, có lợi ích là bất hối” (A V 1). Và ở một đoạn khác: “Này gia chủ, có năm lợi ích cho người đức hạnh khi viên mãn giới, đó là: người có giới đức thừa hưởng gia sản lớn nhờ tinh cần; được tiếng tốt đồn xa; không sợ hãi rụt rè khi đến giữa hội chúng Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn hay gia chủ hay Sa-môn; khi chết, tâm không tán loạn; mệnh chung được sanh vào thiện thú, cõi trời. Ðó là năm lợi ích” (D II 86). Lại còn nhiều lợi ích của giới, đầu tiên là được thương mến, và cuối cùng là đoạn trừ (phiền não) lậu hoặc như đoạn kinh nói: “Nếu một Tỷ-kheo có ước nguyện, mong rằng tôi được các vị đồng phạm hạnh yêu mến, kính trọng, thì vị ấy hãy thành tựu viên mãn các học giới” (M I 33).

24. Lại nữa,

Ai dám đặt một biên tế
Cho những lợi ích do giới đem lại
Khi mà không giới, thì thiện nam tử
Không chân đứng trong giáo lý này?
Không phải sông Hằng, Yamunā,
Sông Sarabhū, Sarassatī
Hay dòng Aciravatī,
Hay sông Mahī thánh thiện
Có thể rửa sạch nhiễm ô
Của các loài có hơi thở ở đời
Mà chỉ có nước giới mới có thể
Rửa sạch những cấu uế nơi chúng sinh
Không phải cơn gió đem mưa
Hay hương chiên đàn vàng
Hay chuỗi anh lạc, bảo châu
Hay ánh trăng sáng dịu
Có thể làm lắng những cơn sốt của người thế gian
Mà chính giới khéo hộ trì
Cao quý và mát mẻ tuyệt diệu,
Mới dập tắt được ngọn lửa.
Có làn hương nào sánh bằng
Làn hương giới
Khi hương này dễ dàng bay ngược
Cũng như xuôi gió?
Có bực thang nào bằng thang giới
Có thể bắc lên đến cõi trời?
Có cửa ngõ nào bằng cửa giới
Mở đến thành Niết Bàn như vậy?
Vua chúa trang sức châu báu
Cũng không sáng chói bằng sự chói sáng của người trì giới
Trang sức bằng giới luật.
Giới làm tiêu tan nỗi sợ hãi
Của sự tự khiển trách và những lối tương tự
Giới luôn đem lại cho người trì giới
Niềm hoan hỷ
Do danh tốt của giới
Chừng ấy cũng đủ biết
Quả báo của giới là thế nào
Và thế nào, gốc rễ của mọi đức tính ấy
Làm cho các lầm lỗi không còn sức mạnh.

25. (v) Có Bao Nhiêu Loại Giới?

  1. Trước hết, tất cả giới thuộc một loại do đặc tính “kết hợp” của nó.
  2. Giới thuộc hai loại là hành và tránh (tác, chỉ).
  3. Hai loại là giới thuộc chánh hạnh, và giới khởi đầu đời sống phạm hạnh.
  4. Hai loại, là kiêng và không.
  5. Hai loại, là lệ thuộc và không.
  6. Hai loại, tạm thời và trọn đời.
  7. Hai loại, hữu hạn và vô hạn.
  8. Hai loại, thế gian và xuất thế.
  9. Ba loại, là hạ, trung, thượng.
  10. Ba loại, là giới vị kỷ, vị tha và vị pháp.
  11. Có dính mắc (chấp thủ), không dính mắc, và an tịnh.
  12. Thanh tịnh, bất tịnh, khả nghi.
  13. Giới hữu học, vô học và giới của người không phải hữu học hay vô học.
  14. Giới bốn loại, là giới thối giảm, giới tù đọng, giới tăng tiến và giới thâm nhập.
  15. Bốn loại, là giới Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, giới của người chưa thọ cụ và giới tại gia.
  16. Bốn loại, là giới tự nhiên, giới theo cổ tục, giới tất yếu, và giới do nhân về trước.
  17. Bốn loại, là giới thuộc Giới bổn Pātimokkha, giới phòng hộ các căn, giới thanh tịnh sinh mạng và giới liên hệ bốn vật dụng.
  18. Giới năm loại, là thanh tịnh hữu hạn, thanh tịnh vô hạn, thanh tịnh đã viên mãn, thanh tịnh không dính mắc, thanh tịnh đã tịnh chỉ.
  19. Năm loại, là từ bỏ, kiêng, tác ý (tư tâm sở), chế ngự và không phạm.

26.

1). Giới một loại, về ý nghĩa đã được trình bày.

2). Giới hai loại: hành và tránh: sự thành tựu viên mãn một học giới do đức Thế tôn dạy: “Ðiều này nên làm”, thì gọi là hành (tác trì). Không làm những gì Ngài cấm chỉ rằng “Ðiều này không nên làm”, gọi là tránh (chỉ trì). Ở đây ý nghĩa danh từ “hành” (caranti) là đi trong phạm vi của giới, đi như những bậc viên mãn giới đã đi; và phòng hộ, tránh né gọi là tránh. Sự giữ giới hay hành được thực hiện nhờ đức tin và tinh tấn, còn tránh nhờ đức tin và chánh niệm.

27. 3). Chánh hạnh là cách cư xử tốt đẹp nhất, chính nó được gọi là Giới thuộc chánh hạnh, hoặc những gì được tuyên thuyết để cư xử đẹp cũng gọi là giới thuộc chánh hạnh. Ðây là danh từ chỉ cho những giới ngoài tám giới (ba thuộc thân là không sát, đạo, dâm; bốn thuộc ngữ là không nói dối, nói ác, nói thô và nói vô ích, thứ tám là chánh mạng). Tám giới này là khởi đầu của đời phạm hạnh bao hàm đạo lộ nên được gọi là Giới khởi đầu phạm hạnh, vì cần phải được thanh tịnh trước, như Trung Bộ iii nói: “Thân nghiệp, ngữ nghiệp và hoạt mạng của vị ấy phải được thanh tịnh trước đấy” [Pubbeva kho panassa kāyakammaṃ vacikammaṃ ājīvo suparisuddho hoti (M III 289)].

Hoặc hai loại chỉ những tiểu giới kể như chánh hạnh và giới còn lại là giới khởi đầu đời phạm hạnh.

Hoặc những gì gồm trong giới luật Tỷ-kheo và Tỷ-kheo ni trong giới bổn Patimokkha là giới khởi đầu đời sống phạm hạnh, còn giới luật bao gồm trong những kiền độ (khandhaka) của Luật tạng (vinaya) gọi là giới thuộc chánh hạnh. Nhờ thành tựu chánh hạnh mà những giới khởi đầu đời phạm hạnh được viên mãn, nên kinh dạy: “vị Tỷ-kheo không viên mãn chánh hạnh mà có thể thành tựu giới khởi đầu đời phạm hạnh, điều ấy không thể xảy ra” (A III 14-15).

28. 4). Kiêng là kiêng sát sinh, v.v.. Không kiêng là các tư tâm sở, v.v...

29. 5). Có lệ thuộckhông lệ thuộc. Lệ thuộc có hai thứ: Lệ thuộc vì tham và lệ thuộc do tà kiến. Lệ thuộc do tham là khi một người mong ước: “Nhờ giới hạnh này, tôi sẽ thành một vị trời lớn hoặc nhỏ” (M I 102). Lệ thuộc tà kiến là khi một người có tà kiến: “Sự thanh tịnh là do cử hành các tế lễ”. (Vbh. 374). Nhưng giới xuất thế, và giới thế gian làm điều kiện tiên quyết cho giới xuất thế, gọi là giới không lệ thuộc.

30. 6). Giới tạm thời là được thọ có hạn định thời gian. Giới trọn đời là thọ trì đến khi mạng chung.

31. 7) Hữu hạn là giới bị hạn cuộc vào danh lợi, quyến thuộc, chân tay hoặc mạng sống. Ngược lại gọi là giới vô hạn. Paṭisambhidā nói: “Thế nào là giới bị hạn cuộc vào lợi? Ðó là khi một người nguyên nhân lợi mà vi phạm một học giới đã thọ”. Những giới hạn kia cũng vậy. Giới không bị hạn cuộc hay vô hạn là khi “một người, không vì lợi mà khởi tâm vi phạm, huống hồ thực sự vi phạm, một học giới đã thọ” (PS I 44). Tương tự, với các giới hạn khác.

32. 8). Giới thế gian là giới hữu lậu và xuất thế là giới vô lậu. Giới thế gian đem lại một hậu hữu (thân cảnh trong tương lai) tốt đẹp, và là điều kiện tiên quyết để thoát ly sinh tử, như Luật nói: “Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối, bất hối là để được khinh an, khinh an để được lạc, lạc để được định, định để được chánh tri kiến, chánh tri kiến là để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để được giải thoát, giải thoát là để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến là để đi đến vô thủ trước Niết Bàn. Sự nói chuyện có mục đích ấy, khuyên bảo có mục đích ấy, nâng đỡ có mục đích ấy, lóng tai có mục đích ấy, tức là sự giải thoát nhờ không chấp thủ” (VIN V 164). Giới xuất thế đem lại sự thoát khỏi hữu, và là bình diện của trí quán sát.

33. 9). Giới ba loại: đầu tiên là giới bực hạ, trung, thượng. Giới bực hạ là giới phát sinh do ít tinh cần, ít dục, ít nhất tâm và ít trạch pháp (tức bốn như ý túc). Giới bực trung là giới phát sinh nhờ tinh tấn, v.v... Vừa vừa. Giới bực thượng là giới phát sinh nhờ bốn pháp đó được thực hành cao độ. Giới thọ vì ham danh là giới bực hạ, vì ham quả báo công đức là bực trung, vì tôn quý giới là bực thượng. Lại nữa, giới bị nhiễm ô vì khen mình chê người, v.v... Như “ta có giới hạnh, còn những Tỷ-kheo khác tà hạnh, theo ác giới” (M I 193) là bực hạ, giới thế gian mà không ô nhiễm là bực trung, giới xuất thế là bực thượng. Hoặc, giới có động lực là tham ái, với mục đích tái sinh là bực hạ, giới thực hành vì mục đích giải thoát riêng mình là trung, các hạnh Ba-la-mật thực hành vì giải thoát chúng sinh là bực thượng.

34. 10). Giới thực hành vì bản thân, vì muốn bỏ những gì không thích hợp với tự ngã, gọi là giới vị kỷ. Giới thực hành vì quan tâm đến thế gian, vì muốn người đời khỏi chỉ trích, là giới. Giới thực hành vì tôn trọng Pháp và Luật, gọi là vị pháp.

35. 11). Giới “lệ thuộc” ở số 5 trên, gọi là có dính mắc vì dính mắc (thủ trước) do tham và tà kiến.

Giới được thực hành bởi phàm phu hữu đức là điều kiện tiên quyết cho đạo lộ, và giới tương ứng với đạo lộ, ở các vị hữu học, thì gọi là giới không dính mắc. Giới tương ứng với quả của hữu học và vô học gọi là giới được an tịnh.

36. 12). Giới được viên mãn do một người không phạm giới tội, hoặc phạm mà đã sám hối, gọi là giới không thanh tịnh. Giới nơi một người còn nghi không biết việc này có phải là một giới tội hay không, hoặc không biết đã vi phạm giới nào, hoặc không biết mình có phạm không, gọi là khả nghi. Giới không thanh tịnh nên làm cho thanh tịnh. Giới còn nghi thì nên tránh làm những gì mình còn nghi vấn, và nên tìm cách giải quyết nghi.

37. 13). Giới tương ưng với bốn đạo và ba quả đầu, là giới của Hữu học. Giới tương ưng với quả A-la-hán là giới của bậc Vô học. Những loại còn lại là giới không thuộc hữu học và vô học.

38. Trong thế gian, Sīla (giới) cũng dùng để chỉ bản tính, thói của người, nên Paṭisambhidā nói: “Ba loại giới (thói) là thiện, bất thiện và bất định” (PS I 44). Giới bất thiện không được kể ở đây, vì nó không dính dấp đến ý nghĩa đã bàn về giới.

39. 14). Giới bốn loại đầu tiên:

Kẻ học ác tri thức
Không gần bậc giới đức
Ngu si không thấy được
Lỗi phạm giới ở đấy
Tâm thường tà tư duy
Các căn không phòng hộ
Giới nơi người như vậy
Dự phần vào thối giảm.
Người có tâm tự mãn
Với giới đã thành tựu
Không bao giờ nghĩ đến
Tập đề tài thiền định
Chỉ an phận trong giới
Không nỗ lực tiến lên
Giới như vậy gọi là
Dự phần vào tù đọng.
Người có giới, nỗ lực
Với định làm phương tiện
Ðể đạt đến mục tiêu,
Giới của Tỷ-kheo này
Gọi là định cộng giới
(giới tăng tiến: Visesa)
Người thấy giới chưa đủ
Mà hướng đến ly dục
Giới do ước vọng ấy
Gọi là đạo cộng giới
(giới thâm nhập: nibbedha)

40. 15). Có những giới dành cho Tỷ-kheo không liên hệ đến những giới công bố cho Tỷ-kheo ni, gọi là giới Tỷ-kheo. Giới riêng cho Tỷ-kheo ni gọi là giới Tỷ-kheo ni. Mười giới của Sa-di và Sa-di ni là giới của người chưa thọ cụ túc. Ngũ giới hay thập giới, khi có thể giữ trọn đời và tám giới thọ vào ngày Uposatha (bố tát) dành cho nam nữ tại gia, gọi là giới tại gia.

41. 16). Sự không phạm của những người Uttarakuru gọi là tự nhiên giới. Mỗi bộ lạc, tông phái, địa phương, có luật riêng, gọi là giới theo tục lệ. Giới của mẹ bồ tát khi bồ tát nhập thai “không có tư tưởng dục nhiễm”, gọi là giới tất yếu. Giới của những người thanh tịnh như Ma ha Ca diếp và của tiền thân Phật khi hành bồ tát hạnh, gọi là giới do nhân đời trước.

42. 17). Giới bốn loại, thứ tự:

(a) Giới như đức Thế tôn mô tả: “Vị Tỷ-kheo sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ hành xứ và chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ, nên vị ấy lãnh thọ các học giới” (Vbh. 244), đây là Giới thuộc sự chế ngự của giới bổn.

(b) Giới được mô tả như sau: “Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì do đó mà nhãn căn không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng... Thực hành sự hộ trì ý căn” (M I 180): đây là giới phòng hộ các căn môn.

(c) Sự từ bỏ những tà mạng, không vi phạm sáu học giới liên hệ đến cách sinh sống, các tà mạng lôi kéo theo những ác pháp như “lừa đảo, ba hoa, hiện tướng chê bai, lấy lợi cầu lợi” (M III 75): đây là giới thanh tịnh mạng sống.

(d) Sự sử dụng bốn vật dụng, được thanh tịnh nhờ giác sát, như khi nói: “Chân chánh giác sát, vị ấy thọ dụng y phục chỉ để che thân khỏi rét” (M I 10): đây là giới liên hệ đến bốn vật dụng.

43. Sau đây là tóm tắt bình chú: (đoạn 42a) Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn tức Pātimokkha, vì nó giải thoát (mokkheti) người hộ trì (pāti) nó, vì nó làm cho vị ấy thoát khỏi (mocayati) các khổ của đọa xứ. Chế ngự là không phạm về thân, lời. Sống là xử sự trong bốn uy nghi.

44. Ðầy đủ hành xứ và chánh hạnh v.v... ý nghĩ như kinh nói: “có tà hạnh và chánh hạnh”. Gì là tà hạnh? Ðó là vi phạm về thân, lời, cả thân lẫn lời, những việc làm mà Giới cấm chỉ. Như một người sinh nhai bằng cách đem cho tre, lá, hoa, quả, bột tắm, tăm xỉa răng, hoặc bằng cách nịnh hót, ve vuốt, hoặc bằng cách làm các việc vặt, hay bất cứ tà mạng nào bị Thế tôn quở trách. Chánh hạnh là gì? Là không vi phạm về thân và lời, về cả thân, lời. Là tất cả sự chế ngự bằng giới. Là không sinh nhai bằng những cách như trên.

45. Hành xứ: có hành xứ thích đáng và không thích đáng. Gì là hành xứ không thích đáng? Như khi một người có những dâm nữ làm chỗ lui tới, có đàn bà góa, gái già, bán nam bán nữ, Tỷ-kheo ni, hay tửu quán làm chỗ lui tới; hoặc vị ấy sống có liên hệ với vua hay cận thần, ngoại đạo, đồ đệ ngoại đạo, có liên hệ không thích đáng với cư sĩ; hoặc làm quen, giao thiệp, tôn trọng những gia đình không tín tâm, phỉ báng thô lỗ, những người muốn hại, muốn sự xấu xa, phiền não, không muốn sự chấm dứt hệ lụy cho những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam nữ cư sĩ. Ðấy là những hành xứ không thích đáng. Gì là hành xứ thích đáng? Như một vị không có những dâm nữ làm chỗ lui tới... Quán rượu làm chỗ lui tới,... Không liên hệ không thích đáng với cư sĩ; vị ấy làm quen, lui tới, tôn trọng những gia đình có tín tâm, những người làm nguồn an ủi nơi nào có bóng hoàng y, có gió mát của bậc trí, những người mong mỏi điều tốt lành, hỉ lạc, mong chấm dứt hệ lụy cho Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam nữ cư sĩ. đấy là hành xứ chân chánh. Như thế, vị ấy được gọi là “đầy đủ hành xứ và chánh hạnh” (Vbh. 244-7).

46. Lại nữa chánh hạnh và hành xứ ở đây cần được hiểu như sau. Tà hạnh có hai là tà hạnh về thân và lời. Gì là tà hạnh về thân? Ðó là “Xử sự thiếu cung kính trước tăng, đứng ngồi, chen lấn với các vị thượng tọa, ngồi chỗ cao, ngồi bịt đầu, đứng mà nói chuyện, vung tay khi nói, đi giày dép trong khi các thượng tọa đi chân trần, đi chỗ cao trong khi các thượng tọa đi chỗ thấp, đi trên đường chính trong khi các thượng tọa đi chỗ không có đường... Ðứng ngồi thúc vào các vị thượng tọa, tranh chỗ với các Tỷ-kheo mới... Vào buồng tắm... Chưa hỏi các thượng tọa mà đã để củi trên lò, khóa cửa... Tại chỗ tắm, vừa đi vừa vẫy nước nhằm các thượng tọa, đi vào chỗ tắm trước mặt các thượng tọa, tắm vẩy nước vào các thượng tọa, tắm trước mặt các vị. Khi đi ra thì chen lấn các thượng tọa, đi ra trước mặt họ, vào nhà cũng chen lấn đi trước, đẩy họ ra mà chen tới... Tại những nhà gia chủ có phòng riêng kín đáo, dành cho đàn bà con gái, thì vị ấy đường đột đi vào, vuốt đầu trẻ con” (Nidd I 228-9). Ðấy gọi là tà hạnh về thân.

47. Ở đây, gì là tà hạnh về lời? “Ðó là khi một người xử sự vô lễ trước chúng Tăng. Không xin phép những vị Thượng tọa mà nói về Pháp, trả lời các câu hỏi, tụng giới, đứng nói vung tay. Vào nhà người gặp phụ nữ hay thiếu nữ thì ba hoa kiểu như: “Ê chị X, có gì ăn đấy? Có cháo không? Chúng tôi sẽ uống cái gì? Những gì là đồ ăn loại cứng? Những gì là đồ ăn loại mềm? Chị sẽ cho ăn cái gì?” (Nidd I 230). Ðấy là tà hạnh về lời.

48. Chánh hạnh cần hiểu là ngược lại với những điều trên. Hơn nữa, vị Tỷ-kheo có lễ độ, biết kính nhường, có tàm quý, mặc hạ y, thượng y một cách thích đáng, tác phong vị ấy làm khởi dậy niềm tin dù khi vị ấy đi tới đi lui, nhìn trước hay nhìn hai bên, co hay duỗi, mắt vị ấy thường ngó xuống, vị ấy có uy nghi, phòng hộ các căn môn, tiết độ trong sự ăn uống, chánh niệm tỉnh giác, đầy đủ sự tự giác, ít muốn, biết đủ, tinh cần, cẩn thận gìn giữ chánh hạnh, hết lòng cung kính những vị giáo thọ sư. Ðấy là chánh hạnh.

