Chương III
Mô Tả Ðịnh - Nhận Một Ðề Mục Quán

(Nghiệp xứ: Kammaṭṭhāna-gahaṅa-niddesa)

----

1. Ðịnh được nói đến dưới danh từ tâm trong câu “tu tập tâm và tuệ” (Ch. I, 1). Ðịnh nên được tu tập bởi một người đã đứng vững trên đất giới được thanh tịnh nhờ những đức ít muốn, biết đủ... Và được viên mãn nhờ các khổ hạnh. Nhưng định ấy chỉ mới được mô tả vắt tắt không dễ gì hiểu được, huống nữa là tu tập. Do vậy, còn có loạt vấn đề sau đây mà mục đích là nêu rõ chi tiết về phương pháp tu tập định:

  1. Ðịnh là gì?
  2. Ðịnh có nghĩa thế nào?
  3. Đặc tính, bản chất, tướng trạng và nhân gần của định?
  4. Có bao nhiêu loại định?
  5. Gì là cấu uế của định?
  6. Gì làm định thanh tịnh?
  7. Làm sao tu tập định?
  8. Lợi ích của tu tập định?

2. (i) Ðịnh là gì?

Ðịnh có nhiều thứ và nhiều phương diện. Một giải đáp nhằm bao quát mọi phương diện của định thì không thể nào hoàn tất được ý định của nó mà cũng không chu toàn được mục đích của nó mà lại còn đưa đến sự tán loạn. Bởi thế, chúng ta tự giới hạn trong loại định ở đây gọi là sự nhất tâm có lợi ích.

3. (ii) Ðịnh có những nghĩa như thế nào?

Nó được gọi là định, samādhi với nghĩa tập trung (samādhāna). Tập trung là gì? Ðó là sự xoay quanh (ādhāna) của tâm và tâm sở một cách đều đặn (samam) và chánh đáng (sammā) vào một đối tượng duy nhất. Bởi vậy, đấy là trạng thái nhờ có tâm và tâm sở ở trong tình trạng quân bình, chánh đáng, và đặt để hết vào một đối tượng duy nhứt, không phân tán hay xao lãng.

4. (iii) Ðặc tính của Định là không phân tán. Bản chất hay nhiệm vụ nó là loại trừ phân tán. Tướng của nó là không tán loạn. Nhân gần của nó là lạc, do câu “Nhờ lạc, tâm vị ấy được định” (D I 73).

5. (iv) Có bao nhiêu loại Định?

1. Trước hết, nó thuộc một loại, với đặc tính không phân tán.

Hai loại
2. Định cận hành (upacāra) và định an chỉ (appaṇā).
3. Định thế gian và xuất thế gian.
4. Ðịnh có hỷ và không hỷ.
5. Ðịnh câu hữu lạc và câu hữu xả.

Ba loại
6. Ðịnh hạ, trung và thượng.
7. Có tầm, tứ v.v...
8. Ðịnh câu hữu lạc v.v...
9. Ðịnh có giới hạn, đại hành và vô lượng.

Ðịnh bốn loại
10. Định khó tiến và tuệ chậm...
11. Định có giới hạn với đối tượng hữu hạn...
12. Ðịnh phân loại theo các thiền chi.
13. Theo thối giảm, tù đọng...
14. Theo cõi.
15. Theo bốn như ý túc.

16. Ðịnh năm loại, theo năm thiền.

6.

1) Ðịnh một loại, ý nghĩa đã nói.

2) Ðịnh hai loại: Cận hành định là sự nhất tâm đạt được nhờ các phương pháp: 6 tưởng niệm, tử tưởng, quán sự bình an, quán bất tịnh của đoàn thực, phân tích tứ đại; và sự nhất tâm có trước định an chỉ. Ðịnh an chỉ là sự nhất tâm theo liền sau công việc chuẩn bị, như luận nói: “chuẩn bị cho sơ thiền là một duyên, kể như vô gián duyên, cho sơ thiền”.

7. 3). Ðịnh thế gian là sự nhất tâm có tánh thiện ở ba cõi dục, sắc, vô sắc. Xuất thế gian là định thuộc Thánh đạo.

8. 4). Ðịnh câu hữu hỷ là sự nhất tâm ở hai thiền đầu trong bốn thiền hoặc ba thiền đầu trong năm thiền. Ðịnh không hỷ là sự nhất tâm trong hai thiền cuối. Nhưng cận hành định thì có thể có hỷ hoặc không hỷ.

9. 5). Ðịnh câu hữu lạc là sự nhất tâm ở hai thiền đầu trong bốn thiền và ba thiền đầu trong năm thiền. Ðịnh câu hữu xả là định trong một thiền còn lại (ở cả hai hệ thống 4 và 5 thiền). Ðịnh cận hành có thể câu hữu lạc hoặc câu hữu xả.

10. 6). Ðịnh ba loại thứ nhứt, định mới đạt được là thấp, chưa được phát triển là trung bình, đã thuần thục đến mức chủ là cao.

11. 7). Thứ 2, định có tầm, tứ là định ở sơ thiền, và định cận hành. Không tầm có tứ là định ở nhị thiền trong năm thiền. Vì khi một người thấy nguy hiểm trong tầm mà không thấy nguy hiểm trong tứ thì chỉ mong bỏ tầm khi vượt qua sơ thiền và bởi thế đạt đến định không tầm có tứ. Ðịnh không tầm, tứ là sự nhất tâm ở ba thiền còn lại khỏi từ nhị thiền trong bốn thiền và tam thiền trong năm thiền (Xem D II 219).

12. 8). Thứ ba, định câu hữu hỷ: Ðịnh ở hai thiền đầu trong bốn thiền hay ba thiền đầu trong năm thiền. Ðịnh câu hữu lạc là định ở các thiền vừa kể, và định ở tam thiền trong hệ thống bốn thiền và tứ thiền trong hệ thống năm thiền. Ðịnh câu hữu xả là định ở thiền cuối cùng trong cả hai hệ thống. Ðịnh cận hành có thể câu hữu với hỷ, lạc; có thể câu hữu xả.

13. 9). Thứ tư, định có giới hạn là sự nhất tâm trong cận hành định. Ðịnh đại hành là sự nhất tâm trong thiện tâm thuộc sắc giới và vô sắc giới. Ðịnh vô lượng là sự nhất tâm liên hệ đến 8 Thánh đạo.

14. 10). Ðịnh bốn loại là:

  • khó tiến, lâu đắc,
  • khó tiến, mau đắc,
  • dễ tiến, lâu đắc, và
  • dễ tiến, mau đắc.

15. Sự phát triển mức tập trung kể từ phản ứng tâm ý đầu tiên đến khi phát sinh cận hành, gọi là tiến và tuệ phát sinh từ cận hành đến an chỉ, gọi là đắc. Sự tiến triển này khó khăn đối với một số người, dễ bởi sự phản kháng dai dẳng của những pháp đối nghịch, những triền cái v.v... Ðối với một số khác thì dễ, vì không gặp những khó khăn trên, sự chứng đắc cũng vậy.

16. Khi một người tu tập những pháp không thích hợp, thì khó tiến lâu đắc. Khi tu pháp thích hợp, thì dễ tiến mau đắc. Nhưng nếu lúc đầu tu pháp không thích hợp, sau tu pháp thích hợp, hoặc ngược lại, thì như vậy là hỗn hợp (về các pháp thích hợp, không thích hợp sẽ nói ở Ch. IV, đoạn 35 trở đi). Nếu khởi sự tu khi chưa làm công việc chuẩn bị, là trừ khử các chướng ngại v.v... thì khó tiến, ngược lại thì dễ tiến (Ch. IV, 20). Nếu không hoàn tất thiện xảo về định an chỉ thì lâu đắc, và ngược lại thì mau (thiện xảo về định an chỉ sẽ nói ở Ch. IV, 42).

17. Ngoài ra bốn loại định này còn kể theo tham và si, và tùy theo hành giả đã lập chỉ và quán hay chưa. Nếu hành giả nặng tham dục, thì rất khó tiến, nếu không nặng, thì dễ tiến. Nếu hành giả nặng về si, thì tuệ lâu đắc, ngược lại thì mau đắc. Nếu không tập tịnh chỉ thì khó tiến, đã thực tập tịnh chỉ thì dễ tiến. Nếu không tập tuệ quán thì lâu đắc, đã tập thì mau đắc.

18. Lại còn phân theo cấu uế và các căn. Nếu cấu uế sắc mạnh, căn chậm lụt thì khó tiến và lâu đắc; nếu căn linh lợi thì mau đắc. Nếu cấu uế yếu, căn cũng cùn nhụt, thì dễ tiến và lâu đắc, nhưng nếu căn linh lợi thì mau đắc.

19. Bởi vậy về phương diện tiến triển, chứng đắc này, khi một người đạt đến định với sự tiến triển khó khăn và tuệ (thắng trí) chậm lụt, thì định ấy gọi là Ðịnh khó tiến lâu đắc. Tương tự với ba trường hợp kia.

20. 11). Thứ hai, bốn loại là định giới hạn với một đối tượng hữu hạn, định có hạn với một đối tượng vô hạn, định vô hạn với một đối tượng hữu hạn, và định vô hạn với một đối tượng vô hạn. Hữu hạn là định không quen thuộc và không thể là điều kiện cho một thiền cao hơn. Có đối tượng không nới rộng, là định với đối tượng hữu hạn (Ch. IV, 126). Khi định có tính cách quen thuộc, khéo tu tập, và làm điều kiện cho một thiền cao hơn thì gọi là định vô hạn. Ðịnh phát sinh với một đối tượng nới rộng, gọi là định với đối tượng vô hạn.

21. 12). Ðịnh bốn loại thứ ba: đó là sơ thiền gồm năm thiền chi là tầm, tứ, hỷ, lạc, định (nhất tâm), đạt đến sau khi trừ bỏ năm triền cái. Nhị thiền còn ba thiền chi, bỏ tầm và tứ. Tam thiền còn hai thiền chi, bỏ hỷ. Tứ thiền bỏ lạc, còn hai yếu tố là định và xả.

22. 13). Ðịnh bốn loại thứ tư, là định dự phần vào thối giảm, dự phần vào tù đọng, dự phần vào phân tích (visesa), và dự phần vào thể nhập (nibbedha). Dự phần vào thối giảm là có thể đưa đến sự ngược lại (tán loạn). Dự phần vào tù đọng là sự dừng lại (trú) của niệm tương ưng với định ấy. Dự phần vào phân tích là đạt đến sự phân biệt cao hơn. Dự phần vào thể nhập là có thể đạt đến tưởng và tác ý câu hữu với ly dục. “Khi một người đắc sơ thiền mà có thể tưởng và tác ý câu hữu với dục, thì tuệ của vị ấy dự phần vào thối giảm. Khi niệm tương ưng với định ấy đứng lại, thì tuệ dự phần vào tù đọng. Khi vị ấy có thể tưởng và tác ý không câu hữu với tầm, thì tuệ vị ấy dự phần vào thắng giải (visesa). Khi vị ấy có thể tưởng và tác ý câu hữu với vô dục, hướng đến ly tham, thì tuệ vị ấy dự phần vào thể nhập (nibbedha)” (Vibh 330). Những định liên hệ đến bốn thứ tuệ này cũng có bốn.

23. 14). Ðịnh bốn loại thứ năm: định dục giới, sắc giới, vô sắc giới, và định liên hệ tám Thánh đạo. Ðịnh dục giới là tất cả loại định cận hành. Ba loại kia là sự nhất tâm thuộc thiện tương ưng với thiện sắc giới, vô sắc và thiện thuộc đạo lộ.

24. 15). Bốn loại thứ sáu: là định đạt được nhờ tinh cần nhiều, nhờ nhất tâm, tinh tiến hay trạch pháp nhiều.

25. 16) Ðịnh năm loại: theo năm thiền khi phân nhị thiền làm hai, là thiền không tầm có tứ, và không tầm không tứ (gọi là nhị thiền và tam thiền ở hệ thống năm thiền).

26. (v) Cái gì làm ô nhiễm Ðịnh? (vi) Cái gì làm nó thanh tịnh? Vibhaṅga nói là cấu uế là trạng thái dự phần vào thối giảm, thanh tịnh là trạng thái dự phần vào thắng giải (visesa). Thối giảm là “Khi một người đắc sơ thiền, mà có thể tưởng và tác ý câu hữu với dục, tuệ vị ấy dự phần vào thối giảm”. Và trạng thái dự phần vào thắng giải là “Khi vị ấy có thể tác ý và tưởng không câu hữu với tầm”.

27. (vii) Làm thế nào tu tập Ðịnh?

A. Tóm tắt:

Phương pháp tu tập loại định liên hệ tám Thánh đạo (xuất thế) bao gồm trong phương pháp tu tập tuệ (Ch. XXII), vì trong khi tu tuệ, định cũng được phát triển. Bởi thế ở đây ta không bàn đến sự tu tập định xuất thế.

28. Nhưng định thế gian phải được tu tập bởi một người đã đứng vững trên đất giới có giới hoàn toàn thanh tịnh như đã mô tả. Vị ấy phải đoạn trừ mười chướng ngại, gần gũi thiện tri thức, người cho một đề tài thiền quán, phải nắm lấy một trong bốn mươi đề tài, cái nào thích hợp với cá tính hành giả. Sau đó phải tránh ngôi chùa không thuận lợi, đến sống tại một chỗ thuận lợi cho sự tập định. Rồi phải trừ khử các chướng ngại phụ thuộc và không bỏ qua bất cứ một chỉ dẫn nào.

B. Khai triển chi tiết:

29. Mười chướng ngại. Ðó là: trú xứ, gia đình, lợi dưỡng, đồ chúng, việc xây cất, du lịch, quyến thuộc, ưu não, sách vỡ, thần thông.

30. 1) Trú xứ: Có thể là một phòng nhỏ trong nhà, một cái chòi, một tu viện. Ðây không phải là một chướng ngại cho tất cả mọi người. Nó chỉ là một chướng ngại cho người bận tâm việc xây cất đang tiến hành ở đấy, hoặc có nhiều đồ đạc ở đấy, hoặc bận rộn vì một công việc liên hệ đến chỗ ấy.

31. Có câu chuyện như sau. Hai thiện nam tử rời khỏi Anurādhapura để xuất gia tại tu viện Thūpārāma. Một người học hai tạng Pháp và Luật, sau khi mãn năm tuổi hạn, dự lễ tự tứ rồi đến một nơi tên nơi Pācīnakhaṇḍarājī. Vị kia ở nguyên tại chỗ. Khi người ra đi đến Pācīna lưu lại một thời gian lâu, trở thành một trưởng lão, vị ấy nghĩ: “Chỗ này an cư rất tốt. Ta sẽ đi mời bạn”. Bởi thế vị ấy ra đi đến Thūpārāma. Khi đến nơi, một trưởng lão đồng hàng ra đón, cầm bát và thi lễ.

32. Vị khách tăng đi vào chỗ trú dành cho mình. Ông nghĩ: “Chắc bạn ta sẽ đem cho ta ít bơ hoặc nước ngọt, hay cái gì để uống. Vị ấy ở đây đã lâu”. Ðêm ấy, ông không được một thứ gì. Buổi sáng, Trưởng Lão lại nghĩ: “Bạn sẽ gởi đến cho ta cháo và thức ăn nhận được từ những ngoại hộ cư sĩ”. Khi không có ai mang gì đến, trưởng lão nghĩ: “Không có ai mang đến. Có lẽ họ sẽ cúng khi chúng ta đi vào thành”. Sáng sớm, các đại đức cùng vào thành. Khi họ đã đi hết một con đường phố và chỉ được một muỗng cháo, họ ngồi tại một nhà mát để uống cháo ấy.

33. Vị khách tăng nghĩ: “Có lẽ không có sự bố thí từng người. Khi đến giờ ăn, chắc người ta sẽ cho món ăn đặc biệt”. Khi đến giờ, họ cũng chỉ ăn cái gì đã xin được trong khi đi khất thực. Khách tăng hỏi: “Bạch đại đức, tại sao vậy? Ngài sống kiểu đó suốt năm sao?” — “Vâng, hiền giả.” — “Bạch đại đức, Pācīnakhaṇḍarājī rất tiện nghi, chúng ta hãy đến đấy”. Khi trưởng lão khách tăng rời khỏi đô thị bằng cửa nam, thì gặp bạn đang đi trên đường. Trưởng lão hỏi: “Bạch đại đức, đi đâu vậy?” — “Thế không phải hiền giả đã khuyên tôi đi Pācīna sao?” — “Nhưng, sao lại như thế? Ðại đức không có một vật dụng nào cả, tại một nơi đã ở lâu đến thế?” — “Ðúng thế, hiền giả. Giường và ghế thuộc của tu viện, đã được để lại đúng chỗ của nó. Không có vật gì khác.” — “Nhưng bạch đại đức, tôi đã quên lại đấy chiếc gậy, chai dầu, và túi đựng dép.” — “Hiền giả đã tích trữ nhiều đến thế, chỉ mới ở một ngày?” — “Vâng thưa đại đức”.

34. Vị trưởng lão khách rất hài lòng tán thán: “Ðối với những người như hiền giả, thì các nơi đều là trú xứ ở rừng. Tu viện Thūpārāma là nơi xá lợi của bốn đức Phật được tôn thờ, có sự nghe Pháp thích đáng trong điện Brazen, có Ðại Điện để chiêm ngưỡng, và có thể thăm viếng các trưỡng lão. Nó giống như thời Phật tại thế. Chính ở đấy, bạn nên sống”. Hôm sau, trưởng lão ôm y bát ra đi một mình. Trú xứ không là một chướng ngại cho một người như vậy.

35. 2) Gia đình gồm những quyến thuộc hoặc những cư sĩ ngoại hộ. Bởi vì, ngay cả gia đình thí chủ cũng là một chướng ngại cho những người nào sống liên hệ mật thiết với họ theo kiểu mà kinh mô tả: “Vị ấy, vui khi chúng vui” (S II 11), một người không đi đến một tu viện để nghe Pháp nếu không có những người trong gia đình thí chủ đi theo.

36. Nhưng ngay cả cha mẹ cũng không là chướng ngại cho một người như Tỷ-kheo trẻ, cháu của một trưởng lão ở tu viện Koraṇḍaka. Ðại đức đến Rohaṇa để học. Chị của trưởng lão luôn luôn hỏi tin tức con trai. Bởi thế, một ngày kia, trưởng lão đi Rohaṇa để đưa cháu về.

37. Vị đại đức Tỷ-kheo trẻ cũng nghĩ “Ta ở đây đã lâu, bây giờ ta có thể đi thăm y chỉ sư của ta và thăm bà tín nữ ra sao”. Rồi đại đức rời Rohaṇa. Hai thầy trò gặp gỡ trên bờ sông Mahaveli, đại đức hầu trưởng lão dưới gốc cây. Khi được hỏi: “Con đi đâu?” Ðại đức nói ra ý định của mình. Trưỡng lão nói: “Con làm phải đấy. Bà tín nữ cứ hỏi thăm con hoài nên ta phải đến đây. Con đi đi, ta sẽ ở lại chỗ này an cư mùa mưa”. Và trưởng lão bảo Tỷ-kheo ra đi. Ðại đức đến tu viện vào đúng ngày để an cư mùa mưa. Trú xứ dành cho đại đức tình cờ lại là trú xứ của phụ thân đại đức đã nhận trách nhiệm cúng dường.

38. Hôm sau, thân phụ đại đức đến nơi hỏi: “Bạch chư đại đức trú xứ chúng tôi cúng rơi vào tay người nào vậy?” Khi ông được biết nó rơi vào một khách tăng trẻ, ông đến bên vị ấy đảnh lễ và thưa: “Bạch đại đức, có một tục lệ bắt buộc đối với vị nào an cư tại trú xứ chúng tôi.” — “Lệ ấy như thế nào?” — “ Ðó là, chỉ nhận đồ ăn khất thực tại nhà chúng tôi suốt ba tháng mùa mưa, và cho chúng tôi được biết ngày nào sẽ ra đi, sau lễ Tự tứ”. Ðại đức im lặng nhận lời. Cư sĩ trở về bảo vợ: “Có một đại đức khách tăng đã ở trong trú xứ của chúng ta để an cư mùa mưa. Bà hãy săn sóc vị ấy chu đáo”. Bà vâng lời, sửa soạn những thức ăn loại cứng và loại mềm cho Tỷ-kheo. Mặc dù đại đức đi đến nhà cha mẹ, vào giờ ăn, mà không ai nhận ra.

39. Sau khi đã khất thực ở đấy ba tháng mùa mưa, đại đức báo tin sắp ra đi. Bà con bảo: “Bạch đại đức, xin hãy lưu lại đến mai”. Hôm sau, họ mời đại đức dùng bữa tại nhà, đổ dầu đầy ống cho đại đức, cúng một tảng đường và chín mét vải, và để đại đức ra đi. Ðại đức chúc lành cho họ, rồi trở về Rohaṇa.

40. Y chỉ sư của đại đức đã xong lễ Tự tứ, đang trên đường về. Họ gặp nhau tại chỗ trước kia. Ðại đức làm những bổn phận của người đệ tử dưới gốc cây. Vị trưởng lão hỏi: “Con có gặp bà tín nữ không?” — “Bạch, có”. Và kể cho trưởng lão nghe những gì đã xảy ra. Rồi đại đức thoa dầu vào chân thầy, làm một thứ nước đường cho ngài, và cúng dường ngài chín mét vải. Sau khi đảnh lễ trưởng lão, đại đức bạch: “Chỉ có Rohaṇa là thích hợp cho con”, và ra đi. Trưởng lão cũng trở về tu viện của ngài, và hôm sau đi vào làng Koraṇḍaka.

41. Chị của trưởng lão đứng ngóng trên đường mà nghĩ: “Em ta sẽ đến cùng với con ta”. Khi bà thấy trưởng lão đến có một mình, mới nghĩ: “Ôi chắc con ta chết rồi”. Và ngã lăn ra dưới chân trưởng lão, khóc than kể lễ. Nghĩ rằng vì hạnh thiểu dục mà Tỷ-kheo trẻ đã ra đi không loan báo, trưởng lão an ủi bà tín nữ và kể cho bà nghe những gì đã xảy ra, rồi rút tấm vải kia cho bà xem.

42. Bà mẹ an lòng, quỳ gối hướng về con đường mà con bà đang đi, và bảo: “Chắc hẳn, Đức Thế Tôn đã chỉ dạy con đường của các Thánh tài, biết đủ đối với bốn vật dụng và ham thích tu tập, khiến cho một Tỷ-kheo như con ta đã trở thành một bậc Thân chứng. Bởi thế mặc dù vị ấy ăn trong nhà cha mẹ suốt ba tháng, mà không bao giờ nói, con là con của mẹ, hay mẹ là mẹ của con! Ôi thật là một con người kỳ diệu”. Ngay cả cha mẹ cũng không là chướng ngại, đối với một người như vậy, nói gì đến thí chủ.

43. 3) Lợi dưỡng: là bốn vật dụng. Làm sao chúng thành chướng ngại? Bất cứ một Tỷ-kheo xứng đáng đi đâu, người ta cũng cúng dường thật nhiều vật dụng. Vì cứ phải chúc lành cho họ, nói pháp cho họ, vị ấy không có dịp nào để làm các việc của nhà khổ hạnh. Từ sáng sớm đến tối mịt, vị ấy không có lúc nào gián đoạn sự tiếp xúc với bổn đạo. Lại nữa, mới vừa tảng sáng, những người khất thực ưa béo mập đã đến bảo, “Bạch Ðại đức, nam cư sĩ X, nữ cư sĩ Y... đạo hữu nọ, con gái đạo hữu kia, muốn gặp đại đức”, và vì sẵn sàng để ra đi, nên vị ấy nói: “Hãy đem y bát, hiền giả”. Cứ thế, vị ấy luôn luôn trong trình trạng khẩn trương. Như thế, tứ sự cúng dường trở thành một chướng ngại cho vị ấy. Vị ấy nên rời đoàn nhóm mà ra đi một mình, đến một chỗ nào không ai biết, đấy là cách chấm dứt trở ngại.

44. 4) Ðồ chúng: là một nhóm học trò kinh hay luận. Nếu vị dạy dỗ, trả lời những câu hỏi của đám này, mà không có thì giờ thi hành Sa-môn hạnh, thì đồ chúng ấy trở thành một chướng ngại. Vị ấy nên trừ chướng ngại ấy bằng cách sau. Nếu những Tỷ-kheo đã học xong phần chính chỉ còn một ít, thì nên dạy cho xong mà đi vào rừng. Nếu chỉ mới học một ít, còn lại nhiều, thì vị ấy nên đi đến một giáo thọ sư khác ở cách không quá một lý và nhờ dạy tiếp. Nếu không tìm ra vị nào thay, thì nên giã từ lớp học để làm phận sự mình.

45. 5) Xây cất: là làm nhà mới. Người lo việc này phải biết rõ vật liệu đã mua, chưa mua, phải trông coi cái gì đã làm xong, chưa xong, cho nên công việc này luôn luôn bận rộn. Nên trừ chướng ngại bằng cách, nếu còn lại ít thì nên làm cho xong; nếu còn nhiều, nên giao lại cho chúng tăng khi đó là cơ sở chung, còn nếu là của riêng, thì nên giao cho người tín cẩn, hoặc bỏ lại cho tăng đoàn mà đi.

46. 6) Du lịch là đi xa. Nếu có người xin thọ giới xuất gia ở một nơi khác, hay nếu tại đấy có một vật dụng không thể thiếu, thì nó sẽ thành một chướng ngại nếu vị ấy đi vào rừng tu trong khi chưa làm chuyến du hành đến chỗ ấy. Vị ấy sẽ khó xua đuổi ý nghĩ về cuộc hành trình, do đó nên làm xong cuộc hành trình ấy trước khi vào rừng.

47. 7) Quyến thuộc: ở tu viện, thì đó có nghĩa là vị giáo thọ sư, y chỉ sư, đồng trú, đệ tử, đồng giáo thọ sư, đồng y chỉ sư. Ở nhà, thì đó là cha mẹ, anh em v.v... Khi những người này lâm bệnh thì đó là một chướng ngại cho Tỷ-kheo. Bởi thế, chướng ngại này cần trừ bằng cách chữa lành người bệnh.

48. Khi y chỉ sư lâm bệnh, Tỷ-kheo phải suốt đời trông nom nếu bệnh không chóng khỏi. Cũng thế, đối với vị thầy lúc xuất gia, lúc thọ giới, vị đồng trú, những đệ tử mà vị ấy đã thâu nhận xuất gia, và đối với đồng y chỉ sư. Nhưng đối với giáo thọ sư, đối với học trò mà ta dạy giáo lý, và đối với những người đồng học (đồng giáo thọ sư) thì nên săn sóc họ bao lâu lớp học còn tiếp tục, và nếu có thể, thì cứ tiếp tục săn sóc sau đó.

Mẹ và cha cần đối như y chỉ sư. Nếu cha mẹ ở trong thành, và cần sự giúp đỡ, thì phải giúp. Nếu các vị không có thuốc men phải cung cấp thuốc của mình. Nếu không có, hãy đi xin để cung cấp. Nhưng nếu anh chị em bệnh, chỉ nên để họ dùng cái gì của họ. Nếu họ không có, thì nên đem của riêng tạm cho dùng, sau lấy lại. Nếu không lấy lại được cũng không nên phàn nàn. Không được cho hay chế thuốc cho chồng của em gái hoặc chị, nhưng có thể đưa cho em gái, chị mà bảo “Hãy đưa cho chồng của em (hay chị) dùng”. Ðối với vợ của anh hoặc vợ của em trai cũng vậy, nhưng với cháu thì Tỷ-kheo được phép cho thuốc, chế thuốc, vì chúng có liên hệ máu mủ.

50. 8) Ưu não là bất cứ loại bệnh nào, khi đau đớn thực sự là một chướng ngại, nên phải trừ chướng ngại ấy bằng cách chữa thuốc men. Nếu bệnh vẫn không khỏi sau khi chữa thuốc vài ngày, thì hãy làm phận sự của nhà khổ hạnh sau khi nói với cơ thế: ”Ta không phải là đầy tớ của ngươi. Ta đã chịu đau khổ vì bảo trì ngươi qua cái vòng tử sinh bất tận”.

51. 9) Sách vở là trách nhiệm đối với kinh điển. Ðây chỉ là chướng ngại với người luôn bận đọc tụng mà thôi. Về điểm này, có câu chuyện sau. Khi trưởng lão Revata ở xứ Ðồi, được đại đức Revata người tụng đọc đến xin một đề tài thiền định, ông hỏi “Về kinh điển, hiền giả đã đến đâu?” — “Tôi đang tụng đọc Trung bộ kinh, bạch đại đức.” — “Trung bộ kinh là một trách nhiệm nặng nề, hiền giả. Khi một người đang học thuộc lòng 50 kinh đầu tiên, vị ấy còn trước mặt 50 kinh chặn giữa, khi đang học 50 kinh ở giữ, vị ấy còn trước mặt năm mươi kinh sau cùng. Làm sao hiền giả có thể khởi sự một đề tài thiền định?” — ”Bạch đại đức, khi tôi đã nhận một đề tài, thì tôi sẽ không dành lại kinh điển nữa”. Vị ấy nhận đề mục thiền và trong 19 năm không tụng đọc, đã chứng quả La-hán vào năm thứ 20. Ông bảo những Tỷ-kheo đến tụng đọc “Chư hiền, ta đã không nhìn đến kinh điển 20 năm nay, nhưng vẫn quen thuộc. Chư hiền cứ khởi sự”. Và từ đầu đến cuối, trưởng lão tụng đọc không bị vấp một âm nào.

52. Trưởng lão Mahā-Nāga ở Karuliyagiri cũng vậy, để kinh qua một bên 18 năm trời, sau đó ông tụng Dhātukathā cho các Tỷ-kheo nghe không sai một chữ.

53. Trong đại tu viện, trưởng lão Abhaya bảo đánh trống tuyên bố: “Tôi sẽ trình bày Ba tạng trong vòng những vị tinh thông Năm bộ kinh” và việc này xảy ra trước khi ông học luận sớ. Chúng Tỷ-kheo bảo: “Ðó là giáo lý của những bậc thầy nào? Trừ phi ngài đưa ra giáo lý của những bậc thầy, chúng tôi không để ngài nói”. Vị y chỉ sư của trưởng lão cũng hỏi: “Hiền giả, đã cho đánh trống chưa?” — “Bạch, đã.” — “Vì lý do nào?” — “Bạch, con sẽ giảng kinh.” — “Hiền giả, các bậc thầy giải thích đoạn này thế nào?” — “Như thế này, bạch đại đức”. Vị y chỉ sư không bằng lòng, hùm một cái. Ba lần trả lời khác nhau, ông đều không vừa ý chỉ “hùm”. Rồi ông bảo: “Hiền giả, giải thích đầu tiên của ông là cách giảng của những bậc thầy, nhưng vì ông đã không thật sự nghe nó từ miệng một bậc Thầy, nên đã không thể giữ vững lập trường, rằng những bậc Thầy nói như vậy. Hãy đi học với những bậc Thầy đi.” — “Bạch đại đức con sẽ đi đâu?” — “Có một trưởng lão tên Mahā Dhammarakkhita (Ðại Pháp hộ) ở tu viện Tulādhārapabbata xứ Rohaṇa bên kia sông Mahaveli. Vị ấy biết rõ tất cả kinh điển. Hãy đến vị ấy”. Trưởng lão Abhaya vâng lịnh ra đi. Ðến nơi, sau khi làm lễ, ông trình bày lý do. Trưởng lão Ðại pháp Hộ bảo: “Tôi đã không xem kinh điển ba chục năm nay. Nhưng hiền giả hãy đọc lại buổi tối, và sáng ngày ta sẽ giảng”. Abhaya vâng lời.

54. Những cư dân trong làng dựng một lều trại lớn trước trú xứ của ngài, ngày ngày chúng đến nghe pháp. Ban ngày, vị trưởng lão giảng những gì ngài đã nghe đọc về đêm, cho đến cuối cùng, hoàn tất việc giảng dạy. Rồi ngài trải một chiếc chiếu trước mặt Abhaya, ngồi xuống mà bảo: “Hiền giả hãy giảng cho tôi một đề tài thiền định.” — “Ðại đức nói cái gì? Chẳng phải tôi đã học mọi sự từ nơi ngài, hay sao? Tôi có thể nói một điều gì cho ngài, mà ngài không biết rồi?” Vị trưởng lão nói: “Con đường này khác, đối với một người đã thực sự du hành trên đó”.

55. Abhaya lúc đó dường như là một bậc Dự Lưu. Khi trưởng lão Abahya đã cho thầy của ông một đề tài, ông trở về Anurādhapura. Về sau, trong khi đang giảng pháp trong điện Brazen, ngài nghe tin vị trưởng lão đã nhập Niết Bàn. Ngài liền bảo: “Chư hiền, A-la-hán đạo thích hợp cho vị thầy của chúng ta. Ngài thật là một bậc chân tri thức. Ngài ngồi giữa chiếu, trước mặt chính học trò của mình và bảo: hãy giảng cho tôi một đề tài thiền quán. Chư hiền, A-la-hán đạo thích hợp với vị Thầy chúng ta”. Ðối với những bậc ấy, sách vở không là một chướng ngại.

10) Thần thông là phép lạ của phàm phu, rất khó duy trì như một đứa trẻ còn nằm ngửa hay một con thỏ con, một vật nhỏ cũng làm nó tan vỡ được. Nhưng đó là một chướng ngại cho tuệ chứ không phải cho định, vì nhờ định mà có thần thông. Bởi thế, phép lạ hay thần thông là những chướng ngại mà người tầm cầu tuệ phải trừ khử, còn các chướng ngại khác là những thứ mà người tầm cầu định phải trừ.

Trên đây là giải thích chi tiết về các chướng ngại.

57. Gần gũi thiện tri thức, người cho một đề tài (đoạn 28): những đề tài thuộc hai loại, đó là đề tài có lợi ích chung và đề tài đặc biệt.

Quán tâm từ, và niệm về cái chết là những phép quán có lợi ích phổ quát. Có thể kể thêm quán bất tịnh.

58. Khi một Tỷ-kheo nắm lấy một đề tài thiền quán, trước hết vị ấy phải phát triển từ tâm đối với tăng đoàn trong giới vức, ban đầu trưởng đến các Tỷ-kheo trong chùa như sau: “Mong các Tỷ-kheo được an vui, thoát khổ”. Rồi nên trải tâm ấy rộng ra đến tất cả chư thiên ở trong giới vức, đến những cư dân trong làng, nơi vị ấy thường khất thực, rồi đến tất cả mọi người ở đấy và tất cả chúng sinh phụ thuộc. Với tâm từ đối với chúng Tỷ-kheo, vị ấy phát sinh lòng từ ái với những người đồng trú, trở nên dễ sống chung. Với tâm từ đối với chư thiên trong giới vức, vị ấy được thiện thần hộ trì bằng sự hộ trì đúng pháp, với tâm từ đối với những người vị ấy lui tới khất thực, vị ấy được họ giúp đỡ tứ sự một cách hợp pháp. Với tâm từ đối với mọi người quanh đấy, vị ấy đi đâu cũng không bị chán ghét, vì được người ta tin tưởng. Với tâm từ đối với tất cả chúng sinh, vị ấy có thể đi ta bà khắp nơi không bị cản trở.

Với tử tưởng, nghĩ rằng “Ta sẽ chết” vị ấy từ bỏ sự tầm cầu bất đáng và ý thức tỉnh giác tăng thạnh, vị ấy sống không ràng buộc.

Khi tâm vị ấy thường quán bất tịnh, thì cả đến những đối tượng ở cõi trời cũng không cám dỗ được vị ấy khởi tham.

59. Những quán tưởng trên, như vậy, có ích lợi phổ quát. Chúng được gọi là những đề tài thiền định vì cần tu tập thường xuyên, chúng rất đáng muốn do bởi lợi ích lớn lao của chúng.

60. “Ðề mục thiền đặc biệt” là 40 đề tài thích hợp với cá tính từng người. Nó “đặc biệt” (pārihāriya) vì vị ấy phải mang (pariharitabbattā) nó luôn theo mình, và vì nó là nhân gần cho một giai đoạn tu tập cao hơn. Người cho một đề tài thuộc hai loại nói trên, là người cho đề tài thiền.

61. Thiện tri thức là người có những đức tính:

Ðược kính trọng yêu mến
Biết nói và chịu nghe
Lời thốt ra sâu sắc
Không vô cớ buộc ràng (A IV 32)

Người ấy hoàn toàn quan tâm đến sự an lạc và thích tiến bộ.

62. Do câu: “Này Ānanda, nhờ Ta làm thiện tri thức cho chúng, mà những hữu tình bị sinh tử được thoát ly sinh tử” (S I 88), ta thấy chỉ có Ðức Phật, đấng Toàn Giác, mới có được tất cả điều kiện của một bậc thiện tri thức. Bởi thế khi Ngài còn ở đời, chỉ có một đề mục thiền được nhận trước mặt Thế Tôn, mới là một đề mục được nhận một cách tốt đẹp. Sau khi Ngài nhập Niết Bàn có thể nhận từ một vị Thánh đệ tử còn sống. Khi những vị này cũng không còn, hãy nhận từ một vị đã sạch lậu hoặc, một vị nhờ đề mục đặc biệt ấy đã chứng bốn thiền, năm thiền đã đạt đến lậu tận bằng cách tăng trưởng trí huệ có thiền làm nhân.

63. Nhưng làm thế nào một vị đã đoạn tận lậu hoặc tuyên bố: “Ta là người đã đoạn tận lậu hoặc?” Tại sao không? Vị ấy tuyên bố như vậy khi biết chắc rằng những chỉ giáo của ông sẽ được thi hành. Như trưởng lão Assagutta đã trải chiếu ngồi kiết già giữa hư không để giảng một đề tài thiền quán cho một Tỷ-kheo khởi sự tu tập đề tài ấy, vì biết vị này sẽ làm theo lời dạy của ông.

64. Vậy, nếu có một vị đã đoạn tận lậu hoặc thì tốt. Nếu không, thì hãy nhận đề tài nơi một vị Bất Hoàn, một vị Nhất Lai, một vị Dự Lưu, một người thường nhưng đã đắc thiền, một người thông ba tạng, hai tạng, một tạng, một người thông năm bộ Nikāya, một Nikāya cùng với sớ giải, hoặc một người cẩn trọng. Vì một bậc thầy cẩn trọng thì biết rõ kinh điển, giữ gìn gia tài Phật Pháp, bảo trì truyền thống, vị ấy sẽ theo quan điểm của bậc Thầy hơn là theo ý riêng. Do vậy, cổ đức đã nói lên ba lần: “Một người cẩn trọng sẽ giữ gìn kho báu”.

65. Những người nói trên, khởi từ vị đã đoạn tân lậu hoặc, chỉ nói đến con đường mà chính họ đã đạt đến. Nhưng với một vị đa văn, thì những chỉ dạy và giải đáp được thanh lọc nhờ đã đến gần nhiều bậc Thầy, và bởi thế, vị này sẽ giải thích một đề tài thiền quán bằng cách nêu rõ một lối đi rộng, như một thớt voi lớn đi qua một dãi rừng. Vị ấy sẽ chọn lọc những bản kinh, những lý lẽ chỗ này chỗ khác, kèm thêm giải thích cái gì nên theo cái gì không. Do vậy, một đề tài thiền quán cần được chọn bằng cách đến gần một Thiện Tri Thức như thế, người cho một đề tài, và khi đến gần, hãy làm những bổn phận của một môn sinh.

66. Nếu vị ấy ở cùng một tu viện, thì tốt. Nếu không, hành giả nên đi đến chỗ vị ấy cư trú. Khi một Tỷ-kheo đi đến thiện tri thức, thì không nên đi với chân thoa dầu, mang giầy, đi dù, có đệ tử đoanh vây đem theo tư cụ. Vị ấy nên du hành như một Tỷ-kheo du phương, tự mang y bát, làm tất cả bổn phận trong mỗi ngôi chùa trên đường đi, mang theo rất ít và sống với hạnh viễn ly cao độ. Khi vào đến tự viện có bậc thiện tri thức ấy, vị Tỷ-kheo không được mong mỏi cái gì, phải tự túc đến cả một cái tăm xỉa răng. Vị ấy cũng không nên vào một phòng, nhà nào trong tự viện, nghĩ, ta sẽ ở đấy nghỉ ngơi, tắm rửa, bôi dầu vào thân, rồi hãy đi đến bậc thầy.

67. Tại sao thế? Vì nếu ở đây có các Tỷ-kheo không ưa bậc thầy, họ sẽ hỏi mục đích viếng thăm của khách, rồi chê bai bằng cách nói: “Nếu bạn tới ông đó thì bạn rồi đời”. Những vị này có thể làm cho người mới đến hối hận đã đến, và bèn quay trở về. Do đó, chỉ nên hỏi trú xứ rồi đến thẳng bậc thầy.

68. Nếu bậc thầy là hạ tọa Tỷ-kheo, vị thâm học cũng không được để cho ông ta đỡ lấy y bát của mình v.v... Nếu là một thượng tọa Tỷ-kheo, thì nên thí lễ rồi đứng. Khi thầy bảo, “Hiền giả, hãy đặt y bát xuống” mới được đặt. Khi thầy mời uống nước, nếu khát nên uống. Khi thầy bảo rửa chân, không nên rửa ngay, vì nếu nước ấy do chính thầy mang tới thì không phải phép. Nhưng nếu thầy bảo, “Hiền giả, nước ấy không phải tôi mang đến. Hãy rửa đi” thì được rửa, bằng cách ngồi tại một chỗ khuất mắt thầy, hoặc ở ngoài chỗ trống phía một bên nhà.

69. Nếu thầy mang đến một ống dầu, Tỷ-kheo hãy đứng dậy cẩn thận đỡ lấy với cả hai tay. Nếu Tỷ-kheo không nhận, vị kia có thể ngạc nhiên tự nhủ, Tỷ-kheo này chưa gì đã ghét xài chung như vậy sao? Nhưng khi nhận xong, Tỷ-kheo không nên thoa vào chân ngay. Vì nếu đó là dầu để thoa chân thầy, thì không được dùng mà thoa chân mình. Bởi thế, Tỷ-kheo nên thoa lên đầu, vai..., nhưng nếu thầy bảo “Hiền giả, dầu này để thoa chân tất cả mọi người, hãy thoa chân”, thì vị ấy nên thoa một ít lên đầu, rồi thoa chân. Xong đâu đấy, đưa lại cho thầy mà thưa: “Bạch đại đức, con xin gởi lại chai dầu”.

70. Vị Tỷ-kheo không nên nói: “Bạch đại đức, giảng cho tôi một đề tài thiền quán” ngay hôm mới đến. Nhưng khởi từ hôm sau, nên xin làm phận sự của một người hầu. Nếu thầy không cho, thì nên làm phận sự ấy khi có dịp. Khi làm, thì phải mang cho thầy ba cái tăm xỉa răng cỡ nhỏ, vừa và lớn, hai loại nước súc miệng cũng như nước tắm, là nóng, lạnh. Trong ba ngày đầu, để ý thầy dùng thứ nào trong các thứ ấy thì sau đó hãy mang đến thứ đó. Nếu thầy dùng thứ nào cũng được, thì sau gặp thứ gì đem thứ ấy.

71. Tại sao phải nói nhiều? Vì tất cả phải được thì hành như lời Thế Tôn dạy trong các kiền độ (khandhakas) xem như những phận sự của đệ tử: “Này các Tỷ-kheo; một đệ tử cần phải thi hành những bổn phận đối với thầy cho đúng cách. Ở đây, sự thi hành bổn phận đúng cách là như sau. Ðệ tử nên dậy sớm, bỏ dép sửa y, đem tăm và nước súc miệng, trải tọa cụ cho thầy. Nếu có cháo, hãy rửa dĩa và mang cháo” (Vin I 61).

72. Ðệ tử nên đến vấn an thầy vào mỗi chiều, nếu thầy bảo lui ra thì hãy lui. Nếu thầy hỏi đến làm gì, nên nói lý do. Nếu thầy không hỏi, mà để cho làm các bổn phận, thì sau 10 ngày hoặc nữa tháng, nên tìm một dịp ở nán lại sau khi thầy bảo lui, và trình bày lý do mình đến. Hoặc đến thầy vào một lúc bất thường, chờ khi thầy hỏi đến làm gì, hãy trình bày lý do.

73. Nếu thầy nói mai trở lại, hãy y lời. Nhưng nếu vào đúng lúc ấy mà bị đau bụng hay một thứ bệnh gì khác, thì nên thưa thầy rõ và đề nghị một giờ khác thích hợp cho mình. Bởi vì nếu một đề tài thiền quán được giải thích vào lúc bất tiện, thì ta không thể chú tâm nghe kỹ. Trên đây là giải thích câu “đến gần thiện tri thức, người cho một đề tài thiền quán”.

74. Một đề tài thích hợp với cá tính (đoạn 28): Có 6 loại cá tính, là cá tính nặng về tham, sân, si, tín, tuệ và tư duy. Có người cho con số cá tính lên đến 14 loại, bằng cách phối hợp những cá tính trên. Nhưng nếu chấp nhận lối này thì sẽ có nhiều loại cá tính hơn nữa, cho nên chỉ cần hiểu là có 6 loại cá tính. Theo đó chỉ có 6 hạng người, là hạng nhiều tham, nhiều sân, nhiều si, hạng thiên về đức tin, thiên về trí tuệ, thiên về tư duy.

75. Ở đây, hạng thiên về đức tin đi đôi với hạng nặng về tham, vì đặc tính của đức tin rất gần với đặc tính của tham. Vì, về khía cạnh bất thiện thì tham nặng tình cảm, không khắc chế, cũng vậy khía cạnh thiện thì đức tin nặng tình cảm. Tham tầm cầu khoái lạc giác quan, còn đức tin tầm cầu công đức như giới, thí v.v... Tham không từ bỏ cái gì có hại, còn đức tin thì không bỏ cái gì có lợi.

76. Một người thiên về trí tuệ thường đi đôi với tánh sân, vì tuệ mạnh khi mà thiện nghiệp phát sinh nơi một người nhiều sân, do bởi đặc tính của tuệ gần với những đặc tính của sân. Vì, về khía cánh bất thiện, thì sân không tình cảm không bám víu đối tượng của nó, về khía cạnh thiện cũng thế, trí tuệ cũng không tình cảm và cũng không bám víu. Sân tánh thì chỉ tìm cho ra những lỗi không thật có, trong khi tuệ chỉ tìm những lỗi thật. Và sân sinh khởi trong cách buộc tội chúng sinh, trong khi tuệ sinh khởi bằng cách buộc tội các hành.

77. Một người thiên về tư duy đi đôi với tánh si, vì những chướng ngại Tầm sinh khởi nơi một người nhiều si khi nó cố làm phát sinh những thiện pháp chưa sinh. Ðặc tính của Tầm gần với đặc tính của si, vì cũng như si không được an do bối rối, tầm cũng thế, không an là do suy nghĩ nhiều. Và vì si bị lay chuyển do nông cạn, cũng thế tầm bị di chuyển do dễ đoán mò.

78. Có người cho rằng còn có ba loại tánh khác, là dục, mạn và kiến. Ở đây dục chỉ là tham và mạn cũng liên hệ. Bởi thế, dục và mạn không ra ngoài tham. Còn kiến (chấp) thì có gốc từ si, nên tánh tà kiến có gốc từ tánh si.

79. Cái gì là nguồn gốc của những tánh nói trên? Và làm sao biết được một người thuộc tánh nào? pháp tu nào thích hợp cho hạng nào?

80. Như vài người (trưởng lão Upatissa trong Vimuttimagga) nói, trước hết ba đặt tánh đều có nguồn gốc ở tập khí về trước, và do bẩm chất tánh tình hiện tại un đúc. Có lẽ một người nhiều tham trước kia đã từng làm nhiều việc mà họ khoái thích, hoặc họ đã tái sinh ở cõi này sau khi mệnh chung ở một thiên giới. Và một người nhiều sân, trước kia có lẽ đã từng có những việc làm đâm chém, tra tấn tàn bạo, hoặc đã tái sinh ở cõi này sau khi mệnh chung tại một cói địa ngục hay rắn rồng. Còn một người nhiều si, có lẽ trước kia đã từng uống nhiều rượu, ít chú ý đến học vấn, hoặc tái sinh cõi này sau khi chết ở trong loài súc sinh. Ðó là nguồn gốc kiếp trước, người ta bảo.

81. Và một người tánh si là vì có hai đại tăng thịnh, địa đại và thủy đại. Người có nhiều sân là vì phong đại và hỏa đại tăng thịnh. Nhưng người tham nhiều là vì bốn đại quân bình. Về khí chất kẻ nặng về tham thì dư đàm, người nặng về si dư phong. Hoặc nặng về si dư đàm, nặng tham dư phong. Bởi thế nguồn gốc tánh tình còn do bốn đại và khí chất, người ta bảo.

82. Ta có thể cãi rằng, không phải tất cả những người đã từng có những việc làm thích ý, hoặc đã tái sinh từ cõi trời, đều có tánh tham cả. Hai tánh sân, si cũng vậy. Và không có luật nào về sự tăng thịnh của các đại như thế (Xem Ch. XIV, 43...) mà luật về khí chất nói trên chỉ có hai tánh tham và si được đề cập, sông laị mâu thuẫn liền, và không đả động đến cội nguồn của tánh nhiều đức tin. Do đó định nghĩa này không nhất thiết đúng.

83. Sau đây là trình bày theo quan điểm những luận sư đã giải thích về sự tăng thịnh. Sự kiện những hữu tình này có tham tăng thịnh, sân tăng thịnh, si tăng thịnh là do căn nguyên đời trước. Vì khi ở nơi một người, vào lúc nghiệp tích lũy (tức nghiệp đi đầu thai) có tham mạnh, vô tham yếu, vô sân và vô si mạnh, sân và si yếu, khi ấy tánh vô tham yếu ớt của nó không thể thắng tham, nhưng vì vô sân vả vô si mạnh có thể lướt sân và si, cho nên lúc tái sinh người ấy có tham dục, vui tính, không sân giận, và có tuệ. Mau hiểu biết như chớp.

84. “Khi, vào lúc nghiệp tích lũy của một người khác, tham và sân mạnh, vô tham và vô sân yếu, nhưng vô si mạnh và si yếu, thì như cách đã nói, người ấy có tham và sân, nhưng lại có tuệ mau hiểu, như Trưởng lão Datta-Abhaya. Khi, vào lúc nghiệp tích lũy của một người, tham, vô sân và si mạnh, thì như cách đã nói, người ấy tham, đần độn song lại vui tính, không giận hờn, như đại đức Bahula”.

"Cũng thế, nếu vào lúc nghiệp tích lũy, cả ba thứ tham, sân, si đều mạnh, những thứ khác yếu thì người ấy vừa tham, sân lại vừa ngu si”.

85. Khi, vào lúc nghiệp tích lũy, vô tham, sân và si mạnh, các thứ khác yếu, thì người ấy không tham lam thù hận, tánh tình vui vẻ nhưng lại chậm hiểu.

"Cũng vậy, nếu vào lúc nghiệp tích lũy, vô tham, sân và vô si mạnh, các thứ khác yếu, thì người ấy không tham, có trí tuệ nhưng lại sân, dễ nổi xùng”.

"Cũng vậy, nếu vào lúc nghiệp tích lũy cả ba tánh vô tham, vô sân và vô si mạnh, các thứ khác yếu, thì người ấy không tham, không sân, mà lại có trí tuệ, như trưởng lão Mahā-Saṅgharakkhita”.

86. Ở đây, khi nói một người “có nhiều tham” có nghĩa là người thuộc tánh tham. Tương tự với sân và si. Có trí tuệ nghĩa là thuộc tánh tuệ. Người không tham không sân thuộc về tánh tín, vì những người này tự nhiên dễ tin tưởng, hoặc cũng như một người tái sinh do nghiệp câu hữu với vô si là tánh tuệ, một người tái sinh do nghiệp câu hữu với tín, thuộc tánh tín. Một kẻ tái sinh do nghiệp câu hữu với những dục tưởng, thuộc tánh tư duy, còn một người tái sinh do nghiệp câu hữu với tham v.v... Lẫn lộn, thuộc tánh hỗn hợp. Vậy, chính nghiệp dẫn đến tái sinh, câu hữu bởi một trong những yếu tố tham v.v... Cần được hiểu là nguồn gốc tánh tình.

87. Nhưng nếu hỏi làm sao biết được một người thuộc tánh gì? Trả lời:

Do tướng đi, hành động,
Do cách ăn, cách nhìn...
Do trạng thái sinh
Tánh tình được nhận biết.

88. Do cách đi: người tánh tham, khi đi tự nhiên, có bước đi cẩn thận, đặt chân xuống từ từ, khoan thai, nhấc chân lên khoan thai, bước đi như lò xo bật.

Người có tánh sân bước đi như thể đào đất bằng những đầu ngón chân, đặt chân xuống rất nhanh, dở lên nhanh, bước đi kéo lê thê.

Người si đi với dáng bối rối, để chân xuống một cách do dự, nhấc lên cũng do dự, bước chân nhấn xuống đột ngột.

89. Dáng đi của một người tham có vẻ chắc chắn, nhịp nhàng, của người sân, thì cứng cỏi, của người si thì rối ren. Ngồi cũng thế, Và một người tham trải giường một cách thong dong, không vội vàng, từ từ đặt lưng xuống, sắp đặt tay chân cho ngay, và ngủ một cách an ổn. Khi thức dậy, thay vì đứng dậy ngay người này phản ứng từ từ, như thể còn hoài nghi chưa quyết định. Người sân trải giường vội vàng, thế nào cũng xong, gieo mình xuống ngủ với một gương mặt nhăn nhó. Khi dậy, thì đứng lên một cách mau lẹ, và trả lời người ta như thể rất bực mình. Người si trải giường lệch lạc và phần nhiều ngủ úp mặt, thân thể bò dài ra. Khi dậy, từ từ đứng lên, “hùm” một cái.

90. Vì những người thuộc tánh tín v.v... đi đối với tham v.v... Cho nên những tư cách cũng giống như đã tả. Trên đây là cách nhận ra tính tình qua dáng điệu.

91. Qua hành động: Trong quét sân, người tham cầm cái chổi một cách chắc chắn, quét sạch đều đặn, không vội vàng, không tung đất cát lên, trông như đang rắc hoa. Người sân nắm chổi thật chặt, quét không sạch, không đều, gây tiếng động chát chúa, hấp tấp tung đất cát lên hai bên. Người si cầm chổi lỏng lẻo, quét không sạch cũng không đều, trộn lẫn đất cát vãi ra tứ tung.

92. Cũng như quét dọn, mọi việc khác như giặt giũ, nhuộm y v.v... cũng thế. Người tham làm việc một cách khéo léo, từ tốn đều đặn, cẩn thận. Người sân làm việc một cách căng thẳng, cứng cỏi không đều. Người si làm việc vụng về, như thể đang bối rối, không đều và không quyết định. Người tham mặc y không quá chật, không quá lỏng, cẩn thận ngay ngắn, quấn y quanh mình. Người sân mặc y quá chật, và không sửa quanh thân. Người si mặc thật lỏng, và một cách hoang mang. Người tín v.v... Nên hiểu theo cách đã tả, vì những tính này sóng đôi với tham v.v...

Trên đây là cách nhận ra tính tình qua hành động.

93. Qua cách ăn: người tham thích ăn thực phẩm ngọt ngào, béo bổ. Khi ăn, nó ăn từng miếng không quá lớn, và ăn không vội vàng, thưởng thức vị ngon. Nó khoái ăn ngon. Người sân thích ăn đồ dai và chua. Khi ăn, nó làm từng miếng lớn đầy cả miệng, và ăn một cách hấp tấp không thưởng thức mùi vị món ăn. Nó buồn rầu khi ăn nhằm cái gì không ngon. Người si không có chọn lựa nhất định. Khi ăn, nó làm thức ăn thành từng miếng nhỏ không tròn, và làm rớt đồ ăn vụn trên đĩa, làm lấm mặt, tâm trí phiêu lưu nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác. Những người thuộc tánh tín v.v... Cũng thế, giống như tham v.v...

94. Qua cách nhìn v.v...: Khi người tham nhìn thấy, dù chỉ một sắc pháp hơi thích ý, cũng ngắm thật lâu, như thể ngạc nhiên, nắm lấy những đức tính vụn vặt, mà không kể những khuyết điểm. Khi từ giả, nó đi một cách tiếc nuối, như không muốn rời. Khi người sân trông thấy một sắc pháp hơi khó ưa, nó cũng tránh nhìn lâu, như thể chán lắm, xoi mói các khuyết điểm nhỏ, bỏ qua những đức tính thực. Khi từ giả, nó ra đi không tiếc nuối, như thể muốn đi cho khuất. Khi người si nhìn bất cứ sắc pháp nào, nó bắt chước thái độ người khác: nếu nó nghe người ta chê, thì nó chê, nghe người ta khen thì nó khen, mà thật sự trong tâm nó vẫn bình thản, sự bình thản của người vô trí. Ðối với âm thanh cũng vậy.

Người có tín v.v... Cũng như tham v.v... qua cách nhìn tương tự .

95. Qua những loại tâm trạng: nơi một người tham, thường có những tâm trạng như lừa dối, gian lận, kiêu mạn, ác dục, đa dục, bất mãn, làm đỏm (thích chưng diện), khoe khoang. Nơi người sân, thường có những tâm trạng giận dữ thù hằn, phỉ báng, thống trị, ganh tị, biển lận (hà tiện, keo kiệt). Nơi một người si, thường có những tâm trạng như đờ đẫn, lừ đừ, dao động, lo âu, bất định, bám víu dai, không chịu xả bỏ.

Nơi một người tín tâm: thường có những tâm trạng rộng rãi, mong muốn gặp những bậc Thánh, mong nghe diệu pháp, vui vẻ, hồn nhiên, thành thục, tin tưởng những gì gợi niềm tin. Nơi người tánh tuệ, có những tâm trạng như dễ nói (với), có bạn tốt, biết vừa đủ trong ẩm thực, chánh niệm tỉnh giác, ưa sự thức tỉnh, có ý thức nghiêm trọng đối với những gì gợi lên ý thức nghiêm trọng, nỗ lực đúng hướng. Nơi người tánh tư duy, thường có những tâm trạng như nói nhiều, dễ hòa mình, chán ghét sự hy sinh cho điều thiện, không hoàn tất được những công việc đã làm, “ban đêm phun khói ban ngày chiếu sáng” (xem M I 144 — có nghĩa ấp ủ những kế hoạch ban đêm, và thi hành ngay vào hôm sau), và tâm thức chạy lăng xăng khắp (Ud 37).

96. Tuy nhiên, những chỉ dẫn trên về sự nhận dạng tính tình đã không được hoàn toàn lưu truyền trong kinh hay luận, mà chỉ được diễn tả theo quan điểm của những bậc thầy, do đó, không thể xem là chân thật hoàn toàn, vì ngay cả một người có tánh sân cũng có thể biểu lộ những dáng đi v.v... được gán cho tánh tham, nếu tinh cần cố gắng. Vả lại, những dáng đi v.v... Không bao giờ phát sinh với những đặc tính rõ rệt nơi một con người có tính tình hỗn hợp. Chỉ có những chỉ dẫn để nhận ra tính tình được ghi trong tập sở đáng xem là chân thật, vì trong ấy nói: “Một bậc thầy đã đạt được sự đi sâu vào các loại tâm, sẽ biết rõ tính tình, và giải thích một đề tài thiền quán thích hợp. Còn người không thể đi sâu vào tâm người thì nên hỏi ngay đương sự. Bởi thế, nhờ đi sâu vào tâm, hoặc nhờ phỏng vấn đương sự, mà có thể biết người ấy thuộc vào loại cá tính nào”.

97. Cái gì thích hợp cho mỗi loại tính? Một chỗ thích hợp cho người tham, là cái nhà với ngưỡng cửa không lau rửa, nền ngang mặt đất, đó có thể một tảng đá treo lơ lửng không có ống máng (Ch. II), một lều cỏ, một nhà lá v.v... Nó phải có đầy rác rưới và dơ, tơi tả, quá cao, hoặc quá thấp, một vùng phụ cận trơ trọi, vắng vẻ, bị đe dọa bởi cọp beo v.v... với một con đường mòn gập ghềnh, ngay cả giường, và ghế cũng đầy bọ hung, chỗ ở xấu xí, không có gì đẹp mắt, nhìn là thấy ghét. Y phục thích hợp cho vị ấy là những thứ rách biên, sút chỉ lòng thòng khắp, như một cái bánh tổ chim, vải thì thô như gai, bẩn, nặng và khó mặc. Bình bát thích hợp là một cái bát bằng đất nung xấu xí dị hình, với những chỗ vá, nối, hoặc một cái bát bằng sắt nặng nề khó coi, không gợi thèm chút nào cả, giống như một cái sọ người. Loại đường đi thích hợp cho vị ấy để đi khất thực là một con đường khó chịu, không có làng mạc ở gần, và không bằng phẳng. Khu làng thích hợp cho vị ấy khất thực là một nơi mà người ta đi nghênh ngang không để ý gì đến vị ấy, một nơi mà, khi vị ấy sắp bỏ đi chỗ khác, vì không xin được chút gì, người ta sẽ gọi ông lại vào trong phòng bố thí và bảo “Này đại đức” rồi cho cơm cháo, mà tỉnh bơ như bỏ một con bò vào chuồng bò. Những người thích hợp để hầu cận vị ấy là những nô tỳ, thợ thuyền không đẹp mắt, bất hạnh, y phục dơ dáy, hôi hám, buồn nôn, những người cúng dường cơm cháo mà như ném vào ông một cách thô lỗ. Loại cháo và cơm thích hợp là gạo v.v... Bơ lạt, cháo chua, cà ri bằng cải úa, hay bất cứ vật gì chỉ cốt làm cho đầy bụng. Trong bốn oai nghi, uy nghi thích hợp là đứng hoặc đi bách bộ. Ðối tượng quán thích hợp là bất cứ màu nào khởi từ xanh nhưng không được thuần tịnh.

98. Một trú xứ thích hợp cho người sân là không quá cao hay thấp, có sẵn bóng mát và nước, có những bức tường cân đối, cột và bực cấp, chạm trổ sáng sủa với nhiều bức họa, nền bằng phẳng, êm dịu, được trang trí bằng hoa, trên có một tàn che bằng vải nhiều màu như cung trời Ðại phạm. Giường ghế có nệm sạch sẽ xinh đẹp thơm mùi các thứ hoa, làm cho người ta chỉ nhìn cũng đủ sung sướng.

99. Loại đường thích hợp cho vị ấy đi đến chỗ trú, phải là một con đường không có nguy hiểm nào, đất sạch và bằng phẳng đã được soạn sẵn. Nhà phải đừng quá nhiều bàn ghế tủ giường, để khỏi làm chổ ẩn náu cho côn trùng, bọ hung, rắn chuột, chỉ nên để một giường một ghế. Loại vải thích hợp cho vị này là làm y phục trong và ngoài, là hạng tốt nhất, như hàng Trung Quốc, hàng Somāra, lụa, phin mỏng, vải mỏng, chỉ một hay hai lớp thật nhẹ, màu sắc thuần tịnh thích hợp với nhà khổ tu. Loại bát thích hợp làm bằng sắt, hình dáng thanh tú như một bóng nước, láng như ngọc, không tì vết, có màu thuần tịnh thích hợp với ẩn sĩ. Con đường thích hợp để đi khất thực phải tránh mọi hiểm nguy, bằng phẳng, dễ chịu, không quá gần làng cũng không quá xa. Khu làng thích hợp để vị ấy khất thực, là nơi mà mọi người soạn sẵn chỗ ngồi rải hoa, quét dọn sạch sẽ, nghĩ rằng: “Vị đại đức của chúng ta sắp tới”. Và đi ra đón ông, cầm bát của ông đưa vào nhà, mời ngồi trên chỗ đã soạn, và tự tay hầu hạ chu đáo.

100. Những người thích hợp để hầu vị ấy phải đẹp trai, dễ ưa, tắm rửa sạch sẽ, bôi dầu láng xức nước hoa mùi trầm, trang sức bằng vải nhuộm đủ màu sạch và đẹp. Người ấy làm việc một cách cẩn thận, loại cơm cháo thích hợp cho vị ấy phải đủ sắc, hương, vị bổ dưỡng, đáng thèm, thượng hạng về mọi mặt, và đủ cho nhu cầu vị ấy. Uy nghi thích hợp là nằm hay ngồi. Ðối tượng quán là bất cứ màu nào từ xanh, màu phải thuần tịnh.

101. Chỗ ở thích hợp cho một người si phải khoáng đạt, không bị ngăn bít, để vị ấy có thể thấy cả bốn phương khi ngồi đấy. Về các tư thế, thì đi là thích hợp. Ðối tượng quán thích hợp là một vật không nhỏ quá, nghĩa là phải cỡ bằng cỡ cái rổ, hay cái xoong, vì tâm trí vị ấy trở nên rối ren hơn nếu bị giới hạn trong một không gian nhỏ hẹp. Những gì còn lại cũng như đối với tánh sân.

102. Với người tánh tín, tất cả những chỉ dẫn cho người tánh sân đều thích hợp. Về đối tượng quán, có thể quán một trong sáu niệm. Với người tánh tuệ, không có gì là không thích hợp về chỗ ở v.v...

Với người tánh tư duy, thì một chỗ ở khoáng đạt có phong cảnh dễ nhìn, ở đấy những vườn, đồng, ao, hồ, viễn tượng đẹp, quang cảnh những khu làng, đô thị, vùng quê có thể nhìn thấy khi ngồi ở đấy, một khung cảnh như vậy không thích hợp vì tạo điều kiện cho tầm tư duy của vị ấy chạy lăng xăng khắp nơi.

Bởi thế, vị ấy nên sống tại một nơi như một hang sâu có rừng rậm ngăn che, như núi đá Bụng Voi (Hatthikucchipabbhāra), hay hang của Mahinda. Cũng thế, một đối tượng quán quá lớn không thích hợp với vị này, vì làm cho tầm tư duy chạy lăng xăng. Một đối tượng nhỏ thích hợp. Những yếu tố khác cũng như với người tham.

103. Tuy nhiên, đề tài quán tưởng hợp với tính tình chưa được bàn rõ trong mọi chi tiết. Ðiều này tự nhiên sẽ rõ khi bàn chi tiết như sau. Như trên đã nói, “Và vị ấy nên chọn trong 40 đề mục, cái nào thích hợp với cá tính” (D. 28). Ở đây, sự trình bày về đề tài quán tưởng trước hết cần được hiểu theo 10 cách sau: (1) số lượng, (2) cái nào đem lại định cận hành, cái nào đem lại định an chỉ; (3) các loại thiền; (4) về sự vượt qua, (5) về sự trải rộng, không trải rộng, (6) về đối tượng, (7) các cõi, (8) cách hiểu, (9) điều kiện (duyên), (10) về sự hợp với cá tính.

104. 1) Về số lượng: tức 40 đề mục như sau: Mười biến xứ, mười bất tịnh, mười chỗ tưởng niệm, bốn phạm trú, bốn vô sắc xứ, một tưởng, một phân tích.

105. Mười biến xứ: là đất, nước, lửa, hư không, xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng, khoảng không có hạn. Mười bất tịnh là: thây phình trương, thây bầm xanh, thây thú ăn, thây phân lìa, thây rả rời, thây chảy máu, thây sâu đục, bộ xương. Mười tưởng niệm là: niệm Phật, pháp, Tăng, Thí, Thiên, niệm chết, niệm thân, niệm hơi thở, niệm diệt. Bốn phạm trú là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn vô sắc: là Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng. Một tưởng là tưởng đồ ăn bất tịnh. Một phân tích là sự phân tích tứ đại.

106. 2) Cái nào đem lại định cận hành (upacāra), cái nào đem lại định an chỉ (appaṇā)? Tám niệm, tức 10 tưởng niệm, trừ thân hành niệm và niệm hơi thở, quán đồ ăn bất tịnh, và phân tích tứ đại, là mười đề mục chỉ đem lại định cận hành, còn những cái khác đem lại định an chỉ.

107. 3) Về các loại thiền: Trong những pháp quán đem lại định an chỉ, thì 10 biến xứ (kasiṇa) cùng với niệm hơi thở đem lại tất cả 4 thiền; 10 quán bất tịnh và thân hành niệm đem lại sơ thiền. Ba phạm trú đầu (từ, bi, hỉ), đem lại ba thiền đầu trong 4; phạm trú thứ tư (xả) và quán 4 sắc giới đem lại tứ thiền.

108. 4) Về sự vượt qua: có hai thứ vượt qua: vượt qua các thiền chi, và qua đối tượng. Có sự vượt qua các thiền chi trong những đề mục đem lại tam thiền, tứ thiền, vì nhị thiền v.v... Phải được đạt trong cùng 1 đối tượng, bằng cách vượt qua những thiền chi, tầm, tứ. Cũng thế, trong trường hợp phạm trú thứ tư vì phải đạt đến xả bằng cách vượt qua lạc trong cùng một đối tượng như của tâm từ v.v... Nhưng trong trường hợp bốn vô sắc, thì có sự vượt qua đối tượng quán, vì Không vô biên xứ phải đạt do vượt qua biến xứ, và Thức vô biên xứ phải đạt bằng cách vượt qua Không vô biên xứ v.v... Ðối với những cái còn lại thì không có sự vượt qua.

109. 5) Về sự nói rộng và không nói rộng: Chỉ có 10 biến xứ là cần được nới rộng, vì chỉ trong phạm vi cùng một không gian của biến xứ đã định, mà ta có thể nghe tiếng với thiên nhĩ, thấy sắc với thiên nhãn, và biết tâm của các chúng sanh bằng tâm của mình.

110. Thân hành niệm và 10 bất tịnh quán không cần nới rộng, vì sao? Vì những thứ này có 1 định xứ nhất định, và vì không ích lợi gì để nới rộng thêm. Tính cách nhất định của nơi chốn chúng sẽ trở nên rõ rệt hơn, khi giải thích phương pháp tu tập (Chương VIII, đ. 83-138, và Chương VI, đ. 41-79). Nếu bất tịnh quán được nới rộng, thì chỉ là một số lượng thi thể được trải ra, vậy không ích gì. Và điều này được nói để trả lời câu hỏi của Sopāka: “Bạch Thế Tôn, tưởng về sắc thật rõ, còn tưởng về bộ xương thì không rõ”. Ở đây tưởng về sắc được gọi là “rõ” trong ý nghĩa “tưởng được nới rộng, trong khi tưởng về xương thì “không rõ”, nghĩa là tướng nó không nới rộng.

111. Nhưng câu nói sau đây “Ta chú tâm trên toàn thế gian này với tưởng về 1 bộ xương” (Thag. 18) là nói về cách xuất hiện các tướng đối với người đã đạt đến cái tưởng về xương, vì, cũng như vào thời vua Dhammāsoka, con chim Karavīka hót lên tiếng êm dịu khi nó trông thấy bóng nó trong những tấm gương ở 4 vách tường, và thấy mọi hướng đều có những con chim Karavīka.

112. Nếu thế thì phải khi gọi vô lượng của đối tượng quán được phát sinh trong quán bất tịnh là một lời nói mâu thuẫn? Nó không mâu thuẫn. Vì có người thì thấy được tướng bất tịnh nơi một thi thể phình trướng hay một bộ xương lớn, người thì thấy tướng ấy nơi một thi thể nhỏ. Trong sách ấy, thiền của vị thứ nhất có một đối tượng hữu hạn, người thứ hai vô hạn. Hoặc “với một đối tượng vô hạn” là nói về một đối tượng quán mà người quán tưởng nới rộng ra vì không thấy có hại gì khi làm như vậy. Nhưng nó không cần nới rộng, vì nó không đưa đến ích lợi nào.

113. Những cái gì còn lại cũng thế, không cần nới rộng. Vì, khi một người nới rộng tướng hơi thở, thì chỉ có một số lượng hơi được nới rộng, và nó có một định xứ rõ rệt là chót mũi. Vì vậy, nó không cần được nởi rộng, vì chỗ bất lợi ấy, và vì tính cách nhất định của nơi chốn (chót mũi). Và những phạm trú thì có các hữu tình làm đối tượng, Khi một người nới rộng tướng những đối tượng này, thì chỉ có lượng hữu tình được nới rộng, và làm như vậy cũng không nhằm mục đích gì. Bởi thế, cái này cũng không cần nới rộng.

114. Khi nói “Vị ấy biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ”, điều ấy được nói lên vì sự bao quát của tâm, và khi một người phát triển tâm bao quát dần dần, kể từ sự bao quát chúng sinh trong một phương với một nhà, với hai nhà v.v... khi ấy ta gọi người ấy là “biến mãn một phương”, chứ không phải khi người ấy nới rộng tướng, mà cũng không có tướng ở đây để nới rộng. Cũng thế, tình trạng có một đối tượng hữu hạn hay vô hạn ở đây có thể hiểu là “bao quát” hay biến mãn.

115. Về đối tượng những cõi vô sắc thì không gian không cần được nới rộng, vì nó chỉ là sự dời bỏ sắc (biến xứ), bởi vì vô sắc chỉ có thể được quán như là sự biến mất của sắc pháp. Nếu nới rộng vô sắc, thì không có gì khác xảy ra cả. Và tâm thức cũng không cần nới rộng, vì đó là một trạng thái vốn là một “tự tính” và không thể nới rộng một tự tính. Sự biến mất của Thức không cần nới rộng, vì chỉ là sự phi hữu của thức, và phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng không cần nới rộng vì đó cũng là một tự tính.

116. Những cái còn lại không cần nới rộng vì chúng không có tướng, vì chỉ có một tướng có ở bên ngoài mới có thể nới rộng. Ðối tượng của niệm Phật v.v... Không phải là tướng có ở bên ngoài, cho nên không cần có sự nới rộng ở đây.

117. 6) Về đối tượng: Trong 42 đề mục thiền, có 22 đối tượng có tướng ở ngoài đó là 10 biến xứ, 10 bất tịnh của tử thi, niệm hơi thở và thân hành niệm; Những cái khác không có tướng bên ngoài làm đối tượng thiền định. Mặt khác, 12 đề mục có những tự tính làm đối tượng, đó là 8 trong 10 tưởng niệm, trừ niệm hơi thở và thân hành niệm. Tưởng đoàn thực bất tịnh, phân tích tứ đại, Thức vô biên xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ; (22 cái có tướng bên ngoài làm đối tượng là: 10 biến xứ... Thân hành niệm) 6 còn lại là những đối tượng không thể phân loại như thế. Mặt khác, tám đối tượng có tính cách di động giai đoạn đầu, mặc dù chỉ là những đối tượng cố định: sự nưng mủ, sự chảy máu, sự đục khoét của dòi bọ, niệm hơi thở, biến xứ nước, lửa, gió và trong trường hợp biến xứ ánh sáng, thì đối tượng gồm một vòng ánh sáng mặt trời v.v... Những đề mục còn lại đều có những đối tượng bất động. Ðây là về đối tượng quán.

118. 7) Về cõi: 12 đề mục: 10 đề mục bất tịnh, thân hành niệm, và tưởng bất tịnh trong đoàn thực, là 12 đề mục không có ở các cõi trời, 12 đề mục này, và đề mục quán hơi thở không có ở Phạm thiên giới. Nhưng ở cõi vô sắc, thì không có đề mục nào trừ 4 vô sắc. Còn ở cõi người, thì có đủ tất cả đề mục.

119. 8) Về cách hiểu: Sự trình bày cần được hiểu theo sự thấy, sờ và nghe; 19 đề mục (10 bất tịnh, 9 biến xứ trừ không gian) là những đề mục cần hiểu bằng mắt thấy. Có nghĩa là trong giai đoạn đầu tướng của những đề mục này phải được hiểu bằng cách nhìn với con mắt, một cách kiên trì. Trong thân hành niệm, 5 phần đầu “tóc, lông, móng, răng, da” cần được hiểu bằng mắt thấy, những thứ còn lại được hiểu do nghe nói. Bởi thế, đối tượng của pháp niệm thân là được hiểu bằng mắt thấy và nghe nói. Niệm hơi thở được hiểu bằng xúc giác, biến xứ “gió” bằng thị giác và xúc giác, 18 thứ còn lại do nghe nói. Phạm trú “xả” trong 4 phạm trú, và bốn vô sắc giới, người sơ sơ không thể hiểu được, nhưng 35 cái còn lại thì được.

120. 9) Về điều kiện: Trong những đề mục này, 9 biến xứ trừ biến xứ hư không là những duyên (điều kiện) để chứng vô sắc xứ. 10 biến xứ là duyên để chứng các loại thắng trí (thần thông). Ba phạm trú đầu là điều kiện để chứng phạm trú thứ tư. Mỗi vô sắc cấp dưới là điều kiện cho vô sắc trên nó một bực. Phi tưởng phi phi tưởng xứ là điều kiện để chứng diệt thọ tưởng định. Tất cả là điều kiện cho sự sống trong hỷ lạc, cho tuệ, và cho những người sanh thú tốt đẹp.

121. 10) Về sự thích hợp: 10 quán Bất tịnh của thây chết, và thân hành niệm là 11 đề mục thích hợp cho người nặng tham dục. Bốn phạm trú và 4 biến xứ về màu sắc là 8 đề mục thích hợp cho 1 người tánh sân, thiền hơi thở thích hợp cho người tánh si và người tánh tư duy. Sáu niệm đầu trong 10 tưởng niệm thích hợp cho những người tánh tín. Niệm chết, niệm diệt, phân tích bốn đại, tưởng đoàn thực bất tịnh là 4 đề mục thích hợp cho những người tánh tuệ. Những biến xứ còn lại và những vô sắc thích hợp cho mọi loài tính tình. Và bất cứ biến xứ nào cũng nên có giới hạn cho một người tánh tư duy và vô hạn cho người tánh si.

122. Tất cả điều trên được nói theo thể thức đối chọi trực tiếp và hoàn toàn thích hợp, nhưng kỳ thực, không có pháp tu nào mà không trừ bỏ được tham v.v.... Hỗ trợ tín v.v... Kinh Meghiya nói: “Thêm nữa, cần tu tập 4 thứ sau đây: tu bất tịnh quán để trừ tham dục, tu từ bi quán để từ bỏ sân nhuế, niệm hơi thở để trừ bỏ tầm tư duy, tưởng vô thường để từ bỏ mạn” (A. iv 358). Cũng vậy, trong kinh Rāhula đoạn “Hãy tu tập từ, này Rāhula” (M I 424), có 7 đề mục quán tưởng được đề ra cho một loại tính tình duy nhất.