49. Hành xứ (thích đáng) gồm ba: sự hỗ trợ làm hành xứ, sự phòng hộ làm hành xứ, và sự buộc chặt làm hành xứ. Sự hỗ trợ làm hành xứ là, một người bạn tốt nói mười loại chuyện: “Nói về ít muốn, biết đủ, ẩn dật, độc cư, tinh tấn, giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến” (M I 145), từ người bạn đó, ta được nghe những điều chưa nghe, sửa sai những điều đã học, tẩy được những nghi vấn, làm chánh lại sự thấy biết, được đức tin, hoặc nhờ học với người ấy mà ta tăng trưởng về tín, giới, văn, bố thí và trí tuệ. Ðây là sự hỗ trợ làm hành xứ.

50. Sự phòng hộ làm hành xứ là, “một Tỷ-kheo khi đi vào một ngôi nhà, một con đường, thì đi với mắt nhìn trước khoảng một tầm, chế ngự nhãn căn, không nhìn voi, ngựa, xe, người bộ hành, đàn bà, đàn ông; không ngó lên, ngó xuống, ngó chỗ này chỗ kia” (Nidd I 474).

51. Sự buộc chặt làm hành xứ là bốn niệm xứ mà tâm được buộc vào, vì thế đức Thế tôn dạy: “Này các Tỷ-kheo, gì là hành xứ của một Tỷ-kheo, quê hương vị ấy? Chính là bốn niệm xứ quán” (S V 148).

Ðược trang bị như vậy, được cung cấp đầy đủ như vậy, bằng chánh niệm và (chánh) hành xứ này, nên vị ấy được gọi là “đầy đủ hành xứ và chánh hạnh”.

52 Thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ (đoạn 42): “Lỗi nhỏ” là như sự vô tình vi phạm một học giới nhỏ nằm trong Giới bổn, hoặc có một ý nghĩ bất thiện khởi lên. Vị ấy chân chánh lãnh thọ và học tập các học giới: Có bao nhiêu học giới, vị ấy đều học tập lãnh thọ một cách chân chánh (samādāya). Câu “một người chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn”, giới thuộc về sự chế ngự của Giới bổn được nêu bằng người, còn “đầy đủ chánh hạnh và hành xứ” chỉ phương pháp thực hành nơi vị đã viên mãn giới.

53. (b) Bây giờ, hay nói về giới thuộc sự chế ngự các căn môn, được nêu lên kế tiếp. Khi mắt thấy sắc: khi thấy một vật bằng nhãn thức có khả năng thấy, nhưng nương vào con mắt dụng cụ nên lấy tên “mắt”. Cổ đức (Porāṇā) nói: “Con mắt không thấy vì nó không có tâm. Tâm không thấy vì không có mắt. Nhưng khi có chạm xúc giữa căn và trần thì có thấy, do thức có thị giác làm nền tảng vật lý cho nó. (Thị giác, kinh gọi là mắt tịnh sắc: eye-sensitivity - chỉ đồng tử hay con ngươi). Vậy ý nghĩa thực sự ở đây là: khi thấy sắc nhãn thức”.

54. Không nắm giữ tướng chung, không để ý tướng đàn bà hay đàn ông, hay bất cứ tướng gì làm căn bản cho ô nhiễm, như tướng đẹp, v.v... Vị ấy dừng lại ở cái thấy, cũng không nắm giữ tướng riêng: vị ấy không để tâm bất cứ khía cạnh nào như tay, chân, nụ cười, tiếng nói, nhìn thẳng, nhìn nghiêng, v.v... Gọi là những tướng chi tiết, vì chúng phát sinh ra từng ô nhiễm khác nhau, vì chúng nổi bật. Vị ấy chỉ thấy cái gì thực sự đang ở đấy. Như trưởng lão Mahā Tissa ở Cetiyapabbata.

55. Khi trưởng lão đang trên đường đi từ Cetiyapabbata đến Anurādhapura để khất thực, có một nàng dâu của một ông trưởng giả gây lộn với chồng nên khởi hành từ sáng sớm ở Anurādhapura, trang sức lộng lẫy như tiên nữ, để về nhà bà con. Nàng trông thấy trưởng lão, và do tâm hồn hạ liệt, bật lên một tràng cười lớn. Ngạc nhiên không hiểu có chuyện gì xảy đến, vị trưởng lão nhìn lên, và khi được “bất tịnh tưởng” nơi hàm răng của nàng ngài đắc quả A-la-hán. Do đó có bài kệ:

Thấy xương hàm răng
Duy trì “cốt tưởng"
Chưa dời chân bước
Quả chúng vô sanh

Chồng nàng đi tìm nàng, gặp trưởng lão anh ta hỏi: “Bạch đại đức, ngài có tình cờ trông thấy một người đàn bà nào qua đây không?” Trưởng lão bảo:

“Không rõ ông hay bà
Vì ta không để ý
Nhưng trên đường cái này
Có đống xương di động”.

56. Qua đó (đoạn 42) nghĩa là, vì nguyên nhân ấy mà có sự không chế ngự của nhãn căn (và các căn khác). Nếu vị ấy không phòng hộ nhãn căn nghĩa là không dùng cánh cửa chánh niệm mà đóng nhãn căn lại. Xâm nhập là đe doạ vị ấy.

57. Không có gì là “chế ngự” hay “không chế ngự” nơi nhãn căn, vì đối với mắt tịnh sắc không có tỉnh giác hay thất niệm. Nhưng khi một sắc pháp đi vào sự chú ý của mắt, thì hữu phần khởi lên hai lần và diệt, rồi đến duy tác ý giới làm nhiệm vụ hướng tâm (chú ý) khởi và diệt, rồi đến nhãn thức với nhiệm vụ thấy, rồi đến dị thục ý giới làm nhiệm vụ tiếp thọ, rồi đến dị thục vô nhân ý thức giới làm nhiệm vụ xác định, khởi và diệt. Kế tiếp là tốc hành tâm. Trong đây, không có gì là chế ngự hay không chế ngự vào giai đoạn hữu phần, hay bất cứ giai đoạn nào sau đó từ hướng tâm trở đi. Song khởi hành từ giai đoạn tốc hành tâm, nếu không chánh hạnh, nếu có sự thất niệm, vô tri, không kiên nhẫn, lười biếng khởi lên, thì gọi là “không chế ngự nhãn căn”.

58. Tại sao? Vì khi ấy có nghĩa, là căn môn không được phòng hộ, hữu phần và các tâm thuộc lộ trình tâm cũng không được phòng hộ. Ví như khi, bốn cổng của một đô thành không được bảo đảm, thì dù cho các cửa của những ngôi nhà, kho chứa v.v... Bên trong thành được khóa kỹ, tài sản bên trong thành cũng không được bảo đảm, vì kẻ cướp sẽ vào thành tha hồ vơ vét. Cũng vậy, khi có sự không chánh hạnh, v.v... Khởi lên ở giai đoạn tốc hành, vì không chế ngự, thì căn môn cũng không được chế ngự, hữu phần và các tâm thuộc lộ trình kể từ hướng tâm, cũng không được phòng hộ. Nhưng khi giới, v.v... Khởi lên ở giai đoạn tốc hành, thì như vậy căn môn cũng được phòng hộ hữu phần và các tâm thuộc lộ trình cũng được phòng hộ ví như khi cổng thành đã chắc chắn, thì dù bên trong, các cổng nhà ở, nhà kho v.v.. Không chắc, tài sản trong thành vẫn được gìn giữ, bảo đảm, vì cổng thành đóng, kẻ cướp không thể xâm nhập.

Bởi thế, mặc dù sự chế ngự chỉ thực sự bắt đầu ở giai đoạn (sát-na) tốc hành tâm, song vẫn gọi là “chế ngự nhãn căn”. Việc nghe tiếng, ngửi mùi v.v... Cũng vậy.

59. Vậy chính loại giới này, có đặc tính là tránh nắm giữ những tướng có thể kéo theo ô nhiễm liên hệ đến sáu trần, gọi là giới chế ngự các căn môn.

60. (c) Bây giờ hãy nói đến giới thuộc thanh tịnh sinh mạng (đoạn 42). Câu “Sáu học giới liên hệ đến cách sinh sống”. Có nghĩa: “vì nguyên nhân sinh nhai, vì lý do sinh nhai, mà một người có ác dục, làm mồi cho dục, tự xưng được thượng nhân pháp mà kỳ thực không có” bị phạm tội ba la di, vì nguyên nhân, “vì lý do sinh nhai mà một người làm môi giới” bị phạm tội tăng tàn; “vì nguyên nhân sinh nhai mà nói: Một Tỷ-kheo ở trong chùa của bạn là một bậc A-la-hán phạm tội ba dật đề nếu người ấy biết có tội mà cứ nói: “Vì nguyên nhân, lý do sinh nhai mà một Tỷ-kheo không bệnh xin món ăn thượng vị để dùng riêng” phạm thì phải sám hối; cũng giới ấy, Tỷ-kheo ni phạm thì phải phát lồ cũng giới ấy, người chưa thọ cụ túc phạm thì bị tội ác tác (VIN V 146). Ðó là sáu giới liên hệ đến cách sống.

61. Lừa đảo (xem 42c) Kinh văn: “Thế nào là lừa đảo? Ấy là bịp lừa bằng cách (giả vờ) từ chối bốn vật dụng, bằng cách nói gián tiếp, bằng uy nghi... Nơi một người ham lợi dưỡng, danh dự, một người có ác dục, làm mồi cho dục”.

62. “Thế nào là ba hoa? Ấy là nói tạt vào người ta (bất kể họ có nghe hay không) nói nhiều, nói quanh, tâng bốc, tâng bốc quá lố, thuyết phục, thuyết phục dai, gợi ý, gợi ý dai, nói mê ly, nịnh hót tán dóc, nói vuốt ve, nơi một người thiên về lợi danh dự và tiếng tăm, người có ác dục, làm mồi cho dục.

63. “Thế nào là hiện tướng? Dấu hiệu, ra dấu cho người, ám chỉ, làm ám chỉ, nói bóng gió, nói vòng vo, nơi một người thiên về lợi dưỡng...

64. “Thế nào là chê bai? Là nhiếc móc, dèm pha, chê trách, nói mỉa, mỉa mai liên tục, nhạo báng, nhạo báng liên tục, bôi nhọ, bôi nhọ liên tục, mách lẻo, cắn sau lưng, nơi một người thiên về lợi dưỡng...

65. “Thế nào là lấy lợi cầu lợi? Cầu là tìm kiếm chác, mưu cầu của cải bằng phương tiện của cải, như đem vật được chỗ này đi đến chỗ khác, vật được chỗ khác đem đến chỗ này, nơi một người thiên về lợi dưỡng...” (Vbh, 352-3).

66. Ý nghĩa đoạn kinh dẫn ở số 61 cần được hiểu như sau. Có ác dục là mong muốn chứng tỏ có những đức tính mà mình không thực có. Làm mồi cho dục: bị dục vọng tấn công. Bằng cách từ chối bốn vật dụng, bằng cách nói gián tiếp, bằng uy nghi: là ba cách lừa đảo được nêu lên trong Mahāniddesa.

67. Một vị Tỷ-kheo được cúng dường y, v.v... Và chính vì ham muốn những thứ ấy, ông lại từ chối, do ác dục. Vị ấy biết cư sĩ tin tưởng ông sẽ nghĩ: Vị đại đức của chúng ta thật là thiểu dục, ngài nhất quyết không nhận vật gì. Thật là may mắn cho ta nếu ngài chịu nhận chỉ chút ít vật dụng! Rồi họ tìm đủ cách đặt trước mặt vị ấy những y thượng hạng, v.v... Ông bèn nhận, vừa làm ra vẻ chỉ nhận vì lòng từ bi đối với họ. Ðây là sự giả dối nơi vị Tỷ-kheo, để khiến cho cư sĩ sau đó mang từng xe bò lễ vật đến cúng. Ðó là lừa đảo bằng cách từ chối.

68. Trong Mahāniddesa nói: “Thế nào là lừa đảo bằng cách từ chối vật dụng? Ví dụ cư sĩ mời Tỷ-kheo nhận y, thực, sàng tạo, dược phẩm. Một người có ác dục, làm mồi cho dục, ham được y, thực, sàng tọa, dược phẩm, nhưng lại từ chối, vì muốn được nhiều hơn. Vị ấy bảo: 'Một người Sa-môn khổ hạnh có cần đến những tấm y đắt giá? Chỉ nên nhặt giẻ rách, ở đống rác hay cửa tiệm, mà làm y phục. Sa-môn khổ hạnh cần gì đến thực phẩm đắt giá? Chỉ nên khất thực để sống. Sa-môn khổ hạnh cần gì đến giường đắt giá? Chỉ nên sống dưới gốc cây hay ngoài trời. Sa-môn khổ hạnh cần gì đến dược phẩm đắt tiền? Chỉ nên chữa bệnh bằng nước tiểu'. Bởi thế vị ấy mặc y thô xấu, ăn đồ khất thực tồi, ở chỗ tồi, dùng thuốc tồi để trị bệnh. Các cư sĩ thấy vậy, nghĩ: ‘Sa-môn này ít muốn, biết đủ, sống viễn ly, độc cư tinh tấn, thật là người thuyết giảng về khổ hạnh’. Rồi họ lại càng muốn cúng dường vị ấy y phục, thực phẩm, sàng tọa, dược phẩm. Vị ấy bèn nói: ‘Có ba điều kiện làm cho một vị thiện gia nam tử được nhiều công đức: lòng tin, sự bố thí, và một người xứng đáng để nhận. Người có lòng lại có vật bố thí, và lại có ta ở đây. Nếu ta không nhận, thì người sẽ mất phước. Ðiều ấy không tốt. Vậy thì ta sẽ nhận, vì lòng thương tưởng đối với người.’ Cứ thế vị ấy nhận thật nhiều y phục, thực phẩm, sàng tọa, dược phẩm. Ðó là một hình thức lừa đảo vậy” (Nidd I 224-5).

69. Là sự giả dối nơi người có ác dục, khi vị ấy nói cách nầy cách khác làm cho người ta hiểu rằng mình đã được pháp nhân (siêu việt con người). Ðó gọi là lừa đảo bằng cách nối gián tiếp như đoạn kinh sau: “Gì là ví dụ về lừa đảo bằng cách nói gián tiếp? Một người có ác dục, làm mồi cho dục, mong được thán phục mà nói những lời liên hệ đến thánh pháp. Vị ấy bảo: Người đắp một cái y như vậy, lọc nước như vậy, chìa khóa như vậy, đai lưng như vậy, dép như vậy, là một Sa-môn rất quan trọng. Hoặc bảo: Người có một giáo thọ sư như vậy, y chỉ như vậy, đồng giáo thọ sư, đồng y chỉ sư, người có bạn như vậy, cộng sự viên như vậy, thân thuộc như vậy, người ở trong chùa như vậy, mái che như vậy, nhà như vậy, vi la như vậy, hang, động, lều, trại, tháp canh, phòng lớn, vựa lúa, phòng hội như vậy, hoặc cỏ gốc cây như vậy, là một nhà khổ hạnh rất quan trọng”. Hoặc, với nét mặt nhăn nhíu, mưu mô, giảo quyệt, làm điệu bộ thán phục, nói thao thao bất tuyệt, vị ấy thốt lên những lời sâu xa, bí mật, xỏ lá, tối nghĩa, lời siêu phàm rỗng tuếch như “Sa-môn ấy là một vị đã đạt đến những tịnh trú và có những thiền trú như vậy.” Ðấy gọi là nói gián tiếp (Nidd I 226-7).

70. Là sự giả dối nơi một người ác dục, khi vị ấy làm những dáng điệu cố ý để được thán phục, như đoạn: “Thế nào là lừa đảo bằng uy nghi? Ví như, một người có ác dục, làm mồi cho dục, muốn được khen, nên làm bộ tịch khi đi, vị ấy bước đi có nghiên cứu, đứng có nghiên cứu, ngồi có nghiên cứu, nằm có nghiên cứu. Vị ấy bước đi làm bộ như rất đăm chiêu, khi đứng, ngồi, nằm dường như rất tập trung quán tưởng. Vị ấy là người tọa thiền giữa công cộng. Sự làm bộ, sắp đặt, phô trương uy nghi như thế được gọi là lừa đảo bằng uy nghi” (Nidd I 225-6))

71. Kinh văn: bằng cách từ chối bốn vật dụng có nghĩa là dùng cái phương tiện gọi là “từ chối”... Nói gián tiếp: là nói gần với đề tài. Bằng uy nghi là đi đứng nằm ngồi.

72. Những lối nói ba hoa (đoạn 62) là nói tạt vào: như khi vừa thấy người đi vào tinh xá, bèn nói: “Ði đâu đó cư sĩ? Mời tăng chúng thọ trai à? Nếu vậy thì cứ việc đi trước đi, tôi sẽ mang y bát đến sau” v.v... Hoặc tự quảng cáo như sau: “Tôi là Tissa, vua rất tín nhiệm tôi, đại thần của vua... Rất tin cậy tôi”. Kể lể (nói nhiều) cũng tương tự, khi được hỏi một điều gì. Nói quanh là nói vòng vo tam quốc vì sợ cư sĩ bất mãn sau khi đã tạo cơ hội cho họ phật ý. Tâng bốc là nói ca tụng người ta, như: “Ông ấy là một đại địa chủ, đại thuyền chủ, đại thí chủ”. Tâng bốc liên tục (tâng bốc quá lố) là nói đủ cách để ca tụng người.

73. Thuyết phụcnói lời ràng buộc thì tay cũng già (nahāna do động từ nayhati có nghĩa là buộc lại, cột lại). Như nói “Cư sĩ trước kia các vị thường cúng trái cây vào giỏ đó, tại sao bây giờ không cúng nữa?” Nói thế nào để cuối cùng, người kia phải nói: “Bạch đại đức, chúng con sẽ cúng, lâu nay vì không có dịp” v.v... Ðấy là buộc ràng họ. Hoặc, khi trông thấy một người tay cầm mía, vị Tỷ-kheo bèn hỏi: “Từ đâu về đấy, đạo hữu?” — “Bạch đại đức, con ở ruộng mía về ạ” — “Mía ở đấy có ngọt không nhỉ?” — “Bạch đại đức, cần phải ăn vào mới biết được” — “Nầy cư sĩ, một Tỷ-kheo không được phép nói: cho tôi mía!” Nói như vậy tức là ràng buộc người ta, khiến họ phải cho. Ðấy gọi là thuyết phục. Thuyết phục nhiều lần, dùng nhiều cách, gọi là thuyết phục dai dẳng (nói dai).

74. Gợi ý là ám chỉ, bằng cách nêu một trường hợp đặc biệt như: “Chỉ có gia đình đó là hiểu tôi thôi. Có gì, họ chỉ cúng dường cho tôi”. Hoặc, như câu chuyện người bán dầu sau đây. Hai Tỷ-kheo đi vào làng, ngồi trong nhà đợi. Thấy một cô gái, họ bèn gọi nàng lại. Rồi vị này hỏi vị kia: “Nàng này là con gái nhà ai thế?” - Hiền giả, nàng là con gái của người bán dầu vẫn thường ủng hộ chúng ta đấy. Mỗi khi chúng Tỷ-kheo đi đến nhà mẹ nàng, bà thường cho bơ trong hủ. Và cô này cũng cho bơ trong hủ như mẹ” (Pm. 46) Ðó gọi là gợi ý. Gợi ý nhiều cách, nói mãi, thì gọi là gợi ý liên tục.

75. Nói mê ly là nói lời êm tai lặp đi lặp lại nhiều lần, bất kể đúng hay không, hợp pháp hay không. Nịnh hót là nói một cách hèn hạ, luôn luôn giữ thái độ kẻ dưới. Tán dóc là nói thật nhiều nhưng chỉ đúng một ít.

76. Nói vuốt ve như người ta vuốt ve, vỗ về con nít.

77. Hiện tướng (nemittikatā): tướng (nemitta) là một dấu hiệu bằng thân hay lời, để làm người ta cho mình vật dụng. Ra hiệu là làm một dấu hiệu có ý hỏi: “Bạn có gì để ăn đấy?” v.v... Khi trông thấy người đang mang thức ăn. Ám chỉ là nói xa gần tới vật cần dùng. Làm ám chỉ: như thấy mục tử dắt nghé đi ngang, vị Tỷ-kheo hỏi: “Ðấy là nghé con của bò cái vắt sữa hay bò cái cho bơ?” - Bạch đại đức, bò cái vắt sữa, vì nếu là bò cái vắt sữa, thì các Tỷ-kheo đã có sữa mà uống!” v.v..., cốt làm cho đứa bé về thuật lại với cha mẹ, để họ đem sữa đến cúng.