123. Bây giờ, câu “Và vị ấy nên hiểu” được giải thích như sau. Sau khi đến gần thiện tri thứ thuộc loại đã nói phần giải thích câu “rồi đến gần thiện tri thức, người cho một đề tài thiền quán” (đoạn 28) là thiền giả cần phải hầu hạ đấng Thế Tôn, đấng Giác ngộ, hay một bậc thầy, và nên xin một đề mục quán tưởng với một tâm ý chân thành, quyết định.

124. Vị ấy nên hầu hạ Đức Thế Tôn, Ðấng Giác ngộ với cách như sau: “Bạch Đức Thế Tôn, con xin xả bỏ thân mạng này của con để hầu hạ Ngài”. Bởi vì nếu không quy phục hết cả thân mạng của mình như thế, thì khi sống ở một nơi xa xôi hẻo lánh, vị ấy không thể kiên cố khi gặp một vật đáng sợ xuất hiện và vị ấy có thể trở lại một trú xứ ở làng mạc, giao thiệp với thế tục, tầm cầu bất đáng và đi đến tàn mạt. Nhưng khi hành giả đã quy phục toàn thể tánh mạng như vậy thì không còn nỗi sợ hãi nào khởi lên trong vị ấy, nếu một đối tượng khủng khiếp xuất hiện. Quả vậy, chỉ có niềm hoan lạc khởi lên nơi hành giả khi nghĩ rằng: “Há ta đã không quy phục toàn thể tánh mạng nơi Đức Thế Tôn hay sao?”

125. Giả sử có một người có tấm vải tốt bằng lụa Kāsi, nó sẽ buồn sầu nếu tấm vải bị chuột hay gián gặm. Nhưng nếu nó đem cúng dường cho một Tỷ-kheo đang cần, nó sẽ cảm thấy vui khi thấy vị ấy xé vải ra để vá y, Cũng vậy, trong khi quy phục tánh mạng.

126. Khi quy phục tánh mạng cho một bậc thầy, người ấy nên nói: “Bạch đại đức, con xin quy phục tánh mạng nơi đại đức”. Bởi vì một người chưa quy phục, thì trơ lì không chịu sửa đổi, khó dạy, không nghe lời khuyên can, đi bất cứ chỗ nào nó muốn, mà không hỏi ý vị thầy. Do đó, vị thầy không giúp đỡ nó bằng tài thí hoặc pháp thí, không huấn luyện cho nó về thiền đạo. Vì không tìm được hai thứ giúp đỡ này, nên nó không có chân đứng trong giáo pháp, và chẳng bao lâu nó sẽ xuống đến độ làm quấy hoặc hoàn tục. Nhưng nếu nó đã quy phục tánh mạng, thì nó không bất động trước sự chỉ dạy, không đi chỗ nào tùy thích, trở thành dễ dạy và chỉ sống tùy thuộc vào vị thầy. Nó được hai thứ giúp đỡ từ vị thầy, và được lớn mạnh, được tăng trưởng và thành tựu ở trong Giáo pháp, như những đệ tử của trưởng lão Cūḷa-Piṇḍapātika-Tissa.

127. Có ba Tỷ-kheo đến nơi trưởng lão, một người nói: “Bạch đại đức, con sẵn sàng leo lên 1 lõm đá cao bằng một trăm người đứng chồng lên nhau, nếu đại đức muốn”. Một trò khác nói: “Bạch đại đức, con sẵn sàng nghiền nát thân này trên tảng đá nếu thầy muốn”. Người thứ ba nói: “Bạch đại đức, con sẵn sàng nhịn thở và chết nếu thầy cần”. Trưởng lão nghĩ, “những người này chắc chắn có thể tiến bộ trong giáo pháp; và giải thích cho họ một đề mục thiền. Theo lời dạy, cả ba đều chứng quả A-la-hán. Ðấy là lợi lạc trong sự quy phục. Do vậy, ở trên nói: “Quy phục tánh mạng cho Đức Thế Tôn”, đấng Giác ngộ hoặc một bậc thầy.

128. Với tâm ý chân thành, quyết định (đoạn 123): tâm ý của thiền giả phải chân thành theo sáu cách khởi từ vô tham. Vì chính một người chân thành theo sáu cách ấy, mới đạt được một trong ba loại tuệ giác như kinh nói: “Có 6 ý hướng dẫn đến giác ngộ của bồ tát. Với ý hướng vô tham, bồ tát thấy lỗi lầm trong tham dục. Với ý hướng vô sân, bồ tát thấy lỗi lầm trong sân hận. Với ý vô si, bồ tát thấy lỗi lầm trong si mê. Với ý hướng xuất gia, bồ tát thấy lỗi lầm trong đời sống tại gia. Với ý hướng viễn ly, bồ tát thấy lỗi lầm trong sự quần tụ đông đảo. Với ý hướng từ bỏ, bồ tát thấy lỗi lầm trong mọi sự tái sinh và sanh thú. “Vì những bậc Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A-la-hán lậu tận, Ðộc giác, và những đấng toàn giác quá khứ, hiện tại hay vị lai, tất cả đều đã đạt địa vị nhờ những ý hướng này.

129. Hành giả cần nhất tâm quyết định về việc ấy.

Nghĩa là, phải quyết định đối với thiền, tôn trọng thiền, khuynh hướng về thiền; quyết định đối với Niết Bàn, tôn trọng Niết Bàn, khuynh hướng về Niết Bàn.

130. Khi, với sự chân thành của ý hướng và sự hoàn toàn quyết tâm như vậy, hành giả xin một đề mục, thì bậc thầy, người đi sâu vào tâm người khác có thể biết được tính tình hành giả, bằng cách quan sát cung cách y. Nếu chưa đắc tha tâm thông, thì thầy có thể hỏi. “Tính tình của người thế nào?” hoặc “Người ưa nghĩ những chuyện gì?” hoặc “Người ưa đề mục nào?” để biết. Khi đã biết, vị thầy có thể giải thích một đề mục thiền quán thích hợp với tính tình hành giả. Và khi làm như vậy vị thầy có thể làm theo ba cách: đề mục có thể cho bằng cách bảo đệ tử đọc lại một hai lần, nếu người ấy đã học đề mục kia. Hoặc giảng cho y mỗi khi đến, nếu cùng ở một trú xứ. Ðối với người muốn học đề mục rồi đi nơi khác, thì có thể giảng không quá ngắn cũng không quá dài.

131. Ðầu tiên, khi giảng về biến xứ đất, có chín khía cạnh cần giải thích. Ðó là: 4 lỗi của biến xứ, cách làm Kasiṇa (biến xứ), cách tu biến xứ sau khi làm xong, hai loại tưởng, hai loại định, bảy thứ thích hợp và không thích hợp, 10 thiện xảo về an chỉ định, sự đều đặn quân bình của tinh tiến (VIII.221: sự quân bình của nghị lực) (evenness of energy), và những chỉ dẫn về định. Về những đề mục khác, mỗi đề mục cần giải thích thích nghi. Tất cả điều này sẽ được đề cập trong phần chỉ dẫn tu tập. Khi đề mục được giải thích, hành giả cần nắm lấy Tướng trong lúc lắng nghe.

132. Hiểu rõ Tướng là vị ấy phải liên kết từng khía cạnh như sau: “đây là mệnh đề đầu, đây là mệnh đề sau, đây là ý nghĩa, đây là ý định, đây là ví dụ”. Khi vị ấy lắng nghe chăm chú, hiểu rõ tướng như vậy, thì đề mục trở nên rõ ràng. Nhờ vậy, hành giả đạt đến thắng giải (visesa) một cách mỹ mãn, không bằng cách nào khác.

133. Ðến đây, câu “đến gần thiện tri thức, người cho một đề mục thiền, và vị ấy phải hiểu rõ một đề mục trong 40 đề mục, cái nào thích hợp với tính của mình” (đoạn 28) đã giải thích xong.

Chương thứ ba “Chọn đề mục thiền quán” trong Thanh tịnh Đạo, được soạn thảo vì mục đích làm cho người lành được hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương IV
Ðịnh - Kasiṇa Ðất

(Pathavī-kasiṇa-niddesa)

----

1. Ở một đoạn trên, có nói: “Sau đó, hành giả cần tránh một tu viện không thích hợp cho việc tu tập định, và đến ở một tu viện thích hợp” (Ch. III, 28). Trước hết, nếu tiện ở cùng chùa với thầy để học cho kỹ đề mục thiền quán thì tốt. Không tiện, thì có thể ở một chùa khác, một nơi thích hợp cách chừng một dặm hay nửa dặm, và khi nào nghi hay quên điều gì về đề mục, thì nên làm xong những phận sự trong chùa rồi ra đi, vừa đi vừa khất thực trên đường đến trú xứ của thầy sau bữa ăn. Phải quyết nghi đề mục thiền ngày hôm ấy ngay trước mặt thầy, hôm sau, sau khi đảnh lễ thầy, nên đi khất thực trên đường về để có thể trở về trú xứ mình không nhọc mệt. Nhưng nếu một người không tìm thấy chỗ ở thuận tiện trong vòng 1 dặm, thì nên giải tỏa mọi khó khăn về đề mục cho đến khi hoàn toàn chắc về nó, rồi mới có thể đi xa, tránh một ngôi chùa không thích hợp cho việc tu tập định, và ở một nơi thích hợp.

Mười Tám Lỗi Của Một Ngôi Chùa

2. Một ngôi chùa không thích hợp có một trong 18 lỗi sau: rộng lớn, mới mẻ, tả tơi, gần đường gần ao, có cây lá ăn được, có hoa, trái, có tiếng (danh lam) gần đô thị, gần cây lấy gỗ, gần đồng ruộng, cày cấy, có những người xung khắc nhau, gần cổng vào, gần biên giới các nước, gần biên giới kinh đô, không thích hợp, thiếu thiện tri thức.

3. 1) Trước hết, trong 1 ngôi chùa lớn, có nhiều người tụ hợp với những mục tiêu khác nhau. Họ chống trái nhau, nên công việc chểnh mảng, sân không quét, nước uống, nước rửa không được múc sẵn, bởi thế khi định vào làng khất thực, lấy y bát đi ra, có thể vị ấy thấy những phận sự chưa làm xong, bình nước uống không còn một xuất, phải đổ nước đầy bình, vì nếu không làm, sẽ phạm lỗi, mà làm, sẽ mất thì giờ. Ðến làng sẽ không được gì vì giờ cúng dường đã qua. Lại nữa, khi vị ấy vào độc cư thiền tịnh, thì phải bị tán tâm vì Sa-di và Tỷ-kheo nhỏ tuổi gây tiếng động ồn ào, và vì những công việc của tăng đoàn đang được thi hành lúc ấy. Tuy nhiên, vị ấy có thể ở trong một ngôi chùa lớn trong đó mọi phận sự được thi hành, và không bị những quấy nhiễu.

4. 2) Trong một ngôi chùa mới, thì có quá nhiều hoạt động xây cất, người ta thường chỉ trích những kẻ không tham gia. Nhưng vị ấy có thể ở đó nếu các Tỷ-kheo bảo: “Hãy để cho đại đức tha hồ làm phận sự nhà khổ hạnh, chúng ta sẽ trông coi việc xây cất”.

5. 3) Trong một ngôi chùa tả tơi, thì nhiều chỗ cần sửa chữa. Người ta thường chê bai kẻ nào không coi sóc việc sửa chữa ít nhất là phòng xá của riêng mình. Nhưng nếu phải coi sóc việc ấy, thì thiền định bị thương tổn.

6. 4) Trong một ngôi chùa ở gần một con đường chính, thì ngày đêm luôn luôn có khách, vị ấy phải nhường chỗ cho khách về đêm, và phải đi ngủ dưới gốc cây hay trên tảng đá. Ngày hôm sau cũng lại như vậy, bởi thế không có dịp nào để thực tập đề tài thiền định. Nhưng vị ấy có thể ở một nơi không có những quấy rầy của khách.

7. 5) Một cái ao là ao trong đá. Nhiều người đến đây để uống nước, nhuộm áo. Khi họ hỏi mượn thùng, củi v.v... Phải chỉ chỗ. Bởi thế, vị ấy phải luôn luôn canh chừng.

8. 6) Nếu vị ấy ban ngày đi đến tọa thiền ở những nơi có các thứ lá rau, thì những phụ nữ hái rau vừa hái vừa hát bên cạnh chỗ ngồi thiền, làm cho đề mục của ông bị lâm nguy do sự quấy rối của âm thanh người khác phái.

7) Và ở nơi có nhiều hoa đang rộ nở, cũng có mối nguy tương tự.

9. 8) Ở những nơi có nhiều thứ trái như xoài mít, những người cần trái sẽ đến xin, và chúng sẽ giận dữ nếu vị ấy không cho hoặc sẽ cưỡng đoạt. Nếu vị ấy có nói, chúng sẽ mắng vào mặt, to tiếng.

10. 9) Nếu có một danh lam nổi tiếng, như Dakkhiṇagiri, Hatthikucchi, Cetiyagiri, Cittalapabbata, thì luôn luôn có người muốn đảnh lễ vị ấy, cho rằng đó là A-la-hán, làm cho vị ấy lúng túng. Nhưng nếu muốn, vị ấy có thể ở đó ban đêm, ban ngày đi chỗ khác.

11. 10) Ở một ngôi chùa gần đô thị, những vật thuộc về người khác phái đập vào mắt, phụ nữ xách nước đi ngang đụng vào người ông ta, những cái thùng lớn choáng hết lối đi. Và những nhân vật quan trọng thì cứ trải thảm ngay giữa chùa mà ngồi.

12. 11) Một ngôi chùa gần nơi có nhiều cây hữu dụng thì bất tiện vì những người đến cưa gỗ và những kẻ nhặt cành và lá. Nếu trong chùa có cây lớn, người ta sẽ đến cưa về cất nhà. Ðến khi vị ấy xả thiền để đi bách bộ, gặp những người này và hỏi: “Này cư sĩ, tại sao lại làm như thế?” thì chúng còn mắng lại.

13. 12) Người ta thường sử dụng một ngôi chùa cạnh đồng ruộng để làm sân đập lúa ngay trước chùa, phơi lúa cho khô tại các khoảnh sân trước, gây nhiều bất tiện. Và khi đất chùa lan ra gần đồng ruộng, những người phụ việc chùa thường giữ lại súc vật của các gia chủ đi lạc vào đất ấy, hoặc làm bế tắc nguồn nước chảy ra ruộng. Người ta sẽ đem vào chùa một cọng lúa héo, chỉ cho chư tăng xem mà bảo: “Xem này, những người phụ việc chùa làm ăn như thế đấy”. Vì một duyên cớ này nọ, vị ấy phải đi tới cửa công.

14. 13) Sự hiện diện của những người chống đối nhau: Ở chỗ các Tỷ-kheo tranh chấp nhau, bất hoà, thì khi họ gây gỗ, vị ấy có can “chư đại đức đừng làm thế”, họ sẽ la lên: “Chúng tôi không kể gì nữa, có cái ông tu khổ hạnh này hay không cũng mặc kệ”.

15. 14) Một ngôi chùa gần cửa sông cửa biển, hay gần cổng vào đô thị, thì bất tiện vì nhiều người hay đoàn lữ hành sẽ đến bằng tàu, tụ họp quanh chùa xin chỗ nghỉ, nước uống hoặc muối.

16. 15) Trong trường hợp ngôi chùa gần biên giới thì dân biên địa không tin Phật pháp.

16) Trong một ngôi chùa gần biên giới có một kinh đô, thì có nỗi sợ hãi về vua vì có thể một ông vua đến tấn công chỗ ấy, nghĩ rằng: “Nó không thuần phục ta”. Ông vua khác cũng làm như vậy, và nếu chỗ ấy khi vua này chiếm, khi vua khác chiếm, họ sẽ nghi vị Tỷ-kheo làm gián điệp, và gây cho ông ta sự tàn hại.

17. 17) “Sự không thích đáng” là có mối nguy tiếp xúc các sắc pháp v.v... Của người khác phái, hoặc có phi nhân lai vãng. Có câu chuyện như sau. Một vị đại đức ở trong một khu rừng, có con quỷ cái đứng ngay trước cửa chòi của ông ta mà hát. Vị ấy đi ra, đứng nơi cửa. Con quỷ đi đến tận cuối đường kinh hành, mà hát. Vị đại đức cũng đi đến cuối đường mòn. Con quỷ đứng trong hố sâu trăm thước mà hát. Vị đại đức thụt lùi, thì thình lình con quỷ tóm lấy ông, bảo: “Ðại đức, ta đã ăn thịt không phải chỉ mới một hay hai vị như đại đức mà thôi đâu”.

18. 18) Thiếu thiện tri thức: Ở nơi nào ta không tìm được một thiện tri thức làm thầy, hoặc như bậc thầy, không tìm được một y chỉ sư hay tương đương y chỉ sư, sự thiếu thốn đó là một lỗi lớn.

Ngôi chùa nào có một trong 18 lỗi trên được kể là bất thiện.

Năm Yếu Tố Của Một Trú Xứ

19. Một trú xứ có năm yếu tố sau, được kể là thuận tiện, như Đức Thế Tôn dạy: “Một trú xứ không quá xa không quá gần và có một con đường để đi lại; ban ngày ít người lui tới, ban đêm ít ồn ào; ít ruồi muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; người ở trong đó dễ kiếm 4 thứ cần dùng; trong đó có những thượng tọa Tỷ-kheo đa văn, thông kinh điển, những người tuân giữ Pháp và Luật, và thỉnh thoảng khi hỏi nghĩa lý kinh điển thì những vị này sẽ khai thị những điều chưa được khai thị giải thích những gì chưa được giải, trừ nghi cho hành giả về những chi tiết còn nghi” (A V 15) Trên đây là những chi tiết giải thích câu “ Sau đó, vị ấy nên tránh một trú xứ bất thiện, và đến ở một nơi thuận tiện cho việc tập định” (Ch. II, 28).

Những Chướng Ngại Nhỏ

20. Ðoạn, vị ấy nên trừ các chướng ngại nhỏ: (Ch. III, 28) Một người ở một nơi thuận tiện như vậy rồi, còn phải trừ các chướng ngại nhỏ như tóc dài, lông và móng tay dài phải được cắt bỏ, vá lại áo rách và nhuộm lại y cũ. Nếu bát có vết nứt, phải nung lại, ghế giường phải làm sạch.

Chỉ Dẫn Chi Tiết Về Cách Tu Tập

21. Với câu “Và không được bỏ qua một chi tiết nào trong những chỉ dẫn về sự tu tập” (Ch. III, 28) bây giờ đã đến lúc giải thích chi tiết về mọi đề mục thiền định, khởi đầu là kasiṇa (biến xứ) đất.

Biến Xứ Ðất

Khi một Tỷ-kheo đã trừ những chướng ngại nhỏ, sau khi khất thực về, ăn xong, sau khi xua đuổi cơn buồn ngủ do bữa ăn, vị ấy nên ngồi thoải mái tại một chỗ vắng và quán rõ cái tướng của đất hoặc được làm ra hoặc không.

22. Kinh dạy: “Một người học về biến xứ đất nắm lấy tướng đất hoặc được làm ra hoặc không, có giới hạn không phải vô giới hạn, có một biên giới ở ngoài cùng, không phải vô biên, được vòng lại không phải không được vòng, hoặc lớn bằng cái thùng hay cái chảo. Vị ấy để tâm vào tướng một cách kỹ lưỡng, biết rõ nó, định rõ nó. Sau khi làm thế, và thấy rõ lợi ích của nó, nhìn nó như một báu vật, tôn trọng nó, quý mến nói, vị ấy đặt hết tâm tư vào đối tượng ấy nghĩ rằng: “Chắc chắn bằng cách này ta sẽ thoát khỏi già chết”. Hoàn toàn ly dục... Vị ấy chứng và trú thiền thứ nhất.

23. Nếu đời trước, một người đã từng xuất gia từ bỏ gia đình, để thể nhập giáo pháp đức Như Lai, hoặc tu theo thiên đạo đã đắc tứ thiền hay ngũ thiền nhờ biến xứ đất, thì do công đức và sự hỗ trợ của việc hành thiền trong quá khứ, sơ tướng đất hiện lên nơi vị ấy, không cần tạo tác, nghĩa là ngay trên một thửa ruộng hay một sân đập lúa, như trường hợp trưởng lão Mallaka. Khi ông nhìn một thửa ruộng được cày bừa, sơ thửa ruộng ấy. Trưởng lão nới rộng tướng ấy, và đắc ngũ thiền, rồi nhờ an trú tuệ với định ấy làm nền tảng, đắc quả A-la-hán.

Cách Làm Một Kasiṇa Ðất

24. Nhưng nếu một người chưa từng thực hành trong quá khứ, thì nên làm một kasiṇa, tránh bốn lỗi của nó và không được bỏ qua một lời chỉ dẫn nào về đề tài đã học được từ vị thầy. Bốn lỗi của kasiṇa (biến xứ) đất là do sự xâm nhập của màu xanh, vàng, đỏ, hoặc trắng. Bởi thế thay vì dùng đất sét có màu như vậy, hành giả nên làm kasiṇa bằng đất như ở trong sông Gaṅgā (sông Hằng), nghĩa là có màu bình minh. Phải làm kasiṇa tại một chỗ kín đáo trong chùa hoặc dưới một hốc đá, trong chòi, không được làm ngay giữa chùa nơi có sadi và mọi người qua lại. Có thể làm một kasiṇa cố định hoặc một kasiṇa có thể mang theo mình.

25. Một kasiṇa để mang theo có thể làm bằng cách buộc giẻ hay da vào 4 cái gậy và kết thành một cái đĩa tròng lớn cỡ đã nói, bôi đất sét lên, đất phải sạch cỏ rác sỏi... Lúc mới làm, nó phải được đặt trên đất để nhìn. Một biến xứ cố định được làm bằng cách đóng cọc trên đất theo dáng một cái đài sen, rồi đan trên ấy những dây leo, nếu đất sét không đủ thì thêm vào bên dưới rồi làm một cái đĩa tròn, đường kính một gang tay và 4 ngón, đặt lên trên bằng đất sét màu bình minh. Trên nói cỡ bằng cái thùng hoặc chảo là cốt để nói kích thước. “Có giới hạn, không phải không giới hạn” là chỉ sự định giới hạn cho nó.

26. Vậy, sau khi đã định giới hạn cho kasiṇa và làm theo cỡ đã nói, hành giả nên dùng một cái bay bằng đá để lấy nó xuống, không nên dùng bay gỗ, sẽ làm cho kasiṇa trở màu rồi làm cho bằng phẳng như một cái trống. Vị ấy nên quét sạch chỗ ở đó, đi tắm rửa. Khi trở lại, hãy ngồi vào một chiếc ghế cao 1 gang 4 ngón, đặt cách kasiṇa hai rưỡi khuỷu tay, vì biến xứ không hiện rõ nếu ngồi xa, còn nếu ngồi gần hơn thì những khuyết điểm nơi kasiṇa lộ rõ. Nếu ngồi cao thì vị ấy phải cúi mỏi cổ, còn ngồi thấp hơn thì đau đầu gối.

Khởi Sự Quán Tưởng

27. Sau khi ngồi như đã tả, vị ấy nên ôn lại những dục vọng như kinh nói: “Dục đem lại ít lạc mà khổ nhiều, não nhiều” và khởi lên sự khao khát thoát ly dục vọng, khao khát sự từ bỏ phương tiện để vượt mọi khổ. Kế tiếp, vị ấy hãy khởi lên niềm hân hoan bằng cách tưởng nhớ những đức đặc biệt của Phật, Pháp, Tăng, khởi lên niềm kính phục với ý nghĩ rằng: “Ðây là con đường từ bỏ mà tất cả chư Phật, Độc Giác và Thánh chúng đã dấn bước vào”, khởi lên niềm hăng say với ý nghĩ: “Bằng cách này, chắc chắn ta cũng sẽ biết được vị ngọt của hạnh phúc độc cư”, sau đó, vị ấy nên mở 2 con mắt một cách vừa phải, quán tưởng và tiếp tục khai triển nó.

28. Nếu mở mắt quá lớn, mắt sẽ thấm mệt, và cái đĩa đất trở thành quá rõ, làm cho Sơ tướng khó hiện ra. Nếu mở mắt quá hẹp thì cái đĩa không rõ, tâm hành giả đâm ra lừ đừ, buồn ngủ, cũng làm cho sơ tướng khó xuất hiện. Vị ấy nên tu tập bằng cách quán tướng tức Kasiṇa đất, trong khi mở mắt vừa phải, như thể đang nhìn phản ảnh gương mặt mình trên một tấm gương soi.

29. Màu sắc không nên xem kỹ. Ðặc tính không nên lưu ý. Ðúng hơn, trong khi vẫn không bỏ qua màu sắc, sự chú ý nên đặt trên khái niệm danh từ. Cần chú tâm đến kasiṇa khi thì với mắt mở, khi thì với mắt nhắm, cho đến khi sơ tướng hiện ra.

[Chú thích: Màu bình minh của kasiṇa không nên nghĩ tới, mặc dù không thể chối cãi rằng nó được nhận biết nhờ nhãn thức. Bởi thế, mà thay vì nói “không nên nhìn” luận chủ nói “không nên nghĩ” bằng cách hồi tưởng. Cũng thế, đặc tính cứng của địa đại, mặc dù vẫn có ở đấy, mà không nên lưu ý, vì sự quán tưởng phải làm qua nhãn môn. Và sau khi nói “trong khi không bỏ quên màu sắc” luận chủ bảo “đưa màu sắc xuống địa vị đặc tính”; chứng tỏ rằng sự chú ý không phải để ở màu sắc hay đất mà cả 2 đều được nâng lên ngang nhau bởi một nền tảng vật lý là cái đĩa, chú tâm ở danh xem như tâm pháp trổi nhất và lặp đi lặp lại: “đất, đất”, hay bất cứ một danh từ nào chỉ đất, theo Pāḷi ngữ như “mahī, medinī...”]

30. Ðến một lúc mà hành giả có thể thấy tướng ấy, dù nhắm mắt hay mở mắt, tức là sơ tướng đã phát sinh. Khi ấy hành giả không nên ngồi đó nữa mà trở về trú xứ và tiếp tục tu tập như thế. Ðể tránh sự chậm trễ do rửa chân, nên sắm một đôi dép và một chiếc gậy chống, nếu định tan biến vì một chạm xúc không thích đáng thì hành giả mang dép, chống gậy đến chỗ cũ mà quán lại tướng bằng tầm tư duy.

Tợ Tướng

31. Khi làm như vậy, những triền cái được dập tắt, cấu nhiễm lắng xuống, tâm trở nên tập trung với định cận hành và tợ tướng xuất hiện. Sự khác nhau giữa sơ tướng và tợ tướng như sau: Trong sơ tướng, bất cứ lỗi nào ở kasiṇa đều hiện rõ, nhưng tợ tướng xuất hiện như thể tách rời khỏi sơ tướng và trăm ngàn lần trong sạch hơn, như cái gương vừa được rút ra khỏi hộp, như cái đĩa bằng ngọc trai được rửa sạch, như mặt trăng vừa ra khỏi mây, như những con hạc trắng nổi bật giữa vừng mây sấm chớp. Nhưng nó không màu sắc hình dáng vì nếu có, nó có thể nhìn được bằng mắt, sẽ thô và in dấu 3 đặc tính (của hữu vi, là sinh trú diệt hoặc 3 đặc tính vô thường, khổ, vô ngã). Nhưng nó không phải vậy. Vì nó chỉ sinh từ tưởng nơi người đã đắc định và chỉ là một giả tướng. Nhưng vừa khi nó xuất hiện thì những triền cái dập tắt, cấu nhiễm lắng xuống, tâm trở nên định tĩnh với định cận hành.

Hai Loại Ðịnh

32. Ðịnh có 2 thứ là định cận hành (upacāra) và định an chỉ (appaṇā): tâm trở nên định tĩnh theo 2 cách, trên bình diện cận hành và trên bình diện an chỉ. Cận hành là do từ bỏ những triền cái và an chỉ là do sự xuất hiện những thiền chi.

33. Hai loại định khác nhau chỗ này: các thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) không được mạnh trong định cận hành, nên ở trong giai đoạn này, tâm khi thì lấy tướng làm đối tượng, khi thì nhập trở lại hữu phần (life-continuum), giống như một đứa trẻ được nâng lên, đứng trên hai chân, sẽ té xuống lại. Còn những thiền chi ở định an chỉ thì rất mạnh và vì thế, khi định này phát sinh thì lúc hữu phần dừng lại tâm có thể tiếp tục với một dòng tốc hành tâm suốt cả đêm ngày, giống như một người khỏe mạnh có thể đứng suốt một ngày.

Duy Trì Tợ Tướng

34. Làm tợ tướng khởi lên được rất khó. Bởi thế, nếu hành giả có đắc định an chỉ trong cùng một thời tĩnh tọa, bằng cách nới rộng tướng thì tốt. Nếu không, cần phải gìn giữ tợ tướng ấy một cách tinh mật như giữ cái bào thai của một chuyển luân vương.

Hãy giữ tợ tướng bằng mọi giá,
Thì cái gì đã được sẽ không mất;
Kẻ nào không duy trì được như vậy
Thì mỗi lần lại mất đi cái đã được.

35. Ở đây cách giữ gìn tợ tướng là:

Trú xứ và hành xứ,
Ngôn ngữ, người, thực phẩm
Khí hậu và uy nghi—
Tránh thứ không thích hợp.
Chọn những gì thích hợp
Vì nếu làm như vậy
Không lâu được “an chỉ”.

36. 1) Trú xứ không thích nghi nếu khi sống ở đấy, hành giả không khởi được tướng chưa khởi, mất tướng đã khởi, niệm chưa an trú không được an trú, tâm chưa định tĩnh không được định tĩnh. Trú xứ thích nghi nếu ở đấy tướng khởi lên và trở nên xác định, niệm được an trú và tâm được định tĩnh. Như trường hợp trưởng lão Padhāniya-Tissa ở Nāgapabbata. Vậy, nếu tu viện có nhiều trú xứ, hành giả có thể ở từng nơi thử, mỗi nơi 3 ngày và tiếp tục trú nơi nào tâm được định tĩnh. Và chính nhờ trú xứ thích nghi mà 500 Tỷ-kheo đã đắc A-la-hán quả trong khi còn ở trong động Cūḷa-nāga-leṇa tại đảo Tambapaṇṇi (Tích Lan) sau khi quán đề mục ở đấy. Còn những bậc Dự Lưu đắc A-la-hán quả tại đây thì vô số kể. Trong tu viện Cittalapabbata cũng thế và các nơi khác.

37. 2) Một khu làng để khất thực nằm về phía Bắc hay Nam của trú xứ (để tránh đối diện với mặt trời khi đi và về) không quá xa, trong vòng một câu xá rưỡi (1 câu xá rưỡi bằng ba ngàn cung), nơi dễ kiếm đồ khất thực, là chỗ hành xứ thích hợp. Ngược lại là không thích hợp.

38. 3) Ngôn ngữ: Lời nói nằm trong 32 thứ lời phù phiếm là không thích hợp vì đưa đến sự biến mất của tướng, còn lời nói dựa trên 10 ví dụ về lời nói, được gọi là là thích hợp, nhưng ngay cả lời nói thích hợp cũng cần nói vừa phải (26 loại lời vô ích được kể trong các kinh như M II 145, III 113, Luận thêm thành ra 32).

39. 4) Người: Một người không ưa nói phù phiếm, có những đức đặc biệt của giới... Do giao thiệp với người ấy, tâm không định được định, tâm đã định càng thêm định tĩnh, gọi là người thích hợp. Một người quá tĩnh, gọi là người thích hợp. Một người quá quan tâm đến thân thể, ưa nói vô ích, gọi là không thích hợp, vì chỉ gây rối, như bùn bỏ vào nước trong. Vì một người thuộc loại này, mà mọi chứng đắc của vị Tỷ-kheo trẻ ở Koṭapabbata đã tiêu tan, nói gì đến tướng.

40. 5) Thực phẩm: Người hợp đồ ngọt, kẻ hợp đồ chua.

6) Khí hậu: Người hợp khí hậu lạnh, kẻ hợp khí hậu nóng. Do đó, khi hành giả thấy nhờ sống trong một khí hậu nào đó, dùng một thức ăn nào đó mà mình cảm thấy thoải mái, tâm chưa định trở nên định tĩnh, tâm đã định càng thêm định, thì khí hậu và thức ăn đó là thích hợp. Ngược lại là không thích hợp.

41. 7) Uy nghi: Có người thích hợp với uy nghi đi, người thích hợp đứng, người thích hợp ngồi hoặc nằm. Bởi thế, hành giả nên thử tất cả uy nghi cũng như thử trú xứ, mỗi uy nghi 3 ngày liền và uy nghi nào nhờ đó tâm chưa định được định, tâm đã định càng thêm định thì đó là thích hợp. Ngoài ra là không thích hợp.

Hành giả nên tránh 7 thứ không thích hợp và chọn cái thích hợp. Khi tu tập theo cách đó, tinh cần quán tưởng thì hành giả “không lâu sẽ được an chỉ”.

Mười Thiện Xảo Trong Ðịnh An Chỉ

42. Tuy nhiên, nếu tu tập theo cách đó mà hành giả vẫn không đắc định thì cần phải nhờ đến 10 thiện xảo trong sự đắc định an chỉ như sau: (1) Làm sạch nội, ngoại xứ. (2) Duy trì quân bình giữa các căn. (3) Thiện xảo về tướng. (4) Nỗ lực tâm vào lúc đáng nỗ lực. (5) Chế ngự tâm lúc đáng chế ngự. (6) Khích lệ tâm lúc đáng khích lệ. (7) Nhìn tâm với thái độ xả khi cần nhìn với xả. (8) Tránh những người không định tĩnh. (9) Gần gũi những người định tĩnh. (10) Quyết tâm đối với định.

43. 1) Làm sạch nội, ngoại xứ: Khi tóc, móng tay, móng chân, lông trên thân mọc dài, hoặc thân thấm đầy mồ hôi, gọi là nội xứ không sạch, áo dơ, hôi hám cũ kỹ, bở mục hoặc trú xứ dơ bẩn là ngoại xứ. Khi nội xứ, ngoại xứ đều bất tịnh thì tri kiến trong tâm và tâm sở cũng bất tịnh, như ánh sáng từ một cây đèn có bình dầu, tim (bấc) và dầu không sạch, các hành không hiện rõ cho một người cố hiểu chúng bằng tri kiến không sạch và khi người ấy chú tâm vào đề mục thiền, nó không đi đến tăng trưởng, lớn mạnh và viên mãn.

44. Nhưng khi nội và ngoại xứ đều sạch thì tri kiến trong tâm và tâm sở được trong sạch như ánh sáng của một cây đèn có bình dầu, bấc và dầu đều sạch; các hành trở nên rõ rệt cho người cố hiểu chúng với tri kiến trong sạch và khi vị ấy tu tập đề mục thiền, nó được tăng trưởng, lớn mạnh, viên mãn.

45. 2) Duy trì các căn: có nghĩa là làm quân bình 5 căn tín, tấn, niệm, định, tuệ. Vì nếu tín căn mạnh mà những căn khác yếu thì tấn căn không thể thi hành nhiệm vụ nó là nỗ lực, niệm căn nhiệm vụ an trú, định căn nhiệm vụ không tán loạn và tuệ căn với nhiệm vụ thấy rõ. Trong trường hợp ấy, tín căn cần được châm chước bằng cách xét lại bản chất của từng pháp liên hệ, nghĩa là những đối tượng chú ý hoặc bằng cách đừng để ý đến chúng, theo kiểu với tín căn quá mạnh. Có thể chứng minh điều này với câu chuyện về trưởng lão Vakkali (S III 119).

[Trưởng lão đau nặng gần chết, cứ ân hận và không được trông thấy Đức Thế Tôn. Phật vì lòng từ mẫn, đến thăm trưởng lão và dạy không cần thấy xác thân hủ bại làm gì. Nhưng ai thấy Pháp là thấy Phật và thấy Phật có nghĩa là thấy pháp. Rồi ngài dạy trưởng lão quán sắc vô thường và cái gì vô thường là khổ, cái gì khổ là phi ngã. Như vậy, là dùng tuệ để làm quân bình tín quá mạnh nơi trưởng lão].

46. Nếu tấn căn quá mạnh thì tín căn không thể làm cái nhiệm vụ quyết định và các căn khác cũng không thể làm những nhiệm vụ của chúng. Bởi thế trong trường hợp này, tấn căn cần được châm chước bằng xả, khinh an, định. Ðiều này có thể chứng minh với câu chuyện Trưởng Lão Soṇa (A III 374-6). Cũng thế, với các căn còn lại, khi bất cứ một căn nào trở nên quá mạnh thì những căn khác không thể làm nhiệm vụ của chúng.

47. Nhưng, điều được đặc biệt khuyến cáo là quân bình tín với tuệ, định với tấn. Vì một người tín nhiều, tuệ ít thì tin tưởng không phê phán, không căn cứ. Một người tuệ nhiều tín ít thì dễ lạc vào kiểu láu cá và cũng khó trị như người bị lạm thuốc. Nếu quân bình 2 căn ấy thì chỉ tin khi có lý do để tin. Và giải đãi dễ thắng lướt một người định nhiều tấn ít, vì định dễ sinh biếng nhác. Trạo cử thắng lướt một người tấn nhiều, ít định, vì tinh tấn dễ sinh trạo cử. Nhưng nếu định song đôi với tinh tấn thì không thể rơi vào giải đãi và tinh tấn song đôi với định thì không rơi vào trạo cử. Bởi thế, 2 căn này cần được quân bình, định “an chỉ” phát sinh khi có sự quân bình giữa tấn căn và định căn.

48. Lại nữa, định và tín cần quân bình. Người tập định cần có niềm tin mạnh vì nhờ tín mạnh mà đắc an chỉ. Và lại có sự quân bình giữa định và tuệ. Một người tu tập định cần có sự nhất tâm mạnh vì nhờ tuệ mà thể nhập các đặc tính (vô thường, khổ, vô ngã), nhưng với sự quân bình giữa định, tuệ, hành giả còn đạt đến an chỉ.

49. Tuy nhiên, niệm là pháp cần yếu (thiết yếu) (needed) đối với mọi trường hợp vì niệm làm cho tâm khỏi rơi vào trạo cử vì các căn tín, tấn, tuệ. Niệm cũng làm cho tâm khỏi rơi vào giải đãi vì cái căn dễ phát sinh giải đãi là định. Bởi thế, trong mọi trường hợp, niệm là điều đáng muốn, như muối là cần thiết trong các thứ nước chấm, như thủ tướng cần thiết trong mọi công việc của vua. Bởi vậy, Luận nói: “Niệm được Thế Tôn gọi là phổ quát vì tâm có niệm làm chỗ y cứ, niệm được biểu hiện như sự che chở hộ trì và không có sự nỗ lực và điều phục tâm nếu không có niệm”.