78. Nói bóng gió là nói gần đề tài, tỉ như câu chuyện về một Tỷ-kheo được một gia đình ủng hộ. Vị ấy muốn ăn, nên đi vào nhà ấy mà ngồi. Nữ chủ không muốn bố thí, nên vừa trông thấy vị Tỷ-kheo, bà bảo ngay: “Không có cơm”. Ðoạn đi sang nhà hàng xóm, làm bộ đi lấy cơm. Vị Tỷ-kheo đi vào bếp, nhìn quanh, thấy cây mía sau cánh cửa, đường đựng trong tô, xâu cá trong rỗ, gạo trong chum và bơ trong hủ, Vị ấy trở ra, ngồi. Khi nữ chủ trở lại, bà bảo vị Tỷ-kheo “Tôi không kiếm được chút cơm nào cả”. Vị Tỷ-kheo liền nói: “Này thí chủ, tôi đã thấy một điềm báo rằng hôm nay không dễ gì được đồ ăn khất thực”. - Ðại đức nói sao? - “Tôi thấy một con rắn giống như cây mía ở trong gốc đằng sau cánh cửa. Ði tìm vật gì để ném nó, tôi gặp cục đá, giống như cục đường trong tô. Khi tôi ném cục đất vào con rắn, thì nó dương ra một cái mồng trông như xâu cá ở trong rỗ, và khi nó nhe răng để cắn cục đất, răng nó trông như những hạt gạo trong chum. Rồi nước bọt hòa lẫn nọc rắn phun ra khỏi miệng nó trong khi nó tức giận, trông như bơ để trong hủ”. Bà chủ nghĩ: “Không dễ gì bịp kẻ bợm già” và buộc lòng phải biếu Tỷ-kheo cây mía, nấu cơm cho ông, và cho luôn cả các vật dụng kia.

79. Nói xa gần đề tài chính là nói bóng gió. Nói vòng vo là nói xoay quanh đề tài.

80. Chê bai (mạt sát) gồm những cách như nhiếc móc là dùng mười cách mắng nhiếc, “đồ ăn trộm, đồ ngu, đồ điên, đồ lạc đà, đồ bò, đồ lừa, giống phạm giới, giống địa ngục, đồ súc sinh, đồ giống gì đâu”. Dèm pha là nói lời khinh bỉ. Chê trách là kể những lỗi lầm. Nói mỉa là khi một người nào không bố thí, vị ấy bảo rằng: “Thật là vua các thí chủ”. Nói mỉa đủ cách, đưa ra những lý lẽ, gọi là mỉa mai liên tục hoặc mỉa mai quá đáng, như nói về một người không bố thí: “Ðó là một đại thí chủ”. Nhạo báng là nói chế nhạo, như: “Sống cái kiểu gì mà ăn hết cả thóc giống”. Nhạo báng liên tục như bảo: “Sao? Người ấy mà bạn nói không phải thí chủ? Ðối với ai, y cũng cho một lời ‘Không có’ đấy chứ”.

81. Bôi nhọ là chỉ trích, (hạ giá) người nào. Bôi nhọ liên tục là chê bai đủ cách. Mách lẻo là đem chuyện nhà này sang nhà khác, làng này sang làng khác, vùng này đến vùng khác, vì nghĩ “như vậy chúng sẽ cúng cho ta, vì sợ ta đi nói chỗ nầy chỗ kia”. Cắn sau lưng hay nói hai lưỡi, là chỉ trích người nào sau lưng họ, sau khi đã nói tốt trước mặt, như cắn vào thịt sau lưng người ta khi họ không thấy được. Ðó là thái độ của người không thể nhìn ngay trước mặt người. Tất cả cách nói trên đây, gọi là chê bai hay mạt sát (nippesikatā), vì nó nạo hết (nippeseti) chùi hết những đức tính của người, hoặc vì đấy là sự mưu cầu lợi dưỡng bằng cách nghiền nát, tán nhỏ đức tính của người, như nghiền nát các loại hoa để mà lấy hương.

82. Lấy lợi cầu lợi: Cầu là săn đuổi. Ðược chỗ này (đoạn 65) là xin được ở nhà này. Chỗ khác là nhà khác. Tìm là mong muốn. Kiếm chác là săn đuổi một cách liên tục, như chuyện vị Tỷ-kheo đi khắp nơi, đem những vật đã xin bố thí cho trẻ con trong các gia đình để cuối cùng được cúng sữa và cháo.

83. Những ác pháp như (đoạn 42.c): cần hiểu là kể cả những việc nói trong kinh Phạm võng (Brahmajāla): “Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dù đã dùng các món ăn do tín thí cúng, vẫn có tự nuôi sống bằng những tà mạng, như xem tướng tay chân, chiêm tướng, triệu trướng, mộng tướng, chiêm tướng, triệu tướng, mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, tế muỗng...” (D I 9).

84. Tà mạng này do đó kéo theo sự vi phạm sáu học giới đã được chế liên hệ đến lối sinh sống, nó còn kéo theo những ác pháp khởi đầu bằng lừa đảo, ba hoa, hiện tướng, chê bai, lấy lợi cầu lợi. Bởi vậy, chính cái việc tránh xa mọi thứ tà mạng mới được gọi là giới thanh tịnh sinh mạng. Cái mà chúng ta nhờ vào để sống, gọi là sinh mạng. Ðó là cái gì? Là nỗ lực để tìm kiếm những vật dụng. Thanh tịnh sinh mạng là làm sạch cách sống.

85. Giới liên hệ bốn vật dụng. Kinh văn: “Chân chánh giác sát, vị Tỷ-kheo thọ dụng y phục chỉ để ngăn ngừa lạnh nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của bọ chét, ruồi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, chỉ với mục đích che đậy sự hổ thẹn. Chân chánh giác sát, vị ấy thọ dụng món ăn khất thực, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp, mà chỉ để thân này được sống lâu, được bảo dưỡng, để khỏi bị tổn hại, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ: “Như vậy ta sẽ diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, ta sẽ sống khỏe mạnh, không lỗi lầm và an ổn”. Chân chính giác sát vị ấy thọ dụng trú xứ để ngăn ngừa nóng lạnh, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, chỉ để tránh những nguy hiểm của thời tiết, chỉ với mục đích sống độc cư nhàn tịnh. Chân chánh giác sát, vị ấy thọ dụng nhu yếu về dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn chặn các cảm giác thống khổ đã sinh để được ly khổ hoàn toàn? (M I 10)

Giải: chân chánh giác sát là sự tác ý (manasikāra) kể như một phương tiện và một con đường, nó có nghĩa biết rõ, xét rõ. Ðó là xét rõ như sau: “để ngăn ngừa lạnh” v.v...

86. Y phục chỉ bất cứ loại nào kể tự áo lót. Vị ấy thọ dụng dùng, mặc (áo trong). Chỉ: không ngoài mục đích. Mục đích của thiền giả khi thọ dụng không ngoài những chuyện ngăn ngừa lạnh v.v... Ngăn ngừa lạnh: ngăn cái lạnh thuộc bất cứ loại nào, từ bên trong do tứ đại xáo trộn, hay lạnh từ bên ngoài do thời tiết thay đổi. Ngăn ngừa nóng: là hơi nóng của lửa, do đám cháy rừng v.v...

87. Ngăn ngừa sự xúc chạm của bọ chét, ruồi, sức nóng mặt trời, các loài bò sát: “bọ chét” là thứ ruồi muỗi hút máu thú vật. Gió có hai: gió có bụi và gió không bụi. “Bò sát” là những sinh vật dài như rắn v.v... Di chuyển bằng cách bò trên mặt đất. “Sự xúc chạm” có hai: xúc chạm bằng cách bị chúng cắn và xúc chạm bằng cách bị chúng bò trên mình.

88. Chỉ để che đậy sự hổ thẹn: “Chỉ”: là nói mục đích bất biến, vì “che đậy sự hổ thẹn” là mục đích có tính cách bất biến, còn các việc khác (ngăn ngừa) là những mục đích có tính cách giai đoạn, của sự thọ dụng y phục. “Sự hổ thẹn”: chỉ bộ phận sinh dục, vì khi một phần nào của bộ phận ấy lộ ra, thì tâm “tàm” bị thương tổn. Bộ phận ấy gọi là “sự hổ thẹn” (hirikopīna) vì nó gây ra sự xáo trộn hổ thẹn (hiri-kopana).

89. Ðồ ăn khất thực là đủ loại thức ăn, gọi là piṇḍapāta (bỏ vào từng nắm) vì đồ ăn ấy được thả vào (patitattā) trong bình bát của Tỷ-kheo trong khi vị ấy đi xin ăn (piṇḍolya). Hoặc, sự thả vào bát từng nắm (piṇḍa), sự thu thập (sannipāta) các của bố thí (bhikkhā) chỗ này chỗ nọ. Không phải để vui đùa: không vì mục đích say mê, như các võ sĩ, say mê có sức mạnh, hùng tính v.v... Không phải để trang sức, không với mục đích làm dáng, như thể nữ của vua, dâm nữ v.v... muốn có chân tay tròn trịa. Không để tự làm đẹp, không vì mục đích trang điểm, như các đào kép, diễn viên vũ công v.v... Muốn có làn da sáng sủa.

90. Câu “không để vui đùa” được nói là để từ bỏ si tăng trưởng, “không để đam mê” là từ bỏ sân tăng trưởng, “không phải để trang sức và làm đẹp” là để từ bỏ tham tăng trưởng. Và, hai câu đầu là để ngăn ngừa trói buộc khởi lên cho chính bản thân, còn câu thứ ba là ngăn ngừa trói buộc khởi lên cho người khác.

91. Thân nầy, cái xác thân gồm bốn đại. Ðể được sống lâu, là để tiếp tục sống. Ðược bảo dưỡng là để khỏi gián đoạn mạng sống. Vị ấy sử dụng đồ ăn khất thực vì mục đích duy trì tiếp tục thân xác, như chủ nhân một ngôi nhà cũ sử dụng những cột chống đỡ mái nhà, như người đánh xe dùng dầu mỡ cho trục xe, không phải để vui đùa, trang sức, đam mê, làm bộ. Hơn nữa, “sống lâu” là chỉ mạng căn. Vậy, câu “để thân nầy được sống lâu, được bảo dưỡng” có nghĩa là, vì mục đích duy trì mạng căn trong thân xác này.

92. Ðể khỏi bị tổn hại: cơn đói được gọi là “tổn hại” vì nó làm sầu não. Vị ấy dùng đồ ăn khất thực vì mục đích chấm dứt cái hại ấy, như thoa dầu lên vết thương, lấy nóng chống lạnh v.v... Ðể hộ trì phạm hạnh: vì mục đích hỗ trợ cho sự sống trong sạch ở trong giáo lý và trong đạo lộ. Bởi vì, khi vị Tỷ-kheo dấn mình vào việc vượt qua sa mạc sinh tử bằng phương tiện Ba môn học, dựa trên sức khỏe thân xác mà điều kiện cần thiết chính là thức ăn, thì việc xử dụng thức ăn cũng giống như người muốn qua sa mạc phải ăn thịt con mình, hoặc như người muốn qua sông dùng bè, vượt biển dùng tàu vậy.

93. Như thế nầy ta sẽ diệt trừ những cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới: như người bệnh dùng thuốc, vị Tỷ-kheo dùng đồ ăn khất thực nghĩ: “Do dùng thức ăn này, ta sẽ chấm dứt cảm thọ cũ là cơn đói, mà không cho khởi cảm thọ mới là tham dục. Lại nữa, 'cảm thọ cũ' là cảm thọ do duyên những nghiệp trước, bây giờ khởi lên vì ăn uống không điều độ, không thích hợp. Ta sẽ chấm dứt cảm thọ cũ ấy, chận đứng nó bằng cách ăn uống điều độ, thích hợp. Và 'các cảm thọ mới' là cảm thọ sẽ khởi lên trong tương lai, do sự tích lũy nghiệp hiện tại là sử dụng đồ khất thực một cách không thích đáng. Ta cũng sẽ không cho khởi lên các cảm thọ mới ấy, bằng cách dùng đồ khất thực cho thích đáng”. Những gì trình bày trên đây bao hàm việc sử dụng chánh đáng những vật cần thiết, từ bỏ ép xác khổ hạnh, nhưng không bỏ lạc thọ hợp pháp.

94. Ta sẽ sống khỏe mạnh: “Trong thân này, được tồn tại nhờ những vật dụng, ta sẽ có sức khỏe do ăn uống điều độ, sức khỏe ấy được gọi là sự 'dai sức' vì sẽ không có mối nguy làm dứt mạng căn, hay ngăn cản bốn uy nghi”. Giác sát như vậy, vị Tỷ-kheo dùng đồ khất thực như người mắc bệnh kinh niên dùng thuốc, Sống không lỗi, an ổn: Vị ấy dùng đồ khất thực, nghĩ: “Ta sẽ có được sự không lỗi bằng cách tránh xin, nhận và ăn một cách không thích đáng, và ta sẽ sống an ổn bằng cách ăn uống điều độ”. Hoặc vị ấy nghĩ: “Ta sẽ được sự không lỗi, nhờ không có mặt những lỗi lầm như chán mệt, lừ đừ, buồn ngủ, bị người trí chê trách v.v... Do duyên ăn uống vô độ gây ra. Và ta sẽ có sự sống an ổn nhờ sức khỏe do duyên ăn tiết độ”. Hoặc vị ấy thọ dụng đồ khất thực, nghĩ rằng: “Ta sẽ được sự không lỗi, nhờ từ bỏ những lạc thú nằm dài, lừ đừ biếng nhác vì đã không ăn quá độ. Và ta sẽ có một đời sống an ổn bằng cách chế ngự bốn uy nghi, nhờ ăn giảm mức tối đa chừng bốn năm miếng”. Vì có câu:

Ăn còn bốn năm miếng
Thì nên dừng, uống nước
Như vậy người tinh cần
Sẽ sống được an ổn. (Thag. 983)

Những gì được nói trên đây có thể hiểu là sự phân biệt rõ mục đích, và thực hành trung đạo.

95. Trú xứ (senāsana) đây là cái giường (sena) và chỗ ngồi (āsana). Vì bất cứ chỗ nào ta ngủ (seti) dù trong một ngôi chùa, hay một cái chòi dựa vách, v.v... Thì đó là cái giường, chỗ ngủ; và bất cứ chỗ nào ta ngồi (āsati) thì đó là chỗ ngồi hay tòa (āsana). Cả hai là sàng tọa hay trú xứ.

Chỉ để tránh những nguy hiểm của thời tiết và sống độc cư: thời tiết trong nghĩa gây nguy hiểm (parasahana), gọi là “nguy hiểm của thời tiết” (utu-parissaya). Những trình trạng khí hậu không thích hợp, làm thân xác rối loạn kéo theo sự rối loạn của tâm, có thể tránh được nhờ xử dụng trú xứ. Trú xứ cốt để tránh những khổ này, và để hưởng độc cư. Dĩ nhiên, sự tránh nguy hiểm của thời tiết còn được nói trong câu “ngăn ngừa lạnh” v.v... Nhưng, cũng như trong trường hợp dùng y phục, sự che đậy hổ thẹn được xem là mục đích bất biến, còn những mục đích khác đều có tính cách giai đoạn, ở đây cũng vậy, nhắc lại cốt để nhấn mạnh mục đích bất biến là tránh nguy hiểm của thời tiết, còn những mục đích khác chỉ là giai đoạn. Lại nữa “thời tiết” chỉ khí hậu, rõ rệt và tiềm ẩn. Nguy hiểm rõ rệt là sư tử, cọp beo, v.v... Trong khi nguy hiểm tiềm ẩn là tham sân si v.v... Khi một Tỷ-kheo biết và giác sát như vậy trong khi dùng loại trú xứ nào để những món không phòng hộ và do thấy những sắc pháp không thích đáng, thì vị ấy được gọi là có “chân chánh giác sát, xử dụng trú xứ để tránh những nguy hiểm của thời tiết”.

96. Nhu yếu về dược phẩm trị bệnh: “trị” có nghĩa là đi ngược lại (paccaya) với bệnh tật (pati-ayana), chỉ bất cứ thuộc loại nào thích hợp để chữa lành: dầu, mật, sữa, bơ v.v... Gọi là “dược phẩm trị bệnh”. Danh từ Pāḷi parikkhāra dịch là “nhu yếu” ở đây, nhưng ở đoạn khác, nó có nghĩa là đồ trang bị, phụ tùng. Ở đây, cả hai ý nghĩa đều dùng được, vì dược phẩm trị bệnh là đồ trang bị để duy trì sự sống, nó che chở ta bằng cách ngăn ngừa các khổ não có hại sự sống, đồng thời, nó là đồ phụ tùng, vì là vật để kéo dài mạng sống. Do vậy gọi là “nhu yếu”.

97. Ngăn chận các cảm giác thống khổ đã sinh: “thống khổ” là sự xáo trộn tứ đại, và những bệnh do sự xáo trộn ấy gây ra, như ung nhọt, phung v.v... “Cảm thọ thống khổ” là những cảm giác đau đớn, những cảm giác phát sinh do bất thiện nghiệp. Ðể được ly khổ hoàn toàn: để hoàn toàn thoát khỏi các khổ.

Trên đây là giải thích ý nghĩa của Giới liên hệ đến vật dụng. Nói tóm lại, đặc tính của nó là dùng vật sau khi chân chánh giác sát.

98. (a) Trong giới gồm bốn phần này, sự chế ngự của Giới bổn được thọ trì do lòng tin, vì sự tuyên thuyết những học giới không thuộc lãnh vực của các đệ tử, bằng chứng là đức Phật từ chối không cho phép các đệ tử chế ra học giới. (Vin, iii, 9-10). Khi đã vì lòng tin mà thọ lãnh những học giới Phật chế, thì ta phải viên mãn học giới ấy, bất kể sinh mạng, như kinh nói:

Như gà mái giữ trứng
Như trâu mao giữ đuôi
Như người giữ con cưng
Hay một mắt còn lại
Cũng vậy khi đã nguyện
Hộ trì các cấm giới
Hãy luôn luôn cẩn thận
Và biết sợ phạm giới.

Ðức Phật còn dạy thêm: “Khi ta đã tuyên bố một học giới cho các đệ tử, các đệ tử ta không được vượt qua học giới ấy, dù có phải mất mạng” (A IV 201)

99. Câu chuyện những vị trưởng lão bị giặc trói bằng dây cỏ được kể như sau: Trong rừng Mahāvaṭṭanī, bọn cướp trói nằm một vị thượng tọa với một thứ dây màu đen. Trong bảy ngày nằm đấy, ngài tăng trưởng được tuệ quán, chứng quả Bất Hoàn, từ trần và được sanh lên cõi Phạm thiên. Ở Tích lan, một trưởng lão cũng bị giặc trói nằm bằng cây leo trong một khu rừng. Khi rừng phát hỏa mà cây leo chưa được cắt, ngài an lập trong tuệ và đạt Niết Bàn ngay khi mất. Khi trưởng lão Abhaya, giảng sư Trường bộ, đi qua đấy cùng với 500 Tỷ-kheo, trông thấy sự việc, hỏa táng nhục thân ngài và xây tháp thờ. Bởi thế, các vị thiện gia nam tử đời sau cũng nên noi gương ấy, giữ các học giới thật thanh tịnh, từ bỏ mạng sống nếu cần, còn hơn là vị phạm giới luật mà đức Thế tôn đã chế ra.

100. (b) Trong khi sự chế ngự bằng giới bổn được thực hành với đức tin, thì chế ngự các căn môn được thực hành nhờ chánh niệm tỉnh giác. Khi hoạt động của các căn được y cứ vào chánh niệm, thì tham dục và các thói khác không có cơ hội xâm nhập. Như bài pháp về lửa: “Này các Tỷ-kheo, thà lấy thỏi sắt nóng đỏ nung đốt con mắt đi, còn hơn là nắm giữ các tướng riêng của sắc do mắt nhận biết” (S. iv, 168) Sự chế ngự này cần được thực hành bằng cách dùng chánh niệm liên tục ngăn sự chấp giữ những tướng ngoài có thể kích động tâm tham v.v...

101. Nếu không thực hành như vậy, thì giới chế ngự bằng Giới bổn không được lâu bền, như trồng trọt không rào giậu. Giới khi ấy sẽ bị giặc phiền não xâm nhập, như một khu làng mở cổng sẽ bị trộm cướp xâm nhập. Và tham dục lẻn vào tâm vị ấy như mưa dột ở mái nhà không lợp kín. Kinh dạy:

Giữa các pháp sắc, thanh...
Căn môn phải phòng hộ
Cửa mở không gìn giữ
Kẻ cướp vào xóm làng.
Như mái nhà vụng lợp
Sẽ bị mưa lọt vào
Dục tham cũng lẻn vào
Tâm không khéo tu tập (Dhp 13).

102. Khi được thực hành như vậy, giới thuộc sự chế ngự của Giới bổn sẽ được lâu bền, như trồng trọt có rào giậu kỹ. Giới khi ấy sẽ không bị giặc phiền não xâm nhập, như khu làng với cổng khéo phòng vệ thì không bị trộm cướp lẻn vào. Và tham dục không lẻn vào tâm, như mưa không dột trong một ngôi nhà lợp kín: Giữa các pháp sắc thanh Căn môn phải phòng hộ Cửa đóng, khéo gìn giữ cướp không vào được làng.

Như mái nhà khéo lợp
Mưa không thể lọt vào
Dục tham không lọt được
Vào tâm khéo tu tập (Dhp 14).

103. Tuy nhiên, đây mới là giáo lý thượng. Tâm này được xem là “biến đổi nhanh chóng” (A I 10), bởi vậy, sự phòng hộ các căn môn phải được thực hành bằng cách tẩy trừ tham ái đã khởi, với pháp quán bất tịnh. Như đại đức Vaṅgīsa đã làm. Một hôm, trong lúc ngài đi khất thực, sau khi xuất gia không bao lâu, tham dục dấy lên nơi tâm lúc thấy một phụ nữ. Ngài liền bạch tôn giả Ānanda:

Dục ái đốt cháy tôi
Tâm tôi bị thiêu đốt
Xin ngài vì thương xót
Nói pháp tiêu lửa hừng (S I 188).

Tôn Giả nói:

Chính do điên đảo tưởng
Tâm ngươi bị thiêu đốt
Hãy từ bỏ tịnh tướng
Hệ lụy đến tham dục
Nhìn các hành vô thường
Khổ đau, không phải ngã.
Dập tắt đại tham dục
Chớ để bị cháy dài
Hãy tu quán bất tịnh
Nhất tâm, khéo định tĩnh
Tu tập tâm niệm trú.
Hành nhiều, hạnh yểm ly
Hãy tập hạnh vô tướng
Ðoạn diệt mạn tùy miên
Nhờ quán sâu kiêu mạn
Hạnh người được an tịnh (S I 188).

Vị đại đức trừ tham dục và tiếp tục đi khất thực.

104. Lại nữa, một Tỷ-kheo viên mãn Giới phòng hộ các căn hãy như đại đức Cittagutta (Hộ Tâm) cư trú trong hang động lớn ở Kuraṇḍaka, và đại đức Mahā-Mitta ở ngôi đại tự viện Coraka.

105. Trong hang động lớn ở Kuraṇḍaka, có một tranh đẹp diễn tả sự xuất gia của bảy vị Phật. Một số Tỷ-kheo du hành đến đấy, trông thấy bức tranh bảo: “bạch đại đức, tranh thật đẹp”. Vị đại đức nói: “Chư hiền, tôi ở đây hơn sáu mươi năm, mà không biết có tranh ở đấy hay không có, bây giờ, tôi mới biết được, nhờ chư hền có mắt”. Vị trưởng lão, mặc dù sống ở đó rất lâu, mà không bao giờ ngước mắt lên nhìn hang động. Tại lối vào hang, có một cổ thụ lớn, mà vị trưởng lão cũng không bao giờ nhìn lên nó, ngài chỉ biết là nó có hoa, khi trông thấy những cánh hoa rơi trên mặt đất.

106. Vua nghe được giới hạnh vị ấy, nên cho triệu thỉnh ngài, ba lần trưởng lão đều từ chối cả ba. Vua bèn ra lệnh niêm phong tất cả bầu sữa phụ nữ và bảo, nếu ngài không chịu đến thì tất cả trẻ con còn bú phải chết đói. Vì lòng thương tưởng những đứa trẻ, vị trưởng lão ra đi. Khi nghe ngài đến, vua bảo: “Thỉnh ngài vào cung. Ta muốn thọ giới”. Sau khi ngài được đưa vào nội cung, vua đến đảnh lễ, cúng dường và bảo: “bạch đại đức, hôm nay chưa tiện. Mai trẫm sẽ thọ giới”. Vua và hoàng hậu đảnh lễ ngài rồi lui. Bảy ngày trôi qua như vậy, mỗi khi đức vua hay hoàng hậu đến, ngài đều nói một câu: “Mong vua được an lành”.

107. Các Tỷ-kheo hỏi: “Tại sao, bạch đại đức, dù với vua hay hoàng hậu ngài đều nói: mong vua được an lành? Trưởng lão đáp: “chư hiền, ta không để ý đó là vua hay là hoàng hậu”. Sau bảy ngày, thấy vị trưởng lão không khoái sống ở cung điện, vua bèn để cho ngài đi. Ngài trở về hang động. Ban đêm, khi ra đi kinh hành, có vị thần ở trên dây to trước hang đứng cầm bó đuốc, ngài bỗng sáng tỏ trong đề tài thiền quán. Vào lúc nửa đêm, ngài chứng A-la-hán quả, hang động vang dội.

108. Do vậy, khi một thiện nam tử muốn tìm hạnh phúc cho mình,

Thì mắt đừng đói sắc
Như con khỉ trong rừng
Như con nai hoang dã
Như đứa trẻ háo động.
Hãy đi mắt nhìn xuống
Phía trước một tầm cày
Ðể khỏi sa mãnh lực
Của cái tâm vượn khỉ.

109. Mẹ của trưởng lão Mahā-Mitta bị một ung độc. Bà nói với người con gái cũng là một ni cô: “Này cô, hãy đến anh cô, nói cho ông biết tôi bị đau, và xin về ít thuốc”. Ni cô đến bạch trưởng lão. Ngài nói: “Ta không biết hái rễ cây để chế thuốc, nhưng ta sẽ bảo cho ngươi một toa thuốc: từ khi xuất gia, ta chưa bao giờ vi phạm giới phòng hộ căn môn bằng lối nhìn hình dáng phụ nữ với tâm ô nhiễm. Với lời nói đúng sự thật này, mong rằng mẹ ta sẽ khỏi bệnh. Ngươi hãy trở về bảo vị tín nữ như vậy, và chà xát cho bà”. Ni cô trở về kể lại cho bà mẹ nghe và làm theo lời trưởng lão dặn. Ngay tức thì, ung độc tan biến trên thân bà. Bà đứng dậy thốt lời mừng rỡ: “Ôi, nếu đức thế tôn còn sống, thế nào Ngài cũng lấy tay sờ đầu thọ ký cho một vị Tỷ-kheo như con ta”.

110. Bởi vậy, một thiện nam tử xuất gia trong Giới luật này,

Hãy như trưởng lão Mitta
Thực hành một cách viên mãn
Giới phòng hộ các căn

111. (c) Trong khi giới phòng hộ các căn được thực hiện nhờ chánh niệm thì giới thanh tịnh sinh mạng cần được thực hiện bằng sự tinh tấn, vì người tinh tấn thì từ bỏ được tà mạng, từ bỏ sự tìm cầu bất chánh, bằng cách tìm cầu chân chánh là khất thực, v.v... Tránh những nguồn gốc không trong sạch như tránh rắn độc, và chỉ dùng những vật dụng có nguồn gốc trong sạch.

112. Ðối với người không thọ đầu đà thì bất cứ nhu yếu phẩm nào có được từ nơi tăng chúng, từ một nhóm Tỷ-kheo hoặc từ những cư sĩ có đức tin vào sự giảng pháp của vị ấy, v.v... đều được gọi là “có nguồn gốc thanh tịnh”. Nhưng những thứ kiếm được do duyên khất thực thì lại có nguồn gốc hoàn toàn trong sạch. Với người thọ đầu đà, thì thực phẩm thanh tịnh là thực phẩm có được do khất thực và do những người có lòng tin ở đức tính khổ hạnh của vị ấy. Nếu vị ấy sử dụng nước tiểu để trị bệnh, và chỉ ăn những hạt dẻ rụng, vỡ ra, thì đầu đà hạnh của vị ấy thật xứng đáng, vị ấy được xem là một Tỷ-kheo tối thượng trong số những vị thừa tự gia tài Thánh pháp (A II 28).

113. Về y phục và những nhu yếu khác, một Tỷ-kheo thanh tịnh sinh mạng không được nói những cách nói ám chỉ, nói quanh, v.v... Nhưng về một trú xứ thì vị không thọ đầu đà hạnh có thể “nói ám chỉ”.

114. Ví dụ khi một Tỷ-kheo đang sửa soạn đất để làm một chỗ ở, và được hỏi: “Bạch đại đức, ai xây cất?” Vị ấy trả lời: “Không ai cả”; Một lối “ám chỉ” khác, là hỏi: “Cư sĩ ở đâu?” — “Bạch đại đức, con ở trong một khu biệt thự” — “Ồ cư sĩ nhưng Tỷ-kheo lại không được ở biết thự”. “Nói quanh” là như nói: “Trú xứ của tăng chúng đã chật ních”; hoặc một kiểu nói gián tiếp nào khác.

115. Nhưng về dược phẩm trị bệnh, thì tất cả lối nói ám chỉ, quanh co đều được phép. Nhưng khi đã khỏi bịnh có được phép dùng những thứ dược phẩm đã xin được nhờ lối nói ấy hay không. Những Luật sư thì cho rằng được, còn những nhà y cứ vào kinh thì bảo mặc dù không phạm, song mạng sống như vậy là hết thanh tịnh, cho nên không được.

116. Tuy nhiên, một người không dùng lối nói ám chỉ quanh co, mặc dù Thế tôn cho phép, một người thiểu dục chỉ dùng những vật có được một cách chân chánh, không nói quanh co dù có phải hại tới sinh mạng, một vị như thế được gọi là tối thượng trong đời sống độc cư nhàn tịnh, như trưởng lão Xá Lợi Phất (Sāriputta).

117. Một thời tôn giả sống trong khu rừng cùng với Tôn Giả Mục Kiền Liên. Một hôm, ngài bị chứng đau ruột trầm trọng. Vào buổi chiều, tôn giả Mục Kiền Liên đến săn sóc ngài, hỏi: “Hiền giả, ngày xưa mỗi khi đau như vậy, cái gì làm cho hiền giả bớt đau? Tôn Giả trả lời “Khi tôi còn ở nhà, mẹ tôi thường trộn bơ, mật đường, v.v... Và cho tôi ăn cháo với sữa tươi. Tôi ăn xong thì thấy đỡ.

-"Ðược rồi, hiền giả. Nếu hiền giả hoặc tôi có phước đức, thì có lẽ ngày mai, chúng ta sẽ được một ít những thứ ấy”.

118. Bấy giờ có một vị thần cây ở gần nghe lỏm câu chuyện, nghĩ: “Ta sẽ cúng cháo cho tôn giả ngày mai”. Rồi vị ấy đến gia đình thường ủng hộ tôn giả, nhập vào thân của đứa con trai lớn, làm cho nó đau, và bảo quyến thuộc của nó rằng: “Nếu làm một thứ cháo như vậy như vậy cho tôn giả, thì ta mới giải cứu cho đứa bé”. “Dù thần không bảo, chúng tôi vẫn cúng dường tôn giả những vật cần dùng cơ mà”. Hôm sau, họ sửa soạn món cháo như tôn giả cần.

119. Tôn Giả Mục Kiền Liên hôm sau đến khất thực tại nhà ấy. Gia chủ đổ đầy bát của ngài thứ cháo đã làm sẵn. Tôn Giả toan đi thì thí chủ bảo: “Bạch đại đức cứ dùng đi. Chúng con sẽ cúng thêm”. Sau khi tôn giả ăn xong, họ cúng thêm bát nữa để Tôn Giả đem về. Thấy cháo, Tôn Giả Xá Lợi Phất nghĩ: cháo này rất tốt, nhưng nó có được bằng cách nào? Khi thấy nó đã có được do cách như vậy, Tôn Giả nói: “Hiền giả, món ăn khất thực này không thể dùng được”.

120. Thay vì nghĩ: “Vị ấy không thèm ăn đồ khất thực do ta mang về” Tôn Giả Mục Kiền Liên cầm bát cháo lật úp lại. Khi cháo đổ ra trên đất, cơn đau của Tôn Giả Xá Lợi Phất tan biến, và từ đấy suốt đến bốn mươi lăm năm sau, không bao giờ trở lại.

121. Và Tôn Giả Xá Lợi Phất bảo bạn: “Hiền giả, dù ruột có lòi ra, kéo lê trên đất, ta cũng không bao giờ nên ăn cháo có được do lời nói ám chỉ”.

122. Bởi thế, trong mọi trường hợp:

Người xuất gia vì lòng tin
Hãy thanh tịnh mạng sống
Luôn chân chánh quán sát
Không tìm cầu bất đáng.

123. (d) Trong khi sự thanh tịnh sinh mạng được thực hành nhờ tinh tấn thì giới liên hệ đến bốn vật dụng phải được thực hành bằng trí tuệ, vì chỉ có người trí tuệ mới có thể thấy được những lợi ích và nguy hiểm trong bốn vật dụng. Hãy từ bỏ lòng tham đối với chúng, và giữ giới này bằng cách sử dụng những vật có được bằng cách hợp pháp, thích đáng, sau khi chân chánh giác sát với trí tuệ như đã nói ở trên.

124. Giác sát có hai: trong khi sử dụng và trong khi nhận vật. Sử dụng không lỗi là khi người nhận y v.v.. Quán sát chúng chỉ là bốn đại, đáng nhàm chán, và khi dùng cũng quán sát như vậy.

125. Có bốn cách sử dụng: Dùng như kẻ trộm, dùng như mắc nợ, dùng như hưởng gia tài và dùng như chủ. Một người không giới đức sử dụng bốn vật dụng, ngay cả tới việc ngồi trong hàng tăng chúng gọi là dùng như kẻ trộm. Một người có giới, mà không chân chính giác sát (quán) trong khi dùng, thì gọi là “dùng như mắc nợ”. Bởi thế, y phục phải được giác sát mỗi khi mặc, món ăn khất thực phải được giác sát trong từng miếng ăn. Người nào không làm được như vậy, thì hãy giác sát trước bữa ăn, sau bữa ăn, vào đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm.

Nếu mặt trời mọc mà chưa giác sát, thì vị ấy tự thấy như đã mắc nợ khi sử dụng bốn thứ. Trú xứ cũng cần giác sát mỗi khi dùng. Về dược phẩm trị bệnh, chân chánh giác sát trong cả hai thời, khi nhận và khi dùng, thì tốt. Nhưng khi nhận có giác sát, mà khi dùng không chánh niệm thì lỗi. Nếu khi nhận không có chánh niệm (giác sát) mà khi dùng có, thì không lỗi.

126. Thanh tịnh thuộc bốn loại: nhờ giáo lý, nhờ phòng hộ, nhờ tìm cầu và nhờ giác sát. Giới thuộc phòng hộ của giới bổn là thanh tịnh nhờ giáo lý. Giới thuộc phòng hộ các căn là thanh tịnh nhờ phòng hộ. Giới thuộc thanh tịnh sinh mạng là thanh tịnh nhờ tìm cầu, vì sự tìm cầu được thanh tịnh nơi người từ bỏ tà mạng. Giới thuộc bốn vật dụng là thanh tịnh nhờ giác sát. Do đó, mà trên đây nói, mặc dù khi nhận quên giác sát, mà khi dùng có giác sát thì không lỗi.

127. Sử dụng bốn thứ do bảy bậc Hữu học (bốn đạo, ba quả) gọi chung là “dùng như thừa tự”. Vì họ là những người con của Như lai, họ dùng những vật dụng như thừa hưởng gia tài của cha để lại. Mặc dù do cư sĩ cúng mà thật sự là của Phật, vì nhờ Phật mà họ được phép dùng. “Dùng như chủ” là với những vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn bị dục sai sử.

128. Về các cách dùng nói trên, dùng như chủ và như thừa tự thì ai cũng được phép. Nhưng dùng như mắc nợ thì không được, nói gì đến dùng như kẻ trộm. Nhưng một người có giới hạnh, mà dùng có giác sát, thì không nợ, vì nó trái lại với sự dùng như mắc nợ. Hoặc nó cũng được gồm trong sự “dùng như thừa tự”, bởi vì một người có giới đức cũng được gọi là bực Hữu học, vì có học giới.

129. Cách dùng tốt nhất là dùng như chủ, nên khi một Tỷ-kheo giữ giới liên hệ bốn vật dụng, vị ấy nên tác ý như vậy, và sử dụng sau khi giác sát như đã nói.

Ðệ tử có trí tuệ
Vâng giữ pháp Thế Tôn
Thường chân chánh giác sát
Rồi mới dùng thức ăn
Trú xứ và sàng tọa
Và cả nước giặt y
Như nước đổ lá sen
Tỷ-kheo không ô nhiễm
Bởi một vật dụng nào
Như đồ ăn khất thực
Trú xứ và sàng tọa
Cùng nước để giặt áo
Vì là sự hỗ trợ
Phải thời từ người khác
Vị ấy vừa biết đủ
Chân chánh giác sát luôn
Trong khi nhai và ăn
Trong khi thưởng thức vị
Xem nó như thứ dầu
Ðắp vết thương lở lói
Như thịt con trên sa mạc
Như dầu mỡ cho trục xe
Tỷ-kheo ăn không vọng tưởng
Thức ăn để sống còn”.

130. Liên hệ đến sự viên mãn giới thuộc về bốn vật dụng, có câu chuyện Sa-di cháu tôn giả Saṅgharakkhita. Vị này dùng bốn vật cần thiết sau khi giác sát, đã nói:

Thấy tôi thản nhiên ăn
Thầy tôi bèn dạy rằng
Sa-di không chế ngự
Thì coi chừng lưỡi bong
Nghe xong những lời Thầy
Tôi tinh cần nhiệt tâm
Trong thời thiền tọa
Ðắc A-la-hán quả
Tâm tư như trăng rằm
Các lậu hoặc đoạn tận
Không còn thọ thân sau

Bất cứ một người nào
Mong muốn chấm dứt khổ
Thì hãy dùng bốn vật
Sau khi chánh giác sát.

Trên đây nói về giới thuộc bốn loại: Giới thuộc sự phòng hộ theo Giới bổn, Giới thuộc sự phòng hộ các căn môn, Giới thuộc sự phòng hộ thanh tịnh sinh mạng và Giới thuộc bốn vật dụng.

131.

18). Bây giờ, hãy đề cập đến nhóm “năm loại” đầu tiên. Paṭisambhidā nói:

(a) Gì là giới thanh tịnh một phần? Ðó là học giới của người chưa nhập Tăng chúng.

(b) Gì là giới thanh tịnh hoàn toàn? Là học giới của các vị đã được nhập tăng chúng, đã thọ giới cụ túc.

(c) Gì là giới thanh tịnh đã viên mãn? Là giới của phàm phu hữu đức chuyên hành thiện, đang viên mãn hữu học đạo, không kể sinh mạng vì đã từ bỏ sự bám víu vào đời sống.

(d) Gì là giới thanh tịnh không lệ thuộc? Là giới của thanh văn đệ tử đã đoạn tận lậu hoặc, là giới của các bậc Giác ngộ không tuyên bố lên, giới của các đấng đã viên giác (PS I -3).

132 (a) Giới của những người chưa được hoàn toàn thâu nhận vào Tăng chúng, gọi là giới thanh tịnh một phần vì nó bị giới hạn bởi con số những học giới: 5, 8 hay 10 giới.

(b) Giới của người đã thọ cụ túc được nói như sau:

Chín ngàn triệu, một năm
Tám mươi triệu, một trăm năm mươi ngàn
Thêm ba mươi sáu, tổng số các học giới
Những giới luật này Thế Tôn Giảng
Dưới những đề mục để tuân hành
Bao gồm sự chế ngự theo Giới bổn.

[Con số trên đây tùy koṭi là bao nhiêu 1.000.000, 100.000 hay 10.000].

Mặc dù giới được kể bằng con số, song cần hiểu rằng đây là giới thanh tịnh không giới hạn, vì nó được thọ trì không dè dặt, không có những giới hạn như danh xưng, lợi dưỡng, quyến thuộc, thân thể hoặc sinh mạng. Như giới hạnh của Trưởng lão Mahā Tissa ở Cīragumba.

133. Vị này không bao giờ từ bỏ tư duy sau đây của một thiện nam tử:

“Tài sản nên bỏ để cứu chân tay
Chân tay phải bỏ để cứu mạng sống
Tài sản, chân tay và tánh mạng
Ðều nên bỏ để thực hành Chánh pháp!

134. Giới của phàm phu hữu đức từ khi được thâu nhận vào tăng chúng đã không có một ô nhiễm nào về ý, do tâm hoàn toàn thanh tịnh, giới ấy trở thành nguyên nhân gần nhất cho A-la-hán quả nên được gọi là Giới thanh tịnh viên mãn, như trường hợp hai cậu cháu là Trưởng lão Saṅgharakkhita (Tăng Hộ) và cháu ngài.