50. 3) Thiện xảo về tướng là sự khéo léo làm phát sinh tướng nhất tâm chưa phát sinh qua biến xứ đất... Sự khéo léo phát triển tướng đã sinh; khéo léo giữ gìn tướng đã phát triển. Ở đây muốn đề cập thiện xảo thuộc loại sau cùng này.

51. 4) Thế nào là nỗ lực tâm khi cần nỗ lực? Khi tâm đâm ra giải đãi vì ít tinh tiến (tinh tấn)... Thì thay vì tu tập 3 giác chi khinh an, định, xả, hành giả nên tu tập trạch pháp, tinh tiến, hỷ. Vì Đức Thế Tôn dạy: “Nếu các Tỷ-kheo, giả sử có người muốn làm cho một đốm lửa nhỏ cháy lên mà bỏ cỏ ướt, củi ướt và rưới nước, rắc bụi lên thì có làm cho đốm lửa bừng cháy được không? - Bạch Thế Tôn, không. - Cũng thế các Tỷ-kheo, khi tâm đã lười biếng thì không phải lúc tu tập khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi. Tại sao? Vì một tâm lười biếng không thể nhờ những pháp ấy mà phấn chấn lên được. Khi tâm lười biếng, cần phải tu tập trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, vì một tâm lười biếng có thể nhờ các pháp này mà được kích động. Như người muốn một đốm lửa nhỏ cháy rực lên mà bỏ thêm cỏ khô, phân bò khô, củi khô, lấy miệng thổi không rắc bụi lên thì có thể làm cho đốm lửa cháy sáng lên được” (S V 112).

52. Và ở đây, sự tu tập mỗi giác chi là thức ăn cho giác chi ấy, như kinh dạy: “Này các Tỷ-kheo, có những pháp thiện, bất thiện, có những pháp có tội, không tội, có những pháp liệt, thắng, có những pháp dự phần đen trắng. Ở đây nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, thì đó là món ăn làm cho trạch pháp giác chi chưa sanh khởi, hay trạch pháp giác chi đã sanh được tu tập, tăng trưởng, làm cho viên mãn. “Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có phát cần giới (element of initiative) (ārambhadhātu: mới khởi sự cố gắng), tinh cần giới, dũng mãnh giới, ở đây nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, là món ăn làm tinh tấn giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn”. Cũng thế, “này các Tỷ-kheo, có những pháp phát sinh hỷ giác chi, ở đây nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, thì đấy là món ăn cho hỷ giác chưa sanh được sanh khởi, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn” (S V 104).

53. Ở đây, “như lý tác ý” các pháp thiện... Có nghĩa là sự tác ý đi sâu vào các tính chất riêng biệt (biệt tướng) và (ba) đặc tính chung (tổng tướng). Như lý tác ý đối với phát cần giới... Có nghĩa là sự chú ý phát sinh khi khởi lên tinh cần... Sự tinh tấn mới khởi lên thì gọi là phát cần giới. Tinh cần giới mạnh hơn vì nó bỏ rơi biếng nhác. Dũng mãnh giới (parakkamao-dhātu) lại còn mạnh hơn tinh cần giới (nikkama-dhātu) vì tiếp tục kiên trì trong những giai đoạn kế tiếp. “Những pháp phát sinh hỷ giác chi” là tên gọi chỉ hỷ, sự chú ý để khởi nó lên gọi là “như lý tác ý”.

54. Ngoài ra, còn có 7 pháp đưa đến sự phát sinh trạch pháp giác chi là: 1. Đặt câu hỏi, 2. Làm sạch nội ngoại xứ, 3. Quân bình các căn, 4. Tránh những kẻ thiếu trí tuệ, 5. Thân cận người có trí, 6. ôn lại lĩnh vực tri kiến sâu xa, 7. Quyết định đối với trạch pháp.

55. Có 11 pháp đưa đến phát khởi tinh tấn giác chi: 1. Ôn lại sự khủng khiếp của các đọa xứ, 2. Thấy lợi ích trong sự đạt đến những điều thù thắng thuộc thế gian, xuất thế gian nhờ tinh tấn, 3. Nhìn lại con đường mình đi: Con đường mà chư Phật, Độc Giác, Thanh Văn đã đi, ta cũng sẽ đi, con đường ấy không thuộc về một kẻ biếng nhác, 4. Sự xứng đáng nhận đồ khất thực vì nó phát sinh quả báo lớn cho người bố thí, 5. Nhớ đến sự hùng vĩ của đấng Ðạo sư: “Ðức Ðạo sư của ta tán dương người tinh tấn. Nền giáo lý siêu tuyệt này, một giáo lý đem lại nhiều lợi cho chúng ta chỉ tôn quý nhờ ở thực hành mà thôi”, 6. Nghĩ đến sự lớn lao của pháp tài: “Chính các gia tài lớn là Diệu pháp này phải do ta nắm giữ, không thể do một kẻ biếng nhác”, 7. Từ bỏ hôn trầm thụy miên bằng cách tác ý đến quán tưởng, đổi tư thế uy nghi, đi dạo giữa trời..., 8. Tránh những kẻ biếng nhác, 9. Gần những người siêng năng, 10. Ôn lại bốn chánh cần, 11. Quyết định đối với tinh tấn.

56. Có 11 pháp đưa đến sự sinh khởi hỷ giác chi: 1. Niệm Phật, 2. Niệm pháp, 3. Niệm tăng, 4. Niệm giới, 5. Niệm thí, 6. Niệm chư thiên, 7. Niệm sự bình an, 8. Tránh gần người thô lỗ, 9. Gần người thanh tao, 10. Đọc lại những kinh khích lệ, 11. Quyết tâm đối với hỷ. Như vậy, hành giả tu tập trạch pháp, tinh tấn, hỷ giác chi bằng cách khởi lên những pháp trên. Ðây là tu tập tâm vào lúc cần tu tập.

57. 5) Chế ngự tâm vào lúc cần chế ngự: khi tâm hành giả bị dao động, vì quá hăng say thì thay vì tu tập trạch pháp, tinh tấn, hỷ, vị ấy nên tu tập 3 giác chi là khinh an, định, xả; như Thế Tôn dạy: “Này các Tỷ-kheo, ví như có người muốn dập tắt một đống lửa lớn, mà bỏ cỏ khô v.v... lên, không rắc bụi lên, thì có thể dập tắt không? - Bạch Thế Tôn, không - Cũng thế, này các Tỷ-kheo, khi tâm dao động, thì không phải lúc để tu tập trạch pháp, tinh tấn, hỷ giác chi, vì một tâm dao động không thể nhờ các pháp này mà an tĩnh lại. Nhưng khi tâm dao động, thì đấy là lúc cần tu tập khinh an, định, xả giác chi. Vì một tâm dao động nhờ những pháp này mà được định tĩnh... Như một người muốn dập tắt một đống lửa lớn, mà bỏ cỏ ướt, rắc bụi lên đấy, thì có thể dập tắt” (S V 114).

58. Và sự tu tập khinh an, định, xả là thức ăn cho những giác chi ấy, như kinh nói: “Này các Tỷ-kheo, có thân khinh an, tâm khinh an, nếu như lý tác ý, làm sung mãn, thì đấy là món ăn cho khinh an giác chi chưa sanh được sanh, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn. Cũng thế, này các Tỷ-kheo, có tịnh chỉ tướng bất loạn tướng, nếu như lý tác ý, thì đấy là món ăn làm cho định giác chi chưa sanh được sanh, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn. Cũng vậy, các Tỷ-kheo có các pháp trú xứ cho xả giác chi, nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, thì chính là món ăn làm cho xã chi chưa sanh được sanh, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn” (S V 104).

59. “Như lý tác ý” trong 3 trường hợp trên, có nghĩa là sự tác ý đề khởi lên sự khinh an, định, xả bằng cách quan sát cái cách chúng đã khởi lên nơi mình trước kia như thế nào. “Tịnh chỉ tướng” tức là định, “bất loạn” cũng đồng nghĩa.

60. Ngoài ra, còn có 7 pháp làm sinh khởi khinh an giác chi: 1. Dùng thực phẩm bực thượng, 2. ở trong khí hậu tốt, 3. Giữ tư thế thoải mái dễ chịu, 4. Làm theo trung đạo, 5. Tránh kẻ hung hăng, bạo động, 6. Gần gũi người thân hành an tịnh, 7. Quyết tâm đối với sự khinh an.

61. Có 11 pháp đưa đến sanh khởi định: 1. Làm sạch nội ngoài xứ, 2. Thiện xảo về tướng, 3. Quân bình các căn, 4. Chế ngự tâm khi cần chế ngự, 5. Tu tập tâm lúc cần tu tập, 6. Khích lệ tâm lười biếng bằng tín và ý thức khẩn trương (trước cái chết), 7. Nhìn mọi sự xảy ra với thái độ xả, 8. Tránh những kẻ không định tĩnh, 9. Gần gũi người định tĩnh, 10. Ôn tầm các thiền (quán sát các thiền: xem từ đoạn 79 bên dưới) (reviewing of the jhānas) và giải thoát (liberations), 11. Quyết tâm đối với định.

62. Năm pháp đưa đến sanh khởi xả giác chi: 1. Giữ thái độ “xả” đối với các hữu tình, 2. Giữ thái độ “xả” đối với các hành (loài vô tình), 3. Tránh những người ưa bày tỏ sự yêu mến đối với các hữu tình và các hành, 4. Gần gũi đối với những người có thái độ xả đối với hữu tình và các hành, 5. Quyết tâm đối với xả.

Nhờ khởi lên những pháp nói trên, hành giả tu tập các giác chi khinh an, định và xả. Ðây là chế ngự tâm lúc cần chế ngự.

63. 6) Thế nào là “khích lệ tâm vào lúc cần khích lệ"? Khi tâm lười biếng vì tuệ chậm lụt hoặc vì không đạt đến hỷ lạc của sự bình an, hành giả nên kích động tâm ấy bằng cách ôn lại 8 lý do để có ý thức khẩn trương là: 1-4. Sanh, già, bịnh, chết, 5. Nỗi khổ ở các đọa xứ, 6. Khổ luân hồi sanh tử ở quá khứ, 7. Khổ sanh tử luân hồi vị lai, 8. Khổ hiện tại trong sự tìm kiếm thực phẩm. Và hành giả phát sanh niềm tin bằng cách nhờ đến những đức tính đặc biệt của đức Phật, Pháp và Tăng.

64. 7) Thế nào là nhìn với thái độ xả khi cần nhìn với xả? Khi hành giả đang tu tập như vậy, mà tâm được tịnh chỉ bình thản trước đối tượng, không giải đãi, không dao động, không lười biếng thì khi ấy, hành giả không cần bận tâm đến việc tập luyện, chế ngự hay khích lệ tâm, vị ấy giống như một người đánh xe khi những con ngựa đang tiến đều. Ðó là “nhìn tâm với xả”.

65. 8) Tránh những người không định tĩnh là tránh những người chưa từng bước chân trên đạo lộ xuất ly, những kẻ đa đoan thế sự, những người có tâm tán loạn.

9) Gần những người định tĩnh: là thỉnh thoảng, nên đến gần những người đã dấn bước trên đường xuất ly và đã đắc định.

10) Quyết tâm đối với định: là trạng thái quyết định đối với sự định tâm, xem định là quan trọng, hướng tâm về định, nương tựa vào định, khuynh hướng định. Ðấy là 10 thiện xảo về định an chỉ.

66.

Người đã được sơ tướng
Cần đến mười thiện xảo
Ðể đạt định an chỉ
Và hoàn tất mục tiêu

Nhưng nếu dù nỗ lực
Vẫn không kết quả gì
Bậc trí vẫn kiên trì
Không bỏ dở công việc
Vì kẻ nào bỏ dở
Không tiếp tục dụng công
Không được sự thù thắng

Ở trong giáo pháp này
Bậc có trí quan sát
Tâm mình khuynh hướng nào
Tinh tấn và tịnh chỉ
Luôn luôn phải song hành

Khi thấy tâm thụt lùi
Thì hãy khéo khích lệ
Khi dây cương quá chặt
Hãy dẫn ngựa bước đều

Ong khéo luyện được nhụy
Nhờ nỗ lực đúng mức
Lá, chỉ, tàu, bình dầu (bốn ví dụ đoạn 67-70 ngay bên dưới)
Làm cho người được thưởng
Hãy vượt qua giải đãi
Cũng như sự dao động
Hướng tâm trên quang tướng (sơ tướng)
Như các ẩn dụ trên.

Bốn Ẩn Dụ

67. Sau đây sẽ giải thích bài kệ: khi một con ong quá khôn biết rằng một đóa hoa trên cây đang nở, bay lại vội vàng, nên quá đà, trở lui thì đã hết nhị. Một con khác không đủ khôn, bay lại quá chậm, nên đến nơi cũng hết nhị. Nhưng một con thứ ba bay với tốc độ vừa phải, nhẹ nhàng đến nơi hút nhị hoa thỏa thích và còn được thưởng thức giọt sương như mật.

68. Lại nữa, khi những đệ tử của nhà giải phẫu được huấn luyện sử dụng con dao mổ trên một ngọn lá sen đặt trong một dĩa nước, người quá khôn lanh đưa con dao một cách vộ vàng, nên làm cho lá bị đứt đôi hoặc chìm xuống. Một kẻ khác không dám động đến lá sen vì sợ làm đứt đôi. Nhưng một kẻ thứ ba thiện xảo sẽ làm nổi bật nhát cắt con dao trên lá nhờ nỗ lực đúng mức và được thưởng.

69. Một ông vua ra lệnh, ai kéo một sợi tơ nhện dài được 4 thước sẽ được phần thưởng. Người quá khôn lanh thì kéo vội vàng, làm cho sợi tơ bị đứt, người không đủ khôn thì không dám động đến sợi tơ vì sợ đứt, nhưng một người thiện xảo kéo tơ với một nỗ lực vừa phải.

70. Một người quá khôn ngoan thì dong thẳng cánh buồm làm cho tàu trôi giạt khi có gió lớn. Một người quá vụng về nhè nhẹ cánh buồm vào lúc gió nhẹ, nên tàu không tiến được, trong khi một người thiện xảo thì dong thẳng cánh buồm khi gió nhẹ và rút xuống lưng chừng khi gió to, làm cho tàu đến đích an ổn.

71. Một vị thầy bảo 3 đệ tử: “Ai đổ đầu không làm rơi rớt sẽ được thưởng”. Kẻ quá lanh sẽ đổ dầu vào bình một cách hấp tấp vì ham phần thưởng nên làm đổ dầu ra ngoài. Người thứ hai rụt rè không dám rót vì sợ đổ, người thứ ba đổ dầu đầy bình nhờ nỗ lực đúng mức.

72. Cũng như trong ẩn dụ trên, khi sơ tướng xuất hiện, một Tỷ-kheo quá tinh tấn nghĩ: “Ta không lâu sẽ đắc định” nên tâm bị rơi vào trạo cử vì quá nỗ lực tinh cần và không đắc định. Một người khác vì thấy lỗi lầm trong sự dụng công quá mức, bèn buông lơi sự tinh tấn, vì nghĩ: “Ðắc định đối với tôi bây giờ có nghĩa lý gì?” Khi tâm vị này rơi vào giải đãi, vì sự tinh cần quá lỏng lẻo, cũng không đắc định.

Nhưng người thứ ba giải tỏa ngay sự giải đãi và trạo cử vừa móng lên, quán tưởng với một sức tinh cần vừa phải, nên đắc định.

73. Do đó, mà nói: “Ong khéo luyện, được nhụy...”

Sự Xuất Hiện Định An Chỉ Trong Tâm Lộ Trình

74. Khi hành giả hướng tâm theo cách ấy chạm mặt sơ tướng, biết “nay, định an chỉ sẽ tiếp theo”, thời ý môn hướng tâm khởi lên nơi vị ấy cùng một đối tượng là kasiṇa đất, định tướng ấy gián đoạn dòng hữu phần và khởi lên nhờ liên tục lập lại “đất, đất”. Sau đó, 4 hay 5 tốc hành tâm khởi trên cùng một đối tượng tốc hành tâm cuối cùng thuộc sắc giới, những tâm trước đó thuộc dục giới, nhưng 5 thiền chi trong những tốc hành tâm này mạnh hơn trong tâm thường. Những tốc hành tâm này gọi là “tâm chuẩn bị”, vì chúng chuẩn bị cho định an chỉ, cũng gọi là “cận hành” tâm vì chúng gần với định an chỉ hoặc vì chúng xảy đến ngay trước định an chỉ, như người ta nói “phụ cận khu làng” phụ cận khu phố là nơi gần làng, gần phố. Cũng gọi là “tâm thuận thứ” vì chúng phù hợp với tâm đi trước và định tướng tiếp theo sau. Tốc hành tâm cuối cùng còn gọi là “chuyển tánh” (chuyển tộc) (gotrabhū) vì nó vượt qua dục giới hữu hạn và làm phát sinh dòng sắc giới siêu việt.

75. Tốc hành tâm đầu tiên gọi là “chuẩn bị”, thứ hai “cận hành”, thứ ba “thuận thứ”, thứ tư “chuyển tánh”, thứ năm “an chỉ” hoặc tâm đầu tiên là “cận hành”, thứ hai “thuận thứ”, thứ ba “chuyển tánh”, thứ tư là tâm “an chỉ”. Vì chỉ có tâm sau rốt này mới dán chặt vào an chỉ, tùy theo thắng trí linh lợi (tâm thứ tư đã an chỉ) hay chậm lụt (tâm thứ năm).

76. Nhưng luận sư A Tỳ Ðàm là trưởng lão Godatta trích dẫn đoạn văn: “Những thiền tâm đi trước là một duyên, kể như tập hành duyên, cho những thiền tâm kế tiếp” (Ptn 1.5) và thêm: “Chính nhờ tập hành duyên mà mỗi tâm kế tiếp đều mạnh, bởi thế trong tốc hành tâm thứ sáu hoặc bảy vẫn có thể đắc định an chỉ”. Ðiều này bị các luận bác bỏ, cho đó chỉ là quan điểm riêng của vị trưởng lão ấy.

77. Chỉ trong tốc hành tâm thứ tư hoặc thứ năm mới có định an chỉ. Qua khỏi giới hạn ấy, tốc hành tâm chìm xuống, vì gần với dòng Hữu phần. Và điều này đã được cân nhắc kỹ mới nói lên, do vậy không thể bác bỏ. Bởi vì, cũng như một người đang chạy đến một cái hố mà muốn dừng khi chân đã kề miệng hố, thì không thể nào dừng được mà chỉ có việc rớt xuống hố. Cũng thế, không thể có chuyện dán chặt vào định an chỉ ở tốc hành tâm thứ 6 hay 7, vì gần với dòng hữu phần. Do đó, cần hiểu rằng chỉ có định an chỉ ở tốc hành tâm thứ bốn hay thứ năm.

78. Nhưng định an chỉ ấy chỉ trong một năm sát-na duy nhứt. Vì có 7 trường hợp trong đó tâm lộ trình thông thường không áp dụng. Ðó là trường hợp định an chỉ đầu tiên, các loại thắng trí thế gian, bốn đạo, quả kế tiếp đạo, thiền hữu phần trong các loại sắc và vô sắc hữu, phi tưởng phi phi tưởng xứ làm duyên cho định diệt thọ tưởng. Ở đây, quả kế tiếp sau đạo không vượt quá ba tâm sát-na; tâm phi tưởng phi phi tưởng xứ làm điều kiền (duyên) cho định diệt thọ tưởng không vượt quá hai tâm sát-na; còn những tâm ở trong hữu phần thuộc sắc giới và vô sắc giới thì không thể ước lượng. Với các trường hợp còn lại, thì số tâm sát-na chỉ có một. Bởi thế mà nói rằng định an chỉ thuộc vào một tâm sát-na duy nhứt. Nó rơi trở lại Hữu phần sau đó, rồi, Hữu phần gián đoạn để quán sát thiền, vì đó là giai đoạn kế tiếp.

Sơ Thiền

79. Ðến đây, “hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, vị ấy chứng và trú sơ thiền, có tầm, có tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh” (Vibh 245), và như vậy hành giả đã đắc sơ thiền, từ bỏ năm pháp, đạt được năm pháp, tốt đẹp ở ba phương diện, có 10 đặc tính, và sơ thiền ấy thuộc biến xứ đất.

80. “Hoàn toàn ly dục” ở đây có nghĩa sau khi đã thoát khỏi những dục vọng. “Hoàn toàn” (eva) có nghĩa là tuyệt đối. Khi thực sự chứng và trú sơ thiền thì dục không có mặt và dục chính là cái gì ngược hẳn với sơ thiền, sơ thiền chỉ xảy ra khi hoàn toàn buông bỏ dục.

81. Nghĩa là, dục phải là cái “không đội trời chung” với sơ thiền, nếu có dục thì không đắc sơ thiền, cũng như có tối thì không có sáng, bỏ bờ gần mới đến bờ xa. Ðó là tính cách tuyệt đối của sự “hoàn toàn ly dục”.

82. Danh từ “hoàn toàn” này cần được hiểu ngầm cả trong vế thứ hai “(hoàn toàn) ly bất thiện pháp”, nghĩa là những triền cái khác ngoài dục. Và mặc dù ly tổng quát bao gồm mọi kiểu từ bỏ, ở đây chỉ có ba thứ từ bỏ muốn ám chỉ là thân viễn ly, tâm viễn ly và viễn ly bằng sự đè nén.

[5 kiểu viễn ly bằng cách đè nén nhờ định, bằng cách thay thế những pháp đối lập nhờ tuệ, bằng cách cắt dứt nhờ đạo lộ, bằng cách tịnh chỉ nhờ quả và viễn ly nhờ Niết Bàn. 3 kiểu viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly và hữu viễn ly - Niết Bàn]

83. Nhưng danh từ “dục” bao gồm nhiều thứ, đó là dục kể như đối tượng, như ở đoạn “Gì là đối tượng của dục? Ðó là những sắc pháp khả ý...” (Nidd I 1) Và dục kể như cấu uế được nói trong Vibhaṅga như sau: “Ðam mê là dục, thèm muốn là dục, khát khao là dục, khát khao thèm muốn là dục” (Nidd I 2; Vibh 256).

[Chanda, kāma, rāga cùng hợp với từ chia chúng, cần hiểu rõ. Chanda (hằng say, ham muốn) (zeal, desire) rất thông dụng, nó có tính chất trung tính, tốt hoặc xấu tùy theo ngữ cảnh sử dụng và thường có nghĩa là “muốn hoạt động” (desire to act); nó cũng chỉ cho 4 thần túc (iddhipāda) và 4 thắng đạo (adhipati). Kāma (sense desire, sensuality) chỉ chung ngũ dục thuộc dục giới, nghĩa hẹp là dâm dục. Nó gồm có nghĩa dục chủ thể ham muốn, tức cấu uế của tâm và đối tượng gợi lên dục vọng. Rāga (greed) là ham muốn theo ý xấu, như chữ lobha là thuật ngữ chỉ một trong 3 bất thiện căn (tham, sân, si). Rāga cũng là tham (lust) theo nghĩa chung. Kāmacchanda (lust) là thuật ngữ chỉ “dục tham” triền cái]

Như vậy “hoàn toàn ly dục” có nghĩa là “hoàn toàn thoát ly những đối tượng của dục” tức thân viễn ly, còn “ly bất thiện pháp” là từ bỏ những cấu uế của tâm, tức dục vọng, hoặc từ bỏ tất cả bất thiện pháp, ám chỉ tâm viễn ly. Trong khi ly dục chỉ có nghĩa “từ bỏ khoái lạc giác quan, xa lìa đối tượng của dục” thì, ly bất thiện pháp còn ám chỉ đến sự khoái lạc viễn ly, vì lìa khỏi dục kể như cấu uế của tâm.

84. Ly dục là từ bỏ cái nhân của tham, ly bất thiện pháp là từ bỏ cái nhân của si, ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp.

85. Nhưng nếu “dục” được hiểu là cấu uế, thì nó chỉ dục tham (kāmacchanda) dưới nhiều hình thức trong sự hăng say theo đuổi (chanda), sự thèm khát (rāga)... tức khoái lạc giác quan (kāma). Mặc dù nó bao gồm trong “bất thiện pháp” ở vế sau, ở đây nó được nêu riêng rẽ, bởi vì nó xung khắc với thiền. Hoặc, dục nói ở vế thứ nhất “hoàn toàn ly dục” là thèm khát khoái lạc giác quan và đó là một phiền não (cấu uế) và dục ám chỉ trong vế thứ hai vì đó là một bất thiện pháp. Và vì dục, sự thèm khát, mang nhiều hình thức, nên nguyên văn “ly dục” để số nhiều thay vì số ít.

86. Mặc dù có bất thiện trong các pháp khác, Vibhaṅga chỉ kể đến những triền cái: “Nhưng pháp gì là bất thiện? Dục tham...” để chứng tỏ sự đối nghịch, xung khắc giữa triền cái với thiền chi. Vì triền cái là những pháp ngược hẳn với thiền chi, nghĩa là, những thiền chi không ở chung với triền cái, loại bỏ trừ khử triền cái: “Ðịnh không ở chung với tham dục, hỷ không ở chung với sân, tầm không ở chung với hôn trầm, lạc không ở chung với trạo hối, tứ không ở chung với nghi.”

87. Bởi thế trong trường hợp này, cần hiểu rằng sự viễn ly bằng cách đè nén dục được ám chỉ trong câu “hoàn toàn ly dục” và viễn ly bằng cách đè nén cả năm triền cái được ám chỉ trong câu “ly bất thiện pháp”. Hoặc triền cái “tham dục” được ám chỉ trong câu đầu, 4 triền cái còn lại ám chỉ trong câu thứ 2. Hoặc tham (đối với 5 dục) ám chỉ trong câu đầu, sân, si trong câu sau. Hoặc câu đầu ám chỉ dục bộc lưu, dục ách, dục lậu, dục thủ, dục hệ phược, dục kiết sở, câu sau chỉ các bộc lưu, ách, lậu... khác. Lại nữa, 8 tâm sở có gốc ở tham (Ch. XIV, 90) được ám chỉ trong câu đầu, các bất thiện tâm khác được ám chỉ trong câu sau.

88. Ðến đây, những pháp thiền gạt bỏ đã được nêu lên. Bây giờ, để nói rõ các thiền chi, luận nêu câu “có tầm, có tứ”. Tầm (applied thougt) (vitakka) có nghĩa đánh mạnh vào. Nó có đặc tính là hướng tâm, để tâm trên đối tượng. Nhiệm vụ nó là quất vào — đối tượng đánh vào quất vào hành giả là do tầm. Thể hiện (tướng) của tầm là sự dẫn tâm đến một đối tượng. Tứ (sustained thought) (vicāra) là tư duy được đưa lên cao độ. Ðặc tính của nó là liên tục nhấn mạnh vào đối tượng. Nhiệm vụ (dụng) của nó là khiến cho những tâm pháp đều tập trung trên đối tượng. Hiện tướng của nó là tâm ý được dán chặt vào đối tượng.

89. Mặc dù tâm tứ không rời nhau, tầm có nghĩa sự chạm xúc đầu tiên của tâm với đối tượng, như đánh lên một tiếng chuông. Tứ là giữ tâm buộc vào một chỗ, như rung chuông. Tầm có can dự, đó là sự can thiệp của ý thức vào lúc khởi tâm đầu tiên, như một con chim dang đôi cánh khi sắp liệng, như con ong lao vút tới một cái hoa sen khi nó muốn theo dõi mùi hương của hoa. Hành tướng của tứ an tịnh hơn, ý thức hầu như không can dự giống như một con chim sau khi lao vào hư không, liệng với đôi cánh dang rộng, như con ong lao mình tới, vù vù quanh đóa hoa.

90. Trong tập Sớ về Chương Hai pháp (Aṅguttara Nikāya) có câu: “Tầm là trạng thái hướng tâm đến một đối tượng, như chuyển vận của một con chim lớn cất cánh bay, vồ lấy hư không với cả hai cánh rồi ép xuống. Vì tầm làm phát sinh định tĩnh bằng cách hợp nhứt. Tứ có đặc tính một áp lực liên tục, như chuyển động của con chim khi nó sử dụng đôi cánh để giữ thăng bằng trên hư không. Vì tứ liên tục bám vào đối tượng. Sự khác biệt giữa tầm và tứ trở nên rõ rệt trong Sơ thiền và Nhị thiền (nếu tính có năm thiền)”.

91. Hơn nữa, tầm được ví như bàn tay nắm chặt, còn tứ như bàn tay chà xát, khi ta nắm một cái đĩa kim loại hoen rỉ với một tay, còn tay kia chà xát nó với mảnh giẻ tấm dầu và phấn. Cũng vậy, khi người thợ gốm quay bánh xe bằng cách đánh vào cây trục để làm một cái đĩa thì bàn tay đỡ dưới của ông ví như tầm và bàn tay chuyển động qua lại ví như Tứ. Hoặc khi ta kẻ một vòng tròn thì cây kim cố định giữa trung tâm ví như tầm, cây kim di động vòng quanh cái tâm điểm ấy gọi là tứ.

92. Vậy, sơ thiền xảy đến cùng một lúc với tầm và tứ được gọi là “câu hữu với tầm tứ như ta nói một cây có hoa và trái”. Nhưng trong Vibhaṅga, lời dạy được ám chỉ đến con người là: “Vị ấy đạt đến, viên mãn tầm và tứ” (Vibh 257). Ý nghĩa cũng như nhau.

93. Do viễn ly sanh: Ở đây viễn ly (vivitti) là sự ẩn cư, có nghĩa là sự biến mất của những triền cái. Hoặc có nghĩa là các pháp liên hệ đến thiền này xa lìa khỏi những triền cái. Do viễn ly sanh là được sanh ra từ, hay trong viễn ly. Hỷ và lạc vì nó làm cho mát mẻ, tươi tỉnh (pīnayati) nên gọi là hỷ (pīti). Nó có đặc tính (thể) làm ưa thích (sampiyāyanā). Nhiệm vụ (dụng) của nó là thấm nhuần (cả mình rởn ốc). Tướng của nó là hoan hỷ cao hứng. Nhưng hỷ có 5 cấp bực từ thấp lên cao: tiểu hỷ, hỷ như chớp nhoáng, hỷ như mưa rào, hỷ nâng người lên và hỷ sung mãn.

94. Tiểu hỷ chỉ có thể là dựng lông tóc trong mình mà thôi. Hỷ như chớp nhoáng thỉnh thoảng lóe lên. Hỷ như mưa rào nổi trên cơ thể liên tục, như sóng vồ vào bờ bể. Hỷ nâng người có thể làm cho thân thể mất trọng lượng và bay bổng lên.

95. Ðó là điều đã xảy đến cho trưởng lão Mahā-Tissa ở Puṇṇavallika. Ngài đến sân điện thờ vào ngày rằm. Trông thấy ánh sáng trăng, Ngài hướng về Ðại tự ở Anurādhapura nghĩ: “Vào giờ này tứ chúng đang đảnh lễ nơi chánh điện!” Do những đối tượng đã trông thấy ở đấy trước kia, ngài khởi lên niềm vui lớn khi tưởng đến Đức Thế Tôn và Ngài bay lên hư không như một quả bóng, đáp xuống sân chánh điện.

96. Và điều này cũng đã xảy đến con gái của nhà phú hộ trong làng Vattakālaka gần tu viện Girikaṇḍaka, khi nàng thăng hư không nhờ tâm hoan hỷ lúc tưởng đến Đức Thế Tôn. Khi cha mẹ nàng sắp đến chùa để nghe pháp chiều hôm ấy, họ bảo nàng: “Này con, con đang có thai, không thể nào đi ra ngoài vào giờ này. Ba má sẽ đi nghe pháp kiếm công đức cho con”. Và họ ra đi. Nàng rất muốn đi, nhưng không thể trả lời cha mẹ. Bởi thế, nàng bước ra khỏi nhà, đứng trên bao lơn nhìn về Hư Không Ðiện (Ākāsacetiya) ở Girikaṇḍaka sáng rỡ dưới ánh trăng. Nàng trông thấy lễ dâng đèn ở chánh điện và tứ chúng đang đi nhiễu quanh hướng tay mặt sau khi dâng hương hoa và nghe chư tăng đọc tụng. Nàng nghĩ: “Hạnh phúc thay là những người kia, được nhiễu quanh và nghe pháp vi diệu”. Trông thấy ngôi điện thờ như một khối châu ngọc và khởi lên hỷ, tâm rộng lớn, nàng bay bổng lên hư không và đáp xuống điện thờ lễ bái và nghe pháp ngay cả trước cha mẹ.

97. Khi họ đến nơi, trông thấy nàng, bèn hỏi: “Con đến bằng đường nào vậy?” - “Con đến bằng hư không, không phải bằng đường bộ.” - “Con ơi, những vị lậu hoặc đã đoạn tận mới đi giữa hư không được. Con đến bằng lối nào?” - “Khi đứng nhìn ngôi chánh điện dưới ánh trăng, một niềm vui lớn khởi lên trong con, với Đức Thế Tôn là đối tượng. Rồi con không biết nữa mình đang đứng hay ngồi, chỉ biết mình bay bổng lên hư không, theo với hình ảnh con đã nắm được và con hạ xuống trên sân điện này.”

Vậy, hỷ lớn có thể làm mất trọng lượng thể xác và làm nó bay bổng lên hư không.

98. Nhưng khi hỷ sung mãn khởi lên thì toàn thân được thấm nhuần, như một cái bong bóng đổ đầy nước, như một hang động bị ngập lụt.

99. Năm loại hỷ nói trên, khi được làm cho chín mùi thì sẽ viên mãn 2 thứ khinh an là thân khinh an, và tâm khinh an. Khinh an được ấp ủ, làm cho chín mùi sẽ viên mãn 2 thứ lạc là thân lạc và tâm lạc. Lạc được ấp ủ, làm cho chín mùi thì sẽ viên mãn 3 thứ định, đó là định chốc lát, định cận hành và định an chỉ.

Trong 5 thứ hỷ nói trên, hỷ muốn nói ở đây là hỷ sung mãn vì nó là căn bản của định và nó tăng trưởng dần theo mình.

100. Lạc (sukha) là sự làm hài lòng, sự hạnh phúc. Hoặc có nghĩa là nó hoàn toàn (suṭṭhu) ngấu nghiến (khādati) ăn nuốt (khaṇati) sầu khổ của thân tâm. Ðặc tính nó là làm thỏa mãn. Dụng của nó là tăng cường độ các pháp tương ứng. Tướng của nó là sự hỗ trợ.

Và khi hỷ lạc được liên kết thì hỷ có nghĩa “hài lòng vì đạt được điều ước ao” còn lạc là kinh nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được. Có hỷ tất nhiên có lạc nhưng có lạc thì không tất nhiên có hỷ. Hỷ thuộc hành uẩn, lạc thuộc thọ uẩn. Khi một người khát nước kiệt sức trên sa mạc (kantāra-khinna) mà thấy được hay nghe được một vũng nước ở bìa rừng, người ấy sẽ có hỷ, nếu người ấy đi đến bóng mát uống nước ấy thì sẽ có lạc.

101. Vậy, (a) hỷ lạc này thuộc về sơ thiền, hay ở trong sơ thiền, bởi thế thiền này được gọi là có hỷ có lạc và còn do ly dục sanh. Hoặc (b) có thể hiểu hỷ lạc do ly dục sanh là một câu, thay vì hiểu “sơ thiền”... Do ly dục sanh” như trường hợp (a).

102. Sơ thiền: Sẽ giải thích ở đoạn 119. Chứng (upasampajja) là đạt đến, hoặc nếu đọc “upasampādayitvā” “làm cho thể nhập” có nghĩa là phát sinh, đi vào, đạt đến, có được, đến nơi, sờ chạm, thực hiện, nhập sơ thiền” (Vibh 257). 

103. Trú (Viharati): “do đạt được thiền thuộc loại đã nói, nhờ an trú trong tư thế thích hợp, hành giả phát sinh một tư thế, một đường lối, một sự duy trì, kiên cố, kéo dài, cư xử, an trú” (Vibh 252).

104. Ở trên (đoạn 79, xem M I 284) “từ bỏ 5 pháp, được 5 pháp”: từ bỏ 5 pháp là 5 triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi). Vì không có thiền sanh khởi nếu chưa từ bỏ 5 pháp này, nên chúng là những pháp cần bỏ. Vì, mặc dù lúc đắc thiền, các bất thiện pháp khác cũng được từ bỏ, song chỉ 5 pháp này là đặc biệt chướng ngại cho thiền mà thôi.

105. Khi tâm bị tham dục chi phối, do sự thèm muốn các đối tượng sai khác, thì không tập trung được trên một đối tượng duy nhất, khi tâm tràn ngập dục tham thì không thể đi vào đạo lộ từ bỏ dục giới. Khi nhiễm độc vì cân đối với một đối tượng thì tâm không thể sanh khởi một cách không gián đoạn. Khi bị hôn trầm thụy miên, thì tâm khó điều phục. Khi bị trạo hối tóm lấy thì tâm trở nên bất an, lăng xăng. Khi hoài nghi nổi lên thì tâm không thể bước lên đạo lộ để đắc thiền. Bởi vậy, chỉ những pháp này (tham, sân, hôn trầm, trạo hối, nghi) mới gọi là những pháp cần từ bỏ vì chúng đặc biệt chướng ngại thiền.

106. Nhưng tầm hướng tâm đến một đối tượng, tứ giữ cho tâm neo lại một chỗ ấy. Khi nỗ lực này thành công, hỷ phát sinh và làm tâm tươi tỉnh vì nó đã thành công không để bị tán loạn vì những triền cái, và lạc khởi lên tăng cường mức độ của hỷ cũng vì lý do đó. Rồi nhất tâm được hỗ trợ bởi 4 pháp vừa kể, tập trung thích đáng vào đối tượng. Bởi thể sự “có được 5 pháp” chính là khởi lên tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.

107. Vì chính khi những pháp này khởi lên, ta mới nói rằng thiền phát sinh, nên gọi là “có được 5 pháp”.

108. Tuy rằng 5 pháp cũng hiện hữu ở giai đoạn cận hành, mạnh hơn ở tâm thức bình thường, song ở giai đoạn này chúng lại còn mạnh hơn là ở định cận hành và mang đặc tính sắc giới. Vì ở giai đoạn này, tầm hướng đến đối tượng một cách cực kỳ sáng suốt, tứ cũng vậy, áp mạnh lên đối tượng, hỷ và lạc thấm nhuần khắp toàn thân. Kinh nói: “Không có chỗ nào trên thân hành giả mà không được thấm nhuần bởi hỷ lạc do ly dục sanh” (D I 73) và sự nhất tâm cũng vậy, khởi lên, hoàn toàn chạm xúc với đối tượng như nắp hộp chạm đáy hộp.

109. Mặc dù sự nhất tâm không được kể ra ở trong câu nói: “có tầm có tứ, hỷ lạc do ly dục sanh”, nó đã được nói đến về sau trong Vibhaṅga “Thiền: đó là ‘tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm’” (đoạn 257), bởi vậy, “nhất tâm” được Đức Thế Tôn nói lược, cũng như trong phần trình bày kế tiếp.

110. Tốt đẹp theo 3 cách có 10 đặc tính (đoạn 79): sự tốt đẹp theo 3 cách là đầu, giữa, cuối, 10 đặc tính là những đặc tính của chặn đầu, chặn giữa, chặn cuối.