135. Trưởng lão tuổi trên sáu mươi đang nằm đợi chết. Tăng chúng đến hỏi ngài có đắc địa vị siêu thế gì không. Ngài bảo: “Ta không đắc địa vị nào siêu thế hết”. Khi ấy vị Tỷ-kheo trẻ hầu ngài bảo: “Bạch đại đức, mọi người, vì tưởng ngài đã đắc Niết Bàn, nên mới đi hàng chục dặm đường để đến đây. Họ sẽ vô cùng thất vọng, nếu ngài chỉ chết như một phàm phu thường tình “Hiền giả, vì muốn gặp đức Thế Tôn Metteyya (Di Lặc), nên ta không nổ lực để đắc tuệ giác. Vậy, bây giờ hiền giả hãy đỡ ta ngồi dậy, may ra có đắc chăng”. Vị Tỷ-kheo bèn đỡ ngài dậy, rồi đi ra. Khi ông vừa ra khỏi, trưởng lão liền đắc A-la-hán quả, và khảy móng tay ra hiệu Tăng chúng tụ lại, bạch ngài: “Bạch đại đức, ngài đã làm một việc khó, là hoàn thành thánh quả vào lúc lâm chung”. Chư hiền, việc ấy không khó. Nhưng ta sẽ bảo cho chư hiền biết là việc gì khó thật sự. Chư hiền, từ khi xuất gia cho tới ngày nay, ta không thấy có một hành vi nào ta làm mà không ý thức, không có chánh niệm kèm theo”.

Cháu của ngài cũng đắc quả A-la-hán như vậy, vào lúc năm mươi tuổi.

136.

“Nếu một người ít học
Lại không có giới đức
Sẽ bị người chê bai
Vì không học, không hạnh,

Nhưng nếu người ít học
Mà biết phòng hộ giới
Thì mọi người khen ngợi
Cũng như người có học

Nếu một người học nhiều
Mà không có giới đức
Sẽ bị chê không giới
Như thể người không học

Nếu người ấy học nhiều
Lại biết phòng hộ giới
Sẽ được khen cả hai
Về học và về giới

Bậc đệ tử đa văn
Giữ giới, có trí tuệ
Như vàng sông Diêm Phù
Ai mà chê trách được?

Chư thiên đều ca ngợi
Phạm thiên cũng tán dương” (A II 7)

137. (d) Thanh tịnh không dính mắc là giới của bậc hữu học, vì không dính mắc tà kiến, và như giới ở trưởng lão Tissa con trai vị địa chủ (Kuṭumbiyaputta-Tissa-Thera). Nhân vì muốn an lập trong quả vị A-la-hán nhờ giới hạnh này, ngài đã bảo những kẻ thù ngài như sau:

Ta đã bẻ gãy xương
Cả hai ống chân ta
Ðể hoàn thành lời hứa
Như lời ngươi đòi hỏi
Ta kinh khủng hổ thẹn
Nếu chết còn đèo tham
Sau khi nghĩ như thế
Ta chánh niệm tỉnh giác
Và khi mặt trời lên
Soi chiếu trên người ta
Ta đắc La hán quả (MA I 233).

138. Lại có một vị trưởng lão đau nặng không thể tự ăn. Ngài nằm quằn quại trên phân và tiểu đã bài tiết. Thấy vậy, một Tỷ-kheo trẻ bảo: “Ôi, thật đau khổ thay là sự sống!” Vị trưởng lão bảo Tỷ-kheo ấy: “Hiền giả, nếu bây giờ ta chết đi, thì chắc chắn ta sẽ được phúc lạc cõi trời, ta không hồ nghi gì về điều ấy. Nhưng cái hạnh phúc do sự đoạn dứt giới hạnh đem lại thì cũng như tình trạng ‘hạnh phúc’ từ bỏ học giới để hoàn tục”. Và ngài thêm: “Ta sẽ chết với giới hạnh của ta”. Khi nằm như vậy, ngài dùng tuệ quán sát bệnh mình và đắc A-la-hán. Sau khi đắc quả, ngài nói lên bài kệ:

Ta là một nạn nhân
Của chứng bệnh ngặt nghèo
Ðang tàn phá cơ thể
Với cơn đau khốc liệt
Như cánh hoa phong trần
Bị mặt trời thiêu đốt
Cơ thể này của ta
Cũng đang tàn tạ dần.
Không đẹp cho là đẹp
Bất tịnh cho là sạch
Uế nhơ bảo tốt tươi
Lòa mắt đều thấy thế.
Thân xác hủ bại này
Thối tha hôi hám thay
Bị đớn đau dằn vặt
Người ngu lại mê say
Ðể lạc mất con đường
Tái sinh lên thiên giới. (Jā. ii, 437)

139. (e) Giới của bậc A-la-hán, v.v... Gọi là giới an tịnh, vì không tất cả cấu uế, và vì rất thanh tịnh.

140.

19). Cuối cùng, nhóm năm loại thứ hai (xem đoạn 25) là từ bỏ, kiêng, tác ý (tư tâm sở), chế ngự và không phạm, thì như Paṭisambhidā nói:

(1) Về giới sát sanh:

  1. Từ bỏ sát sinh là giới
  2. Kiêng sát là giới
  3. Tư tâm sở (ý chí) là giới
  4. Chế ngự là giới
  5. Không phạm là giới

(2) Lấy của không cho: từ bỏ lấy của không cho là giới, v.v...
(3) Từ bỏ dâm dục là giới, ...
(4) Từ bỏ nói láo là giới, ...
(5) Từ bỏ nói độc ác là giới, ...
(6) Từ bỏ nói thô là giới, ...
(7) Từ bỏ nói vô ích là giới, ...
(8) Từ bỏ tham là giới, ...
(9) Từ bỏ sân là giới, ...
(10) Từ bỏ tà kiến là giới, ..

(11) Với hạnh xuất ly, từ bỏ tham dục là giới, v.v...
(12) Với vô sân, từ bỏ sân là giới, v.v...
(13) Với tưởng ánh sáng, từ bỏ hôn trầm là giới, v.v...
(14) Với không tán loạn, từ bỏ trạo cử là giới, v.v...
(15) Với trạch pháp, từ bỏ nghi là giới, v.v...
(16) Với tri kiến, từ bỏ chán nản là giới, v.v...
(17) Với hân hoan, từ bỏ chán nản là giới, ...

(18) Ở sơ thiền, từ bỏ năm thứ triền cái là giới...
(19) Nhị thiền, từ bỏ tầm tứ là giới...
(20) Tam thiền, từ bỏ hỉ...
(21) Tứ thiền, từ bỏ lạc và khổ...
(22) Không vô biên xứ, từ bỏ sắc tưởng, đối ngại tưởng, sai biệt tưởng là giới...
(23) Thức vô biên xứ, từ bỏ không vô biên xứ tưởng là giới...
(24) Vô sở hữu xứ, từ bỏ thức vô biên xứ tưởng là giới...
(25) Phi tưởng phi phi tưởng xứ, từ bỏ vô sở hữu xứ tưởng là giới...

(26) Quán vô thường, từ bỏ thường là giới...
(27) Quán khổ, từ bỏ lạc tưởng là giới...
(28) quán vô ngã, từ bỏ ngã tưởng là giới...
(29) Quán yểm ly, từ bỏ tưởng ưa thích là giới...
(30) Quán ly tham, từ bỏ tham là giới...
(31) Quán diệt, từ bỏ sanh là giới...
(32) Quán xả ly, từ bỏ thủ trước là giới...
(33) Quán hoại, từ bỏ tưởng kết hợp là giới...
(34) Quán (các hành) diệt, từ bỏ tích lũy nghiệp là giới...
(35) Quán biến đổi, từ bỏ tưởng về sự lâu bền là giới...
(36) Quán vô tướng, từ bỏ tướng là giới...
(37) Quán vô nguyện, từ bỏ dục là giới...
(38) Quán không, từ bỏ tà giải (cố chấp) là giới...
(39) Quán các pháp thuộc tăng thượng tuệ, từ bỏ tà giải do chấp thủ là giới...
(40) Với chánh tri kiến, từ bỏ tà giải do si là giới...
(41) Quán nguy hiểm, từ bỏ tài giải do y cứ vào các hành là giới...
(42) Với tư duy, từ bỏ không tư duy là giới...
(43) Với quán “quay đi”, từ bỏ tà giải do trói buộc là giới...

(44) Dự Lưu đạo, từ bỏ cấu uế do tà kiến là giới...
(45) Nhất Lai đạo, từ bỏ các cấu uế thô là giới...
(46) Bất Hoàn đạo, từ bỏ cấu uế còn sót lại (dư tàn) là giới...
(47) A-la-hán đạo, từ bỏ tất cả cấu uế là giới, kiêng giữ là giới, tác ý là giới, chế ngự là giới, không phạm là giới.

“Những giới ấy đưa đến bất hối, hân hoan hỉ, khinh an, lạc tập hành (thói quen nhờ lập đi lập lại) đến tu tập, đào luyện, cải thiện, đến điều kiện cho định, trang bị cho định, đưa đến viên mãn, hoàn toàn viễn ly, ly tham, đưa đến sự tịch diệt, an ổn, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn” (PS I 466-7).

[ Chú thích: Bảng kê trên đây cho thấy rõ những giai đoạn trong sự tiến triển bình thường từ vô minh đến quả vị A-la-hán, gồm các nhóm sau:
I. Giới là từ bỏ mười bất thiện nghiệp (1)-(10).
II. Ðịnh:

  • A. Từ bỏ bảy chướng ngại do định bằng các pháp ngược lại với chúng (11)-(17);
  • B. Tám định chứng và các pháp nào được từ bỏ trong mỗi loại định (18)-(25).

III. Tuệ:

  • A. Quán: mười tám pháp quán chính yếu khởi từ bảy quán (26)-(43);
  • B. Ðạo Lộ: bốn đạo, và các pháp từ bỏ ở mỗi đạo (44)-(47). ]

141. “Từ bỏ” nghĩa là không khởi lên các bất thiện pháp như sát sinh, v.v... Nhưng sự từ bỏ một pháp bất thiện sẽ hỗ trợ, nâng đỡ một thiện pháp do nghĩa sự từ bỏ ấy làm nền tảng cho thiện, tập trung thiện ấy bằng cách ngăn sự do dự, nên gọi là giới (Sīla) với nghĩa phối hợp (Sīlana), nghĩa là nâng đỡ và tập trung (xem đoạn 19). Bốn việc còn lại chỉ sự có mặt của ý chí kiêng làm điều này điều khác, ý chí kể như sự tác ý về hai việc “kiêng và chế ngự” ấy, và ý chí kể như sự vô phạm ở nơi một người không phạm giới này giới nọ.

142. Ðến đây, câu hỏi thứ năm: “có mấy loại giới” đã được giải quyết xong.

143. Còn lại là: Gì làm giới ô nhiễm, gì làm giới thanh tịnh?

Trả lời là sự rách nát của giới gọi là ô nhiễm, và không rách nát gọi là thanh tịnh. Sự “rách nát” của giới là phạm giới do vì lợi dưỡng, tiếng khen, (danh xưng) v.v... Và do bảy trói buộc của nhục dục. Khi một người vi phạm học giới ở chặn đầu hay chặn cuối của đường tu, thuộc về bất cứ giới nào nằm trong bảy “tụ” (là bảy nhóm giới luật Tỷ-kheo), thì giới của vị ấy gọi là bị rách, như một tấm vải bị cắt ở biên. Nhưng khi vị ấy phạm giới nửa chừng tu học, thì gọi là giới bị “lủng”, như tấm vải bị cắt ở giữa. Khi phạm giới liên tiếp hai ba lần, giới của vị ấy gọi là “bị ố”, như một con bò toàn thân đen hay đỏ, mà bỗng có một mảng lông khác màu ở lưng hay bụng. Khi vị ấy phạm giới thường xuyên, thì giới vị ấy gọi là “lốm đốm”, như con bò trên toàn thân có những đốm khác màu với da của nó.

144. Cũng vậy, giới không nguyên vẹn, là khi còn bảy trói buộc của dục, như đức Thế Tôn dạy: “Này ba la môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn tự hào sống phạm hạnh chân chánh, vì họ không thực sự hành dâm với phụ nữ. Nhưng họ lại để cho phụ nữ chà xát, thoa bóp, tắm, kỳ cọ, thích thú khoái lạc trong đó, thỏa mãn trong đó. Ðây gọi là giới bị rách, bị lủng, hoen ố, bị lốm đốm, nơi người sống phạm hạnh. Người ấy được gọi là sống đời phạm hạnh không sạch. Cũng như một người bị trói bởi dây trói dục vọng, vị ấy sẽ không thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bị khổ ưu não.

145. Lại nữa, Bà-la-môn, có khi vị ấy không để phụ nữ làm những việc như trên, nhưng lại đùa giỡn, cợt nhã, vui thú với phụ nữ.

146. Lại nữa, có khi không đùa giỡn, nhưng vị ấy lại nhìn chòng chọc vào đàn bà con gái, bốn mắt nhìn nhau...

147. Lại nữa, Bà-la-môn, có khi không làm như vậy, nhưng vị ấy lại lắng tai nghe tiếng phụ nữ cách vách nói, cười, hát, khóc...

148. Lại nữa, dù không làm như trên, nhưng vị ấy tư tưởng đến tiếng nói, giọng cười và những trò chơi mà ngày trước đã chơi với họ.

149. Lại nữa, Bà-la-môn, có thể vị ấy không như vậy, nhưng lại nhìn một gia chủ hay con trai của gia chủ đang sở hữu, hưởng thụ, đắm mê năm thứ dục lạc.

150. Lại nữa, Bà-la-môn, có khi vị ấy không làm những điều như trên, nhưng vị ấy tu phạm hạnh với mong ước rằng, do phạm hạnh này, do khổ hạnh này, ta trở thành một vị trời ở cõi cao hoặc thấp. Vị ấy, vui thích, ham muốn, thỏa mãn trong ước vọng đó. Này Bà-la-môn, đây gọi là giới bị rách, bị lủng, bị hoen ố, bị lốm đốm, nơi một người tu phạm hạnh. Người ấy, Ta nói sẽ không thoát khỏi khổ đau” (A IV 54-6).

151. Sự nguyên vẹn của giới là: không vi phạm các học giới, sám hối những giới đã phạm, không có bảy trói buộc của dục vọng, và lại không khởi những ác pháp như sân, hận thù, thống trị, khinh bỉ, đố kỵ, bỏn xẻn, lừa dối, gian lận, cứng đầu, kiêu căng, ngã mạn, cao ngạo, khoe khoang, lơ đễnh (xem MN 7), mà thường khởi những đức tính như ít muốn, biết đủ, viễn ly (MN 24).

152 Giới không bị vi phạm vì mục đích lợi dưỡng, v.v... Và giới được điều chỉnh do sám hối vì đã lỡ phạm, giới không bị hỏng vì trói buộc của dục, và vì những ác pháp như sân, hận gọi là giới hoàn toàn không bị rách, không lủng, không vá, không lốm đốm. Những giới như vậy gọi là giải thoát vì đem lại tình trạng một con người giải thoát, gọi là được người trí khen ngợi, là không dính mắc ái và kiến, là giúp cho định vì nó đưa đến định cận hành và định an chỉ. Bởi vậy, sự không rách, v.v... Chính là thanh tịnh giới.

153. Sự thanh tịnh ấy có được nhờ hai phương diện: thấy nguy hiểm của sự phạm giới, và thấy lợi lạc của sự viên mãn giới. Nguy hiểm của sự phạm giới là như nói trong Tăng chi iii, 252: “Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hiểm”...

154. Lại nữa, do sự thiếu giới hạnh mà một người không làm cho chư thiên và loài người hoan hỷ, thành một kẻ khó nói đối với đồng phạm hạnh. Vị ấy đau khổ khi phạm giới, bị chỉ trích, và hối hận khi thấy những người giữ giới được tán dương. Vì thiếu giới, vị ấy xấu như vải gai thô. Sự chung đụng với một người như vậy là đau khổ, vì người đồng quan điểm vơi vị ấy sẽ phải đau khổ lâu dài trong những đọa xứ. Người ấy vô giá trị, vì không đem lại quả báo lớn cho những thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như thùng phân do lâu năm, như một khúc gỗ mục trên giàn hoả, vì không phải xuất gia cũng không phải cư sĩ. Mặc dù tự xưng là Tỷ-kheo mà không phải Tỷ-kheo, nên giống như con lừa đi theo bầy bò. Vị ấy luôn luôn nóng nảy, như kẻ thù của mọi người. Sống chung với vị ấy khó như sống chung với một xác chết. Mặc dù vị ấy có thể là người đa văn, vân vân, vị ấy không đáng được các bậc đồng phạm hạnh cung kính, cũng như ngọn lửa củi bất tịnh đối với Bà-la-môn thờ lửa. Vị ấy không thể đắc các quả chứng thù thắng, như người mù không thể thấy sắc. Vị ấy bất cẩn đối với diệu pháp, như kẻ nghèo đối với vương quốc.

Mặc dù vị ấy tưởng mình hạnh phúc, mà kỳ thực rất đau khổ, vì gặt hái những khổ được trình bày trong kinh Hỏa Tụ (A IV 128-34).

155. Ðức Thế Tôn đã dạy, khi người không giới được cung kính cúng dường mà tâm còn tràn đầy dục vọng đối với năm thú dục, thì hậu quả sẽ là đau khổ mãnh liệt, do duyên ấy có thể làm cho người ấy thổ ra máu nóng vì nhớ lại việc đã làm. “Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy đống lửa lớn đang cháy hừng hực kia không?” “Bạch Thế Tôn, có” “Các ngươi nghĩ sao, Này các Tỷ-kheo, thà ngồi hay nằm ôm đống lửa rực đỏ ấy, hay thà ngồi, nằm ôm một cô gái thuộc dòng Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, con gái gia chủ với chân tay mềm mại?” “Bạch Thế Tôn, thà ôm một cô gái Sát-đế-lỵ là hơn vì Bạch Thế Tôn, thật là đau khổ nếu ngồi ôm hay nằm ôm đống lửa đỏ rực ấy”.

156. “Này các Tỷ-kheo, ta bảo các ông, đối với một người xuất gia không có giới đức, bản chất xấu, có những thói khả nghi bất tịnh, hành vi lén lút, không phải Sa-môn tự xưng Sa-môn, không sống phạm hạnh tự xưng là phạm hạnh, nội tâm hủ bại, dâm tà, đầy những thối nát, với một người như vậy, thà ngồi ôm hay nằm ôm cái đống lửa lớn hừng hực kia. Tại sao? Vì làm như vậy, nó có thể bị chết, nhưng không vì vậy mà khi thân hoại mạng chung, nó phải bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng nếu một người không có giới đức, bản chất xấu,... Mà ngồi hay nằm ôm một cô gái dòng Sát-đế-lỵ... Thì phải chịu đau khổ tai hại lâu dài, bởi khi thân hoại mạng chung, nó sẽ tái sinh vào đọa xứ, ác thú, cõi dữ, địa ngục” (A IV 128-9).

157. Sau khi dùng ví dụ đống lửa để chỉ đau khổ đi kèm với sự đam mê nhục dục, Ngài còn lấy ví dục về dây lông đuôi ngựa, chĩa nhọn, nền sắt nóng, hoàn sắt đỏ, giường sắt, ghế sắt, nồi sắt, để ví với nổi đau đớn do duyên nhận sự cung kính cúng dường, và do dùng bốn vật cần thiết, đối với một Tỷ-kheo không có giới đức” (A IV 129).

158.

Vui gì người phá giới
Không từ bỏ dục lạc
Khi nó phải chịu khổ
Còn đau đớn dữ dội
Hơn ôm đống lửa hừng?

Vui gì được cúng dường
Khi phá giới chịu khổ
Bị thừng đuôi ngựa quất
Cũng không đau khổ bằng?

Vui gì kẻ phá giới
Khi nhận sự kính chào,
Do duyên này chịu khổ
Hơn kiếm nhọn đâm vào?

Vui gì dùng y phục,
Không chế ngự tự thân,
Vì chính do duyên ấy
Chịu áo sắt quấn thân?

Ðồ khất thực dù ngon
Không giới thành độc dược
Bởi vì do duyên ấy
Nuốt sắt nóng nhiều hòn.

Khi người không giới đức
Sử dụng giường và ghế
Dù thấy có êm dịu
Vẫn là nhân khổ đau,
Vì nó sẽ phải chịu
Hành hạ lâu thật lâu
Nằm ngồi trên ghế giường
Toàn màn sắt nung đỏ

Vui chi người phá giới
Khi sử dụng trú xứ
Của tín thí cúng dường
Bởi vì do duyên ấy
Tương lai nó phải ở
Trong nồi sắt lửa hừng?

Bậc Ðạo sư nhiều lần
Quở trách người phá giới:
“Có những thói khả nghi
Hủ bại và dâm tà
Tâm xấu xa thối nát.”

Như thế ấy, cuộc đời
Của người không giới đức
Người đội lốt Sa-môn
Ðấy là kẻ tự hại
Tự mình đào hố chôn.

Ai đáng được xót thương
Hơn người không giới đức,
Nhiều và trầm trọng thay
Lỗi lầm của phá giới.

Quán sát như trên gọi là “thấy nguy hiểm trong sự phá giới”, và thấy lợi lạc của sự viên mãn giới thì nên hiểu là điều ngược lại.

159. Hơn nữa,

Ai giữ giới toàn vẹn
Thì việc mang y bát
Gây lạc thú, niềm tin
Xuất gia có kết quả
Tỷ-kheo giới trong trắng
Không sợ mình trách mình
Cũng như trong mặt trời
Không thể có bóng tối
Tỷ-kheo giới trong trắng
Sáng chói khổ hạnh lâm
Như ánh trăng ngời sáng
Chiếu tỏa bầu trời đêm.
Làn hương từ thân thể
Của Tỷ-kheo có giới
Làm chư thiên hoan hỷ
Huống chi làn giới hương?
Toàn bích hơn tất cả
Những hương trên thế gian
Hương giới không chướng ngại
Tỏa bay khắp mười phương.
Phục vụ người giới đức
Dù ít, kết quả nhiều
Bởi vậy người giới đức
Là kho chứa danh xưng
Không có lậu hoặc nào
Ở trong đời hiện tại
Bức bách người có giới
Vị ấy còn đào hết
Gốc rễ của đau khổ
Trong những đời vị lai
Muốn trở thành tối thượng
Trong tất cả loài người
Và cả trong chư thiên
Không phải là chuyện khó
Với người viên mãn giới.
Nhưng vị viên mãn giới
Thì không cầu gì khác
Ngoài Niết Bàn tịch diệt
Cảnh giới thuần thanh tịnh
Quả báo giới tốt lành
Ðủ hình thức khác nhau
Người trí nên biết sâu
Gốc ấy của mọi cành.

160. Tâm người nào hiểu được điều này sẽ rùng mình trước sự sợ hãi phạm giới và cố vươn lên giới hạnh toàn bích. Bởi thế, hãy thận trọng làm cho giới được thanh tịnh, sau khi thấy nguy hiểm của phá giới và lợi lạc của trì giới như trên.

161. Ðến đây, Thanh tịnh đạo, được nêu dưới những mục Giới, Ðịnh, Tuệ do câu “Người trú giới có trí”... (Ðoạn 1) đầu tiên là Giới, đã được trình bày.

Chương này được soạn với mục đích làm cho người lành được hoan hỉ.

-oo0oo-

Chương II
Hạnh Ðầu Ðà Khổ Hạnh

(Dhutaṅga-niddesa)

----

1. Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnh để kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ v.v... nhờ đó giới, như đã mô tả, được thanh tịnh. Vì khi giới của vị ấy đã được thanh lọc khỏi các cấu uế bằng những thứ nước thiểu dục, tri túc, viễn ly, độc cư, ở những trú xứ vắng, tinh cần, ít nhu cầu, thì giới sẽ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, vị ấy sẽ thành tựu, tất cả những ước nguyện của mình. Và khi toàn thể con người đã được thanh lọc bằng công đức giới và nguyện và đã an trú trong ba thánh tài đầu tiên, vị ấy bây giờ có thể xứng đáng đạt đến gia tài thứ tư gọi là “sự hân hoan trong tu tập” (A II 27). Bởi vậy, chúng ta sẽ khởi sự giải thích các khổ hạnh.

Mười Ba Khổ Hạnh

2. Ðức Thế Tôn đã cho phép thực hành 13 khổ hạnh cho những thiện nàm tử đã từ bỏ những chuyện xác thịt và không kể thân mạng, mong muốn tu tập phù hợp với cứu cánh giải thoát. Mười ba khổ hạnh là:

  1. Hạnh phấn tảo y
  2. Hạnh ba y
  3. Hạnh khất thực
  4. Hạnh khất thực từng nhà
  5. Hạnh nhất tọa thực
  6. Hạnh ăn bằng bát
  7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong)
  8. Hạnh ở rừng
  9. Hạnh ở gốc cây
  10. Hạnh ở giữa trời
  11. Hạnh ở nghĩa địa
  12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong
  13. Hạnh ngồi (không nằm)

3. Sau đây sẽ trình bày về

(1) ý nghĩa (2) đặc tính v.v...
(3) sự thọ giới, những chỉ dẫn, các cấp bực, sự phá giới, và lợi ích của từng khổ hạnh,
(4) ba tánh,
(5) phân biệt “người khổ hạnh”, “người thuyết giảng khổ hạnh”, “các pháp tương ưng với khổ hạnh”, “các khổ hạnh” và khổ hạnh thích hợp với hạng người nào,
(6-7) theo nhóm và riêng biệt.

4. (1) Trước hết là ý nghĩa

i. Gọi là phấn tảo (paṃsukūla - bụi bặm) vì nó được tìm ở những đống rác bên đường, nghĩa địa, đống phân, nó thuộc về đồ bỏ tại các nơi ấy. Hoặc nó đang tiến đến một tình trạng tồi tệ như đồ bỏ (PAṂSU viya KUcchitabhāvaṃ ULati) cho nên gọi là phấn tảo y.

ii. Ba y là áo khoác ngoài gồm những miếng vải chắp nối lại, thượng y và hạ y.

5. iii. Sự để rơi (pāta) những mẩu đồ ăn (piṇḍa) gọi là khất thực (piṇḍapāta). Thu nhặt đồ khất thực từng nhà, gọi là ăn đồ khất thực. Hoặc vị ấy phát hiện thu lượm (patati: nhặt - nghĩa này không có trong tự điển của Hội Pāḷi Text) những miếng ăn (piṇḍa) nên gọi là người thu nhặt đồ ăn, hay người khất thực (piṇḍapātin). Sự thực hành này gọi là hạnh khất thực để sống.

6. iv. Hạnh thứ đệ khất: khe hở hay khoảng trống gọi là avakhaṇḍana hay dāna. Dời khỏi chỗ trống (apeta: dời khỏi) hoặc không chỗ trống, không hở, là apadāna. Người đi từ nhà này đến nhà khác không chừa một nhà nào khoảng giữa, gọi là sapadānacārin, tức là hạnh khất thực từng nhà (thứ đệ khất).

7. v. Ăn một lần mà thôi, đứng lên rồi, không ngồi xuống ăn lại, gọi là hạnh nhất tọa thực (ăn ngày một bữa).

vi. Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai, gọi là người ăn bằng bát (pattapiṇḍika).

8. vii. “khalu” có nghĩa từ chối, không nhận. Ðồ ăn mà vị ấy nhận được sau khi đã ăn xong gọi là tàn thực (pacchābhatta) người không ăn đồ ăn như thế gọi là khalupacchābhattika, không nhận đồ ăn sau khi ăn xong. Nhưng trong luận nói: “Khalu là tên một giống chim khi mổ một trái cây để ăn, mà trái ấy rớt thì thôi ăn. Vị Tỷ-kheo này cũng vậy”.

9. viii. Vị ấy quen sống ở rừng nên gọi là hạnh ở rừng.

10. ix. Sống dưới gốc cây nên gọi là hạnh ở gốc cây.

x-xi. Ở ngoài trời và ở nghĩa địa, cũng thế.

xii Những gì được phân phối (cho mình) gọi là “như được phân phối” (yathāsanthata). Ðây là một từ ngữ chỉ chỗ nghỉ ngơi được phân phối cho vị Tỷ-kheo. Người nghỉ ở chỗ được phân phối cho mình gọi là một người sử dụng đồ nằm như được phân phối (yathāsanthatika) người theo hạnh này gọi là hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.

xiii. Vị ấy có thói quen ngồi mà ngủ, không nằm gọi là hạnh ngủ ngồi.

11. Tất cả những hạnh kể trên gọi là hạnh (aṅga) của một Tỷ-kheo theo khổ hạnh (dhuta - đầu đà) bởi vì vị ấy đã rũ bỏ (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy. Gọi là “đầu đà” (dhuta) vì nó rũ sạch (niddhunana) chướng ngại, gọi là hạnh (aṅga) vì nó là con đường (paṭipatti). Trên đây là trình bày ý nghĩa.

12. (2) Tất cả 13 khổ hạnh trên điều có đặc tính là ý nguyện thọ trì. Luận nói: “Người thọ giới là một con người. Cái nhờ đó nó thọ giới được là tâm và tâm sở. Chính ý chí trong hành vi thọ giới gọi là hạnh đầu đà. Tất cả 13 hạnh đều có công dụng là loại trừ tham dục và hiện tướng của chúng là vô tham. Nguyên nhân gần của chúng là những đức thiểu dục...”

13. (3) Trong thời Phật tại thế, tất cả khổ hạnh đều phải được thọ trì trước mặt đức Thế Tôn. Sau khi Ngài nhập Niết Bàn, phải thọ trước một vị đại đệ tử của Ngài. Khi không có vị này, phải thọ trước một người đã đoạn tận lậu hoặc, một bậc Bất Hoàn, Nhất Lai hay Nhập Lưu, hoặc một người thông hiểu 3 tạng hoặc 2 tạng hoặc 1 tạng hoặc một người thông hiểu 1 trong 5 bộ Nikāya, 1 luận sư Nikāya. Không có 1 người như vậy thì phải thọ trước 1 vị đang hành 1 khổ hạnh. Nếu không có một vị như vậy thì nên quét dọn sạch sẽ điện thờ rồi ngồi mà thọ giới một cách kính cẩn như đang ở trước mặt đấng Ðạo sư. Như thế, có thể thọ giới đầu đà một mình.

Ở đây có thể nhắc lại câu chuyện người anh trong 2 anh em vốn là 2 trưởng lão ở tu viện Cetiyapabbata, để biết thế nào là thiểu dục trong đầu đà hành đạo. Vị này theo khổ hạnh ngủ ngồi một mình mình biết. Một đêm kia, nhơn một làn chớp lóe, người em trong thấy ngài đang ngồi thẳng trên giường và hỏi: “Bạch đại đức, thế ra ngài theo khổ hạnh ngủ ngồi à?” Vì thiểu dục, không muốn để ai biết khổ hạnh của mình, vị ấy bèn nằm xuống (Pm. 77) Ðiều này áp dụng cho mọi khổ hạnh.

14. Bây giờ, ta sẽ tiếp tục bàn về sự thọ giới, những chỉ dẫn, các cấp bực, sự phá giới, và lợi ích của từng khổ hạnh.

i. Ðầu tiên là hạnh phấn tảo y: nó được thọ trì bằng cách thốt lên một trong hai lời nguyện này: “Tôi từ chối những y do gia chủ cúng “hoặc” tôi nguyện giữ khổ hạnh phấn tảo y”. Ðây là sự thọ giới.

15. Một người đã thọ giới này nên mặc một y thuộc một trong những loại sau: vải lấy từ nghĩa địa, từ cửa hàng, từ đường cái, từ hố phân, từ giường trẻ, vải tẩy uế, vải từ chỗ tắm, vải đi về nghĩa địa, vải bị cháy, bị gia súc ăn, bị kiến ăn, bị chuột ăn, vải rách ở biên, rách ở đầu, vải làm cờ, vải bỏ từ điện thờ, y của nhà khổ hạnh, vải từ cuộc lễ, vải do thần thông biến hóa, vải trên xa lộ, vải gió bay, vải do thiên thần bố thí, vải trôi giữa biển, lấy một trong những thứ vải này vị ấy nên xé bỏ những mảnh rách nát, giặt sạch những mảnh lành lặn để làm thành một cái y. Vị ấy có thể dùng nó sau khi xả bỏ áo do thí chủ cúng.

16. “Vải từ nghĩa địa” là vải rơi rớt ở nghĩa địa.

“Vải từ cửa hàng” là vải rớt trước quán hàng.

“Vải từ đường cái” là thứ vải mà những kẻ kiếm công đức thường ném qua cửa sổ xuống đường.

“Vải từ hố phân” là vải bỏ thùng rác.

“Vải ở giường trẻ” là vải bỏ sau khi lau những bất tịnh của sản phụ. Mẹ của đại thần Tissa lau những bất tịnh bằng một mảnh vải đắt giá, nghĩ rằng những nhà khổ tu mặc phấn tảo y sẽ lượm, và quăng nó trên đường Tālaveli. Các Tỷ-kheo lượm vá y.

17. “Vải tẩy tịnh” là vải mà những vị phù thủy bắt bệnh nhân dùng để tắm rửa từ trên đầu trở xuống rồi vứt đi như vứt một sự xui xẻo.

“Vải từ chỗ tắm giặt” là những giẻ rách vứt bỏ ở chỗ tắm.

“Vải đi về nghĩa địa” là vải bỏ sau khi đến nghĩa địa, trở về tắm rửa.

“Vải bị cháy” là vải vì cháy một ít mà người ta vứt đi”.

“Vải gia súc ăn, chuột ăn” v.v... nghĩa đã rõ.

“Vải làm cờ”: những người xuống tàu ra khơi thường tung lên một cái cờ rồi mới đi. Khi tàu đã khuất, có thể lượm cái cờ này. Lại nữa, khi hai bên quân đội đã đi khuất, có thể lượm cờ đã được tung ra giữa chiến địa.

18. “Vải từ điện thờ” là một tấm vải cúng phủ trên tổ kiến.

“Vải của nhà khổ tu” là y của Tỷ-kheo.

“Vải từ một cuộc lễ” là vải vứt bỏ ở chỗ làm lễ tấn phong vua.

“Vải do thần thông hóa hiện” là tấm y do phép Phật biến hóa lúc ngài nói “Thiện lai Tỷ-kheo” (Ehibhikkhu). Trong một vài trường hợp lúc Phật còn tại thế, Ngài chứng minh sự xuất gia của một người bằng cách chỉ nói mấy tiếng “lại đây Tỷ-kheo”. Do công đức đời trước của vị ấy, pháp phục tự nhiên xuất hiện một cách mầu nhiệm trên người ông.

“Vải từ xa lộ” là vải rơi rớt giữa đường. Nhưng nếu vì sơ ý mà chủ nhân làm rớt, thì phải chờ một lúc mới được phép nhặt lên.

“Vải gió bay” là vải theo gió bay một đỗi xa mới rớt xuống, được phép lượm nếu không thấy chủ.

“Vải do chư thiên cúng” là vải chư thiên cúng cho Tỷ-kheo như trường hợp tôn giả Anuruddha.

“Vải trôi giữa biển” là vải sóng biển đánh tắp vào bờ.

19. Một tấm vải được cúng với lời nói “Chúng tôi cúng cho chư tăng”, hoặc do người đi xin vải kiếm được, thì không phải vải bỏ. Vải do một Tỷ-kheo tặng, vải do nhận được trong lễ dâng y do một Tỷ-kheo tặng lại, vải do thí chủ cúng cho 1 vị ở trú xứ nào đó, đều không phải vải phế thải. Vải bỏ là thứ vải được từ một người cho đã không sở hữu nó với những cách nói trên. Vải do một thí chủ đặt dưới chân Tỷ-kheo, rồi Tỷ-kheo này đem cho người lập hạnh mặc phấn tảo bằng cách để vào tay vị ấy, gọi là chỉ thanh tịnh một chiều. Hoặc thí chủ để vào tay một Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem đặt dưới chân vị khổ hạnh, cũng gọi là chỉ thanh tịnh một chiều. Vải đặt dưới chân Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem đặt dưới chân nhà khổ hạnh, gọi là thanh tịnh hai chiều. Vải mà người cho đã nhận được bằng tay, nhà khổ hạnh cũng nhận bằng tay, thì không phải là hạnh phấn tảo y chặt chẽ. Như vậy, nhà khổ hạnh cần sử dụng y sau khi biết rõ những loại vải. Ðây là những chỉ dẫn ở trường hợp này.

20. Và đây là những cấp bực. Có ba hạng: hạng chặt chẽ, trung bình và thường. Người lượm vải ở nghĩa địa gọi là hạng chặt chẽ. Người lượm vải do một người bỏ ra với ý nghĩ “một Tỷ-kheo sẽ lượm” gọi là hạng trung bình. Và người lấy vải do một Tỷ-kheo cho mình bằng cách đặt dưới chân là hạng thường.

Lúc nào người ấy bằng lòng nhận một tấm y từ gia chủ, thì hạnh phấn tảo y của ông ta bị phá. Ðây là phá giới ở trường hợp này.

21. Và đây là những lợi ích. Vị ấy làm đúng theo hạnh. Tùy thuận, như câu: “Xuất gia bằng cách tùy thuộc vào y phấn tảo” (Vin. I. 58, 96); vị ấy an lập trong thánh tài thứ nhất (A II 27); không có sự đau khổ do phải giữ gìn, vị ấy sống không tùy thuộc vào người khác; không sợ trộm cướp; không có thèm muốn liên hệ đến y phục; đó là một điều kiện thích hợp cho một ẩn sĩ; được Thế Tôn tán thán vì “Không giá trị, dễ kiếm, và không lỗi” (A II 26) nó làm cho người ta tin cậy; nó phát sinh những hậu quả ít muốn, biết đủ v.v... Chánh đạo được tu tập; làm tấm gương cho hậu lai.

22.

Khi nỗ lực đánh bạt đạo quân Tử thần
Nhà khổ hạnh quấn y bằng giẻ rách lượm từ đống rác, vẫn sáng chói như tướng sĩ lâm trận mặc giáp sắt.
Y phấn tảo này chính đấng Thiên Nhân Sư cũng mặc từ bỏ hàng Kāsi quý giá cùng những thứ khác.
Vậy, ai mà không nên mặc
Y bằng giẻ lượm từ đống rác?
Nhớ lời đã phát nguyện khi ra đi sống kiếp không nhà.
Hãy hân hoan mặc y phấn tảo như người ta trang sức xiêm y mỹ lệ.

Ðấy là thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự phạm giới, và những lợi lạc trong khổ hạnh phấn tảo y.

23. ii. Kế tiếp, hạnh ba y. Giới này được thọ trì bằng cách nói: “Tôi không nhận cái y thứ tư” hoặc “tôi giữ giới mặc ba y”. Khi một người thọ giới này được vải để làm y, vị ấy có thể giữ nó trong thời gian vì thiếu sức khỏe không thể may y, hoặc chưa tìm ra người giúp, vì thiếu kim v.v... Thì cất giữ vải không có lỗi. Nhưng khi y đã được nhuộm thì không được cất giữ vải. Ðó là khổ hạnh bịp. Ðây là sự chỉ dẫn.

24. Về hạnh ba y cũng có ba cấp bậc. Người theo khổ hạnh ba y một cách nghiêm nhặt thì trong lúc nhuộm, trước phải nhuộm hoặc y trong hoặc thượng y, nhuộm cái này xong, quấn nó ngang lưng mà nhuộm cái khác. Xong, vắt nó lên vai mà nhuộm y khoác ngoài bá nạp. Nhưng vị ấy không được quấn y bá nạp quanh thất lưng. Ðây là luật khi ở một trú xứ tại xóm làng, nhưng ở rừng thì có thể nhuộm, giặt cả ba y một lượt nhưng phải ở gần để nếu thấy người thì có thể kéo một tấm mà đắp lên mình. Ðối với người theo cấp bậc trung bình thì có thể dùng một tấm vải vàng để trong phòng nhuộm đắp lên mình trong khi giặt nhuộm. Ðối với người theo cấp bực ba (lỏng lẻo) thì có thể mặc hay khoác y của Tỷ-kheo trong hòa hợp chúng (nghĩa là, vị nào không bị phạt v.v..) để giặt nhuộm. Một tấm vải trải giường bỏ không, cũng có thể dùng song không được mang theo. Vị này cũng có thể thỉnh thoảng sử dụng y của Tỷ-kheo trong hòa hợp chúng. Người theo khổ hạnh ba y còn có thể dùng một tấm vải vàng che vai kể như y thứ tư, không được rộng quá một gang, dài quá chiều dài 3 bàn tay. Lúc nào người theo một trong ba cấp bực khổ hạnh ấy tự động nhận một tấm y thứ tư, thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây là sự phá giới trong trường hợp này.

25. Khổ hạnh ba y có những lợi lạc như sau. Vị Tỷ-kheo thọ trì khổ hạnh này xem y phục chỉ như vật che thân. Vị ấy đi đâu cũng chỉ mang theo ba y như chim mang đôi cánh; kiện toàn các đức tính vật dụng, không tích trữ vải, sống đạm bạc, từ bỏ tánh tham y phục, sống viễn ly, tiết độ ngay cả đối với những gì hợp pháp, phát sinh tính ít muốn biết đủ...

26.