111. “Về sơ thiền, sự thanh tịnh đạo lộ là chặn đầu”: chặn đầu có 3 đặc tính, là tâm được lọc sạch chướng ngại cho thiền, nhờ lọc sạch, nó chuẩn bị cho trạng thái quân bình cho chặn giữa, tức tịnh chỉ tướng và vì đã chuẩn bị, nên tâm thể nhập trạng thái ấy.

112. “Sự tăng trưởng xả là chặn giữa”: chặn giữa có 3 đặc tính: bấy giờ hành giả, với trạng thái xả, nhìn tâm đã được thanh lọc, với xả, nhìn tâm đã được chuẩn bị cho tịnh chỉ, với xả, nhìn sự xuất hiện cửa nhất tướng.

113. “Sự toại ý là chặn cuối”: chặn cuối có 4 đặc tính: toại ý không có sự quá độ nào trong các pháp khởi lên, toại ý vì các căn chỉ có một nhiệm vụ duy nhất; toại ý vì nỗ lực thích đáng đã có kết quả và sự toại ý với nghĩa tập hành, là sự toại ý ở chặn cuối của sơ thiền, nên nói rằng “sơ thiền tốt đẹp ở chặn cuối với 4 đặc tính” (Paṭis I 167-8 lược).

114. Thanh tịnh đạo lộ ở đây là định cận hành với các pháp câu hữu. Tăng cường xả là định an chỉ. Toại ý là sự duyệt xét lại thiền. Ðó là quan điểm ở tu viện Abhatagiri (Anurādhapura). Nhưng Luận thì bảo: “Tâm đạt đến nhất tướng thì thể nhập sự thanh tịnh đạo lộ, được tăng cường về xả vì được thỏa mãn nhờ trí” (Paṭis I 167) và bởi thế, chính trong định an chỉ thực thụ, mà “thanh tịnh đạo lộ” mới bắt đầu được xem là sự đến gần với “tăng cường xả” là nhìn với thái độ thản nhiên và “toại ý” là trí làm quân bình các pháp (không thể pháp nào quá độ) Nghĩa là thế nào?

115. Trước hết, trong một chu kỳ tâm trước đó định “an chỉ” khởi, thì tâm trở nên được thanh lọc hết nhóm triền cái cấu uế chướng ngại thiền, và nhờ đã hết chướng ngại, tâm chuẩn bị, dọn đường cho trạng thái quân bình ở chặn giữa, tức “tướng tịnh chỉ”. Và bấy giờ, chính là định an chỉ khởi lên một cách tuần tự đó được gọi là tịnh chỉ tướng.

116. Kế đến, khi hành giả không còn quan tâm đến sự thanh lọc vì không cần làm thanh tịnh lại những gì đã thanh tịnh nên vị ấy “nhìn với xả, cái tâm dọn đường cho tịnh chỉ”. Khi hành giả không còn quan tâm đến việc làm phát sinh “nhất tướng” trở lại, vì nhất tướng (tướng tịnh chỉ) đã phát sinh, luận nói “vị ấy nhìn với xả, cái tướng nhất tâm” đã phát sinh ấy. Do đó mà tăng cường xả là chặn giữa.

117. Và cuối cùng, khi xả đã được tăng cường như vậy, những pháp được gọi là định và tuệ phát sinh, xuất hiện song hành không cái nào lướt cái nào. Và 5 căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ) cũng xuất hiện với độc một vị giải thoát, nhờ giải thoát khỏi những cấu uế. Và tinh tiến thích hợp với những thiền này nghĩa là thuận theo tính cách “không quá độ” và “thuần một vị” của chúng (5 căn) và sự tập hành (lập lại, repetition) của thiền tâm ấy phát sinh vào lúc ấy [Vào lúc ấy, là vào sát-na nó diệt; vì khi sát-na sanh vừa qua thì sự “lập lại” hay “tập hành” phát sinh với sát-na “trú” (Vism-mhṭ 145)]. Cả bốn khía cạnh này được phát sinh một cách tự nhiên, vì sau khi thấy với trí huệ, nguy hiểm của cấu uế và lợi ích của thanh lọc thì có sự toại ý, sự thanh tịnh, sự làm sáng tỏ tiếp theo. Do đó, “toại ý” là tướng biểu hiện của trí hoàn tất cái việc làm quân bình (không quá độ) các pháp...

118. Ở đây, “sự toại ý” kể như một bản chất của trí, gọi là “chặng cuối”, bởi vì trí là rõ rệt do xả: “Vị ấy nhìn với xả hoàn toàn, cái tâm đã được tu tập như vậy; khi ấy tuệ căn nổi bật và đó là thứ tuệ do xả mà có. Do xả, tâm được giải thoát khỏi nhiều thứ cấu uế, khi ấy tuệ căn nổi bật và đó là thứ tuệ do giải thoát. Vì đã giải thoát các pháp này bấy giờ chỉ có một nhiệm vụ duy nhất và khi ấy tuệ căn nổi bậc là tuệ căn do tu tập theo chiều hướng một nhiệm vụ duy nhất” (Paṭis II 25).

119. Và như thế, vị ấy đắc sơ thiền, thuộc biến xứ đất” (đoạn 79): Ở đây, thiền được gọi là “sơ” (đầu tiên), bởi vì nói khởi đầu loạt con số và vì xảy đến trước tiên, gọi là Jhāna (thiền na) vì nó thắp sáng (upanijjhāna) đối tượng và đốt cháy (jhāpana) pháp đối lập (Paṭis I 49). Cái dĩa đất gọi là Kasiṇa đất (Paṭhavī-Kasiṇa) với nghĩa toàn thể đối tượng với thiền, cũng là tên gọi cái tướng đạt được trong khi dùng Kasiṇa đất làm nền tảng và chỉ luôn cả thiền đạt được trong tướng Kasiṇa đất ấy. Do vậy, thiền này gọi là “thuộc Kasiṇa đất”.

120. Khi đã đắt thiền, hành giả phải quán sát kỹ cái cách đã đem lại sự đắc thiền, với thái độ của một nhà thiện xạ hay một đầu bếp giỏi. Vì khi một người giỏi bắn tên tập bắn chẽ một sợi tóc, vào một lúc nào đó đã chẽ được thì y sẽ quan sát kỹ vị trí đặt chân, vị trí cây cung, dây cung, mũi tên... để về sau, là lại giống y như vậy và chẻ được sợi tóc. Thiền giả cũng thế, cần quan sát kỹ những yếu tố như “Ta đã đắc thiền này sau khi ăn đồ ăn như vậy, hầu cận một người như vậy, ở một trú xứ như vậy, trong uy nghi như vậy”. Khi định tướng bị mất, hành giả sẽ lặp lại những cách thế cũ và cố quen thuộc với định tướng ấy thì có thể đắc định trở lại như ý muốn.

121. Và như một đầu bếp giỏi để ý ông chủ thích ăn cái gì và từ đó chỉ đem lại cho chủ các món ấy, nên được phần thưởng. Thiền giả cũng thế, phân biệt rõ những cách thế về phương diện thực phẩm... Vào lúc đắc thiền và nhớ lặp lại những cách thế ấy, hành giả đắc thiền trở lại mỗi lúc bị mất.

122. Và Đức Thế Tôn đã nói: “Này các Tỷ-kheo, ví như người đầu bếp khôn ngoan, khéo léo, dọn ra nhiều loại nước chấm trước mặt vua hay vị đại thần, loại đắng, cay, ngọt, có tiêu, không có tiêu, có muối, không có muối... Rồi quan sát chủ: ‘Hôm nay thứ nước chấm này làm chủ ta vừa ý’, hoặc ‘ông chủ đưa tay lấy thứ này’ hoặc ‘ông dùng rất nhiều thứ này’ hoặc ‘ông khen thứ này’ hoặc ‘hôm nay thứ này chưa làm hài lòng chủ ta’ hoặc ‘ông đưa tay lấy thứ chua này’ hoặc ‘ông dùng nhiều thứ chua này’... Hoặc ‘ông khen thứ không muối này’; rồi người đầu bếp khôn ngoan, khéo léo được thưởng với y phục, tiền bạc, quà tặng. Tại sao? Vì nó biết quan sát sở thích của chủ, cũng thế, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo khôn ngoan, thiện xảo trú quán thân trên thân, quán cảm thọ trên các cảm thọ... Quán tâm trên tâm, quán các pháp trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Do vị ấy trú quán thân trên thân... Tâm được định tĩnh, các phiền não được đoạn tận. Vị ấy học được tướng ấy. Rồi vị Tỷ-kheo khôn ngoan, thiện xảo ấy được thưởng với hiện tại lạc trú, được hưởng với chánh niệm tỉnh giác. Vì sao? Vì Tỷ-kheo thiện xảo ấy học được tướng của tâm mình” (S V 151-2).

123. Và khi vị ấy làm lại những tư thế kia để quán tướng, vị ấy chỉ thành trong sự đắc định, mà không thể làm cho định kéo dài. Ðịnh chỉ kéo dài khi đã được hoàn toàn thanh lọc khỏi các pháp chướng ngại.

124. Khi một Tỷ-kheo chứng một thiền mà trước đây không hoàn toàn nhiếp phục tham dục bằng cách thấy nguy hiểm của dục... Không hoàn toàn thanh tịnh thân nhiệt não (kāyaduṭṭhulla) - chướng ngại do sân bằng cách an tịnh thân hnàh, không hoàn toàn trừ khử hôn trầm thụy miên bằng cách khởi lên phát cần giới... (đoạn 55) và không hoàn toàn loại bỏ trạo cử bằng cách khởi lên tịnh chỉ tướng, không hoàn toàn thanh lọc tâm hết những pháp chướng ngại thiền, thì Tỷ-kheo ấy sẽ xuất thiền trở lại ngay như một con ong bay vào một cái tổ không sạch, như một vị vua đi vào một vườn hoa dơ bẩn.

125. Nhưng khi vị ấy chứng một thiền, sau khi đã hoàn toàn thanh lọc tâm cho hết những pháp chướng ngại thì vị ấy sẽ trú trong định ấy suốt cả một ngày như con ong bay vào một cái tổ hoàn toàn sạch, như một vị vua đi vào một khu vườn đã được dọn sạch hoàn toàn.

Mở Rộng Tướng

126. Muốn viên mãn định tu tập, hành giả lại còn phải mở rộng tợ tướng đã đắc. Có 2 bình diện mở rộng tướng, đó là ở định cận hành và ở định an chỉ.

127. Cách mở rộng tướng như sau. Hành giả không nên mở rộng tướng như một cái bát bằng đất sét hay một cái bánh, một cây leo, một mảnh vải được nới rộng, mà trước hết phải định giới hạn trong tâm nhiều cỡ từ nhỏ đến lớn, như một ngón tay, hai ngón, ba, bốn ngón, rồi khoáng đại tướng ấy ra theo lượng đã định, như một nông phu định giới hạn bằng cái cày, khu vực cần cày, đoạn chỉ cày trong phạm vi đã định. Hoặc là như các Tỷ-kheo khi kiết giới, trước tiên phải quan sát các điểm mốc rồi mới ấn định giới vực. Vị ấy không được mở rộng giới nếu chưa ấn định cái lượng sẽ nới rộng là bao nhiêu. Sau khi đã ấn định, vị ấy có thể nới thêm bằng cách tuần tự định, những giới hạn khác nhau như: 1 sải tay, 2 sải tay, hành lang, khoảng trống xung quanh, tu viện, biên giới làng, thành phố, quận, vương đô, đại dương, quả địa cầu hoặc xa hơn nữa.

128. Như những con thiên nga nhỏ mới tập bay, lúc đầu chỉ bay mỗi lúc một đoạn ngắn, rồi tăng dần cho đến cuối cùng tới mặt trăng mặt trời, vị Tỷ-kheo mở rộng tướng cũng thế, định giới hạn từ từ như đã nói, và mở rộng tướng cho đến tận cùng thế giới hoặc xa hơn.

129. Rồi tướng xuất hiện cho vị ấy như một tấm da bò được căng ra bằng 100 cọc gỗ trên những mô đất cao và chỗ trũng, trên thung lũng, sông, bụi bờ, đất đá gập ghềnh (xem M. 3, 105) trong bất cứ vùng nào mà tướng đã được nới rộng.

Khi một người sơ cơ đã đắc thiền với tướng ấy, thì nên nhập thiền này nhiều lần, nhưng không nên quán sát nó nhiều lắm. Vì những thiền chi ở sơ thiền phát sinh một cách sống sít và yếu ớt đối với người quán sát thiền ấy nhiều. Rồi vì vậy mà các thiền chi ấy không thể làm duyên cho nỗ lực cao chưa từng quen thuộc và trong khi vị ấy nỗ lực nhắm đến thiền cao hơn thì mất luôn sơ thiền mà không đạt đến nhị thiền.

130. Do đó Đức Thế Tôn dạy: “Này các Tỷ-kheo, ví như có một con bò núi ngu ngốc không biết gì về đồng bằng và lại không khéo đi trên đường núi gập ghềnh, nghĩ: ‘Ta thử đi về hướng trước kia chưa từng đi, gặm thứ cỏ chưa từng gặm, uống thứ nước chưa từng uống, xem sao?’ Rồi không khéo đặt hai chân trước cho vững nó đã dở hai chân sau lên, do đó nó không thể đi về hướng chưa đi, gặm thứ cỏ chưa gặm, uống thứ nước chưa uống mà cũng không thể trở về chỗ cũ an ổn. Tại sao? Vì con bò núi ấy ngu ngốc, không biết gì về đồng bằng không khéo đi đường núi hiểm trở. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, ở đây có một số Tỷ-kheo ngu ngốc không biết gì về đồng bằng, không có thiện xảo hoàn toàn ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú sơ thiền với tầm với tứ với hỷ lạc do ly dục sanh. Tỷ-kheo ấy không lập lại nhiều lần, không tu tập làm cho sung mãn tướng ấy hay an trú nó đúng mức, Tỷ-kheo ấy nghĩ: ‘Thử xem thế nào nếu bỏ tầm tứ, ta chứng và trú thiền thứ hai với hỷ lạc do định sanh’. Rồi Tỷ-kheo ấy không thể nào bỏ tầm tứ, chứng và trú thiền thứ hai, nhưng cũng không thể nào được lại sơ thiền, và vị ấy được gọi là người hỏng chân ở giữa hai thiền, như con bò núi ngu ngốc kia” (A IV 418, lược).

131. Bởi thế, vị ấy cần phải nắm vững, theo năm cách, đối với sơ thiền: sự chú ý (tác ý), chứng đạt (chứng đắc), quyết định về thời gian (trú trong bao lâu), xuất thiền, và sự quan sát thiền. “Hành giả tác ý thiền tại chỗ nào, lúc nào, bao lâu theo ý muốn, gọi là làm chủ về tác ý. Ðắc thiền một cách dễ dàng tại chỗ nào lúc nào bao lâu như ý muốn, gọi là làm chủ về chứng đắc” (Ps. i. 100). Những điều khác cần được trích dẫn chi tiết (Ch. XXIII, 27).

132. Giải thích như sau. Khi hành giả xuất khỏi sơ thiền, trước hết tác ý đến tầm, rồi, tiếp theo sự tác ý khởi lên ngăn dòng, Hữu phần, có bốn hoặc năm tốc hành tâm có tầm ấy làm đối tượng. Rồi hai lần Hữu phần tâm khởi và diệt. Tiếp đến là tác ý đến tứ làm đối tượng, được tiếp theo bởi những tốc hành tâm như đã nói. Khi hành giả có thể kéo dài lộ trình tâm một cách không gián đoạn như vậy với cả 5 thiền chi, thì gọi là đã làm chủ sự tác ý. Chỉ có Đức Thế Tôn mới có sự làm chủ này đến chỗ tuyệt đích trong hai thần thông của Ngài (vừa phun nước, vừa tóe lửa cùng một lúc trên thân). Với những người khác thì phải theo cách đã nói, không thể nhanh hơn.

133. Tôn giả Moggallāna có thể nhập thiền một cách mau chóng như trong truyện hàng phục long vương Nandopananda, gọi là sự “làm chủ sự chứng đắc”.

134. Khả năng an trú trong thiền trong một khoảng khắc đúng như một đàn chỉ (búng tay) hay 10 đàn chỉ, gọi là “khả năng làm chủ sự quyết định” (kéo dài bao lâu). Khả năng xuất định một cách mau chóng, cũng với kiểu ấy, gọi là “làm chủ sự xuất định”.

135. Câu chuyện trưởng lão Buddharakkhi, có thể được kể ra để chứng minh hai trường hợp sau cùng này. Tám năm sau khi Ngài gia nhập tăng đoàn, trưởng lão đang ngồi giữa chúng 30000 Tỷ-kheo có thần thông, đang nhóm họp để thăm bệnh trưởng lão Mahā-Rohana-Gutta ở Therambatthala. Ngài trông thấy một con quỷ Supaṇṇa sà từ trên không xuống, định bắt một thị giả long vương khi đang nhận cháo cho vị trưởng lão. Trong khi đó, trưởng lão Buddharakkhita hóa ra một hốc đá và tóm bắt con quỷ nhốt vào trong đó. Quỷ vương Supaṇṇa đánh vào núi đá một cái và biến mất. Vị trưởng lão thượng tọa bảo: “Chư hiền, nếu không có Rakkhita ở đây, thì tất cả chúng ta đều bị con quỷ chọc quê”.

[Ðiều câu chuyện muốn nói là để chứng minh vị trưởng lão nhập định mau như thế nào, kiểm soát yếu tố thời gian của nó và xuất hiện điều kiện cần thiết để làm thần biến, tức hang đá - câu nhận xét cuối cùng dường như ám chỉ rằng mọi người khác quá chậm chạp]

136. Sự “làm chủ về quán sát” cũng như là làm chủ trong sự hướng tâm (adverting) vì những tốc hành tâm quán sát là những tốc hành tâm gần với giai đoạn hướng tâm (đoạn 132).

137. Khi hành giả đã làm chủ được 5 yếu tố nói trên thì lúc xuất khỏi sơ thiền bây giờ đã trở nên quen thuộc, vị ấy có thể quán sát những khuyết điểm nó như sau: “Thiền này bị đe dọa vì gần các triền cái và các thiền chi còn yếu do bởi tầm, tứ còn thô. Hành giả có thể nghĩ đến nhị thiền là an tịnh hơn và nhờ vậy, chấm dứt bám víu vào sơ thiền mà khởi sự làm những gì cần thiết để đạt đến nhị thiền.

138. Khi xuất sơ thiền, tầm, tứ đối với hành giả bây giờ thành thô, khi vị ấy quan sát các thiền chi với chánh niệm, trong khi hỷ lạc và nhất tâm thì có vẻ an tịnh. Ðoạn, khi hành giả đem tướng ấy trở lại trong tâm “đất, đất” lập đi lập lại với mục đích từ bỏ những thiền chi thô và đạt đến những thiền chi an tịnh, biết rằng nhị thiền sẽ sinh khởi trong tâm, hành giả liền phát sinh “ý môn hướng tâm” (manodvāra: ý môn, āvajjanā: hướng tâm; mind-door adverting) với cùng một lúc một Kasiṇa đất làm đối tượng, gián đoạn dòng hữu phần. Sau đó, bốn, năm tốc hành tâm khởi trên cùng một đối tượng, tốc hành tâm cuối thuộc sắc giới nhị thiền, còn các tâm còn lại thuộc dục giới.

Nhị Thiền

139. Ðến đây, “làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, hành giả chứng và trú nhị thiền, nội tĩnh nhất tâm, không tầm, không tứ với hỷ (happiness) và lạc (bliss) do định sanh” (Vibh 245), và vị ấy đạt đến nhị thiền, từ bỏ 2 pháp, có 3 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất.

140. Với tịnh chỉ của tầm, tứ: nghĩa là lắng xuống, vượt qua tầm, tứ, hai thiền chi này không có mặt ở nhị thiền. Mặc dù không có pháp nào thuộc sơ thiền hiện hữu ở nhị thiền, vì những pháp xúc, thọ, tưởng, tư, tâm dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, (M III 25) ở sơ thiền khác ở nhị thiền khác - tuy vậy, cần rõ rằng câu “với tịnh chỉ của tầm, tứ” được nói lên để chứng tỏ rằng sự đạt đến những thiền khác (từ thấp lên cao) đều do từ bỏ pháp thô ở mỗi trường hợp.

141. Nội: phát xuất từ tự tâm.

142. Tĩnh: (confidence) đó là niềm tin. Thiền có niềm tin, vì nó liên hệ đến niềm tin hoặc vì làm cho tâm an ổn với niềm tin mà thiền đạt được và an ổn bằng cách làm lắng sự dao động do tầm và tứ.

[Chú thích của người dịch: nếu hiểu câu Pāḷi: sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvam” theo cách cetaso của tâm - đi với sampasādanaṃ thay vì đi với ekodibhāvam. Từ ngữ này được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là “nội tĩnh nhất tâm".]

143. Nếu hiểu cetaso đi với ekodibhāvam thì có nghĩa như sau: Ðộc nhất (eka) nó khởi lên (udeti) nên gọi là nhất, ekodi nghĩa là nó khởi lên như cái tối cao, tốt nhất, vì trên nó không có tầm, tứ. Từ ngữ này chỉ Ðịnh. Nhị thiền đem lại sự có mặt (bhāveti), làm tăng trưởng cái yếu tố “duy nhất” này, nên gọi là đem lại sự duy nhất (ekodibhāva). Và, cái duy nhất ấy thuộc về tâm, không về gì khác, nên gọi là cetaso-ekodibhāvam, sự nhất tâm.

144. Người ta có thể hỏi: nhưng Sơ thiền không có niềm tin và định hay nhất tâm ấy hay sao? Tại sao chỉ trong nhị thiền mới nói có niềm tin và nhất tâm?

Trả lời: Vì sơ thiền chưa hoàn toàn có niềm tin, do tình trạng dao động của tầm, tứ gây nên, như làn sóng lăn tăn trên mặt nước. Bởi vậy, mặc dù ở sơ thiền vẫn có tín mà chưa được gọi là nội tín và sự tập trung cũng chưa hoàn toàn vì thiếu niềm tin viên mãn ấy, nên định ở đấy cũng chưa được gọi là “nhất tâm”. Nhưng ở nhị thiền, niềm tin mạnh vì vắng mặt những chướng ngại là tầm, tứ và định cũng rõ rệt vì có đức tin mạnh làm bạn.

145. Vibhaṅga: “Sampasādanaṃ” (tín) là niềm tin, tin cậy, tín nhiệm, tin tưởng hoàn toàn. Nhất tâm (ekodibhāvam) là sự vững chãi của tâm... Sự tập trung chân chánh” (Vibh 258). Giải thích này cũng phù hợp.

146. Không tầm, không tứ: theo đà tu tập 2 yếu tố này dần bị loại bỏ cho đến khi dứt hẳn.

147. Tại sao đã nói “làm cho tịnh chỉ tầm và tứ...” rồi còn lập lại “không tầm, không tứ?” Trước đây, chúng ta đã nói: “Câu làm cho tịnh chỉ tầm, tứ là để ám chỉ rằng sự đạt đến những thiền khác từ sơ thiền trở lên là nhờ từ bỏ các pháp thô ở mỗi trường hợp” (đoạn 140).

Ngoài ra, đức tin này phát sinh với hành vi tịnh chỉ tầm, tứ, cho nên “làm cho tịnh chỉ” là nói cái nhân của tin tưởng và nhất tâm (nội tĩnh nhất tâm). Lại nữa, thiền này không có tầm, tứ, không như ở thiền thứ 3 và 4 hay trong nhãn thức... Chỉ có sự vắng mặt tầm tứ, mà ở đây (nhị thiền) còn có hành vi làm cho tịnh chỉ tầm tứ. Do vậy, nó ám chỉ cái nhân của sự không tầm, tứ, không phải chỉ nói đến sự vắng mặt tầm, tứ mà thôi. Sự vắng mặt tầm tứ được nói ở mệnh đề 2: Không tầm, tứ cho nên cần lập lại.

148. Do định sanh: sanh từ định của sơ thiền hoặc sanh từ định tương ưng. Mặc dù sơ thiền cũng sanh từ định tương ưng, song chỉ có định nhị thiền mới đáng gọi là “định” vì niềm tin hoàn toàn của nó và vì nó tuyệt đối bất động vì vắng mặt sự dao động của tầm tứ. Bởi thế nhị thiền được gọi là “do định sanh”.

149. Từ bỏ 2 pháp, có được 3 pháp: từ bỏ 2 pháp là bỏ tầm, tứ. Nhưng trong khi những triền cái được từ bỏ ở cận hành định của sơ thiền thì tầm, tứ không được từ bỏ ở cận hành định nhị thiền, mà ở định an chỉ thực thụ chúng mới được từ bỏ. Do vậy, mà nói tầm, tứ là những pháp từ bỏ ở nhị thiền.

150. “Có 3 pháp” là hỷ, lạc và nhất tâm. Khi Vibhaṅga nói: “Thiền: tin tưởng, hỷ, lạc, nhất tâm” (Vibh 258) câu này cốt ám chỉ nhị thiền với trang bị của nó. Nhưng ngoại trừ “tin tưởng”, thiền này, nói một cách chặt chẽ, có 3 pháp kể như là pháp đã đạt đến đặc tính thắp sáng (xem đ. 119). Những gì còn lại cũng như nói ở sơ thiền.

151. Khi nhị thiền đã được đạt với cách ấy và hành giả làm chủ được 5 phương diện nói trên thì khi xuất khỏi nhị thiền đã quen thuộc, hành giả có thể quán sát những khuyết điểm của nó như sau: thiền này bị đe dọa vì gần tầm, tứ, hỷ, lạc trong đó còn thô. Hành giả có thể nghĩ đến tam thiền xem như an tịnh hơn, do vậy chấm dứt bám víu nhị thiền và bắt đầu làm những gì cần để đắc tam thiền.

152. Khi xuất nhị thiền, hành giả thấy hỷ là thô khi quán sát các thiền chi, với chánh niệm tỉnh giác và lạc, nhất tâm là an tịnh. Rồi vị ấy khởi tướng ấy trở lại nhiều lần trong tâm “đất, đất” với mục đích từ bỏ pháp thô, đạt đến pháp tế và biết tam thiền sẽ khởi. Lúc ấy “ý môn hướng tâm” (mind-door adverting) khởi lên, cùng một đối tượng là đất, ngăn chận (gián đoạn) Hữu phần. Kế tiếp, 4 hoặc 5 tốc hành tâm khởi với cùng một đối tượng, tốc hành tâm cuối là thuộc về tam thiền, sắc giới. Những gì còn lại cũng như đã nói ở đoạn 74.

Tam Thiền

153. Ðến đây, “ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, hành giả chứng và trú tam thiền, một trạng thái mà các bậc Thánh đã tuyên bố: “Người nào có xả, và chánh niệm, người đó trú trong an lạc” (Vibh 245) và như thế, vị ấy đã đến tam thiền, từ bỏ một pháp, có được 2 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất.

154. Ly hỷ (pītiyā ca virāgā): là vượt qua, làm rơi rụng tâm “hỉ” ở nhị thiền. Chữ “ca” cốt nói: làm rụng luôn cả hỷ, sau khi đã làm rụng (từ bỏ) tầm, tứ hay làm tịnh chỉ tầm, tứ.

155. Tầm, tứ đương nhiên đã được tịnh chỉ ở nhị thiền, nhưng nhắc lại ở đây, là để nhấn mạnh: con đường đến tam thiền cốt yếu là phải đình chỉ tầm, tứ. Cũng như thân kiến... Không phải từ bỏ vào lúc đắc tam thiền (mà ở sơ thiền), tuy vậy, tam thiền vẫn được giới thiệu là “đoạn tận 5 hạ phần kiết sử” (A I 232) để đánh thức sự tinh tấn nơi hành giả đang cố vươn đến Thánh đạo lộ thứ 3 này, cũng vậy, làm tịnh chỉ tầm, tứ được nhắc lại ở đây, mặc dù tầm, tứ đã tịnh chỉ ở nhị thiền là cốt để nhấn mạnh. Do đó, ý cần hiểu ở đây là: “Với sự vượt qua hỷ và làm tịnh chỉ tầm, tứ”.

156. Trú xả: upekkhā (xả) có nghĩa là ngắm nhìn sự vật khi chúng xảy ra (Upapattito Ikkhati), sự vật xảy ra như thế nào thì nhìn nó như thế ấy, nghĩa là nhìn một cách thản nhiên, không thêm bớt không thành kiến. Người đắc tam thiền là vị “trú xả” vì tâm xả nơi vị ấy hiển nhiên, dồi dào và mạnh.

Xả có 10 thứ: xả thuộc 6 căn, xả thuộc 4 phạm trú (từ, bi, hỷ, xả), xả kể như một giác chi, xả về tinh tấn, xả về hành uẩn, xả về thọ uẩn, xả thuộc tuệ, xả kể như tính trung lập đặc biệt, xả ở thiền, và xả kể như sự thanh tịnh.

157. Xả thuộc 6 căn là xả nơi một vị đã đoạn tận lậu hoặc. Ðó là trạng thái không lìa tánh thanh tịnh bản nhiên. Khi đối tượng đáng ưa hay đáng chán thuộc 6 trần đi vào sự chú ý của 6 căn như kinh nói: “Một Tỷ-kheo đã đoạn tận lậu hoặc, thì không vui cũng không buồn khi thấy một sắc pháp với mắt: vị ấy trú xả, chánh niệm tỉnh giác” (A III 279).

158. Xả kể như một phạm trú: là thái độ bình đẳng đối với mọi loài chúng sinh, như kinh nói: “Vị ấy trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả” (D I 251).

159. Xả kể như một giác chi: là trạng thái trung tính được mô tả như sau: “vị ấy tu tập xả giác chi liên hệ đến từ bỏ” (M I 11).

160. Về xả tinh tấn: là trạng thái không quá tinh cần cũng không quá biếng nhác, như kinh nói: “Thỉnh thoảng vị ấy chú tâm đến tướng xả” (A I 257).

161. Xả thuộc hành uẩn: là thái độ thản nhiên tìm hiểu những phản ứng và tư thái đối với những triền cái v.v... Như luận nói: “Có bao nhiêu xả về hành uẩn khởi lên qua định? Có bao nhiêu xả về hành uẩn khởi lên qua tuệ? Tám loại xả đối với các hành khởi lên qua định, 10 loại xả đối với các hành khởi lên qua tuệ” (Paṭis I 64).

162. Xả kể như thọ uẩn: là tình trạng không lạc không khổ: “Khi một tâm thuộc Dục giới khởi lên câu hữu với xả” (Dhs. 156).

163. Xả thuộc tuệ: là tính cách trung lập đối với sự suy đạt, như sau: “Cái gì hiện hữu, cái gì đã trở thành, vị ấy từ bỏ (xả) cái ấy và được xả”.

164. Xả kể như tính trung lập đặc biệt: là một trong 4 pháp thuộc loại “bất định pháp”: dục, quyết định, tác ý và xả.

165. Xả thuộc thiền: là tính vô tư bình đẳng (thản nhiên, vô dục) đối với cả đến tối thượng lạc, như nói “Vị ấy trú xả” (Vibh 245).

166. Thanh tịnh xả niệm: là loại xả nhờ đã được tịnh chỉ hết các đối lập, được mô tả như sau: ”Tứ thiền, loại thiền có niệm được thanh tịnh nhờ xả (xả niệm thanh tịnh)” (Vibh 245).

167. Các loại xả thuộc 6 căn, xả kể như một phạm trú, xả kể như một giác chi, xả kể như tính trung lập đặc biệt, xả thuộc thiền và xả niệm thanh tịnh đều đồng nghĩa là tính trung lập đặc biệt. Nhưng chúng có sai khác về vị trí như sự khác biệt nơi một con người duy nhất từ khi còn là đứa bé trai, đến khi thành thiếu niên, thanh niên, một ông tướng, một ông vua v.v... Bởi thế, về các loại xả này, cần hiểu rằng, khi xả thuộc sáu căn có mặt, thì không có 5 loại xả kia, các xả còn lại cũng thế. Tương tự như thế, xả thuộc hành uẩnxả thuộc tuệ cũng chỉ có một nghĩa, vì chúng chỉ là tuệ quán được phân loại ra hai thứ ấy tùy nhiệm vụ.

168. Ví như khi một người trông thấy có con gì bò vào nhà lúc trời tối, dùng một cái gậy có chĩa để săn tìm, và khi thấy nó trong vựa lúa, tìm xem có phải đích thực là một con rắn không. Do thấy ba điểm (sovatthika-taya), y không còn nghi ngờ gì, bởi thế, ở trong y, có sự xả đối với các việc tra tầm (investigating) “có phải rắn hay không”. Cũng thế, khi một người khởi sự có Tuệ, và với tuệ thấy được 3 đặc tính của các hành, thì khi ấy có xả nơi vị ấy đối với sự tra tầm tính cách vô thường v.v... Của các hành. Xả này gọi là xả về tuệ.

169. Nhưng ví như khi người ấy đã bắt được con rắn với cây gậy có chĩa, nghĩ “làm sao xua đuổi con rắn này mà không làm nó đau đớn, cũng không bị nó cắn tay?” thì, trong khi người ấy chỉ tìm cách xua đuổi con rắn mà thôi, nơi anh ta, có sự xả đối với việc bắt rắn, việc tra tầm v.v... Cũng vậy, khi một người, nhờ thấy rõ Ba đặc tính (vô thường v.v...), thấy được ba cõi hữu như đang bốc cháy, thì nơi vị ấy có xả đối với sự nắm giữ các hành, và đó là xả về các hành.

170. Do vậy, khi xả về tuệ được an lập thì xả đối với các hành cũng được an lập. Nhưng nó được chia hai theo như trên, tùy nhiệm vụ, nghĩa là, tùy theo xả đối với sự tra tầm (3 đặc tính) hay xả đối với sự nắm bắt (3 đặc tính). Xả thuộc tinh tấn và xả thuộc thọ uẩn khác nhau, và cũng khác với các loại xả kia.

171. Vậy, trong những loại xả nói trên thì xả muốn nói ở đây là xả về thiền. Xả này có đặc tính là trung tính. Nhiệm vụ nó là không can dự. Nó được biểu hiện bằng vô dục. Nhân gần của nó là sự từ bỏ hỷ.

Ở đây người ta có hỏi: không phải xả này chỉ có nghĩa là loại dửng dưng đặc biệt (trung tính)? Và nó cũng hiện hữu ở sơ thiền và nhị thiền, nên câu “vị ấy trú xả” đáng lẽ cũng áp dụng cho hai thiền đầu, tại sao không? Trả lời: Bởi vì ở hai thiền đầu, nhiệm vụ của xả không rõ rệt, vì nó bị che lấp bởi tầm, tứ, hỷ. Nhưng xả xuất hiện ở đây với một bản chất hoàn toàn rõ rệt, như cất cao đầu lên, vì nó không bị che lấp bởi tầm, tứ và hỷ. Do đó, xả được nói đến trong thiền thứ ba này.

172. Chánh niệm tỉnh giác: vị ấy nhớ lại (sarati) nên gọi là chánh niệm (sata); có sự giác tỉnh toàn vẹn, nên gọi là tỉnh giác (sampajāna). Chánh niệm có đặc tính là nhớ lại. Nhiệm vụ của nó là không quên. Biểu hiện của nó là sự gìn giữ. Tỉnh giác có đặc tính là không rối loạn, có nhiệm vụ là tra tầm phán xét, có biểu hiện là sự thăm dò.

173. Mặc dù chánh niệm này và tỉnh giác này cũng hiện hữu ở hai thiền đầu - vì một người hay quên, thất niệm không hoàn toàn tỉnh giác, thì không thể đạt đến định cận hành, khoan nói đến định an chỉ, song vì hai thiền đầu tương đối còn thô nên tâm dễ phiêu lưu như một người đi trên đất bằng. Bởi vậy, nhiệm vụ của chánh niệm tỉnh giác ở hai thiền đầu chưa rõ rệt. Nhưng ở thiền thứ ba, chánh niệm tỉnh giác được nói đến vì những pháp thô đã được từ bỏ, và tính cách vi tế của tam thiền đòi hỏi tâm phải luôn luôn chánh niệm tỉnh giác, như người đi trên lưỡi dao cạo.

174. Lại nữa, như một con bê đi theo mẹ, luôn luôn trở về bên mẹ nếu không được giữ lại, và nếu bị đưa đi xa mẹ; cũng thế, khi tam thiền bị dời khỏi hỷ, nó sẽ trở lại với hỷ nếu không bị giữ bởi chánh niệm tỉnh giác, và nó sẽ đi theo hỷ. Ngoài ra, chúng sinh thường ham lạc, và loại lạc này lại vô cùng ngọt ngào không có thứ lạc nào lớn hơn, thế mà ở đây (tam thiền) có sự vô tham đối với lạc là nhờ ảnh hưởng, của chánh niệm tỉnh giác, không vì lý do nào khác.

175. “Vị ấy thân cảm lạc thọ”: ở đây mặc dù một người thực sự đắc tam thiền không quan tâm đến cảm giác lạc, vị ấy vẫn cảm thấy lạc liên hệ đến tâm thể, và sau khi xuất thiền vẫn còn lạc, bởi vì thân thể được ảnh hưởng bởi cái chất vi diệu phát sinh từ lạc liên hệ đến thân vô sắc (mental body) (về sắc do tâm sanh - consciousness-originated materiality, xem Chương XX, đ. 30 trở đi).

176. Bây giờ, nói đến ý nghĩa câu: “về thiền này, các bậc Thánh tuyên bố: người nào có xả và chánh niệm, người ấy trú lạc”. Các bậc Thánh là các bậc Giác ngộ v.v... Ý nói các bậc Thánh ca ngợi người nào đắc thiền. Vì sao? Vì, người ấy trú trong lạc với xả và với chánh niệm. Vị ấy chứng và trú thiền thứ ba”. Câu văn cần được hiểu như vậy.

177. Nhưng tại sao chư Thánh ca ngợi? Vì vị ấy có xả đối với thiền thứ ba, mặc dù thiền này có lạc thù thắng vi diệu và đã đạt đến chỗ toàn bích của lạc, vậy mà vị ấy vẫn không bị lôi kéo đến thiền này do niềm ưa thích đối với lạc và vị ấy chánh niệm, với cái chánh niệm đã được an trú để đề phòng hỷ sinh khởi và vị ấy với sắc do tâm sanh - cảm thọ vô uế lạc mà chư Thánh yêu mến và làm cho sung mãn. Vị ấy đáng ca ngợi, nên chư Thánh ca ngợi bằng những lời “vị ấy trú lạc khi có xả và có chánh niệm”, nói lên những đức tính đặc biệt đáng ca tụng.

"Thứ ba”, là theo thứ tự con số, và vì thiền này được chứng vào hàng thứ ba.

178. “Từ bỏ một pháp, có hai pháp” (153). Từ bỏ một pháp là từ bỏ hỷ. Nhưng hỷ chỉ được từ bỏ ở sát-na định an chỉ, cũng như tầm tứ được từ bỏ ở sát-na chứng nhị thiền. Do đó, hỷ được gọi là pháp từ bỏ ở tam thiền.

179. “Có hai pháp” là sự khởi lên lạc và nhất tâm. Bởi vậy khi Vibhaṅga nói: “Thiền: xả, chánh niệm, tỉnh giác, lạc, nhất tâm” (260) là để ám chỉ trang bị của đệ tam thiền. Nhưng, trừ xả và chánh niệm tỉnh giác, thì thiền này thực sự chỉ có 2 pháp đạt đến đặc tính “thắp sáng” (xem 119). Những gì còn lại cũng như ở sơ thiền đã nói.