Không lo sợ tích trữ
Không giữ quá ba y
Bậc trí thưởng thức được
Hương vị của hỉ túc
Du hành không chướng ngại
Như chim bay hư không
Chỉ mang theo hai cánh
Tỷ-kheo nên hoan hỉ
Hạnh đạm bạc ba y

27. iii. Hạnh khất thực được thọ trì bằng cách thốt lên như sau: “Tôi không nhận đồ ăn để dành (tàn thực)” hoặc: “Tôi thọ trì hạnh khất thực hàng ngày”. Người đã thọ giới này không được nhận 14 thứ thực phẩm như sau: bữa ăn cư sĩ cúng dường cho chư Tăng, bữa ăn cúng cho một số Tỷ-kheo đặc biệt, bữa ăn do người ta mời, bữa ăn được mời bằng một phiếu ăn, bữa ăn vào ngày lễ trai giới Uposatha (bố tát), bữa ăn vào ngày nửa tháng, bữa ăn vào ngày đầu nữa tháng, bữa ăn dành cho khách, bữa ăn cho kẻ lữ hành, bữa ăn cho người bệnh, bữa ăn cho kẻ nuôi bệnh, bữa ăn cúng cho một trú xứ nào đó, bữa ăn được bố thí tại một ngôi nhà chính, bữa ăn cúng theo thứ tự. Nếu, thay vì nói “Xin thỉnh đại đức dùng một bữa ăn cúng cho chư tăng” thí chủ lại nói “Chư tăng đang khất thực tại nhà tôi, đại đức có thể đến khất” thì có thể nhận lời. Những phiếu tăng chúng phát ra không phải về thực phẩm mà về các vật khác (thuốc men v.v...) hoặc một bữa ăn được nấu trong một tu viện, nhà khổ hạnh đều được dùng.

28. Giới này cũng có ba bực. Người khổ hạnh cấp một (khắt khe) nhận đồ ăn do người ta đem lại từ phía trước mặt và sau lưng (đi quá rồi thí chủ mới chạy theo cúng), và đưa bát cho thí chủ rồi đứng chờ ngoài cổng. Vị ấy cũng nhận đồ ăn mang lại cúng dường tại nhà ăn nhưng vị ấy không nhận đồ khất thực bằng cách ngồi đợi người ta mang đến. Người khổ hạnh cấp hai thì ăn đồ ngồi đợi mang đến (trong ngày hôm đó) nhưng không ăn đồ người ta hứa mang lại cúng hôm sau. Người theo khổ hạnh cấp ba bằng lòng ăn đồ ăn được hứa mang đến hôm sau, và hôm sau nữa. Cả hai hạng sau đều mất cái thú hưởng một cuộc đời độc lập. Ví dụ có thể có một buổi thuyết pháp về Thánh tài ở một thôn ấp nào đó. Người cấp một bảo hai hạng kia: “Chư hiền, chúng ta hãy đi nghe pháp” Một người bảo: “Bạch đại đức, tôi đã được một thí chủ bảo ngồi đây đợi”, Người cấp hai bảo: “bạch đại đức, tôi đã nhận lời mời đồ khất thực ngày mai.” Bởi thế cả hai vị này đều mất mát. Còn vị đầu tiên thì cứ khất thực vào buổi sáng, rồi đi thẳng đến chỗ nghe pháp, thưởng thức pháp vị. Lúc một trong ba hạng ấy bằng lòng với một lợi dưỡng ngoài phạm vi nói trên, nghĩa là ăn đồ cúng cho chúng tăng, v.v... Thì khổ hạnh bị phá.

29. Hạnh khất thực có những lợi lạc như sau. Vị ấy làm đúng như Luật dạy, “Xuất gia tùy thuộc vào sự nuôi sống bằng khất thực”. Vị ấy an lập trong thánh tài thứ hai; sự sống của vị này không lệ thuộc vào kẻ khác, và Thế Tôn đã ca ngợi đồ ăn khất thực là “không giá trị, dễ kiếm và không lỗi” (A II 26); sự phóng dật được trừ khử, mạng sống được thanh tịnh, việc thực hành những học pháp thuộc tiểu giới được viên mãn; vị ấy không do một người khác nuôi sống (không nhờ vào, lệ thuộc vào một người nào) vị ấy giúp đỡ mọi người, từ bỏ kiêu mạn, lòng tham vị ngon được chế ngự, không phạm những học giới liên hệ đến ăn. Ðời sống vị ấy phù hợp với những nguyên tắc thiểu dục tri túc v.v... Tu tập chánh đạo, thương tưởng đến những đời hậu lai.

30.

Tỷ-kheo vui khất thực
Ðời sống không lệ thuộc
Tham dục không chân đứng
Giải thoát như hư không
Tinh cần, không giải đãi
Mạng sống không lỗi lầm
Bởi vậy người có trí
Không khinh thường khất thực.

Vì kinh dạy:

"Nếu Tỷ-kheo có thể
Tự nuôi bằng khất thực
Sống không tùy thuộc vào
Sự giúp của riêng ai
Không màng đến danh dự
Lợi dưỡng chẳng đoái hoài
Thì đến cả chư thiên
Cũng thèm số phận Người” (Ud. 31).

31. iv. Hạnh khất thực từng nhà được thọ trì bằng cách phát nguyện: “Tôi không làm một vòng khất thực tham ăn” hoặc: “tôi theo hạnh khất thực từng nhà”. Người tuần tự khất thực này dừng lại ở cổng vào làng, nên biết chắc sẽ không có gì nguy hiểm. Nếu có nguy hiểm tại một con đường hay một làng nào, vị ấy được phép gạt bỏ nơi ấy để đi khất thực chỗ khác. Khi có một cái nhà, một con đường hay một khu làng nơi đó vị ấy thường xuyên không được thứ gì, thì có thể bỏ qua chỗ đó. Nhưng nơi nào có xin được chút đỉnh, thì sau đó không được bỏ qua chỗ ấy. Vị ấy nên đi vào làng sớm, để có thể bỏ ra ngoài những chỗ bất lợi và đi chỗ khác. Nếu có thí chủ đang cúng thức ăn cho chùa, hoặc đang đi giữa đường, lấy cái bát vị ấy để đặt thức ăn vào, vị ấy được phép nhận. Trên đường đi, không được bỏ qua khu làng nào. Nếu không xin được gì ở đấy hoặc rất ít, thì nên tuần tự khất thực ở các làng kế tiếp.

32. Hạnh này cũng có ba bực. Hạng khất thực tuần tự một cách chặt chẽ thì không nhận đồ ăn mang đến từ trước mặt hoặc từ sau lưng, hoặc mang đến cúng tại nhà ăn. Nhưng vị ấy chìa bát tại một cửa nhà; vì trong khổ hạnh này, không ai sánh bằng trưởng lão Ðại Ca Diếp, thế mà Ngài cũng có lần chìa bát như được thuật (trong Ud. 29). Vị theo khổ hạnh cấp hai nhận đồ ăn đem đến từ trước, từ sau lưng, và tại nhà ăn, và vị ấy chìa bát tại một cửa nhà, nhưng không ngồi mà đợi đồ ăn khất thực. Như vậy, vị ấy làm đúng luật của người ăn đồ khất thực một cách chặt chẽ. Người khổ hạnh cấp ba thì ngồi đợi đồ ăn mang đến nội nhật hôm ấy.

Khổ hạnh của ba hạng nói trên bị phá khi họ khởi sự làm vòng khất thực tham ăn (bằng cách chỉ đến những nhà bố thí đồ ăn ngon lành). Ðây là sự phạm giới trong khổ hạnh khất thực.

33. Những lợi ích như sau. Vị ấy luôn luôn là một người khách lạ tại các nhà giống như mặt trăng (S II 197); vị ấy từ bỏ sự tham lẫn về những gia đình; có lòng từ mẫn một cách bình đẳng; vị ấy tránh được những nguy hiểm của sự được ủng hộ bởi một gia đình duy nhất, vị ấy không thích thú trong sự mời ăn, không hy vọng đồ ăn được mang đến; đời sống vị ấy thích hợp với hạnh thiểu dục tri túc v.v...

34.

Tỷ-kheo tuần tự khất
Như trăng chiếu ngàn nhà
Nhìn luôn luôn mới mẻ
Không tham, giúp mọi người
Thoát khỏi mối nguy hiểm
Vì lệ thuộc một nhà
Muốn từ bỏ tham thực
Ðể du hành tùy thích
Khi đi mắt nhìn xuống
Trước mặt một tầm cày
Tỷ-kheo hãy thận trọng
Từng nhà tuần tự khất.

35. v. Khổ hạnh nhất tọa thực được thọ trì bằng cách lập nguyện theo hạnh nhất tọa thực.

Khi người theo khổ hạnh này ngồi xuống trong phòng ăn, thì phải ngồi đúng chỗ dành cho mình. Nếu giáo thọ sư hay y chỉ sư của vị ấy đến trong lúc bữa ăn chưa xong, vị ấy được phép đứng lên để chào. Nhưng Trưởng lão Tam tạng Cūla-Abhaya nói: “Vị ấy nên ngồi mà ăn cho xong, hoặc nếu đứng lên thì phải bỏ đồ ăn còn lại”. (để khỏi vi phạm khổ hạnh)

36. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Người theo cấp một (nghiêm nhặt) không được ăn nhiều hơn những gì mình đã lấy một lần vào bát, Nếu có người mang thêm bơ v.v... Có thể dùng làm thuốc chữa bệnh, chứ không để ăn. Người theo cấp hai có thể nhận thêm, nếu trong bát chưa hết, vì vị này là người “ngừng ăn khi đồ ăn trong bát đã sạch”. Người theo cấp ba có thể ăn bao lâu chưa rời chỗ, vị này là người “ngừng ăn theo nước” vì ăn cho đến khi lấy nước để tráng bát hoặc ngừng ăn theo chỗ ngồi, vì vị ấy ăn cho đến khi nào đứng dậy. Khổ hạnh của cả ba hạng này bị phá khi họ ăn hơn một lần. Ðó là sự phá giới trong hạnh nhất tọa thực.

37. Khổ hạnh ấy có những lợi lạc này: vị ấy ít bịnh, ít não, thân thể nhẹ nhàng, có sức khỏe, có một đời sống hạnh phúc, không vi phạm những học giới về ăn, loại trừ lòng tham vị ngon và sống thiểu dục tri túc.

38.

Không có bịnh do ăn
Tỷ-kheo nhất tọa thực
Khỏi hy vọng vị ngon
Bỏ phế cả đạo nghiệp
Vị ấy được hạnh phúc
Tâm tư thật trong sáng
Thanh tịnh và viễn ly
Hưởng hiện tại lạc trú.

39. vi. Hạnh ăn một bát được thọ trì, với 1 lời nguyện: “Tôi từ chối bát thứ hai” hoặc “Tôi giữ hạnh ăn bằng bát”. Khi ăn cháo người theo khổ hạnh này được dùng cà ri để trong 1 cái dĩa, vị ấy được phép hoặc ăn cà ri trước hoặc uống hết nước cháo trong bát rồi bỏ cà ri vào, vì nếu bỏ cà ri vào bát trộn chung với cháo thì sẽ rất khó ăn (lợm). Nhưng nếu đồ ăn không lợm thì phải để vào trong bát mà ăn. Khi lấy đồ ăn, nên lấy vừa phải lượng cần dùng bởi vì vị ấy không được lấy bát thứ hai.

40. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1 thì trừ mía, không được ném bỏ rác bẩn trong khi ăn hoặc bẻ nhỏ các miếng ăn. Rác bẩn phải được vứt bỏ, đồ ăn phải được bẻ nhỏ trước khi ăn. Người theo cấp 2 được bẻ nhỏ đồ ăn trong khi ăn, vị ấy là “khổ hạnh ăn bằng tay”. Cấp 3 gọi là “khổ hạnh ăn bằng bát”, bất cứ gì để vào bát, vị ấy đều được phép trong khi ăn, bẻ nhỏ ra (cơm cục v.v...) hoặc bằng tay hoặc bằng răng (đường thốt nốt, gừng v.v...). Khi 1 trong 3 người nói trên bằng lòng nhận một bát thứ hai thì khổ hạnh của họ bị phá.

41. Khổ hạnh này có những lợi lạc sau: lòng tham nhiều vị được trừ khử, mong cầu thái hóa được từ bỏ, vị ấy thấy rõ mục đích và lượng thức ăn vừa đủ, không bận tâm mang theo xoong chảo, đời sống vị ấy phù hợp với nguyên tắc thiểu dục tri túc, v.v...

42.

Vị ấy khỏi hoài nghi
Về những thức ăn khác
Nhìn bát ăn trang nghiêm
Dứt sạch lòng tham vị
Hài lòng tính tự nhiên
Chánh ý tâm hoan hỉ
Người khổ hạnh một bát
Ðược tư cách như trên

43. vii. Hạnh không ăn đồ tàn thực (đồ nhận được sau khi đã ăn xong) được thọ trì bằng cách phát nguyện: “Tôi từ chối đồ ăn thêm” hoặc “Tôi thọ giới không ăn tàn thực”. Khi vị giữ hạnh này chứng tỏ mình đã ăn đủ thì không được nhận thức ăn để ăn.

44. Có ba bực. Ở đây không có gì chứng tỏ vị ấy đã ăn vừa đủ với miếng đầu tiên, song khi đang nuốt miếng ấy mà từ chối, thì có sự chứng tỏ đã ăn đủ. Bởi thế, người theo cấp 1 khi đã chứng tỏ mình ăn vừa đủ thì không thể nhận miếng thứ hai để ăn sau khi nuốt miếng thứ nhứt. Người theo khổ hạnh cấp 2 thì cứ vẫn ăn sau khi đã nói thôi. Người theo cấp 3 có thể tiếp tục ăn cho đến khi rời khỏi chỗ. Lúc nào 1 trong 3 người ấy ăn thêm sau khi đã ăn xong thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây gọi là phá giới trong trường hợp này.

45. Khổ hạnh này có những lợi ích như sau:

Vị ấy khỏi lỗi liên hệ đến đồ ăn tàn thực, khỏi bị bội thực, khỏi cất giữ đồ ăn, khỏi tìm kiếm thêm đồ ăn. Vị ấy sống đúng theo hạnh thiểu dục tri túc v.v...

46.

Không ăn đồ tàn thực
Khỏi tìm kiếm nhọc công
Khỏi cất chứa đồ ăn
Và cũng không bội thực
Muốn tránh những lỗi này
Thì nên theo hạnh ấy
Ðược Thế Tôn ca tụng
Vì tăng trưởng hỉ túc

47. viii. Hạnh ở rừng được thọ trì với một lời nguyện: “Tôi không ở một trú xứ trong xóm làng” hoặc “Tôi lập hạnh sống ở rừng”.

48. Người lập nguyện này phải rời bỏ trú xứ trong xóm làng để vào rừng lúc bình minh. “Trú xứ trong làng” có nghĩa là khu làng và phụ cận. “Làng” có thể gồm 1 hay nhiều nóc nhà tranh, có thể được bao quanh bằng tường hay không, có thể có người ở hay không, cũng có thể là một khu trại có người ở trong khoảng hơn 4 tháng. “Phụ cận” của làng là phạm vi một hòn đá rơi xuống do người có tầm vóc trung bình đứng ở cổng làng ném ra, nếu làng có cổng. Theo các Luật sư thì phụ cận là tầm ném đá của một thanh niên luyện cánh tay bằng cách ném đá. Theo luận sư căn cứ vào kinh, thì chỉ là tầm ném đá khi người ta đuổi quạ. Nếu làng không có tường ngăn ranh giới thì “phụ cận của nhà” là tầm nước rơi do một người đàn bà đứng từ cửa nhà ở bìa, bưng đổ hắt ra. Từ điểm nước rơi, tầm ném đá theo cách vừa kể gọi là làng. Từ chỗ này, trong phạm vi ném hòn đá thứ hai, là phụ cận làng.

49. “Rừng” theo định nghĩa của Luật là “Trừ làng và phụ cận, tất cả đất còn lại là rừng” (VIN III 46). Theo Luận thì “Ra khỏi” trụ mốc ranh giới làng gọi là rừng” (Vbh. 25). Nhưng theo kinh, thì đặc điểm của rừng là “Một trú xứ ở rừng là khoảng cách 500 độ dài của cái cung” (VIN IV 183). Có nghĩa là phải đo bằng cung của người dạy bắn cung từ cột trụ cổng làng nếu có, hoặc từ một tầm đá ném nếu làng không cổng, cho đến bức tường của trú xứ tự viện ở rừng.

50. Nhưng nếu tự viện không có tường thì theo các Luật giải, do bằng cách lấy cái nhà ở đầu tiên làm ranh giới, hoặc lấy nhà ăn, chỗ họp, cây bồ đề, chánh điện làm ranh, dù cách xa nhà ở trong tự viện. Nhưng Luận Trung bộ nói bỏ vùng phụ cận của viện và của làng, khoảng cách phải do là giữa hai tầng đá rơi.

51. Ngay cả khi làng ở gần kề, có thể nghe tiếng người từ trong tự viện, tự viện ấy vẫn được xem là trú xứ ở rừng nếu khoảng giữa có những mỏm đá, sông v.v... Ngăn cách không thể đi thẳng đến và độ dài khoảng cách đường thủy là 500 cung. Nhưng nếu người nào cố ngăn bít chỗ này chỗ kia trên đường vào làng, làm cho nó dài ra để có thể bảo rằng mình làm đúng luật thì đó là khổ hạnh bịp.

52. Nếu y chỉ sư hay giáo thọ sư của hành giả bị bịnh và ở rừng không thể kiếm được những gì cần cho bịnh, thì có thể đưa thầy đến một trú xứ ở làng để săn sóc nhưng phải rời làng đúng lúc để trở lại rừng vào lúc rạng đông. Nếu cơn bịnh gia tăng vào lúc trời gần sáng thì hành giả phải lo cho vị thầy chứ không được bận tâm về sự giữ gìn khổ hạnh của mình.

53. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1, người ấy phải luôn luôn trở về rừng vào lúc bình minh. Cấp 2, có thể cư trú tại 1 khu làng vào bốn tháng mùa mưa. Cấp 3, có thể ở làng luôn cả mùa đông. Nếu trong thời gian đã định, 3 hạng nói trên rời rừng để đi nghe pháp tại một trú xứ ở làng, khổ hạnh của họ không bị hỏng nếu trở lại rừng đúng lúc bình minh. Nhưng nếu giảng sư đã đứng lên mà vị ấy nằm 1 lát rồi ngủ quên khi mặt trời đã mọc, hoặc ở lại cố ý, cho đến khi mặt trời mọc, thì khổ hạnh ở rừng bị phá.

54. Và đây là những lợi lạc trong khổ hạnh ở rừng. Một Tỷ-kheo ở rừng tác ý vào lâm tưởng (xem M. 121) có thể đạt được ngay trong hiện tại định tướng chưa đạt, hoặc duy trì định tướng đã đạt. Bậc Ðạo sư hài lòng về vị ấy, như kinh nói: “Này Nāgita, ta hài lòng về vị Tỷ-kheo sống ở rừng” (A III 343) Khi sống tại một trú xứ xa vắng, tâm hành giả không bị dao động bởi những sắc pháp không thích đáng v.v... Vị ấy khỏi những lo âu, từ bỏ bám víu vào đời và thưởng thức lạc thú độc cư. Hạnh đầu đà khác như phấn tảo y v.v... Dễ dàng tu tập đối với vị ấy.

55.

Ðộc cư nơi xa vắng
Làm cho tâm hân hoan
Ðấng Ðạo sư hài lòng
Vị độc cư rừng thẳm,
Người vui hạnh ở rừng
Lại được hưởng hương vị
Còn hơn cả giá trị
Hạnh phúc của vua trời
Áo giáp y phấn tảo
Tung tăng trong rừng già
Lâm tuyền dễ thực hiện
Bao nhiêu hạnh đầu đà
Tỷ-kheo ấy chắc chắn
Làm quần ma kinh hoảng
Bởi thế người có trí
Nên vui hạnh ở rừng.

56. ix. Hạnh ở gốc cây được thọ trì bằng cách thốt lời nguyện: “Tôi từ chối một mái nhà” hoặc “Tôi theo khổ hạnh ở gốc cây” Vị theo khổ hạnh này nên tránh những loại cây như sau: cây gần chỗ biên giới, cây có thờ cúng, cây cao su, cây ăn trái, cây có nhiều dơi, cây có lỗ hổng, cây đứng giữa một tự viện. Vị ấy có thể chọn một gốc cây ở phía ngoài một ngôi chùa. Ðây là chỉ dẫn.

57. Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1 không được phép quét dọn sạch sẽ gốc cây đã chọn, mà chỉ có thể dùng chân để hất đi những lá rụng trong khi ở. Người theo cấp 2 có thể nhờ 1 người nào đi ngang quét dọn gốc cây. Cấp 3 có thể sai những chú tiểu trong chùa quét, san bằng đất, rải cát, làm rào quanh gốc cây với một cái cổng vào. Ðến ngày lễ lạc, người ở gốc cây nên ngồi vào một chỗ nào khuất nẽo. Lúc nào một trong ba hạng nói trên có trú xứ dưới một mái che thì khổ hạnh bị phá.

58. Những lợi lạc là, vị ấy làm đúng theo Luật nói: “Xuất gia bằng cách tùy thuộc vào trú xứ gốc cây” (VIN I 58) được đức Ðạo sư tán thán, vì “không có giá trị, dễ kiếm và không lỗi” (A II 26); tưởng về vô thường được khơi dậy khi thấy lá cây luôn thay đổi, sự tham chỗ trú và ưa xây cất không có mặt nơi vị ấy, vị ấy sống cộng trú với chư thiên, phù hợp nguyên tắc ít muốn, v.v...

59.

Ðức đạo sư ca tụng
Một trong những tùy thuộc
Chỗ nào bằng gốc cây
Cho người ưa tịch tĩnh?
Ðộc cư dưới gốc cây
Ðược chư thiên hộ vệ
Vị ấy sống chơn tu
Không tham về trú xứ
Nhìn lá cây xanh non
Trở màu đỏ lục vàng
Lần lượt đều rơi rụng
Hết tin ở trường tồn.
Ðức đạo sư phú chúc
Gốc cây nơi vắng vẻ
Không người trí nào chê
Vì dễ quán sinh diệt.

60. x. Hạnh ở ngoài trời được thọ trì bằng cách thốt lời nguyện: “Tôi từ chối mái nhà và gốc cây” hoặc “Tôi tu hạnh ở giữa trời”. Người theo hạnh này được phép đi vào nhà Bố tát để nghe pháp hoặc bố tát. Nếu trong khi vị ấy đang ở trong nhà mà trời mưa, vị ấy có thể chờ hết mưa rồi đi ra. Vị ấy có thể vào nhà ăn, nhà bếp để làm phận sự hoặc vào dưới một mái che để hỏi những thượng tọa Tỷ-kheo về một bữa ăn, vào để dạy hay học, để khuân vác đồ đạc từ ngoài. Nếu đang đi mang theo đồ dùng của các thượng tọa mà trời đổ mưa thì được vào một chỗ trú cho nhanh, nhưng nếu không mang gì cả thì phải đi với tốc độ bình thường vào chỗ trú. Luật này cũng áp dụng cho người ở gốc cây. Ðây là chỉ dẫn.

61. Có ba cấp bực. Cấp 1 không được ở gần một gốc cây, mỏm đá hay nhà. Phải dùng một tấm y làm lều mà ở giữa trời. Cấp 2 được ở gần một gốc cây, tảng đá, nhà, mà không ở dưới đó. Cấp 3 thì có thể ở dưới một hốc đá không có ống máng (đục để ngăn mưa lọt), dưới lều bằng cành cây, dưới một tấm lều vải được hồ cho cứng và dưới một cái lều của người canh ruộng bỏ không.

Lúc họ đi vào dưới một mái nhà hay một gốc cây để ở thì khổ hạnh bị phá. Những vị tụng Tăng chi bộ bảo, khổ hạnh của họ bị phá khi một trong ba hạng cố ý ở dưới một gốc cây... vào lúc mặt trời đã mọc.

62. Có những lợi lạc như sau: Khỏi có những chướng ngại do chỗ trú gây ra, trừ được hôn trầm biếng nhác. Hạnh của vị ấy xứng đáng lời ca tụng “như thú rừng, Tỷ-kheo ấy sống không ràng buộc và không nhà” (S I 199). Vị ấy thong dong, muốn đi đâu cũng được, sống phù hợp với nguyên tắc ít muốn, biết đủ...

63.

Nhờ ở nơi khoảng trống
Tỷ-kheo thêm tinh cần
Dễ kiếm, tâm bén nhạy
Như con nai giữa rừng
Hết hôn trầm biếng nhác
Dưới vòm trời đầy sao
Trời trăng làm ánh sáng
Thiền định đem hân hoan
Hương vị độc cư lạc
Vị ấy sẽ tìm được
Khi sống giữa đất trời
Người trí hãy yêu thích

64. xi. Hạnh ở nghĩa địa được thọ trì với lời nguyện: “Tôi từ chối chỗ trú không phải nghĩa địa” hoặc “Tôi tập hạnh sống tại nghĩa địa”.

Người ấy không được ở một nơi chỉ có cái tên là “đất nghĩa trang” vì chỗ nào không có tử thi được đốt thì không phải nghĩa địa. Nhưng khi đã có tử thi đã được đốt ở đấy, thì chỗ ấy trở thành nghĩa địa, dù có bị bỏ phế đã hơn 10 năm.

65. Một người sống ở nghĩa địa không được sai làm sẵn những đường đi, lều trại... đặt sẵn bàn ghế giường, nước rửa, nước uống và giảng pháp, vì khổ hạnh là việc trọng đại hơn vị ấy phải tinh cần và phải báo cho các bậc trưởng lão hoặc chính quyền địa phương biết để ngăn ngừa sự lôi thôi. Khi đi kinh hành, nên vừa đi vừa nhìn giàn hỏa (để thiêu tử thi) với nửa con mắt. Trên đường đi đến nghĩa địa, vị ấy phải tránh những chính lộ và theo con đường mòn. Cần nhận kỹ những sự vật ở đấy vào lúc ban ngày để về đêm, khỏi tưởng ra những hình thù ghê sợ. Ngay cả lúc phi nhân (ma) có đi vất vưởng vừa đi vừa rú lên, vị ấy cũng không được ném vật gì vào những hồn ma ấy. Không được bỏ công việc đi đến nghĩa địa dù chỉ một ngày. Những vị tụng đọc Tăng chi bộ kinh bảo, sau khi trải qua canh giữa tại nghĩa địa, hành giả được phép rời khỏi vào canh cuối. Không được ăn những thứ như bột mè, bánh bao, cá thịt, sữa, dâu... Những thứ ma ưa thích. Không được đi vào những gia đình. Ðây là chỉ dẫn.

66. Khổ hạnh này cũng có 3 bực. Cấp 1 phải sống tại những nơi luôn luôn có việc thiêu đốt, tử thi và tang lễ. Cấp 2 được phép sống ở nơi chỉ có 1 trong 3 điều ấy. Cấp 3 có thể sống tại 1 nơi chỉ có những đặc tính của một nghĩa địa như đã nói trên. Khi 1 trong 3 hạng người ấy có trú xứ tại một nơi không phải nghĩa địa thì khổ hạnh bị phá. Những vị tụng đọc Tăng bộ chi thì bảo khổ hạnh bị phá vào ngày nào mà 1 trong 3 hạng ấy không đi đến nghĩa trang.

67. Những lợi ích như sau: Hành giả được sự tưởng niệm về cái chết, sống tinh tấn, tưởng bất tịnh luôn hiện tiền, tham dục biến mất vì luôn luôn thấy được thực chất của thân thể. Vị ấy có tỉnh giác cao độ, từ bỏ 3 kiêu mạn, về sự sống, tuổi trẻ và vô bịnh, chinh phục sợ hãi khiếp đảm, phi nhân tôn trọng vị ấy. Vị ấy sống đúng theo hạnh tri túc thiểu dục...

68.

Hành giả ở nghĩa địa
Ngủ cũng thường tinh tấn
Tử tưởng luôn hiện tiền
Tham dục nào bén mảng
Ý thức đời phù du
Tận trừ mọi kiêu mạn
Với người hướng Niết Bàn
Hạnh này nhiều lợi lạc.

69. xii. Khổ hạnh nghỉ đâu cũng được thọ trì bằng cách phát nguyện: “Tôi từ bỏ lòng tham đắm sàng tọa” hoặc “Tôi giữ hạnh nghỉ đâu cũng được”.

Người lập hạnh này phải bằng lòng với bất cứ chỗ nghỉ nào mình có được, khi người phân phối bảo: “Chỗ này thuộc về ông” vị ấy không được bảo người nào dời chỗ.

70. Có 3 cấp bực. Cấp 1 không được hỏi thăm về trú xứ dành cho mình, như: “Có xa không?” hoặc “Có quá gần không?” hoặc “Chỗ ấy nóng không?” hoặc “Chỗ ấy lạnh không?”. Cấp 2 được phép hỏi nhưng không được đi quan sát trước. Cấp 3 thì được đi quan sát trước và nếu không thích, có thể chọn một chỗ ở khác. Khi lòng tham đối với trú xứ khởi lên trong tâm những vị này, thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây là phá giới ở khổ hạnh này.

71. Có những lợi lạc như sau vị ấy làm đúng lời khuyên “Vị Tỷ-kheo nên hỷ túc với những gì mình có được” (VIN IV 259), có tâm nghĩ tưởng đến những người đồng phạm hạnh, từ bỏ so đo cao thấp, bỏ tâm thuận nghịch, đóng cái cửa tham muốn, sống theo hạnh thiểu dục tri túc...

72.

Người ở đâu cũng được
Hài lòng cái mình có
Ngủ nghỉ trong an lạc
Dù trên đệm cỏ khô
Không ham cầu chỗ tốt
Không ghét chỗ thấp xấu
Giúp đỡ bạn đồng tu
Tỷ-kheo còn ngơ ngáo
Bởi vậy người có trí
Hỷ túc với sàng tọa
Ðây hạnh đáng yêu mến
Ðược Thế Tôn khen ngợi

73. xiii. Khổ hạnh ngồi được thọ trì bằng cách phát nguyện: “Tôi sẽ không nằm” hoặc “Tôi giữ hạnh không nằm”.

Hành giả có thể đứng hoặc đi bất cứ giờ nào trong đêm vì chỉ cấm nằm. Ðây là chỉ dẫn.

74. Có 3 cấp bực. Cấp 1 không được dùng 1 chỗ tựa lưng hay dây vải băng ngang người hoặc nịt lưng (phòng khi ngủ bị té). Cấp 2 được dùng bất cứ thứ nào trong 3 loại ấy. Cấp 3 được dùng 1 chỗ tựa, 1 băng vải, 1 nịt lưng, 1 gối dựa, 1 “cái 5 chân” và 1 “cái 7 chân”. Cái 5 chân là dụng cụ gồm 4 chân và chỗ dựa lưng (ghế tựa). Cái 7 chân là dụng cụ gồm 4 chân, chỗ dựa lưng và 2 bên có chỗ tỳ cánh tay (ghế dựa). Cái 7 chân là dụng cụ gồm 4 chân, chỗ dựa lưng và 2 bên có chỗ ghế như vậy đã được chế cho trưởng lão Pīṭhabhaya (Abhaya ngồi ghế). Vị này chứng quả Bất Hoàn trước khi viên tịch. Khi 1 trong 3 hạng người ấy nằm thì khổ hạnh của họ bị phá.

75. Những lợi ích như sau: xiềng xích trói buộc tâm, như “Vị ấy say mê lạc thú nằm dài, nghỉ ngơi, biếng nhác,” bị cắt đứt, dễ chú tâm vào đề mục thiền định, để tinh cần tinh tấn, phát triển hạnh tu.

76.

Ẩn sĩ ngồi kiết già
Bàn chân trên hai vế
Lưng thẳng ngồi bất động
Làm kinh động ác ma.
Không ưa thú nằm dài
Sa đọa trong biếng lười
Tỷ-kheo ngồi an nghỉ
Sáng chói khổ hạnh lâm
Hỷ lạc siêu thế gian
Tuôn phát từ hạnh ấy
Người có trí do vậy
Yêu mến khổ hạnh ngồi.

Trên đây là luận về thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự vi phạm và những lợi lạc trong khổ hạnh ngồi.

77. Bây giờ, hãy luận về những điểm kế tiếp xem số 3, 4, 5, 6, 7.

78. (4) Về phương diện Ba tánh: Tất cả khổ hạnh của hữu học, phàm phu và A-la-hán đều có thể thiện hay bất định, chứ không khổ hạnh nào bất thiện (bất định là trường hợp A-la-hán). Nhưng nếu có người bảo cũng có khổ hạnh bất thiện vì kinh nói: “Người có ác dục, làm mồi cho dục, trở thành một vị sống ở rừng” (A III 219)... Thì nên trả lời: “Người nào có trú xứ trong rừng thì gọi là người ở rừng, nhưng vị ấy có thể là người có ác dục hay thiểu dục. Nhưng như đã nói (đoạn 11), những khổ hạnh ấy sở dĩ được gọi là đầu đà (dhuta) vì hành giả đã rũ sạch (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy. Không ai gọi là khổ hạnh vì người bất thiện có thể hành trì, mà đã bất thiện thì không thể rũ sạch được thứ gì để có thể gọi hạnh của kẻ đó làm là khổ hạnh. Và cái gì bất thiện thì không thể vừa rũ sạch lòng tham (y phục)... Vừa trở thành lối thực hành của đạo. Do đó, có thể bảo, không khổ hạnh nào là bất thiện.

79. Những người cho rằng khổ hạnh là ở ngoài ba tánh (không thuộc thiện hay bất thiện hay bất định), thì không có khổ hạnh kể về ý nghĩa. Do rũ sạch cái gì, mà một cái vốn phi hữu có thể được gọi là khổ hạnh? Vậy mà vẫn có câu “Bắt đầu thọ trì những khổ hạnh” (VIN III 15) do đó thành mâu thuẫn.

Cho nên thuyết này (cho rằng khổ hạnh không ở trong ba tánh) không thể chấp nhận.

80. (5) Kế tiếp, có sự phân biệt giữa ý nghĩa “người tu khổ hạnh”, “người nói về khổ hạnh”, “các pháp khổ hạnh”, “các khổ hạnh”, và hạng người nào cần thực hành khổ hạnh.

81. Người tu khổ hạnh là người đã rũ sạch cấu uế. Người giảng nói về khổ hạnh: có người tu khổ hạnh mà không giảng về khổ hạnh, có người giảng về khổ hạnh mà không phải là người tu khổ hạnh, có người không giảng cũng không tu, có người vừa giảng vừa tu.

82. Một người đã rũ sạch những cấu uế nhờ một khổ hạnh, nhưng không khuyên dạy kẻ khác thực hành khổ hạnh, là hạng thứ nhất, như Trưởng lão Bakkula (Bạc Câu La). Người bản thân chưa tẩy sạch những cấu uế, mà chỉ khuyên dạy kẻ khác tu khổ hạnh, là như Trưởng lão Upananda. Người không tu khổ hạnh cũng không dạy khổ hạnh, như đại đức Lāḷudāyīn. Người vừa tu khổ hạnh vừa dạy tu khổ hạnh, như bậc Tướng quân Chánh pháp là tôn giả Xá Lợi Phất.

83. Những pháp khổ hạnh: là 5 pháp câu hữu với khổ hạnh: ít muốn, biết đủ, viễn ly, độc cư, và cái có được nhờ các thiện pháp ấy.

84. Ít muốn và biết đủ là vô tham. Ðộc cư và viễn ly là: viễn ly thuộc về vô tham, độc cư thuộc vô si: “Cái có được nhờ các thiện pháp ấy”, là trí, cái trí nhờ đó một người thực hành khổ hạnh, và kiên trì trong các đức tính khổ hạnh (idamaṭṭhitā: imenhi ku saladhammehiatthi: idam-athi). Ở đây, nhờ vô tham mà một người rũ bỏ tâm tham đối với những vật bị cấm chỉ. Nhờ vô si, vị ấy rũ bỏ cái mặt nạ lừa dối khoác ở ngoài những vật ấy để che lấp sự nguy hiểm của chúng. Và nhờ vô tham, vị ấy rũ bỏ đam mê khoái lạc giác quan khi sử dụng những vật dụng hợp pháp. Nhờ vô si, vị ấy rũ bỏ sự say mê khổ hạnh khi thực hành khổ hạnh.

85. Những khổ hạnh là 13 hạnh đầu đà nói trên.

86. Hạng người nào trên tu khổ hạnh: Khổ hạnh thích hợp cho những cho những người nhiều tham và si. Vì sao? Vì việc tu khổ hạnh vừa là một tiến trình khó khăn, (xem Chương XXI, đoạn 117), vừa là một sự trú trong viễn ly: do khó tiến, mà tham giảm thiểu; do tinh cần trong viễn ly, si giảm thiểu. Hoặc hạnh ở rừng và ở gốc cây thích hợp cho người nhiều sân, vì sân giảm thiểu nơi một người ở những nơi không vướng vào xung đột.

87. (6-7) Theo nhóm và riêng biệt:

(6) Theo nhóm, thì những khổ hạnh chỉ gồm có tám: ba chính và năm lẻ. Ba chính, là Khất từng nhà, nhất tọa thực, và ở ngoài trời. Hạnh khất thực từng nhà bao gồm trong hạnh nhất tọa thực. Và một người đã ở ngoài trời thì cần gì phải thọ giới ở gốc cây, hay giới nghỉ chỗ nào cũng được? Bởi vậy, chỉ có ba khổ hạnh chính này, cùng với năm khổ hạnh riêng biệt là ở rừng, mặc y phấn tảo, hạnh ba y, hạnh ngồi và hạnh ở nghĩa địa làm thành tám khổ hạnh mà thôi.

88. Lại nữa, chúng gồm bốn, hai liên hệ y phục, năm liên hệ thực phẩm, năm liên hệ trú xứ, và 1 liên hệ đến sự tinh cần (khổ hạnh ngồi). Lại nữa, các khổ hạnh rút lại chỉ gồm hai: 12 hạnh thuộc về trú sự, và một về tinh cần. Và gồm hai, xét theo cái gì nên tu tập cái gì không nên. Khi một người tu khổ hạnh thấy đề tài quán tưởng của mình được tiến bộ, thì nên tu khổ hạnh, nhưng nếu không tiến bộ mà còn thối, thì không nên tu. Khi vị ấy thấy dù khổ hạnh hay không thiền quán vẫn tiến bộ, thì nên tu khổ hạnh vì lòng thương tưởng đến hậu lai. Và khi vị ấy thấy, dù tu khổ hạnh hay không, đề tài thiền quán vẫn không tiến bộ, thì vị ấy vẫn nên tu khổ hạnh, để tạo một thói quen tốt cho tương lai. Do đó, mà nói tất cả khổ hạnh chỉ gồm hai thứ.

89. Và tất cả khổ hạnh đều thuộc một loại, là tư tâm sở. Vì chỉ có một khổ hạnh, đó là cái ý chí, chí nguyện thọ trì. Sớ giải nói: “Chính tư tâm sở gọi là khổ hạnh”.

90. (7) Riêng biệt, thì có 13 khổ hạnh cho Tỷ-kheo, 8 cho Tỷ-kheo ni, 12 cho Sa-di, 7 cho Sa-di ni và tịnh nữ, 2 cho nam, nữ cư sĩ. Như vậy tất cả 42.

91. Nếu có một nghĩa địa ở khoảng trống phù hợp với khổ hạnh ở rừng, thì một Tỷ-kheo có thể đồng lúc thực hiện cả 13 khổ hạnh. Nhưng 2 khổ hạnh ở rừng và không ăn tàn thực thì Luật cấm các Tỷ-kheo ni thực hành. Và cũng khó cho những vị này thực hành 3 khổ hạnh ở giữa trời, ở gốc cây và ở nghĩa địa, vì Tỷ-kheo ni không được ở 1 mình không có bạn ở chung, mà thực khó tìm được 1 người đồng một khuynh hướng thích ở một nơi như vậy và cho dù có 1 người thì hành giả cũng không thoát khỏi tình trạng phải sống chung với 1 người khác. Bởi thế, việc tu khổ hạnh của họ không đi đến đâu. Do vậy, khổ hạnh dành cho Tỷ-kheo ni rút lại còn 8, vì một số khổ hạnh không thể áp dụng cho nữ.

92. Từ khổ hạnh ba y, 12 khổ hạnh kia dành cho Sa-di, 7 khổ hạnh (8 khổ hạnh dành cho Sa-di ni và tịnh nữ). Hai khổ hạnh hợp nhất tọa thực và ăn bằng bát là đặc biệt thích hợp cho nam nữ cư sĩ. Với cách ấy, có hai loại khổ hạnh.

93. Ðến đây chấm dứt luận về những khổ hạnh được thọ trì để viên mãn các đức đặc biệt (ít muốn, biết đủ, v.v...) nhờ đó phát sinh thanh tịnh giới, như được tả trong thanh tịnh giới, như được tả trong thanh tịnh đạo, đạo lộ được chỉ rõ trong bài kệ “Người trú giới có trí...” dưới ba đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ.

Chương này được soạn để làm hoan hỷ những người lành.

-oo0oo-

Nguyên tác tiếng Anh

The Path of Purification