180. Khi hành giả đã đạt đến và làm chủ tam thiền theo 5 cách, thì khi xuất tam thiền đã quen thuộc, hành giả có thể nhìn những khuyết điểm của nó như sau: “Thiền này bị đe dọa vì gần hỉ; bất cứ cái gì trong thiền này còn quan hệ đến lạc là còn thô” (D I 37) và những thiền chi của nó bị suy yếu bởi tính thô của lạc, vị ấy có thể hướng tâm đến tứ thiền xem như an tịnh hơn, và nhờ vậy hết bám víu tam thiền và khởi sự những gì cần để đạt đến tứ thiền.

181. Khi hành giả xuất tam thiền, lạc hay nói cách khác là “tâm lạc”, có vẻ thô khi hành giả quán sát các thiền chi với chánh niệm tỉnh giác, trong khi đó xả kể như cảm thọ và nhất tâm thì có vẻ an tịnh. Rồi, khi vị ấy đưa tướng đất lên tâm trở lại nhiều lần “đất, đất” với mục đích từ bỏ pháp thô đạt đến pháp vi tế, an tịnh, biết, “nay tứ thiền sẽ khởi”, ý môn hướng tâm khởi lên có cùng đối tượng là biến xứ đất, gián đoạn hữu phần. Sau đó, 4 hoặc 5 tốc hành tâm khởi trên cùng một đối tượng ấy, tốc hành cuối cùng là thuộc về tứ thiền ở sắc giới. Những gì còn lại cũng như đã nói (đoạn 74).

182. Nhưng có sự khác biệt này: lạc thọ không phải là một duyên, kể như tập hành duyên, cho bất khổ bất lạc thọ, và sự chuẩn bị cho tứ thiền thì cần được khơi dậy bằng bất khổ bất lạc thọ, do đó, các tâm chuẩn bị này là tương ứng bất khổ bất lạc thọ và ở đây hỷ tan biến, chỉ vì tâm tương ứng với xả.

Tứ Thiền

183. Và ở điểm này “Với sự từ bỏ lạc khổ, với sự biến mất từ trước của hỷ và ưu, vị ấy chứng và trú tứ thiền không khổ không lạc, có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả” (Vibh 245). Và như vậy, hành giả đắc tứ thiền, từ bỏ một pháp, có 2 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất.

184. Với sự từ bỏ lạc và khổ: là từ bỏ lạc, khổ của thân (bodily pleasure and bodily pain). Từ trước: là không phải ở giai đoạn tứ thiền mới xảy ra. Sự biến mất của hỷ (joy) và ưu (grief): với hỷ và ưu đã biến mất trước đây nghĩa là từ bỏ cái vui và khổ của tâm (mental bliss (pleasure) and mental pain).

185. Nhưng khi nào thì sự từ bỏ những thứ này xảy ra? Ở định cận hành của cả 4 thiền. Vì hỷ của tâm chỉ được từ bỏ vào định cận hành của tứ thiền, khổ của thân, ưu của tâm và lạc của thân lần lượt được từ bỏ vào những sát-na cận hành định của sơ thiền, nhị thiền, và tam thiền. Bởi vậy mặc dù thứ tự từ bỏ không được nói đến, sự từ bỏ lạc, khổ, hỷ, ưu được nói ở đây theo thứ tự tóm tắt trong Indriya Vibhaṅga (Vibh 122).

186. Nhưng nếu những thứ này chỉ được từ bỏ vào những sát-na của định cận hành của cả 4 thiền thì tại sao sự chấm dứt (diệt) của chúng được nói là ở ngay trong thiền mới xảy đến như đoạn văn: “Và ở đâu khổ căn đã khởi được diệt tận không có dư tàn? Này các Tỷ-kheo, hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, một Tỷ-kheo chứng và trú sơ thiền... Do ly dục sanh. Chính ở đây mà khổ căn được tận diệt, không có dư tàn? Ở đâu ưu căn tận diệt, không có dư tàn? Ở nhị thiền. Ở đâu lậu căn tận diệt, không có dư tàn? Ở tam thiền. Ở đâu hỷ căn tận diệt, không có dư tàn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với sự từ bỏ lạc và khổ và với sự biến mất từ trước của hỷ, ưu, một Tỷ-kheo chứng và trú tứ thiền, có niệm được thanh tịnh nhờ xả. Chính ở đây, hỷ căn đã khởi được diệt tận không dư tàn” (S V 213-5).

Kinh văn nói như vậy là để nhấn mạnh yếu tố “diệt tận” vì ở sơ thiền v.v... Chính sự diệt tận của chúng xảy ra, không phải chỉ có diệt mà thôi. Vào giai đoạn cận hành.

187. Vào giai đoạn định thì chỉ có diệt, không phải diệt tận, xảy đến. Vì ở định cận hành sơ thiền, còn tác ý đủ thứ, nên còn có thể khởi lên khổ căn về thân do xúc chạm với ruồi muỗi... Hoặc do chỗ ngồi bất tiện, mặc dù khổ căn ấy đã chấm dứt. Nhưng ở định an chỉ thì không thế. Hoặc, khổ căn chấm dứt ở định cận hành, nhưng không tuyệt đối chấm dứt vì chưa hoàn toàn bị khuất phục bởi pháp đối lập, nhưng trong “an chỉ”, toàn thân được thấm nhuần với lạc do hỷ sung mãn và khổ căn chấm dứt nơi một người mà lạc biến mãn toàn thân vì khi ấy khổ bị khuất phục bởi pháp đối lập.

188. Ở cận hành định nhị thiền cũng thế, vì tác ý nhiều loại nên còn có thể khởi lại ưu căn ([mental] grief faculty) đã diệt, vì ưu sẽ khởi lên khi có sự mệt mỏi của thân và bực bội của tâm do tầm, tứ làm duyên. Nhưng ưu không khởi được khi tầm, tứ không có mặt. Ưu chỉ khởi khi có mặt tầm tứ và tầm tứ chưa được từ bỏ ở cận hành định nhị thiền. Nhưng ngay lúc đắc nhị thiền thì không thế, vì ở nhị thiền, các điều kiện (duyên) cho hỷ, ưu đã được từ bỏ.

189. Cũng thế, ở cận hành định của tam thiền, vẫn còn có thể có sự tái sinh khởi của lạc căn (pleasure faculty) đã được từ bỏ, bởi vì thân thể được thấm nhuần với tối thượng lạc phát sinh do tâm tương ưng với hỷ (happiness). Nhưng ở chính thiền thứ ba thì không thế, vì ở tam thiền, hỷ (happiness) vốn là duyên do thân lạc (bliss, pleasure) đã hoàn toàn chấm dứt. Tương tự như thế, ở cận hành định tứ thiền, còn có thể tái sinh khởi hỷ căn (joy faculty) đã chấm dứt, vì nó ở gần kề, và vì nó chưa bị khuất phục hoàn toàn với xả mạnh như ở định an chỉ. Nhưng ở chính tứ thiền thì không thế. Ðó là lý do những danh từ “không có dư tàn” được nói trong mỗi trường hợp (đoạn 186).

[Chú thích của người dịch: Hỷ căn (joy faculty) (somanassindriya) - là niềm hân hoan của tâm, đưa đến hỷ (happiness) (pīti) - thuộc tâm; Hỷ đưa đến khinh an, khinh an đưa đến lạc của thân]

190. Ở đây, người ta có thể hỏi vậy, nếu những thứ cảm thọ này được từ bỏ ở cận hành định, thì tại sao chúng được lặp lại ở đây? Trả lời là, chính vì để dễ dàng nắm bắt chúng. Vì cái cảm thọ “bất khổ bất lạc” (xả) (neither-pain-nor-pleasure) rất vi tế, khó nhận ra, khó nắm bắt. Vì như một người chăn bò muốn bắt một con bò ương ngạnh, khó đến gần để bắt, thì phải lùa tất cả bầy bò vào một cái chuồng và cho từng con một đi ra, nói “chính con bò kia, bắt đi”. Khi ấy có thể tóm bắt nó một cách dễ dàng. Cũng vậy, Đức Thế Tôn đã tóm thâu tất cả 5 loại cảm thọ này, để ta nắm bắt chúng dễ dàng, vì khi nêu lên từng cảm thọ trong cả nhóm như vậy, thì cái gì không phải là lạc hay khổ hay hỷ hay ưu có thể được nắm bắt: “Đây là cảm thọ không khổ không lạc”. (*)

[(*) then what is not [bodily] pleasure (bliss) or [bodily] pain or [mental] joy or [mental] grief can still be grasped in this way: “This is neither-painful-nor-pleasant feeling.”]

191. Ngoài ra, điều này nói lên để chỉ điều kiện đưa đến tâm giải thoát không khổ không lạc. Vì sự từ bỏ khổ v.v... Là điều kiện cho tâm giải thoát, như kinh dạy: “Này hiền giả, có bốn duyên (điều kiện) để đạt đến tâm giải thoát không khổ không lạc: ở đây hiền giả, với sự từ bỏ lạc, khổ, với sự biến mất từ trước của hỷ (joy) và ưu, một Tỷ-kheo chứng và trú tứ thiền... Xả niệm thanh tịnh (được niệm thanh tịnh nhờ xả)” (M I 296).

192. Hoặc có thể giải thích: Cũng như, mặc dù thân kiến v.v... đã được từ bỏ ở các giai đoạn trước đây, chúng vẫn được đề cập trở lại, khi mô tả đạo lộ dẫn đến tam thiền với mục đích giới thiệu thiền này, cũng thế, các loại cảm thọ được đề cập ở đây với mục đích giới thiệu tứ thiền. Hoặc để chứng minh rằng tham và sân rất xa vì đã hết điều kiện cho chúng khởi lên, bởi vì trong những cảm thọ này, thì lạc (bliss, pleasure) (sukha) là duyên cho hân hoan (joy), hân hoan là duyên cho tham (greed); (thân) khổ (pain) là duyên cho ưu (nỗi khổ của tâm) (grief), ưu là duyên cho sân (hate). Bởi thế, với sự từ bỏ lạc v.v... Tham và sân trở nên xa vời, vì chúng đã được từ bỏ cùng với những duyên tạo ra chúng.

193. Không khổ không lạc: Không khổ vì vắng mặt thân khổ, không lạc vì vắng mặt thân lạc. Bằng câu này, luận chủ nêu lên loại cảm thọ thứ ba trái ngược hẳn với khổ và lạc, chứ không phải chỉ có sự vắng mặt của khổ và lạc mà thôi. Loại cảm thọ thứ ba này “không khổ không lạc” còn gọi là “xả”. Nó có đặc tính là kinh nghiệm cái ngược hẳn với cả hai “đáng ưa” và “không đáng ưa” (hay đáng chán). Bản chất nó là trung tính. Tướng của nó là khó thấy rõ. Nhân gần của nó là sự chấm dứt của lạc.

194. Có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả: có sự thanh tịnh của niệm phát sinh do xả. Vì niệm trong thiền này là hoàn toàn thanh tịnh, và sự thanh tịnh của nó có được là nhờ xả, không nhờ cái gì khác. Cho nên thiền này được gọi là “có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả”. Vibhaṅga cũng nói: “Niệm này trong sáng thanh tịnh, được sáng tỏ nhờ xả” (Vibh 261). Và xả nhờ đó niệm được thanh tịnh, là loại xả có nghĩa “trung tính đặc biệt”. Và không chỉ có niệm được thanh tịnh nhờ xả, mà tất cả các pháp tương ưng cũng thế.

195. Ở đây, xả này cũng hiện hữu ở ba thiền đầu, nhưng cũng như ban ngày cũng ở trăng lưỡi liềm nhưng không trong sáng, rõ ràng vì bị ánh mặt trời che chói vì thiếu đêm tối đồng minh với đặc tính dịu dàng hỗ trợ cho trăng. Cũng vậy, mảnh trăng lưỡi liềm “xả kể như trung tính” cũng hiện hữu ở sơ thiền v.v... Nhưng không thanh tịnh vì bị che khuất bởi ánh sáng của các pháp đối nghịch: tầm tứ v.v... Và vì thiếu đêm là “xả kể như cảm thọ” làm đồng minh, và chính vì nó không thanh tịnh, mà niệm câu sanh và những pháp khác cũng không thanh tịnh, như ánh sáng không thuần tịnh của trăng lưỡi liềm vào ban ngày. Bởi vậy, không có thiền nào trong 3 thiền đầu được gọi là “có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả”.

196. Thứ tư: là thứ tự theo số, và bởi thiền này được chứng vào hàng thứ tư.

197. Từ bỏ một pháp, có được hai pháp: (đoạn 183) Từ bỏ một pháp là từ bỏ lạc (joy). Nhưng lạc (joy) ấy thực sự đã được từ bỏ trong những tốc hành tâm đầu tiên thuộc cùng một tâm lộ trình (citta-vīthi - cognitive series, đ. 185) nên lạc được gọi là pháp từ bỏ ở tứ thiền. “Có hai pháp” là xả kể như cảm thọ (equanimity as feeling) và nhất tâm (unification of mind). Những gì còn lại cũng như đã nói ở sơ thiền. Trên đây là theo cách tính có 4 thiền.

Năm Thiền

198. Nếu hành giả tu tập năm thiền, thì khi xuất sơ thiền đã quen thuộc, có thể thấy khuyết điểm của nó như sau: thiền này bị đe dọa vì gần những triền cái và những thiền chi bị suy yếu vì tính thô của tầm. Vị ấy hướng tâm đến nhị thiền xem là an tịnh hơn, để chấm dứt bám víu vào sơ thiền, và làm những gì cần thiết để đắc nhị thiền.

199. Bây giờ, hành giả xuất sơ thiền với chánh niệm, hoàn toàn tỉnh giác, và chỉ thấy tầm là thô khi quán sát các thiền chi, nhưng tứ v.v... Thì có vẻ an tịnh. Khi hành giả đưa tướng “đất, đất” lên tâm với ý định từ bỏ pháp thô, đạt đến pháp tế, nhị thiền khởi lên theo cách đã nói. Pháp từ bỏ ở nhị thiền chỉ là tầm. Bốn thiền chi: tứ, hỷ, lạc, nhất tâm là những gì thiền này đã đạt được. Những gì còn lại cũng như đã nói.

200. Khi đã đắc nhị thiền, làm chủ năm pháp, thì lúc xuất nhị thiền, hành giả thấy những khuyết điểm của nó như sau: nó bị đe dọa vì gần tứ, và các thiền chi suy yếu vì tính thô của tứ. Hành giả có thể hướng tâm đến tam thiền xem như an tịnh hơn, và nhờ vậy, hết bám víu nhị thiền, khởi sự làm những gì cần thiết để đắc tam thiền.

201. Hành giả xuất nhị thiền với chánh niệm tỉnh giác, quán sát thiền chi và thấy tứ là thô, còn hỷ, lạc, nhất tâm thì có vẻ an tịnh. Vị ấy đưa tướng “đất, đất” lên tâm nhiều lần với mục đích từ bỏ pháp thô, đạt đến pháp vi tế, và Tam thiền khởi lên theo cách đã nói. Yếu tố (pháp) từ bỏ ở đây chỉ là tứ. Ba thiền chi hỷ, lạcnhất tâm là những pháp mà thiền này có được, như nhị thiền trong hệ thống 4 thiền. Những gì còn lại như đã nói.

202. Vậy, thiền thứ hai trong bốn thiền trở thành thiền thứ hai và ba trong năm thiền bằng cách chia nhị thiền (của 4 thiền) làm hai. Và thiền thứ ba trong 4 thiền trở thành thiền thứ tư trong năm thiền, tứ thiền ở 4 thiền thành ngũ thiền ở năm thiền. Sơ thiền thì vẫn là sơ thiền ở cả hai hệ thống.

Chương bốn, “Ðịnh: Biến xứ Ðất” trong luận về Ðịnh tu tập, trong Thanh tịnh Ðạo, được soạn vì mục đích làm cho người lành hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương V
Ðịnh: Những Kasiṇa Khác

(Sesa-kasiṇa-niddesa)

---

Kasiṇa Nước

1. Người tu tập về biến xứ này, cũng như trong trường hợp biến xứ đất, cần có thể ngồi thoải mái và nắm lấy tướng nước hoặc được tạo hoặc không được tạo. Những gì còn lại cũng như đã nói ở phần kasiṇa đất. Từ đây chỉ nêu lên những gì khác biệt.

2. Khi một người đã thực hành ở đời trước, thì tướng hiện ra cho vị ấy về nước không cần tạo tác, như một cái ao hồ, vịnh, đại dương... Như trường hợp trưởng lão Cūḷa-Sīva. Vị trưởng lão muốn từ bỏ danh xưng lợi dưỡng để sống đời viễn ly. Ngài xuống tàu ở Mahātittha đi Ấn độ. Khi ngắm nhìn biển khơi, tợ tướng của biển ấy hiện lên nơi ngài.

3. Người chưa tu tập đời trước, thì phải làm một kasiṇa, đề phòng bốn lỗi của Kasiṇa (Ch. IV, 24) và đừng nắm lấy tướng nước kế như màu sắc. Hành giả nên lấy một cái bát đựng nước cao độ bốn gang tay, đổ đầy ngang miệng các thứ nước không bị dơ vì đất, như nước hứng giữa trời qua một tấm vải lọc, hoặc bất cứ loại nước trong nào. Hành giả nên để nó ở một nơi kín đáo, khuất nẻo trong tu viện, và ngồi cho thoải mái. Không nên quán màu sắc hay để ý đến đặc tính của nước, mà chỉ nắm lấy màu sắc kể như nền tảng vật lý của nó, và chú tâm trên khái niệm danh từ làm tâm pháp trội nhất, và sử dụng bất cứ danh từ nào chỉ “nước” như āpo, ambu (mưa), udaka (chất lỏng), vāri (sương), salila (chất lỏng) v.v... Vị ấy nên khai triển biến xứ nước bằng cách dùng cái tên rõ rệt nhất (cho mình) như “nước, nước”.

4. Khi hành giả tu tập cách ấy cuối cùng, 2 tướng sẽ khởi lên như đã nói. Tuy nhiên, ở trường hợp này, sơ tướng có vẻ di động. Nếu nước có bọt hay bong bóng, thì sơ tướng cũng có tướng y hệt. Nhưng tợ tướng thì hiện ra bất động như cái quạt lớn bằng pha lê giữa hư không, như một mặt gương tròn. Khi tướng ấy xuất hiện, hành giả đạt đến định cận hành, và định an chỉ thuộc tứ thiền, ngũ thiền theo cách đã mô tả.

Kasiṇa Lửa

5. Người muốn tu tập kasiṇa lửa cần nắm lấy tướng lửa. Khi hành giả đã tu tập từ đời trước, thì tướng sinh khởi trong bất cứ loại lửa nào không cần tạo tác, như khi nhìn tim bấc cháy nơi ngọn đèn hay nơi một hỏa lò, nơi chỗ nung chén bát, hay nơi một đám cháy rừng, như trường hợp trưởng lão Cittagutta. Tướng khởi lên nơi trưởng lão khi ngài nhìn ngọn đèn trong ngôi nhà làm lễ bố tát.

6. Còn những người khác thì phải làm một kasiṇa lửa như sau: Chẻ một miếng gỗ giữa lõm cây còn ướt, phơi khô và bẻ ra từng khúc. Hành giả nên đi đến một gốc cây hay một túp lều, làm một đống củi như người ta làm để nung chén, và thắp lửa. Trước ngọn lửa, treo một tấm thảm bằng da hay vải, ở giữa khoét một lỗ trống tròn đường kính một gang bốn ngón, rồi ngồi xuống như đã nói. Thay vì chú ý đến cỏ, củi ở dưới, hoặc khói ở trên, hành giả phải nắm lấy tướng nơi ngọn lửa rực sáng ở giữa.

7. Hành giả không nên quán sát màu sắc v.v... Hay đặc tính của lửa như nóng v.v... Mà xem màu sắc như nền tảng vật lý của lửa, và chú tâm trên khái niệm danh từ làm tâm pháp trổi nhất, rồi khai triển biến xứ lửa bằng cách sử dụng danh từ rõ nhất “lửa, lửa”.

8. Khi tu tập cách ấy, cuối cùng hai tướng khởi lên như đã mô tả. Ở đây, sơ tướng xuất hiện như ngọn lửa tách rời (khỏi chất đốt). Nhưng khi một người nắm lấy tướng nơi một kasiṇa cũng hiển lộ nơi sơ tướng: một que lửa, hay một đống than hồng, tro, khói... đều hiện ra. Tợ tướng thì bất động như một mảnh vải nhỏ đặt giữa hư không, như một cái quạt bằng vàng, hay một cột trụ bằng vàng ròng. Với sự xuất hiện của tợ tướng, hành giả đạt đến định cận hành và định an chỉ thuộc tứ thiền, ngũ thiền như đã nói.

Kasiṇa Hư Không

9. Người muốn tu tập biến xứ này, phải nắm lấy tướng hư không. Việc ấy được thực hiện bằng mắt hoặc bằng tay sờ. Vì luận nói: “Hành giả để ý những đọt mía di động qua lại, hoặc những ngọn tre, ngọn cây, hay đầu sợi tóc di động. Hoặc để ý sự xúc chạm của gió trên cơ thể”.

10. Bởi thế, khi thấy những cây mía rậm rạp, ngọn ngang nhau, hoặc những cây tre, hay thấy tóc dài bằng 4 ngón tay ở đầu người bị gió thổi, hành giả nên an trú niệm: “Gió đang thổi ở chỗ này”. Hoặc vị ấy có thể an trú niệm khi gió thổi đến một thân phần của mình sau khi luồn qua cửa sổ hay khe hở trong tường, và dùng bất cứ tên nào chỉ gió rõ nhất, như “hư không, hư không”.

11. Ở đây, sơ tướng hiện ra di động, như hơi nóng quyện trên cơm sôi. Tợ tướng thì an tĩnh và bất động. Những gì còn lại cũng như đã nói.

Kasiṇa Xanh

12. Kế tiếp, Luận nói: “Người học kasiṇa xanh nắm lấy tướng màu xanh nơi một cái hoa, một tấm vải hay vật có màu xanh. Người nào đã thực hành từ tiền kiếp, tướng khởi lên nơi vị ấy khi thấy một bụi hoa xanh, hoặc hoa được bày ở chỗ dâng cúng, hoặc thấy một mảnh vải xanh hay viên ngọc xanh.

13. Người chưa từng tu tập thì phải dùng hoa như hoa sen xanh v.v... rải đầy mâm hay rỗ cạn (flat basket), đừng để lòi cọng ra, hoặc chỉ lấy cánh hoa. Hoặc dùng những mảnh vải xanh bó lại để đầy rỗ như một cái mặt trống. Có thể làm kasiṇa bằng một cái dĩa tròn để mang theo hay cố định, như đã nói ở kasiṇa đất, bằng một trong những màu lục, xanh lá cây v.v... viền quanh bằng một màu khác. Rồi hành giả nên để tâm trên tướng ấy “xanh, xanh”, như đã nói trong phần biến xứ đất.

Ở đây cũng thế, bất cứ lỗi nào của kasiṇa cũng sẽ nổi bật ở sơ tướng, như những cọng hoa lòi ra, khe hở giữa các cánh hoa v.v... đều hiện rõ. Còn tợ tướng thì xuất hiện như một cái quạt pha lê giữa hư không, tách rời khỏi dĩa kasiṇa.

Kasiṇa Vàng

15. Cũng thế, với biến xứ màu vàng, luận nói: “Người học kasiṇa vàng nắm lấy cái tướng màu vàng nơi một cái hoa hay vải hay một vật có màu vàng”. Bởi thế ở đây, một người đã có công đức nhờ thực tập đời trước, tướng xuất hiện cho y khi nhìn một bụi hoa, một miếng vải hay một vật có màu vàng, như trường hợp trưởng lão Cittagutta, khi ông nhìn những hoa pattaṅga được dâng cúng trên điện thờ ở Cittalapabbata. Vừa lúc ấy, tướng xuất hiện cho vị ấy với hình vóc cả một cái bàn thờ.

16. Những người khác thì phải làm một kasiṇa theo cách đã nói ở kasiṇa xanh, nghĩa là với hoa màu vàng, vải vàng hay vật gì có màu ấy, và để tâm trên tướng là “vàng, vàng”.

Kasiṇa Màu Ðỏ

17. Cũng thế, với kasiṇa đỏ: “Người học kasiṇa đỏ nắm lấy tướng màu đỏ nơi một cái hoa, mảnh vải hay một vật có màu đỏ”. Ở đây cũng vậy, người nào đã từng tu tập đời trước, tướng khởi lên khi trông thấy một bụi hoa đỏ, hoặc hoa được rải ra, hoặc thấy một mảnh vải đỏ hay ngọc màu đỏ.

18. Những người khác cần phải làm một kasiṇa như đã nói, và để tâm trên tướng ấy “đỏ, đỏ”. Những gì còn lại cũng như đã nói ở phần biến xứ đất.

Kasiṇa Trắng

19. Về kasiṇa trắng, luận nói: “Người học kasiṇa trắng nắm lấy tướng màu trắng nơi một cái hoa, mảnh vải hay vật màu trắng”. Người đã thực hành đời trước, thấy tướng xuất hiện khi nhìn một bụi hoa lài, sen trắng, huệ trắng, vải, vật gì trắng, hoặc nơi cái dĩa bằng thiếc, bằng bạc, hoặc mặt trăng.

20. Còn những người khác thì phải làm một kasiṇa theo cách đã nói ở phần làm kasiṇa xanh, bằng cách dùng hoa trắng v.v... Hành giả đưa tướng ấy lên tâm tưởng “trắng, trắng”. Còn lại cũng như đã nói.

Kasiṇa Ánh Sáng

21. Người học kasiṇa ánh sáng nắm lấy tướng ánh sáng nơi một cái lỗ trong vách tường, hay nơi lỗ khóa, hay nơi cửa sổ mở. Một người đã thực hành đời trước, thì tướng khởi lên khi thấy một vòng sáng trên đất do mặt trời mặt trăng chiếu, xuyên qua kẽ lá hay qua kẽ hở của gian nhà lá. Những người khác thì phải sử dụng một vòng tròn ánh sáng và khai triển nó theo cách đã nói trên: “sáng, sáng”.

22. Hoặc là thắp một ngọn đèn trong cái bình, đậy nắp và khoét một lỗ bên hông, để lỗ hổng đối diện vách tường, ánh đèn xuyên qua lỗ hổng chiếu lên vách một vòng tròn, hành giả khai triển tướng ấy bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần: “sáng, sáng”. Việc này kéo dài lâu hơn nhứng thứ khác. Ở đây, sơ tướng giống như vòng tròn chiếu trên vách hay trên đất.

23. Tợ tướng thì như một chòm ánh sáng dày đặc. Những gì còn lại cũng như đã nói.

Kasiṇa Khoảng Không Có Giới Hạn

24. Người học kasiṇa này nắm lấy tướng nơi một lỗ hổng trong vách, nơi ổ khóa hay cửa sổ mở. Với người đã từng thực hành đời trước, tướng khởi lên khi vị ấy trông thấy bất cứ một khe hở nào, như nơi lỗ tường.

25. Những người khác thì phải làm một lỗ hổng rộng một gang bốn ngón, trong một cái chòi hoặc nơi một miếng da, một chiếc chiếu v.v... Và tu tập: “hư không, hư không”.

26. Ở đây, sơ tướng hiện ra giống như cái lỗ cùng với vách tường vây quanh. Nỗ lực nới rộng tướng ấy đều vô ích. Tợ tướng như một vòng tròn bằng hư không. Nỗ lực để nới rộng tướng ấy sẽ thành công. Những gì còn lại thì như đã nói.

Tổng Quát

27. Ðấng Mười lực, Bậc thầy tất cả nói mười biến xứ, mỗi thứ đều có thể làm nhân cho bốn thiền và năm thiền. Là chìa khóa chủ chốt của sắc giới. Sau khi đã rõ sự mô tả chúng, và cách tu tập mỗi biến xứ, cách mở rộng. Bấy giờ còn lại vài điểm đáng học tập. Mỗi điểm có một vai trò đặc biệt.

28. Trong những biến xứ này, thì kasiṇa đất là căn bản cho những thần thông: “Một thân biến ra nhiều thân? (D I 78) v.v... Và đi, đứng, ngồi giữa hư không hay trên nước bằng cách tạo ra đất, và năng lực có được những thắng xứ (abhibhāyatana - bases of mastery) bằng phương pháp hữu hạn hay vô hạn (M II 13).

29. Kasiṇa nước là căn bản cho những thần thông như độn thổ, chui ra khỏi đất (D I 78), làm mưa, tạo ra sông, biển, làm cho quả đất, núi đá, đền đài rung chuyển (M I 273).

30. Kasiṇa lửa là căn bản cho những năng lực như làm ra khói, ra lửa, chỉ đốt cháy những gì mình muốn đốt, (S IV 290), tạo ra ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn, dùng hỏa đại đốt thân khi nhập Niết Bàn.

31. Kasiṇa gió là căn bản cho những thần thông như đi nhanh như gió, tạo ra những trận cuồng phong.

32. Kasiṇa xanh là căn bản cho những thần thông như tạo ra những hình thù màu đen, bóng tối, đạt được những thắng xứ nhờ phương pháp đẹp và xấu, và đạt đến giải thoát nhờ sắc (xem tám Giải thoát, D II 12).

33. Kasiṇa vàng là căn bản cho những thần thông như tạo ra hình tướng màu vàng, biến cái gì thành vàng ròng, đạt những thắng xứ và giải thoát nhờ sắc.

34. Kasiṇa đỏ là căn bản cho những thần thông như tạo ra những hình tướng màu đỏ, đạt những thắng xứ và giải thoát nhờ sắc.

35. Kasiṇa trắng là căn bản cho những thần thông như tạo những hình dạng màu trắng, trừ hôm trầm thụy miên (ngủ ngục), xua tan bóng tối, tạo ra ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn.

36. Kasiṇa ánh sáng là căn bản cho những thần thông như tạo những hình dạng có ánh sáng, trừ hôn trầm thụy miên, xua tan bóng tối, tạo ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn.

37. Kasiṇa hư không là căn bản cho những thần thông như làm hiện ra những gì bị che kín, đi đứng nằm ngồi trong đất hay đá nhờ tạo ra hư không trong đó, du hành xuyên qua tường vách không trở ngại v.v...

38. Sự xếp loại “trên, dưới, xung quanh thuần nhất, vô lượng” áp dụng cho tất cả các kasiṇa, như kinh (M II 14) nói “Vị ấy thấy đất kasiṇa đất ở trên, dưới, xung quanh, toàn đất vô lượng”.

39. “Trên” là hướng về vòm trời. “Dưới” là hướng mặt đất. Xung quanh là vây quanh như bán kính một thửa ruộng. Vì có người chỉ khai triển kasiṇa về phía trên, có người chỉ mở rộng phía dưới, hoặc xung quanh, hoặc có người vì một lý do nào đó, chỉ chiếu ra kasiṇa như khi người ta muốn nhìn một sắc pháp với thiên nhãn, chiếu ra ánh sáng. Thuần nhất (toàn) là không xen những gì khác. Như với một người ở trong nước, thì tứ phía chỉ là nước không gì khác, cũng thế, kasiṇa đất chỉ toàn là không dính đến những thứ khác. Vô lượng là sự chú tâm vô lượng. Hành giả chú tâm nơi toàn thể, không đo lường như “đây là đầu, đây là giữa”.

40. Một hữu tình thuộc loại sau đây không thể tu tập biến xứ nào cả: “Bị nghiệp làm chướng ngại, bị phiền não chướng ngại, bị nghiệp dị thục (quả báo của nghiệp) làm chướng ngại, thiếu đức tin, dục, tuệ, những kẻ ấy sẽ không thể nhập được quyết định tánh là sự chân chánh trong các thiện pháp” (Vibh 341).

41. “Nghiệp chướng” là nói những người có ác nghiệp kéo theo quả báo tức thì (lúc tái sinh, nghĩa là năm nghiệp ác: theo thứ tự ưu tiên: giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm chảy máu thân Phật và phá hòa hợp tăng - cả năm nghiệp này sẽ khiến vào địa ngục sau khi chết, và ở đây suốt một thời gian dài, bất kể đương sự có làm nghiệp gì khác (MA IV 109)). “Phiền não chướng” chỉ cho hạng người có tà kiến (bác nhân quả, chấp rằng không có bố thí và quả báo bố thí v.v... - D I 2) hạng phi nam phi nữ, hạng không có nam căn. Báo chướng chỉ cho hạng người có một kiết sanh không có thiện căn hoặc chỉ có hai thiện căn. Thiếu đức tin là không tin Phật, Pháp, Tăng. Thiếu dục: thiếu lòng ham muốn đối với Ðạo lộ vô ngại. Thiếu tuệ là thiếu chánh kiến thế gian và xuất thế gian. Không thể nhập được tánh quyết định là sự chân chánh của thiện pháp: nghĩa là Thánh đạo, được gọi là “tánh quyết định” và “sự chân chánh của thiện pháp”.

42. Người thuộc loại trên lại còn không thể tu tập bất cứ đề mục thiền nào. Bởi thế, việc tu thiền phải được thực hiện bởi một thiện nam tử không bị báo chướng, tránh gây phiền não chướng và nghiệp chướng, nuôi lớn đức tin, dục và tuệ, bằng sự nghe pháp, gần gũi bạn tốt v.v...

Chương năm, “Ðịnh: Những Kasiṇa Khác” trong luận về Ðịnh tu tập, trong Thanh tịnh Ðạo, được soạn vì mục đích làm cho người lành hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương VI
Ðịnh Bất Tịnh Quán

(Asubha-kammaṭṭhāna-niddesa)

----

Ðịnh Nghĩa Tổng Quát

1. Mười thứ bất tịnh nơi thây chết không còn thần thức, đã được kể ra sau những biến xứ, đó là: tướng phình trương, tướng xanh bầm, tướng máu mủ, tướng bị nứt ra, bị gặm khới, bị rã rời, bị phân tán, bị chảy máu, bị trùng ăn và tướng bộ xương (Ch. III, 105).

Tướng phình trương: Thây bị trướng (uddhumāta) vì dần dần nở ra, phồng lên sau khi chết, như một cái ống bệ bị gió thổ vào. Thây bị trướng trông ghê tởm, đấy là một từ để chỉ thây chết trong trạng thái ấy.

2. Tướng bầm xanh: (vinīla) là có từng chỗ bị biến đổi màu sắc trên thân thể. Cái gì xanh bầm thì xấu xí trông ghê tởm, nên gọi là tướng xanh bầm (vinīlaka). Ðấy là danh từ chỉ thây chết có những chỗ lốm đốm đỏ do thịt bị lòi ra và những chỗ lốm đốm trắng do mủ tích tụ lại, nhưng phần lớn thì màu xanh đen, như thể được đắp bằng một tấm vải màu xanh đen ở những chỗ có màu ấy.

3. Thây chảy mủ: Ở những nơi bị nứt ra trên thân, mủ chảy ra gọi là “cái ra mủ” (vipubbaka). Hoặc cái gì chảy mủ (vipubba) là xấu (kucchita) vì ghê tởm, nên gọi là tướng chảy mủ. Ðây là danh từ chỉ thây chết trong trạng thái ấy.

4. Tướng nứt ra: bị mở ra bằng cách cắt làm hai gọi là nứt (vicchidda). Cái gì bị nứt gọi là tướng nứt ra (vicchiddata). Hoặc cái gì nứt nẻ là xấu, vì ghê tởm, nên gọi là tướng nứt nẻ, đây là một danh từ chỉ thây chết bị nứt ra ở chặn giữa.

5. Tướng bị gặm khới: bị chó, chồn v.v... ăn ở chỗ này chỗ kia bằng nhiều cách, gọi là bị gặm khới (vikkhāyita). Hoặc, cái gì bị gặm là xấu vì ghê tởm, nên gọi là tướng gặm khới. Ðây là một danh từ chỉ thây chết trong trạng thái ấy.

6. Tướng rã rời: cái gì bị tung tóe khắp nơi gọi là rã rời (vikkhittaṃ). Cái gì rã rời gọi là tướng rã rời (vikkhittaka). Hoặc cái gì là rã rời là xấu, vì ghê tởm, nên gọi là tướng rã rời. Ðây là danh từ chỉ một thây chết bị tan rã ở chỗ này chỗ kia theo kiểu “chỗ này một bàn tay, chỗ kia một bàn chân, chỗ nọ cái đầu” (xem M I 58).

7. Tướng phân tán rã rời: thây bị chẻ ra, bị rã rời theo cách đã nói, nên gọi là tướng phân tán rã rời (hata-vikkhittaka). Ðây là danh từ chỉ thây chết bị rã rời theo cách đã nói sau khi bị bổ ra với một con dao làm thức ăn cho chim quạ.

8. Tướng máu chảy: thây rỉ máu ra, vãi máu ra khắp nơi, gọi là tướng chảy máu (lohitaka). Ðây là danh từ chỉ thây chết đầy những vết máu rỉ ra.

9. Tướng trùng ăn: Những con dòi gọi là trùng (puḷuva), thây lúc nhúc những dòi gọi là tướng trùng ăn. Ðây là danh từ chỉ 1 thây chết đầy những dòi.

10. Tướng bộ xương: “aṭṭhika” là danh từ chỉ một cái xương hoặc cả bộ xương.

11. Những tên kể trên cũng dùng làm cho cả hai trường hợp: tướng khởi lên do sự phình trương v.v... Làm nền tảng và thiền đắc được do những tướng ấy.

Tướng Phình Trương

12. Ở đây, khi một thiền giả muốn tu tập thiền gọi là thiền về tướng phình trương, bằng cách khởi lên tướng ấy nơi một thây chết bị trướng, thì cần phải đến gần một bậc thầy theo cách đã mô tả ở phần kasiṇa đất, và học đề mục thiền từ nơi vị ấy. Khi giảng đề tài thiền quán cho học trò, vị thầy phải giải thích tất cả mọi sự, nghĩa là những hướng để đi với mục đích đạt được tướng bất tịnh nói rõ tính chất những tướng chung quanh, 11 cách để nắm lấy tướng, quán sát con đường đi và đến, và kết thúc bằng cách chỉ dẫn về sự đắc định. Khi hành giả đã học kỹ, thì nên đi đến một trú xứ thuộc loại đã mô tả mà sống ở đấy trong khi tìm tướng phình trương khởi lên.

13. Trong lúc đó, nếu nghe mọi người bảo ở cổng làng nào đó, trên con đường nào đó, ở bìa rừng nào đó, hoặc ở dưới tảng đá hay gốc cây nào đó hay trên bãi tha ma nào đó, có một tử thi phình trướng đang nằm, thì hành giả không được đi đến đó ngay, như người nhảy xuống sông tại chỗ không có bến.

14. Vì tướng bất tịnh ấy bị đoanh vây bởi dã thú và phi nhân, và hành giả có thể gặp nguy hiểm cho tánh mạng tại đấy. Hoặc có thể rằng con đường đi đến chỗ ấy có qua một cổng làng hay một hồ tắm hay một đồng ruộng đang được dẫn nước, ở đây hành giả có thể gặp một sắc pháp thuộc người khác phái đập vào mắt. Hoặc có thể thây chết ấy là của một người khác phái, vì một thi thể phụ nữ thì không thích hợp cho một hành giả phái nam, và ngược lại. Nếu là thây mới chết, nó còn có thể trông đẹp nữa là khác, do đó có thể nguy hiểm cho đời sống phạm hạnh. Nhưng nếu hành giả tự xét rằng: “Ðiều này không khó đối với ta” thì cứ việc đi đến đây.

15. Và khi đi, hành giả phải nói với vị thượng tọa của tăng đoàn, hoặc với một Tỷ-kheo có tiếng tăm.

16. Tại sao? Vì nếu tại nghĩa địa, hành giả bỗng phát run lên cả tứ chi, hoặc cổ họng nôn oẹ lên khi hành giả chạm xúc với những đối tượng khó chịu như những hình tướng và âm thanh của phi nhân, sư tử, cọp v.v... Hoặc một cái gì khác xúc não hành giả, thì người mà hành giả đã chào sẽ coi sóc dùm y bát cho hành giả ở chùa, hoặc cho những Tỷ-kheo trẻ hay người tập sự đến nơi hành giả.

17. Ngoài ra, một nghĩa địa là nơi kẻ cướp có thể tụ họp vì cho rằng đó là nơi an toàn cho chúng. Khi người ta đuổi bắt kẻ trộm, chúng có thể để rơi những đồ vật gần vị Tỷ-kheo rồi chạy trốn. Người ta có thể tóm lấy Tỷ-kheo, nghĩ rằng đã bắt được kẻ trộm với tang vật, và làm cho vị ấy khốn đốn. Khi ấy vị thượng tọa ở chùa sẽ giải thích cho mọi người biết, bảo rằng “Ðừng quấy rầy vị ấy, ông ta đã bảo cho tôi biết trước khi đi đến chỗ ấy để làm công việc đặc biệt này” Và vị trưởng lão sẽ cứu nguy cho Tỷ-kheo. Ðây là lợi ích của sự ra đi có báo cho một người nào biết.

18. Bởi thế, hành giả nên thông báo cho một vị Tỷ-kheo thuộc loại đã nói trên, rồi ra đi mong mỏi trông thấy tướng ấy, tâm hân hoan như một vị tướng sĩ dòng Sát-đế-lỵ (Khattiya) trên đường đi đến nơi làm lễ tấn phong, như người đi dâng lễ ở một đài tế lễ, hay như một người nghèo trên đường đến chỗ khai quật kho tàng giấu kín.

19. Và hành giả nên đi đến đó với cách mà các Luận đã khuyến cáo như sau: “Một người đang học tướng thi thể phình trướng đi một mình không bầu bạn, với chánh niệm đã an trú không gián đoạn, với các căn môn xoay vào trong, tâm không hướng ngoại, quán sát con đường đi và về. Tại chỗ có tướng thây phình trướng được đặt, hành giả chú ý mọi tảng đá hay ổ kiến hay cây, bụi cây, dây leo... ở đấy với đặc điểm của chúng và để ý đến từng vật trong tương quan với đối tượng quán bất tịnh kia. Khi đã làm xong điều này, hành giả nhận định tính chất của tướng tử thi đang phình trướng bằng sự kiện nó đã đạt đến tính chất đặc biệt ấy (xem đ. 14). Ðoạn hành giả thấy rằng tướng được nắm lấy một cách thích đáng, được ghi nhớ thích đáng, được định nghĩa thích đáng bằng màu sắc của nó, bằng phương hướng của nó, bằng giới hạn của nó, bằng những chỗ lồi của nó, bằng những chỗ lõm của nó và tất cả xung quanh.

20. Sau khi đã nhận định đúng mức tướng ấy, ghi nhớ đúng, định nghĩa đúng, hành giả đi một mình không bầu bạn, với chánh niệm đã an trú không gián đoạn, các căn xoay vào trong, tâm không hướng ngoại, xem xét con đường đi và đến, khi đi hành giả quyết định rằng bước đi của mình đang hướng về tướng ấy, khi ngồi, hành giả soạn một chỗ ngồi hướng về tướng ấy.

21. Mục đích, lợi ích của sự định rõ tính chất những vật xung quanh là gì? Có mục đích là khỏi bị lừa dối (ảo tưởng). Nắm lấy tướng theo mười một cách kia có mục đích gì? có lợi gì? Nắm lấy tướng theo mười một cách có mục đích là buộc tâm lại một chỗ, có lợi ích là buộc tâm lại một chỗ. Xem xét con đường đi và đến có mục đích gì? có lợi ích gì? Có mục đích là theo dõi tâm, có lợi ích là theo dõi tâm.

22. Khi hành giả đã an trú niềm kính trọng đối với đối tượng do thấy lợi ích của nó và do xem nó như một kho tàng và yêu mến nó, hành giả giữ tâm trên đối tượng ấy: “Chắc chắn bằng cách này ta sẽ thoát khỏi già chết”. Hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp hành giả chứng và trú sơ thiền... Do viễn ly sanh. Hành giả đã đắc sơ thiền thuộc sắc giới. Chỗ trú của hành giả là một phạm trú, và đó là trường hợp điển hình của công đức tu tập thiền.

23. Bởi thế nếu hành giả đến nghĩa địa để trắc nghiệm tình trạng điều phục tâm của mình, thì nên đánh chuông triệu tập tăng chúng lại trước khi đi. Nếu đi cốt để tu tập đề mục quán tưởng, thì nên đi một mình không bạn, không từ bỏ đề mục căn bản của mình và luôn duy trì nó trong tâm mạng theo một cái gậy để tránh chó dữ v.v... Bảo đảm chánh niệm trong gián đoạn bằng cách khéo an trú nó, với tâm không hướng ngoại, vì đã chắc chắn rằng các căn với ý căn là thứ 6, đều hướng vào trong.

24. Khi ra khỏi tu viện, hành giả nên chú ý cái cổng; “Ta đã đi ra hướng ấy, do cổng ấy”. Sau đó hành giả nên định rõ con đường mình đi: “Con đường này đi về hướng Đông... Tây... Bắc... Nam...” hoặc “Con đường đi về một hướng trung gian” và “ở chỗ này, con đường đi về tay trái, chỗ này nó đã rẽ tay phải” và “Chỗ này có một tảng đá, chỗ này một tổ kiến, chỗ này một cây lớn, chỗ này một bụi cây, chỗ này một cây leo”. Hành giả nên đi đến nơi có tướng bất tịnh, trong khi đi định rõ con đường mình đi bằng cách ấy.

25. Và hành giả không nên đến gần nơi ấy theo chiều gió thổi, vì làm như vậy, mùi thối của tử thi tạt vào mũi, hành giả có thể bị đảo lộn óc não, hay thổ đồ ăn ra, hoặc hối hận vì đã đến, nghĩ rằng: “Ôi, thật là một nơi để tử thi ghê gớm, ta đã gặp phải” Bởi thế thay vì đền gần nơi ấy theo chiều gió, hành giả nên đi ngược chiều gió. Nếu hành giả không thể đi bằng một con lộ ở dưới chiều gió. Vì có chướng ngại vật - thì nên bịt lỗ mũi lại với chéo y mà đi. Ðấy là những phận sự trong lúc đi.

26. Khi hành giả đã đến nơi bằng cách ấy, không nên nhìn ngay vào tướng bất tịnh, mà nên định rõ phương hướng. Vì nếu đứng ở một hướng nào đó, thì đối tượng hiện ra không rõ ràng cho hành giả, và tâm hành giả không được dễ sử dụng. Bởi thế, hành giả nên đứng chỗ nào đối tượng hiện ra rõ nhất, tâm sẵn sàng nhất. Và hành giả cũng không được đứng ở chỗ ngược gió hay chỗ theo chiều gió của tử thi. Vì nếu đứng chỗ ngược gió thì bị mùi thối của tử thi quấy rối tâm hành giả, còn nếu đứng chỗ xuôi gió thì có phi nhân ở đấy, hành giả có thể bị chơi xấu vì phi nhân tức giận. Bởi thế, nên xoay chuyển một chút và đừng đứng hoàn toàn theo chiều gió.

27. Cũng không được đứng quá xa hay quá gần, hay đứng quá gần phía đầu hay phía chân. Ðứng quá xa thì đối tượng không thể được trông rõ. Ðứng quá gần thì hành giả có thể đâm sợ hãi. Nếu đứng ngay phía đầu hoặc phía chân, thì tướng bất tịnh không hiện rõ cho hành giả một cách đồng đều toàn diện. Bởi thế, hành giả nên đứng đối diện với khoảng giữa tử thi ở một nơi thuận tiện để nhìn.

28. Rồi hành giả nên nhận định những đặc tính của các tướng xung quanh theo cách đã nói, như “Tại chỗ tướng tử thi phình trương được đặt, vị ấy chú ý có tảng đá... Hay dây leo với tướng của nó”.

29. Sau đây là những chỉ dẫn để định tính chất của chúng. Nếu có một tảng đá nằm trong tầm mắt cạnh tướng bất tịnh, hành giả nên nhận rõ nó như thế này: “Tảng đá này cao hay thấp, nhỏ hay lớn, màu nâu hay đen hay trắng, dài hay tròn”. Sau đó hành giả nên quan sát những vị trí tương quan như sau: “Tại chỗ này đây là tảng đá, đây là tướng bất tịnh, đây là tướng bất tịnh, đây là tảng đá”.

30. Nếu có một tổ kiến, hành giả nên nhận rõ nó như sau: “Cái này cao hay thấp, nhỏ hay lớn, nâu hay đen hay trắng, dài hay tròn”. Sau đó hành giả hãy quan sát những vị trí tương quan như sau: “Tại chỗ này, đây là tổ kiến, đây là tướng bất tịnh”.

31. Nếu có một cái cây, hành giả nên định nó như sau: “Ðây là một cây bằng hay cây kacchaka hay cây táo (kapittha), cao hay thấp, nhỏ hay lớn, đen hay trắng”. Sau đó nên quan sát những vị trí tương quan như: “Tại chỗ này, đây là cây, đây là tướng bất tịnh”.

32. Nếu có một bụi cây, hành giả nên định rõ nó... ( như trên).

33. Nếu có một cây leo, hành giả nên định rõ nó như sau: “Ðây là một cây bí rợ hay một cây bầu hay một cây leo màu nâu hay màu đen hay một cây leo hôi thối”. Sau đó nên quan sát những vị trí tương quan như sau: “Tại chỗ này, đây là một cây leo, đây là tướng bất tịnh; đây là tướng bất tịnh, đây là cây leo”.

34. Lại còn với tướng đặc biệt của nó và trong tương quan với đối tượng quán (đ.19): điều này đã được bao gồm trong những gì được nói ở trên, bởi hành giả “định tính nó do tướng đặc biệt của nó”, khi vị ấy định rõ như vậy nhiều lần, và “định rõ nó trong tương quan với đối tượng” là khi hành giả định rõ bằng cách phối hợp từng đôi một như “đây là tảng đá, đây là tướng bất tịnh; đây là tướng bất tịnh, đây là tảng đá”.

35. Sau khi đã làm như vậy, hành giả lại phải để ý cái sự kiện rằng tướng ấy có một bản chất đặc biệt, có trạng thái riêng của nó là bị phình trương, một tướng không chung cùng với bất cứ gì khác, vì đã được nói “vị ấy định rõ nó bằng sự kiện rằng nó đã đạt đến tính chất đặc biệt kia”. Có nghĩa rằng tướng bất tịnh nên được định rõ tùy theo tính chất cá biệt của nó theo bất chất riêng của nó, đó là “cái phình ra (vaṇita - inflated), cái trương ra”.

Sau khi định rõ nó như vậy, hành giả nên nắm lấy tướng theo 6 cách dưới đây, nghĩa là (1) theo màu sắc của nó, (2) theo đặc điểm của nó, (3) theo hình dáng, (4) phương hướng, (5) định xứ, (6) giới hạn của nó. Bằng cách nào?

36. (1) Hành giả nên định rõ tướng theo màu sắc như: “Ðây là tử thi của một người có da đen, da trắng hay da vàng”.

37. (2) Thay vì định rõ tướng do đặc điểm đàn bà hay đàn ông, hành giả nên định rõ theo đặc điểm của nó như: “Ðây là thi thể của một người trẻ, một người trung niên, một người già”.

38. (3) Theo hình dáng hành giả định rõ hình dáng của tướng phình trương như: “Ðây là hình dáng cái đầu, đây là hình dáng cái cổ, đây là hình dáng bàn tay, đây là hình dáng lồng ngực, đây là hình dáng cái bụng, đây là hình dáng lỗ rốn, đây là hình dáng cái háng, đây là hình dáng bắp vế, đây là hình dáng trái chân, đây là hình dáng bàn chân”.

39. (4) Hành giả nên định rõ phương hướng của tướng bất tịnh như sau: “Có hai hướng trong tử thi này, đó là hướng dưới từ lỗ rốn trở xuống, và hướng trên từ lỗ rốn trở lên”. Hoặc định phương hướng rằng: “Ta đang đứng hướng này, tướng bất tịnh ở hướng kia”.

40. (5) Hành giả nên định rõ tướng bất tịnh bằng định xứ của nó như sau: “Bàn tay ở chỗ này, bàn chân chỗ này, cái đầu chỗ này, bụng chỗ này” hoặc “Ta đang đứng chỗ này tướng bất tịnh ở chỗ kia”.

41. (6) Hành giả nên định giới hạn của tướng bất tịnh như sau: “Thi thế này được giới hạn ở dưới bởi những gót chân, ở trên bởi những đầu sợi tóc, tất cả xung quanh bởi làn da; cái khoảng không gian mà tử thi này chiếm cứ như vậy có thể chất đầy 32 mảnh của thân người (thirty-two pieces of corpse)”. Hoặc, hành giả có thể định giới hạn như sau: “Ðây là ranh giới bàn tay, đây là ranh giới bàn chân, đây là ranh giới cái đầu, đây là ranh giới phần giữa thân thể”, hoặc hành giả có thể định rõ giới hạn từng phần của tử thi mà vị ấy đã quan sát, như: “Chỉ chừng ấy phần của tử thi phình trướng là như vậy”.

42. Tuy nhiên, một thi thể phụ nữ không thích hợp cho một nam nhân quán sát, và ngược lại, vì đối tượng không hiện rõ nơi thi thể một người khác phái, mà chỉ trở thành một cái dịp cho sự khích động sai lạc của tâm, Luận giải về Trung Bộ Kinh nói: “Ngay cả khi thi thể đang tàn tạ, một phụ nữ cũng xâm nhập tâm người đàn ông và ở mãi tại đấy”. Cho nên, tướng bất tịnh chỉ nên được quán theo 6 cách trên mà thôi, và ở nơi một thi thể của người cùng phái.

43. Nhưng khi một người đã thực tập đề mục này dưới thời những Đấng Giác Ngộ đời trước, đã tu khổ hạnh, đã đập tan tứ đại, phân biệt các hành, đã định rõ danh sắc, diệt trừ ngã tưởng, đã làm xong phận sự Sa-môn, đã sống đời phạm hạnh, đã tu những gì cần tu, khi người ấy có sẵn hột giống từ bỏ các hành, có tri kiến thuần thục và ít cấu uế phiền não, thì tợ tướng xuất hiện cho người ấy ngay tại chỗ trong khi vị ấy đang nhìn. Nếu tợ tướng không xuất hiện cách đó, thì sẽ xuất hiện khi vị ấy quán tướng theo 6 cách:

44. Nhưng nếu tợ tướng cũng không xuất hiện cho hành giả ngay cả khi quán theo 6 cách, thì nên quán tướng trở lại theo 5 cách khác nữa: (7) Những khớp xương, (8) những chỗ mở ra, (9) những chỗ lồi, (10) những chỗ lõm và (11) tất cả tứ phía xung quanh.

45. Ở đây, (7) những chỗ nối chính là 180 chỗ nối. Nhưng làm sao định rõ được 180 chỗ nối trong một tử thi phình trướng? Do đó hành giả có thể xác định rõ chúng qua 14 khớp xương chính là 3 khớp ở cánh tay phải, 3 ở cánh tay trái, 3 ở ống chân phải, 3 ở ống chân trái, một ở khớp xương cổ, một khớp xương ở thắt lưng.

46. (8) Những chỗ mở ra: Một chỗ “mở” là chỗ hổng giữa cánh tay và hông, chỗ hổng giữa các ống chân, chỗ hổng của bụng, chỗ hổng của lỗ tai. Hành giả nên định rõ các chỗ hổng như vậy. Hoặc là định rõ bằng cách nhìn trạng thái mở mắt hay nhắm mắt, mở miệng hay ngậm miệng của tử thi.

47. (9) Chỗ lõm: Hành giả nên định rõ bất cứ chỗ lõm nào trên thân thể như những lỗ con mắt, bên trong miệng, hay dưới cổ. Hoặc định rõ chỗ lõm như sau: “Ta đang đứng tại một nơi lõm vào, thi thể đang ở một nơi lồi”.

48. (10) Chỗ lồi: Hành giả nên định rõ chỗ nào nhô lên trên thi thể như đầu gối, ngực hay trán. Hoặc: “Ta đang đứng ở một chỗ lồi, tử thi đang ở chỗ lõm”.

49. (11) Xung quanh: Toàn thi thể phải được định rõ ở xung quanh. Sau khi làm việc trên toàn tử thi bằng tri kiến, hành giả nên trú tâm như sau: “Tướng phình trương, tướng phình trương” vào bất cứ chỗ nào của tử thi hiện rõ cho hành giả. Nếu nó chưa hiện rõ, và nếu có một cường độ mãnh liệt của tướng phình trương nơi bụng, thì hành giả nên trú tâm như sau: “Tướng phình trương, tướng phình trương” nơi bụng.

50. Bây giờ, về cầu: “Vị ấy nên chú tâm làm cho tướng (bất tịnh) được nắm lấy một cách thích đáng” v.v... được giải thích như sau. Hành giả nên nắm lấy tướng một cách toàn triệt (triệt để, thoroughly) nơi tử thi theo cách đã tả. Vị ấy nên chú tâm đến tướng ấy với niệm được an trú. Hành giả nên lưu ý rằng tướng được ghi nhớ một cách thích đáng, định rõ một cách thích đáng, bằng cách lập đi lập lại công việc ấy nhiều lần. Ðứng một nơi không quá xa không quá gần tử thi hành giả nên mở mắt nhìn một trăm lần, một ngàn lần, (nghĩ) “Bất tịnh là tướng phình trương, bất tịnh là tướng phình trương”, và nhắm mắt lại tưởng đến tướng ấy.

51. Khi hành giả làm thế nhiều lần, sơ tướng được vị ấy nắm lấy một cách thích đáng. Khi nào được gọi là thích đáng? Tức là khi nào tướng ấy hiện ra trước mắt dù hành giả mở mắt nhìn hay nhắm mắt quán, như vậy gọi là học tướng đã được nắm lấy một cách thích đáng.

52. Khi hành giả đã nắm lấy sơ tướng như vậy, đã định rõ như vậy, khi ấy nếu hành giả không thể kết thúc sự tu tập ngay tại chỗ, thì có thể trở về tại trú xứ của mình, một mình, theo cách như đã đến, không bầu bạn, duy trì để mục quán tưởng trong tâm với chánh niệm khéo an trú, với tâm không hướng ngoại do vì các căn đã được xoay vào trong.

53. Khi hành giả rời khỏi nghĩa địa, nên định rõ con đường về như sau: “Con đường, ta trở về đi về hướng Đông, hướng Tây..., Bắc..., Nam” hoặc “Nó đi về hướng trung gian”, hoặc “Tại chỗ này nó rẽ tay trái, tại chỗ này nó rẽ tay phải” và “Tại chỗ này có một tảng đá, chỗ này một tổ kiến, tại chỗ này một cái cây, chỗ này có một bụi cây, chỗ này có một cây leo”.

54. Khi đã định rõ con đường trở về, và khi về tại trú xứ, đi kinh hành qua lại, hành giả nên để ý làm cho bước kinh hành cũng hướng về nơi ấy, nghĩa là hành giả nên đi kinh hành trên một thửa đất đối diện với hướng có tướng bất tịnh kia. Và khi ngồi, hành giả cũng phải soạn một chỗ ngồi hướng về nó.

55. Nhưng nếu có một chướng ngại vật ở hướng ấy, như một vũng lầy, một cây lớn hay một hàng giậu hay ao đầm, nếu hành giả không thể đi kinh hành qua lại trên một mảnh đất đối diện hướng ấy, nếu không soạn được một chỗ ngồi như vậy vì không có chỗ để ngồi, thì hành giả có thể kinh hành hay ngồi tại chỗ nào cũng được miễn là tâm hành giả phải để về hướng ấy.

56. Bây giờ, đến lượt câu hỏi: “Mục đích, lợi ích của sự định rõ tính chất của những tướng xung quanh là gì?” Và câu trả lời đã được nêu: Có mục đích là khỏi bị lừa dối có ý nghĩa như sau: Nếu người nào đi phi thời đến chỗ có tướng thây phình trương, và mở mắt để nắm lấy tướng bằng cách định tính những tướng xung quanh, thì vừa khi hành giả mới nhìn một cái, tử thi có vẻ như đang đứng lên, hăm dọa, và đuổi theo mình, và khi thấy đối tượng kỳ dị và đáng sợ ấy, tâm hành giả run lên, giống như người bị điên cuồng, bị cơn hãi hùng kinh khiếp tóm lấy, và tóc trên đầu vị ấy dựng ngược lên. Vì trong số 38 đề mục quán được trình bày trong kinh điển, không có đối tượng nào đáng sợ hãi như đối tượng này. Có một vài người đã mất thiền trong khi quán đề mục này. Tại sao? Vì nó quá kinh khiếp.

57. Bởi thế, hành giả cần phải vững vàng. Khéo an trú chánh niệm, hành giả nên trừ sợ hãi bằng cách này: “Không bao giờ có thây chết đứng dậy đuổi theo ai cả. Nếu cái cục đá hay cây leo ở cạnh tử thi kia mà đến đây được, thì có lẽ tử thi cũng đến được đấy, song chính vì tảng đá hay cây leo kia không đến được, do vậy tử thi cũng không đến được. Sở dĩ ta thấy ra như vậy là do tưởng mà thành, do tưởng tạo tác nên. Hôm nay thiền của bạn đã xuất hiện với bạn. Ðừng sợ, này Tỷ-kheo”. Hành giả nên cười cho nó qua đi, và hướng tâm đến tướng ấy. Với cách ấy hành giả sẽ đạt đến sự phân biệt. Ðây là ý nghĩa câu: “Ðịnh rõ tướng xung quanh có mục đích là khỏi bị lừa dối”.

58. Thành công trong việc nắm lấy tướng theo 11 cách có nghĩa là buộc chặt đề mục thiền quán. Vì chính cái sự mở mắt và nhìn làm điều kiện cho sự sanh khởi sơ tướng, và trong khi hành giả luyện tập tâm mình như vậy, tợ tướng khởi lên, và khi luyện tập tâm đối với tợ tướng, hành giả đắc định an chỉ. Khi đã vững chắc với an chỉ, hành giả tu tập tuệ giác và đắc A-la-hán quả. Do đó nói: nắm lấy tướng theo 11 cách có mục đích là buộc tâm lại một chỗ.

59. Sự quan sát con đường đi về có mục đích là theo dõi tâm: Xem xét con đường đi và về để theo dấu đề mục thiền định.

60. Vì nếu Tỷ-kheo đang đi trên đường với đề mục thiền quán của ông, mà gặp người giữa đường hỏi: “Bạch đại đức, hôm nay ngày gì?” hoặc hỏi về Pháp hoặc chào, thì Tỷ-kheo không nên cứ việc im lặng tiếp tục đi, vì nghĩ: “Ta đang bận một đề tài thiền quán”, mà phải trả lời cho người ta biết ngày gì hay trả lời về Pháp, hay nói “Tôi không biết”, nếu không biết thật, và phải trả lời một sự chào hỏi lễ phép. Khi hành giả làm việc này, thì tướng mới khởi lên được bỗng lặn mất. Nhưng dù tướng có biến mất hành giả cũng vẫn phải trả lời ngày tháng, khi được hỏi về ngày tháng, nếu không biết, thì phải trả lời “Tôi không biết” (về pháp), nếu biết, thì phải giải thích một cách cặn kẽ, và khi được chào phải đáp lại. Cũng vậy, khi gặp khách Tỷ-kheo thì phải tiếp đãi, và tất cả được phận sự khác trong các Kiền độ cần phải được thi hành, nghĩa là phận sự đối với chánh điện, đối với khoảnh đất dưới cây bồ đề, đối với ngôi nhà làm lễ bố tát, đối với nhà ăn và nhà tắm, với giáo thọ sư, y chỉ sư, khách khứa, những Tỷ-kheo sắp đi v.v...

61. Và cái tướng mới đạt được cũng bị tan mất khi hành giả làm các công việc này. Khi hành giả muốn đi lại một lần nữa nghĩ rằng: “Ta sẽ đi quán tướng bất tịnh”, thì bỗng thấy mình không thể đi đến nghĩa địa nữa, vì chỗ ấy đã bị xâm chiếm bởi phi nhân hay dã thú, hoặc thây chết đã biến mất. Vì một thi thể phình trướng chỉ kéo dài khoảng một hai ngày rồi biến thành một cái thây bầm xanh. Trong tất cả những đề mục quán, không có cái nào khó gặp như đề mục này.

62. Bởi thế, khi tướng đã biến mất cách ấy, thì Tỷ-kheo hãy ngồi tại chỗ nghỉ đêm, hay chỗ nghỉ ngày của mình, và trước tiên quán sát con đường đi và đến, cho tới chỗ hành giả thực sự ngồi kiết già, tưởng như sau “Ta đã đi ra khỏi chùa, theo một con đường đưa đến hướng như vậy, ta đã quay trái tại một nơi như vậy, quay phải tại một nơi như vậy, tại một nơi trên đường đi có một tảng đá, một nơi có tổ kiến, một cây lớn, một bụi cây, một cây leo... Sau khi đi theo con đường như vậy, ta đã thấy tướng bất tịnh tại một nơi như vậy, ta đứng đấy mặt hướng về hướng như vậy, quan sát các tướng xung quanh như vậy, ta nắm tướng bất tịnh bằng cách này; ta rời nghĩa địa ở hướng như vậy, ta đã trở lại theo một con đường như vậy, làm những việc như vậy, và bây giờ, ta đang ngồi tại chỗ này”.

63. Trong khi hành giả ôn lại như trên, tướng trở nên rõ rệt và hiện ra như thể được đặt trước mắt hành giả, đề mục quán tưởng trở lại như trước. Bởi thế mà nói: “Sự ôn lại con đường đã đi và đến có mục đích là để theo dấu tâm”.

64. Bây giờ về câu: “Khi hành giả đã an trú niềm kính trọng đối với nó bằng cách thấy những lợi lạc của nó, xem nó như kho tàng, yêu mến nó, thì hành giả buộc tâm mình trên đối tượng ấy”. Ở đây, sau khi đã đắc thiền bằng cách luyện tập tâm quán tướng bất tịnh nơi thi thể phình trướng, hành giả hãy tăng trưởng tuệ giác với thiền làm nhân gần, và hãy thấy những lợi ích như sau: “Chắc chắn bằng cách này ta sẽ thoát khỏi già chết”.

65. Cũng như một người nghèo được một kho tàng ngọc báu sẽ giữ gìn yêu mến nó, cảm thấy kính trọng đối với nó như một người biết được giá trị của nó, nghĩ rằng: “Ta đã được một cái gì rất khó được”. Cũng thế, vị Tỷ-kheo này hãy giữ gìn tướng bất tịnh kia, yêu mến nó và kính trọng nó như một kẻ biết được giá trị của nó, nghĩ rằng “Ta đã được đề mục quán này” một cái gì thực sự khó được, như kho báu rất đáng giá đối với một người nghèo. Bởi vì, một người mà để mục quán là tứ đại, thì phân biệt bốn đại chủng ở ngay trong mình, một người quán hơi thở thì phân biệt hơi gió nơi lỗ mũi mình, và một người quán Kasiṇa (biến xứ) thì làm một Kasiṇa và khai triển nó tùy thích. Những đề mục quán này đều dễ dàng có được. Nhưng cái đề mục thây phình trướng thì chỉ kéo dài một hoặc hai ngày, sau đó nó biến thành một cái thây bầm xanh. Không có đề mục nào khó gặp hơn đề mục này. Tại chỗ nghỉ ban đêm và chỗ nghỉ ban ngày hành giả nên buộc tâm vào đấy như sau: “Tướng bất tịnh của thây phình trướng, Tướng bất tịnh của thây phình trướng” Và hành giả nên quán tưởng tướng ấy, đem nó vào tâm và đánh mạnh vào nó với tầm nhiều lần.

66. Khi hành giả làm như vậy, tợ tướng khởi lên. Ðây là sự khác nhau giữa hai tướng. Học tướng (tức là thủ tướng theo “Thắng pháp tập yếu") thì xuất hiện như một cảnh tượng kỳ dị hãi hùng kinh khiếp, còn tợ tướng thì giống như một người có tay chân to lớn nằm dài sau khi ăn no.

67. Cùng lúc với tợ tướng xuất hiện, tham dục nơi hành giả tan biến nhờ không còn chú ý đến đối tượng bên ngoài. Và do đó, từ bỏ sự chấp thuận đối với dục, sân nhuế cũng được diệt trừ, như mủ cũng đi theo máu. Cũng vậy, hôn trầm thụy miên cũng được trừ khử nhờ tinh tấn, trạo cử được từ bỏ nhờ tu tập những đối tượng an tịnh không gây hối hận, và hoài nghi đối với bậc Ðạo sư chỉ dạy con đường, hoài nghi về con đường, và kết quả của con đường, cũng được từ bỏ nhờ thực chứng kinh nghiệm về Thánh quả. Như vậy, cả năm triền cái được từ bỏ. Và có sự hiện diện của tầm với đặc tính hướng tâm đến đối tượng, tứ nhấn mạnh trên đối tượng, hỷ do đạt được thắng giải, khinh an phát sinh nơi một người có tâm hoan hỷ, lạc với khinh an kể như tướng của nó, và sự nhất tâm có lạc là tướng của nó, vì định phát sanh nơi một người mà tâm được an lạc. Như vậy, những thiền chi phát sanh.

68. Như thế cận hành định, một đặc điểm của sơ thiền cùng lúc cũng sinh khởi nơi hành giả. Tất cả những gì sau đó cho đến khi đắc định an chỉ trong sơ thiền và an trú trong đó, cần được hiểu như đã trình bày dưới đề mục biến xứ đất.

69. Về tướng thi thể bầm xanh và những tướng khác: tất cả trình bày ở đoạn 19, bắt đầu “Người nào đang học tướng bất tịnh về thi thể phình trướng hãy đi một mình không bầu bạn, với chánh niệm an trú không gián đoạn v.v...” đều áp dụng cho những tướng bất tịnh khác, chỉ cần thay đổi danh từ “phình trương” bằng danh từ thích hợp như: “người học tướng bất tịnh về thi thể xanh bầm...”, “người học tướng bất tịnh về thi thể nưng mủ...” Nhưng sự khác biệt như sau:

70. (Tướng bầm xanh) Tướng bầm xanh cần được tâm niệm như sau: “Tướng bầm xanh của thây chết thật ghê tởm, ghê tởm là tướng bầm xanh”. Ở đây, sơ tướng xuất hiện có màu loang lỗ, nhưng tợ tướng xuất hiện có màu sắc nào nổi bậc nhất.

71. (Tướng có mủ) Tướng nưng mủ cần được tâm niệm như sau: “Tướng nưng mủ ghê tởm, tướng nưng mủ ghê tởm”. Ở đây, sơ tướng xuất hiện trông như đang rỉ mủ chảy còn tợ tướng thì có vẻ bất động và an tĩnh.

72. (Tướng thây bị chặt đôi) Thây bị chặt đôi được thấy trên bãi chiến địa hay trên một khu rừng của kẻ cướp hay trên một nghĩa địa ở đó những kẻ cướp bị vua ra lệnh chém, hoặc trong một khu rừng ở đấy có người bị sư tử và cọp xé xác. Bởi thế, khi hành giả đi đến chỗ ấy, nếu thi thể hiện rõ ngay khi vừa chú ý mặc dù nó đang nằm ở nhiều chỗ, thì tốt. Nếu không, hành giả không được lấy tay sờ vào thây chết, vì làm thế hành giả sẽ đâm ra quen thuộc với cảnh ấy (như một người thường thiêu đốt tử thi). Vị ấy nên bảo một chú tiểu hay người tập sự tu khổ hạnh, hay người nào khác, nhặt thi thể ấy ráp lại ở một nơi. Nếu không thể tìm ra người nào làm việc ấy, hành giả nên dùng cây gậy để ráp lại những phần thi thể, làm sao cho chúng chỉ cách xa nhau một ngón tay. Sau khi ráp thây lại như thế, hành giả hãy tâm niệm như sau: “Tướng thây đứt lìa thật ghê tởm, ghê tởm là tướng thây đứt lìa”. Ở đây sơ tướng xuất hiện như thế bị chặt ở chặn giữa, còn tợ tướng thì trông như vẫn nguyên lành.

73. (Tướng thây bị gặm khới) Cần được tâm niệm: “Tướng thi thể bị gặm khới thật là ghê tởm, ghê tởm là tướng thây bị gặm khới”. Sơ tướng xuất hiện như thể bị gặm chỗ này chỗ kia, còn tợ tướng thì trông nguyên vẹn.

74. (Tướng thi thể rã rời) Sau khi đã ráp thi thể lại gần nhau như đã nói trên, tướng rã nên được tâm niệm như sau: “Tướng bất tịnh của thây rã rời, thây rã rời thật bất tịnh”. Ở đây, sơ tướng có những khe hở nổi bật, còn tợ tướng thì có vẻ toàn vẹn.

75. (Tướng bị cưa xẻ và phân tán) Tướng bị cưa xẻ và phân tán được tìm thấy tại những nơi đã nói ở phần tướng thây bị chặt đôi. Bởi thế, sau khi đến đấy ráp lại như đã nói trên, hành giả hãy tâm niệm như sau: “Tướng phân tán cưa xẻ thật ghê tởm, ghê tởm là thi thể bị cưa xẻ phân tán”. Ở đây sơ tướng hiện rõ những chỗ hở của vết thương, nhưng tợ tướng thì nguyên vẹn.

76. (Thây chảy máu) Tướng chảy máu được tìm thấy nơi những vết thương mà nạn nhân bị trên chiến trường v.v... Hay từ những chỗ tay chân đã bị cưa đứt. Khi thấy như thế hành giả hãy tâm niệm “Tướng chảy máu ghê tởm, ghê tởm là thân chảy máu”. Ở đây, học tướng xuất hiện như thể đang di động, giống như một cái cờ đỏ bị gió lay, còn tợ tướng thì tĩnh.

77. (Tướng trùng ăn) Sau hai hoặc ba ngày, từ chín lỗ bài tiết của thi thể tuôn ra một loạt dòi bọ, và khối dòi nằm ở đó như một đống lúa hay cơm, lớn bằng cả cái thân thể dù đó là thân thể của một con chó, con chồn hay người ta, hay bò, trâu, voi, ngựa, trăn, hay bất cứ con gì, tướng ấy cần được quán như sau: “ghê tởm là tướng trùng ăn, ghê tởm là tướng trùng ăn”. Vì tướng đã khởi lên cho trưởng lão Cūḷa-Piṇḍapātika-Tissa do thây của một con voi chết tại Kāladīghavāpi. Ở đây học tướng xuất hiện có vẻ đang di động, nhưng tợ tướng thì an tĩnh, như một trái banh bằng cơm trắng.

78. (Tướng bộ xương) Tướng bộ xương được mô tả theo nhiều khía cạnh như: “Như khi vị ấy nhìn một thi thể bị quăng bỏ lại một nghĩa địa một bộ xương còn thịt và máu, có gân dính liền” (D II 296). Hành giả hãy đi đến nơi có bộ xương theo cách đã nói và để ý những tảng đá v.v... Với các tướng xung quanh và liên hệ với đối tượng quán. Hành giả nên nhận định tính cách của nó bằng sự kiện nó đã đạt đến cái bản chất đặc biệt ấy như thế này: “Ðây là một bộ xương” và nắm lấy tướng theo 11 cách, do màu sắc v.v... Nhưng nếu hành giả nhìn vào nó, mà chỉ nắm lấy nó do màu sắc như trắng chẳng hạn thì nó không hiện ra cho hành giả với tính chất cá biệt của nó là đáng ghê tởm, mà chỉ như một đổi thay của biến xứ màu trắng (Kasiṇa trắng). Do đó, hành giả chỉ nên nhìn nó kể như một bộ xương trong khía cạnh đáng ghê tởm.

79. “Ðặc điểm” chỉ bàn tay v.v... Ở đây hành giả nên định rõ bộ xương do đặc điểm của nó như tay, chân, đầu, ngực, cánh tay, eo, háng, đùi. Hành giả nên định rõ do hình dáng như dài, ngắn, vuông, tròn, nhỏ, lớn. Do phương hướng và định xứ đã nói ở trên (đoạn 39-40). Sau khi đã định rõ nó theo giới hạn của nó, ranh giới mỗi đốt xương, hành giả đắc định nhờ nắm lấy tướng nào hành giả thấy xuất hiện rõ ràng nhất. Nhưng tướng cũng có thể nhận định do các chỗ lồi chỗ lõm của nó tùy theo những chỗ lõm chỗ lồi ở mỗi đốt xương. Và nó cũng được nhận định do vị trí của nó như: “Ta đang đứng ở một chỗ lõm, bộ xương nằm ở chỗ lồi hoặc ta đang đứng ở chỗ lồi, bộ xương ở chỗ lõm”. Bộ xương còn nên được định rõ bằng các chỗ nối của nó (khớp xương) khi hai xương nối lại với nhau. Nó còn nên định rõ do những chỗ mở của nó tức khe hở ngăn cách những đốt xương. Nó cần được định rõ tứ phía xung quanh bằng cách hướng sự nhận biết về nó một cách toàn diện như sau: “Tại chỗ này có bộ xương này”. Nếu tướng không xuất hiện thì nên an trú tâm ở xương trán và trong trường hợp này, cũng như trước, sự quán tướng phải theo 11 cách.

80. Ðề mục quán này có thể thành tựu dù quán toàn thể một bộ xương hay quán chỉ một đốt xương. Bởi thế, sau khi đã học được tướng trong bất cứ cái xương nào theo 11 cách hành giả nên tâm niệm như sau: “Ghê tởm là một bộ xương, ghê tởm là một bộ xương”. Ở đây học tướng và tợ tướng giống nhau, người ta bảo. Ðiều này đúng cho một cái xương duy nhất. Nhưng khi học tướng hiện rõ nơi toàn thể một bộ xương, thì đúng ra là, học tướng có những khe hở còn tợ tướng thì nguyên vẹn. Và học tướng ngay cả nơi một đốt xương duy nhất cũng sẽ có vẻ ghê rợn, nhưng tợ tướng thì phát sinh hỷ lạc vì nó đem lại định cận hành.

81. Những gì được nói trong các luận giải về vấn đề này cho phép chúng ta suy ra như vậy. Vì trong luận, sau khi nói: “Không có tợ tướng trong bốn phạm trú và 10 bất tịnh; vì trong trường hợp các phạm trú, thì tướng là sự phá vỡ những ranh giới, và trong trường hợp 10 bất tịnh tướng xuất hiện ngay khi sự ghê tởm được trông thấy, không một suy tư gì khởi lên về nó”. Luận lại nói tiếp: “Ở đây tướng có hai loại: học tướng và tợ tướng, học tướng xuất hiện có vẻ gớm ghiếc, hãi hùng v.v... Bởi thế những gì chúng ta nói đã được quán xét kỹ lưỡng. Và chỉ có điều này là đúng ở đây. Ngoài ra tướng một đống xương hiện ra cho trưởng lão Mahā-Tissa” khi nhìn hàm răng của một phụ nữ cười cũng chứng minh được điều này (Xem Ch. I, 55).

Tổng quát

82.

Ðấng cao cả ngàn mắt
Ca ngợi người mười lực
Lấy mười thứ bất tịnh
Làm nhân cho định thiền
Ðã mô tả bất tịnh
Và cách quán mỗi tướng
Làm sao khai triển chúng,
Còn vài điểm đặc biệt
Ðáng được nghiên cứu thêm.

83. Một người đã đắc thiền trong bất cứ pháp bất tịnh nào trên đây thì thoát khỏi tham dục, vị ấy giống như một bậc A-la-hán không còn tham dục vì tham đã được hoàn toàn chế ngự. Tuy nhiên, cần hiểu rõ rằng mỗi pháp bất tịnh là một tính chất mà tử thi tuần tự đạt đến và thích hợp cho một khía cạnh đặc biệt của tham dục.

84. Khi một thây chết đạt đến tình trạng ghê tởm, thì hoặc là nó đã đến tự tính phình trương hay bất cứ trạng thái nào: bầm xanh v.v... bởi thể, tướng cần được nắm lấy là “Ghê tởm là thây phình trương”, “Ghê tởm là bầm xanh”, tùy theo trạng thái mà thấy chết được tìm thấy. Ðây là cách phân loại bất tịnh theo 10 giai đoạn của thây chết.

85. Và xét riêng từng tướng, thì thây phình trương thích hợp cho một người tham hình dáng, vì nó làm hiện rõ sự xấu xí của hình dáng tử thi. Thây bầm xanh thích hợp cho vị nào ham màu da, vì nó hiện rõ sự xấu xí dị hình của màu da. Thây có mủ thích hợp cho một người tham mùi thơm toát ra từ thân thể ướp hương v.v... vì vết thương này làm hiện rõ mùi thối tha liên hệ đến thân thể. Thây bị chặt thích hợp cho một người tham sự chắc chắn của thân thể, vì nó làm hiện rõ những lỗ hổng trong thân. Thây bị gặm khới thích hợp cho một người tham sự tích tụ của thịt ở những thân phần như bộ ngực, vì nó làm hiện rõ sự tích tụ thịt đi đến tan rã. Thây rã rời thích hợp cho một người tham dáng kiều diễm của tay chân, vì nó làm hiện rõ tay chân bị rã rời như thế nào. Thây phân tán thích hợp cho một người tham toàn bộ một thân hình đẹp, vì nó làm hiện rõ sự phân tán và đổi khác của toàn bộ thân thể. Thây chảy máu thích hợp cho một người tham cái vẻ yểu điệu do đồ trang sức, vì nó làm hiện rõ vẻ ghê tởm của thây chết cả mình đầy máu. Thây bị trùng ăn thích hợp cho một người tham sở hữu thân thể, vì nó làm hiện rõ thân này là chỗ ở của nhiều gia đình sâu bọ. Một bộ xương thích hợp với người tham răng đẹp, vì nó làm hiện rõ tính cách ghê tởm của những cái xương trong cơ thể. Ðây là cách phân loại bất tịnh có 10 thứ tùy theo tánh tham.

86. Nhưng về mười thứ bất tịnh, thì ví như nhờ một bánh lái mà một con thuyền đứng yên được trên sông đầy sóng giữa dòng chảy xiết. Thuyền không thể đứng vững nếu không có bánh lái, ở đây cũng thế, do sự bám víu yếu ớt vào đối tượng, tâm thức khi tập trung chỉ an trú được nhờ có tầm, nó không thể an trú nếu không có tầm, bởi thế ở đây chỉ có sơ thiền, không có nhị thiền và những thiền khác.

87. Và mặc khác dù đối tượng này đáng ghê tởm, nó vẫn khơi dậy niềm hân hoan và hỷ lạc nơi hành giả do thấy được những lợi lạc của nó như sau: “Chắc chắn bằng cách này ta sẽ thoát khỏi già chết” và do từ bỏ được sự bức bách của những triền cái nơi hành giả; cũng như một đống rác khơi dậy niềm hân hoan nơi người phu hốt rác vì thấy những lợi ích của nó, nghĩ rằng: “Bây giờ ta sẽ được một số tiền lương lớn”, và như tác dụng của thuốc xổ đối với một người đau bụng.

88. Bất tịnh này mặc dù có 10 loại, đều có cùng một đặc tính. Bởi vì mặc dù nó thuộc 10 thứ, tính chất của nó chỉ có một, đó là trạng thái không sạch, hôi hám, đáng ghê tởm, lợm người. Và bất tịnh xuất hiện với tính chất này không những nơi một cái thây chết mà cả nơi một cái xác còn sống, như dưới mắt trưởng lão Mahā Tissa ở Cetiyapabbata (Ch. I, 55) và Sa-di thị giả của Trưởng lão Saṅgharakkhita trong khi chú ngắm nhìn vị vua cỡi trên một thớt voi. Vì một cái xác sống cũng bất tịnh hệt như một cái xác chết, chỉ có một điều khác là tính cách bất tịnh không rõ rệt nơi một cái xác sống vì may được che dấu dưới những lớp trang sức.

89. Ðây là bản chất của thân xác: nó là sự tích tụ của hơn 300 cái xương được nối lại với nhau bởi 180 khớp dính liền nhau nhờ 900 cái gân, trét, đầy khắp với 900 miếng thịt, được bọc bằng lớp da trong ẩm ướt, bao ngoài với lớp da ngoài có những lỗ rải rác đó đây, luôn luôn tiết ra, rỉ ra như một cái bình mỡ dầu trong đó cả một tập thể vi trùng cư trú, đó là cái nhà bịnh tật, nền tảng của những trạng thái đau khổ luôn luôn tiết ra từ 9 lỗ như một cái ung nhọt kinh niên; từ hai con mắt thì ghèn chảy, từ hai lỗ tai là thối tai, từ hai lỗ mũi là mũi nước, từ miệng là thức ăn, mật, đàm, máu, từ hai chỗ bài tiết bên dưới là phân và nước tiểu, và từ 99 ngàn lỗ chân lông tiết ra một thứ nước xúp bằng mồ hôi vô vị, với ruồi nhặng bu quanh. Cái thân xác này, nếu không được săn sóc bằng xỉa răng, súc miệng, gội đầu, tắm rửa, mặc lót bên trong, khoác y phục bên ngoài, thì xét về tính chất đáng tởm, một ông vua, cũng không khác gì người hốt rác.

90. Nhưng nhờ đánh răng súc miệng và tất cả những việc tương tự, nhờ che dấu những bộ phận riêng tư dưới nhiều lớp vải, nhờ thoa ướp nó bằng những thứ hương hoa, rắc lên nó nhứng thứ hoa thơm mà nó được biến thành một trạng thái làm cho nó có thể được xem là “tôi” và “của tôi”. Cứ thế đàn ông say đắm đàn bà, đàn bà say đắm đàn ông mà không nhận thức cái thực chất dơ bẩn của cơ thể được che đậy bằng trang sức mong manh. Trong ý nghĩa tối hậu, thật không có một chỗ nào trên thân xác dù nhỏ như hạt bụi, đáng mà tham đắm.

91. Và khi có một mẫu nhỏ nào từ thân xác ấy rớt ra như tóc, lông, móng, răng, đàm, mũi nước, phân hay nước tiểu, thì người ta sẽ không dám động tới, mà còn cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã, ghê tởm. Nhưng khi những thứ ấy còn ở lại trong thân xác, thì mặc dù vẫn đáng ghê tởm, người ta lại xem là dễ chịu, đáng ham muốn, trường cửu, khả ái tự ngã... Bởi vì bị trùm kín trong màn tối vô minh, bị nhuốm tham ái đối với tự ngã. Chúng giống như một con chồn già trông thấy một cái hoa đỏ đang còn trên cây rừng, mà thèm, vì nghĩ: “Ðây là một miếng thịt, đây là một miếng thịt”.

92.

Xưa có con chồn già
Thấy cây rừng trổ hoa
Vội vàng chạy đến, nghĩ:
Ðây thịt, cây sinh ra!
Chồn ta nhai hoa rụng
Chả thấy nước nôi gì,
Tưởng thịt trên cây khác
Thịt rụng có ngon chi
Bậc trí không nghĩ rằng
Chỉ phần rơi bất tịnh
Mà còn quán bất tịnh
Phần còn ở trong thân.

Kẻ ngu không như vậy
Xem thân là tốt lành
Bị ác ma tóm bẩy
Không thoát khỏi khổ hình
Người trí khi thấy rõ
Thân này thật thối tha
Thì xác sống xác chết
Ðều không chỗ đáng ưa.

93. Vì điều này đã được nói như sau:

Thân xác thối tha này
Như phân như nhà xí
Khó ưa với người trí
Nhưng kẻ ngu say mê
Như vết thương chín lỗ
Bọc trong lớp áo da
Rỉ bất tịnh mọi chỗ
Uế khí, mùi bay xa
Nếu những gì bên trong
Bỗng tuôn hết ra ngoài
Người ta sẽ cầm roi
Ðuổi xua như chó, quạ.

94. Bởi vậy, một Tỷ-kheo có khả năng nên nắm lấy tướng bất cứ chỗ nào khía cạnh bất tịnh hiển lộ, dù trong một cái thân xác còn sống hay nơi xác chết và vị ấy nên làm cho đề mục thiền định của mình đạt đến định.

Chương VI này, mệnh danh “Bất tịnh kể như đề mục quán” trong luận về tu tập Định, trong Thanh tịnh Đạo, được soạn ra vì mục đích làm cho những người lành hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương VII
Ðịnh: Sáu tùy niệm

(Cha-anussati-niddesa)

----

1. Mười tùy niệm được liệt kê theo sau mười bất tịnh quán (Ch. III, 105).

Niệm (sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati) vì nó khởi lên luôn luôn; hoặc niệm thích hợp (anurūpa) cho một thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tin, niệm có mặt trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Đấng Giác Ngộ gọi là niệm Phật. Ðây là danh từ để chỉ chánh niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của Đức Thế Tôn.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Pháp gọi là niệm Pháp. Ðây là danh từ chỉ niệm mà đối tượng là những đức tính đặc biệt của Pháp được khéo giảng.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Tăng gọi là niệm Tăng. Ðây chỉ là danh từ có đối tượng là những đức đặc biệt của Tăng chúng, nghĩa là những tính như đi vào con đường chánh...

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ giới gọi là niệm giới. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đặc tính đặc biệt của giới không bị rách...

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ bố thí gọi là niệm thí. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức đặc biệt của sự bố thí như rộng rãi...

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ chư thiên gọi là niệm thiên. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của niềm tin, có chư thiên làm chứng.

Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ cái chết gọi là niệm tử. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là sự chấm dứt mạng căn.

Thân hành niệm (kāya-gatā sati): niệm ấy đi đến (gatā) cái thân vật chất (kāya) được phân tích thành tóc v.v... Hoặc niệm đi vào trong thân, nên gọi là thân hành niệm. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là tướng của những thân phần gồm có tóc, lông, móng, răng, da v.v... (36 uế vật).

Tùy niệm có cảm hứng hơi thở ra vào (ānāpāna) gọi là niệm hơi thở. Ðây là danh từ có đối tượng là tướng thở ra hơi thở vào.

Tùy niệm có cảm hứng từ sự bình an gọi là niệm diệt. Ðây là danh từ chỉ niệm, có đối tượng là sự lắng dịu mọi đau khổ.

Niệm Phật

2. Một thiền giả có niềm tin tuyệt đối, trước hết muốn tu tập tùy niệm về đấng Giác Ngộ, thì nên độc cư tại một trú xứ thích hợp và tưởng niệm đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ, như sau:

"Ðức Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, đầy đủ minh và hạnh, đấng Thiện Thệ, đấng hiểu rõ thế gian, bậc vô thượng đạo sư điều phục những người đáng điều phục, bậc thầy của chư thiên và loài người, Phật, Thế Tôn” (M II 37; A III 285).

3. Ðây là cách niệm: “Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài là A-la-hán, Ngài như vậy vì Ngài hoàn toàn giác ngộ... Ngài như vậy vì Ngài là Thế Tôn”.

A-la-hán

4. Trước tiên hành giả niệm “Ðức Thế Tôn là bậc A-la-hán (arahanta) hay hoàn tất, vì những lý do như sau: (1) vì sự xa xôi (āraka), (2) vì những kẻ thù (ari) và (3) những căm xe (ara) đã được phá hủy (hata), (4) vì Ngài xứng đáng (araha) được tứ sự cúng dường v.v... và (5) vì không có những ác hạnh thầm kín (rahābhāva).

5. (1) Ngài hoàn toàn xa xôi, tách rời hẳn mọi cấu uế vì Ngài đã triệt hết những dấu vết của nhiễm ô nhờ chánh đạo do sự xa vời đó (āraka) Ngài được gọi là viên mãn (arahanta).

Chúng ta gọi một người là “xa xôi”,
Với cái gì người ấy hoàn toàn không có;
Bậc cứu thế cũng vậy không tỳ vết,
Nên đáng được gọi là đấng viên mãn (arahanta).

6. (2) Và những kẻ thù (ari) tức là những ô nhiễm, đều được hủy diệt (hata) bởi đạo lộ, nên Ngài đã được gọi là người đã hoàn tất, xong việc (arahants).

7. (3) Bánh xe luân hồi với trục làm bằng vô minh và khát ái với các cõi hữu, với căm xe gồm các hành, và vành xe là già chết được nối liền với chiếc xe ba cõi bằng cái càng xe làm bàng nguồn gốc các lậu hoặc (xem M I 55), đã được quay từ thời gian vô thủy. Tất cả những căm xe (ara) này đã bị Ngài hủy hoại (hata) ở Bồ đề tràng, trong khi Ngài đứng vững với hai chân tinh tấn, trên đất giới, bằng tay tín Ngài sử dụng cái rìu tri kiến phá hủy nghiệp - bởi vì những căm xe đã bị phá hủy như vậy, nên Ngài được gọi là arahanta, bậc A-la-hán.

8. Một cách giải thích khác: chính là cái vòng vô thủy luân hồi đó được gọi là “Bánh xe luân hồi”. Vô minh là trung tâm điểm của nó vì là căn đế của sinh tử. Già chết là vành xe bởi vì nó là tận cùng của vô minh. Mười chi phần còn lại (trong mười hai nhân duyên) là căm xe, vì căn đế của chúng là vô minh và tận cùng của nó là già chết.

9. Ở đây, vô minh là không biết về khổ, và vô minh, trong dục giới, là một điều kiện (duyên) cho các hành ở cõi dục, vô minh trong sắc giới là một điều kiện cho các hành ở sắc giới. Vô minh trong vô sắc giới là một điều kiện cho hành ở vô sắc giới.

10. Hành ở dục giới là điều kiện cho thức ở dục giới. Tương tự với sắc và vô sắc giới.

11. Kiết sanh thức ở dục giới là điều kiện cho danh sắc ở dục giới. Tương tự đối với Sắc giới. Ở vô sắc giới, thức là điều kiện cho danh (không có sắc) mà thôi.

12. Danh sắc trong dục giới là điều kiện cho lục xứ (lục nhập) ở dục giới. Danh sắc ở sắc giới là điều kiện cho ba xứ ở sắc giới.

13. Lục xứ ở dục giới là điều kiện cho sáu xúc ở cõi dục. Ba xứ ở sắc giới là điều kiện cho ba xúc ở sắc giới. Ý căn (ý xứ) độc nhất ở vô sắc giới là điều kiện cho một loại xúc ở vô sắc giới.

14. Sáu xúc ở dục giới là điều kiện cho sáu loại cảm giác ở dục giới (sáu thọ). Ba xúc ở sắc giới là duyên (điều kiện) cho ba thọ (cảm giác) ở đấy. Một xúc ở vô sắc giới là duyên cho một thọ ở đấy.

15. Sáu cõi ở dục giới là duyên cho sáu ái ở cõi dục. Ba thọ ở sắc giới là duyên cho ba ái ở sắc giới. Một thọ ở vô sắc giới là duyên cho một ái ở vô sắc giới. Khát ái trong các cõi là duyên cho thủ ở đấy. Thủ v.v... lần lượt làm duyên cho hữu (sự trở thành).

16. Hữu tạo điều kiên cho sanh, sanh tạo điều kiện cho già chết, Ví dụ, một người nghĩ: “Ta sẽ hưởng thụ các dục lạc”, và với sự bám víu (thủ) vào các dục kể như điều kiện, vị ấy tà hạnh về thân, lời và ý. Do hoàn thành tà hạnh, vị ấy tái sinh trong một đọa xứ. Cái nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy ở đấy là nghiệp - hữu (kamma-bhāvakamma - process becoming), các uẩn phát sinh là sanh hữu (uppati-bhāva - rebirth, process becoming), sự sinh ra các uẩn gọi là sanh, sự chín mùi của các uẩn gọi là già, sự tan rã của uẩn là chết.

17. Một người khác nghĩ: “Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú cõi trời” và song song với ý nghĩ, nó làm các thiện hạnh. Do hoàn tất các thiện hạnh vị ấy tái sanh ở cõi trời dục giới. Cái nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của nó tại đấy gọi là nghiệp hữu,... Như trên.

18. Một người nữa lại nghĩ: “Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú của trời Phạm Thiên”, và với dục thủ làm duyên (điều kiện), vị ấy tu tập từ, bi, hỷ, xả, do hoàn tất tu thiền định, vị ấy tái sinh ở Phạm thiên giới. Cái nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy ở đây là nghiệp hữu v.v...

19. Nhưng một người khác lại nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ lạc thú cõi vô sắc” và do vậy tu tập những thiền chứng khởi đầu bằng không vô biên xứ. Do sự hoàn tất tu tập, vị ấy tái sanh tại một trong những cảnh giới ấy. Nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy tại đây là nghiệp hữu, các uẩn sinh ra do nghiệp ấy là sanh hữu, sự sanh ra các uẩn là sanh, sự chín mùi của uẩn là già, sự tan rã của uẩn là chết (xem M II 263). Các loại chấp thủ còn lại cũng như trên.

20. Vậy, trí phân biệt các duyên như sau: “Trong hiện tại Vô minh là nhân, hành khởi lên do nhân vô minh và cả hai pháp này đều khởi lên có nhân. Trong quá khứ và vị lai cũng vậy”. Ðó gọi là trí biết tương quan nhân quả của các pháp. Mọi mệnh đề khác (trong 12 nhân duyên) cần được hiểu chi tiết như trên.

21. Vô minh và hành làm một nhóm; thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ một nhóm; ái, thủ và hữu một nhóm; sanh và già chết một nhóm. Nhóm thứ nhất là quá khứ, hai nhóm giữa là hiện tại; sanh và già chết là vị lai. Khi vô minh và hành được nói đến, thì ái, thủ, hữu cũng bao gồm trong đó, bởi thế năm pháp này là cái vòng nghiệp trong quá khứ. Năm pháp từ thức đến thọ là vòng nghiệp quả hay dị thục (vipāka - kamma - result) trong hiện tại. Và vì năm pháp từ thức đến thọ được mô tả dưới đề mục già chết, cho nên năm pháp này cũng là nghiệp quả trong tương lai. Như vậy chúng thành hai mươi. Ở đây có một dây nối giữa hành và thức, một giữa thọ và ái, và một giữa hữu và sanh (xem Ch. XVII, đ 288).

22. Ðức Thế Tôn biết, thấy, hiểu và thâm nhập tất cả các khía cạnh của lý duyên sinh này với bốn nhóm, ba thời, hai mươi khía cạnh và ba dây nối.

Như vậy, khi Đức Thế Tôn, bằng cách biết đúng như thật những pháp này với trí biết tương quan của các pháp, thì Ngài trở nên vô dục đối với chúng. Khi tham dục nơi Ngài tàn tạ, khi Ngài được giải thoát, khi ấy ngài phá hủy, hoàn toàn phá hủy, vứt bỏ những cái căm của bánh xe sinh tử nói trên.

Vì những căm xe đã bị phá hủy, nên Ngài là một bậc đã hoàn tất công việc, gọi là arahanta, A-la-hán.

Các căm xe sinh tử,
Bị phá bằng gươm tuệ
Do vậy đấng cứu thế
Ðược gọi A-la-hán

23. (4) Và Ngài xứng đáng (arahati) với những đồ cúng dường gồm y phục v.v... Và với sự cung kính tôn trọng, vì chính Ngài là Ðấng đáng dâng cúng nhất. Vì khi một Đấng Toàn Thiện ra đời, thì chư thiên và loài người không cung kính ai khác; Phạm thiên Sahampati cúng dường Ngài một chuỗi ngọc lớn như núi Tu-di, và chư Thiên khác cũng cúng dường theo phương tiện của họ, cũng như những người như vua Bimbisāra xứ Magadha và vua xứ Kosala. Và sau khi Đức Thế Tôn bát Niết Bàn, vua Asoka bỏ tài sản ra đến số chín mươi sáu triệu để dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp khắp xứ Ấn. Bởi thế, với tất cả những ví dụ này, cần gì nói đến những sự cúng dường của những người khác? - Vì xứng đáng với vật cúng, nên Ngài được gọi là A-la-hán.

Ngài là đấng cứu thế
Ðáng cung kính cúng dường
Cho nên bậc chiến thắng
Ðược gọi là A-la-hán

24. (5) Và Ngài lại không hành động như những kẻ ngu ở đời tự khoe thông minh nhưng lại làm ác, mà còn thầm sợ mang tiếng xấu. Vì Ngài không có ác hành bí mật (rahābhāva) nên gọi là A-la-hán.

Bậc trí nhân cao cả
Không ác hành bí mật
Nên xứng với danh xưng
Là bậc A-la-hán

25. Tóm lại, về mọi phương diện,

Bậc Thánh xa uế nhiễm
Chiến thắng giặc não phiền
Các căm xe phá huỷ
Xứng đáng được cúng dường
Không ác hành bí mật
Vì năm lý do này
Ngài có thể tuyên bố
Thành bậc A-la-hán

Chánh Ðẳng Giác

26. Ngài là Bậc Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha) vì Ngài đã biết (Buddha) mọi sự vật một cách chân chánh (Sammā) và do tự Ngài (Sāmaṃ). Quả vậy, mọi pháp đều được Ngài tự mình khám phá một cách chân chính, nghĩa là Ngài thắng tri các pháp cần phải thắng tri, tức bốn chân lý; liễu tri các pháp cần liễu tri, tức khổ đế; đoạn tận các pháp cần đoạn tận, tức tập đế, nguyên nhân khổ; chứng đắc các Pháp cần chứng đắc, tức diệt đế; tu tập các pháp cần tu tập, tức đạo đế.

Cái gì cần được thắng tri, đã được thắng tri
Cái gì cần được tu tập, đã được tu tập
Cái gì cần được từ bỏ, đã được từ bỏ
Cho nên, này Bà-la-môn, Ta là Bậc giác ngộ (Sn 558)

27. Ngoài ra, Ngài đã tự mình tìm ra các pháp một cách chính xác theo từng bước một như sau: Con mắt là chân lý về Khổ; khát ái đi trước phát sanh ra nó, là chân lý về Tập Khởi Của Khổ; sự không sinh khởi cả hai pháp ấy là là chân lý về Diệt Khổ; con đường hay sự hiểu rõ Diệt là chân lý về Đạo Diệt Khổ. Ðối với tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng thế.

28. Và các pháp sau đây cũng cần được giải thích tương tự như trên.

Sáu ngoại xứ khởi đầu bằng sắc do mắt nhận biết;
Sáu nhóm thức khởi đầu là nhãn thức;
Sáu loại xúc khởi đầu là nhãn xúc;
Sáu loại thọ khởi đầu là thọ do nhãn xúc sanh;
Sáu loại tưởng khởi đầu là tưởng về sắc;
Sáu loại tư (volition: ý hành) khởi đầu là tư duy về sắc;
Sáu loại khát ái khởi đầu là khát ái đối với sắc pháp;
Sáu loại tầm khởi đầu là tầm về sắc pháp;
Sáu loại tứ khởi đầu là tứ về sắc pháp;
Năm uẩn khởi đầu là sắc uẩn;
Mười biến xứ (kasiṇa);
Mười niệm;
Mười tưởng khởi đầu là tưởng bất tịnh;
Ba mươi hai khía cạnh của thân thể khởi đầu là tóc;
Mười hai xứ;
Mười tám giới;
Chín loại hữu khởi đầu là dục hữu;
Bồn thiền khởi đầu là sơ thiền;
Bốn vô lượng khởi đầu là tu tập từ tâm;
Bốn vô sắc;

Những chi phần của 12 nhân duyên ngược chiều từ già chết, và thuận chiều khởi từ vô minh (Ch. XX, 9).

29. Ðây là cách xây dựng một mệnh đề duy nhất trong mười hai nhân duyên, để ví dụ: Già chết là chân lý về Khổ, sanh là chân lý về Tập, giải thoát cả hai là chân lý về Diệt Khổ, con đường hay sự hiểu rõ khổ diệt, là chân lý về Đạo Diệt Khổ.

Bằng cách ấy Ngài đã tìm ra, tuần tự khám phá, triệt để khám phá vạn pháp một cách chính xác do tự mình, từng bước một.

Minh Hạnh Túc

30. Ngài có đủ minh trí và giới hạnh: vijjācaraṇasampanno = vijjāhi caraṇena ca sampanno. Ở đây, về minh: có ba loại minh và tám loại minh. Ba loại là như được nói trong kinh Bhayabherava Sutta (M I 22f.) và tám loại như được nói trong Ambaṭṭha Sutta (D I 100), gồm sáu thắng trí với tuệ giác và thần thông của thân ý sanh.

31. Hạnh: Cần được hiểu là mười lăm điều, nghĩa là: phòng hộ bằng giới, gìn giữ các căn môn, biết vừa đủ trong ăn uống, chánh niệm tỉnh giác, bảy thiện pháp (tín, tàm, quí, đa văn, tấn, niệm và tuệ) và bốn thiền thuộc sắc giới. Nhờ mười lăm pháp này mà một vị Thánh đệ tử đi đến bất tử. Do đó, gọi là (giới) hạnh, như kinh nói: “ở đây này Mahānāma, một vị Thánh đệ tử có giới” (M I 355) v.v... Toàn bộ của giới hạnh này cần được hiểu như đã nói trong Trung Bộ kinh II.

Đức Thế Tôn đầy đủ ba loại minh và hạnh này, do đó Ngài được gọi là Đấng đầy đủ minh và hạnh.

32. Ở đây, minh trí của Đức Thế Tôn là sự viên mãn. Biến tri (Paṭis I 131), còn giới hạnh của Ngài là sự viên mãn tâm Ðại bi (Paṭis I 126). Nhờ biến tri, Ngài biết được cái gì là tốt cái gì là có hại cho các hữu tình, nhờ đại bi Ngài báo cho chúng biết để tránh điều hại, và khích lệ chúng làm điều lành. Ðấy là cách Ngài đầy đủ minh và hạnh, làm cho những đệ tử Ngài đi vào chánh đạo thay vì theo tà đạo như những đệ tử hành thân hoại thể của những ông thầy không có minh trí và giới hạnh đã làm.

Thiện Thệ

33. Ngài được gọi là đấng Thiện Thệ (Sugata) (i) vì cách đi tốt đẹp (sobhaṇa-gamana), (ii) vì đã đi đến một nơi tốt đẹp (sundaraṃ ṭhānaṃ gatattā), (iii) vì đã đi một cách đúng pháp (sammāgatattā), và (iv) vì tuyên bố đúng (sammāgadattā).

(i) Một cách đi (gamana) gọi là thệ (đi qua: gata), và cách đi của đấng Thế Tôn là tốt đẹp, thanh tịnh, không lỗi lầm. Cách đi đó là gì? là chánh đạo: vì nhờ cách đi đó mà Ngài đã “đi” không vướng mắc, trong chiều hướng an ổn — như vậy, Ngài là Thiện Thệ (sugata) do cách đi tốt lành.

(ii) Và ngài đã đến một nơi tốt lành (sundara), nghĩa là đến Niết Bàn bất tử — như thế, Ngài là đấng Thiện Thệ vì đã đi một nơi tốt lành.

34. (iii) Và Ngài đã đi (gata) một cách đích đáng (sammā), đi không quay trở lại những cấu uế được từ bỏ ở mỗi chặng đường. Vì điều này đã được nói: “Ngài không trở lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được từ bỏ do Dự Lưu đạo, cho nên Ngài là Thiện Thệ... Ngài không trở lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được từ bỏ nhờ A-la-hán đạo, như vậy, Ngài là Thiện Thệ” (Cựu sớ giải). Hoặc một cách giải thích khác: Ngài đã đi một cách đích đáng từ thuở phát tâm lập nguyện dưới chân đức Phật Nhiên Ðăng (Dīpaṅkara) cho đến khi giác ngộ, bằng cách hành động vì lợi lạc và hạnh phúc cho toàn thế giới, qua sự viên mãn ba mươi hai tướng hảo và qua sự đuổi theo con đường chánh không có chuyển hướng về một cực đoan nào, trong hai cực đoan là thường kiến và đoạn kiến, không theo hướng đam mê, dục lạc cũng không theo hướng ép xác khổ hạnh — như vậy, Ngài là Thiện Thệ vì đã đi một cách đích đáng.

35. (iv) Và Ngài công bố (Gadati) một cách chân chánh (sammā); Ngài đã chỉ nói lên lời đáng nói tại nơi chỗ thích đáng. Như vậy, ngài là Thiện Thệ vì tuyên bố chính đáng.

Ðây là một bản kinh xác nhận điều này: “Bất cứ lời nào đức Như lai biết là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, làm người khác buồn khổ không thích ý, Như Lai không nói lời ấy. Bất cứ lời nào Như Lai biết là thật và đúng, nhưng đưa đến tai hại, làm kẻ khác buồn không thích, lời ấy Như lai không nói. Bất cứ lời nào Như Lai biết thật và đúng, đưa đến lợi ích nhưng khó nghe và làm người khác không thích đón nhận, lời như vậy Như lai biết thời để nói ra. Lời nói nào Như Lai biết là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, nhưng dễ nghe và người khác ưa thích, lời ấy Như Lai không nói. Và lời nào đức Như Lai biết là thật và đúng, nhưng có hại, thì mặc dù vui tai và làm kẻ khác ưa thích, lời ấy Như Lai không nói. Lời nào Như Lai biết là đúng, thật, đưa đến lợi ích, dễ nghe, làm kẻ khác ưa thích, lời ấy Như Lai biết thời để nói lên.” (M I 395) — vậy, Ngài là Thiện Thệ vì tuyên bố chính đáng.

Thế Gian Giải (Hiểu rõ thế gian)

36. Ngài là đấng biết rõ thế gian, vì Ngài đã biết cuộc đời trên mọi phương diện. Vì Đức Thế Tôn đã kinh nghiệm, biết và thâm nhập thế gian về mọi mặt đặc tính riêng biệt của nó, sự sinh khởi của nó, sự chấm dứt của nó, như được nói: “Hành giả, có một chỗ tận cùng thế giới ở đây người ta không sanh, không già, không chết, không tái sinh, có thể được biết đến hay thấy hay đi đến bằng du lịch, điều ấy ta không tuyên bố. Tuy nhiên ta cũng không nói rằng có sự chấm dứt khổ mà không cần đi đến tận cùng thế giới. Ðúng hơn trong cái thân xác nhỏ bé này, với các tưởng và các thức của nó, mà ta công bố có thế giới, sự sinh khởi của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường đưa đến sự chấm dứt.

Bộ hành không đạt được
Tận cùng của thế giới
Không đạt thế giới tận,
Không phải không thoát khổ,
Do vậy, bậc hiền thiện,
Thế gian giải, thiện thệ
Ðạt đến thế giới tận,
Phạm hạnh được viên thành
Với tâm tư định tĩnh
Biết được thế giới tận,
Không ước vọng đời này
Không ước vọng đời sau (S I 69)

37. Lại nữa, có ba thế giới: thế giới các hành, thế giới của hữu tình và thế giới của xứ sở.

Ở đây trong đoạn “Một thế giới: mọi hữu tình tồn tại nhờ thức ăn” (Paṭis I 122), đây có nghĩa là thế giới của các hành. Trong đoạn: “Thế giới là trường cửu” hay “Thế giới không trường cửu (M I 426) là thế giới các hữu tình trong đoạn kinh:

"Như nhật nguyệt lưu chuyển
Sáng chói khắp mười phương
Như vậy mười phương giới
Dưới uy lực của ngươi (M I 328)

Ðó là thế giới của xứ sở. Ðức Thế Tôn cũng đã biết thế giới ấy về mọi phương diện.

38. Cũng vậy, do những lời: “Một thế giới, mọi loài hữu tình đều tồn tại nhờ thức ăn. Hai thế giới: danh và sắc. Ba thế giới: ba loại thọ. Bốn thế giới: bốn loại thức ăn. Năm thế giới: năm uẩn kể như năm đối tượng chấp thủ. Sáu thế giới: sáu nội xứ. Bảy thế giới: bảy thức. Tám thế giới: tám cảnh giới thế gian (wordly states). Chín thế giới: chín chỗ ở của hữu tình. Mười thế giới: mười xứ. Mười hai thế giới: mười hai xứ. Mười tám thế giới: mười tám giới”. (Paṭis I 122) thế giới các hành này được ngài biết trong mọi phương diện.

39. Ngài biết thói quen của tất cả hữu tình, biết những khuynh hướng nội tâm của chúng, biết tánh tình của chúng, biết sở thích của chúng, biết rõ chúng có ít bụi trong con mắt hay nhiều bụi trong con mắt, kẻ lợi căn, độn căn, thiện hạnh, ác hạnh, dễ dạy, khó dạy, có khả năng chứng đắc, và không có khả năng, thế giới những loài hữu tình này cũng được Ngài biết đến về mọi phương diện.

40. Cũng như thế giới các hữu tình, thế giới các xứ sở cũng vậy. Nó được đo lường như sau: Một thế giới bề rộng có một triệu hai trăm lẻ ba ngàn bốn trăm năm chục lý.

Chu vi của nó là
Ba triệu sáu trăm mười ngàn
Ba trăm năm chục lý.

41. Quả đất này

"Kẻ mang tất cả tài sản"
Có chiều dày hai trăm bốn chục ngàn lý ( four nahutas - 240000)
Và chỗ nương của đất:
Bốn trăm tám mươi ngàn lý (eight nahutas - 480000)
Nước ở trên hư không có bề dày chừng ấy 
Và chỗ nương của nước
Chín trăm sáu mươi ngàn lý (960000)
Là bề dày hư không trong vòm trời
Như vậy là diện tích của thế giới.

42. Diện tích là như vậy. Và trong đó có những vật sau đây:

Núi Sineru (Tu-di) cao nhất trong các núi, vọt vào biển sâu tám vạn bốn ngàn lý, và vươn cao lên cũng bằng như vậy.

Bảy vòng núi đồng tâm bao quanh Sineru cách ấy. Mỗi ngọn núi có chiều sâu và cao bằng nửa ngọn trước nó: Những dãy rộng lớn gọi Yugandhara, Īsadhara, Karavīka, Sudassana, Nemindhara, Vinataka, Assakaṇṇa.

Những ngọn gió nhẹ từ thiên giới quạt những đỉnh nhọn của chúng sáng ngời châu ngọc, và ở đây, cư trú bốn vị vua của bốn phương hướng, cùng quần tiên và phi nhân. Núi Hy Mã Lạp vươn cao năm trăm lý, chu vi ba ngàn lý được trang hoàng bằng tám vạn bốn ngàn đỉnh nhọn.

Cây Jambu là cây mượn tên của cây Nagā, do sự vĩ đại của nó,
Mà nơi có cây ấy gọi là đất của đảo Jambu, thân cây chu vi mười lăm lý,
Cao năm mươi lý, tỏa ra xung quanh những cành cũng lớn như vậy,
Như thế đường kính và chiều cao đo được một trăm lý.

43.

Dãy núi của hoàn cầu lao xuống biển sâu tám vạn hai ngàn lý
Vươn cao cũng bằng,
Viền quanh toàn thể một thế giới chủng.

Cây Jambu có chiều cao lớn bằng cây Citrapāṭaliya của loài A-tu-la, cây Simbali của loài Garuḷa, cây Kadamba ở Lục địa phía tây của loài Aparagoyana, cây Kappa ở lục địa phía bắc của loài Uttarakurus, cây Sirīsa ở lục địa phía đông của Pubbavideha cây Pāricchattaka ở cõi trời tam thập tam (Tāvatiṃsa). Do vậy cổ đức nói:

"Cây Pāṭalī, Simbali Jambu, Cây Pāricchattaka của chư thiên,
Cây Kadamba, cây Kappa và cây Sirīsa là bảy”.

44. Ðường kính của mặt trăng là 49 lý và mặt trời là năm mươi lý. Cung điện tam thập tam thiên rộng mười ngàn lý. Cũng vậy cung điện của A-tu-la, địa ngục vô gián Avīci và đảo Jambu (Ấn độ). Aparagoyāna rộng bảy ngàn lý. Cũng vậy là Pubbavideha, Uttarakurū rộng tám ngàn lý. Và mỗi đại lục được vây quanh bởi năm trăm hòn đảo nhỏ. Toàn thể những thứ ấy làm thành một thế giới chủng duy nhất. Giữa thế giới chủng này và những thế giới chủng tiếp cận có những địa ngục ở trung gian các thế giới. Bởi thế, các thế giới chủng là vô số, và Đức Thế Tôn đã kinh nghiệm, đã biết và đã thâm nhập chúng bằng trí tuệ vô biên của những Đấng Giác Ngộ.

45. Bởi vậy, thế giới về vị trí (xứ sở) cũng được ngài biết về mọi mặt. Cho nên Ngài là đấng “Thế gian giải” vì Ngài đã thấy rõ thế giới trong mọi khía cạnh.

Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu

46. Không có một người nào cao cả hơn Ngài về những đức tính đặc biệt, không có ai sánh bằng Ngài, do đó Ngài được gọi là đấng không ai trên (Vô thượng sĩ). Ngài vượt toàn thế gian về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Như đã được nói: “Ta không thấy trong thế giới với chư thiên, ma. Phạm vương, Sa-môn và Bà-la-môn, với các tiểu vương (Princes) và loài người, không một người nào toàn vẹn hơn ta về giới” (S I 139) v.v... Cũng thế trong kinh Aggappasāda (A II 34; Iti. 87) và các kinh, và trong đoạn kệ khởi đầu “Ta không có thầy, và người như ta không có trong toàn thế giới” (M I 171).

47. Ngài dẫn đạo (sāreti) những con người đáng được dẫn đạo (purisa-damme), nên Ngài là bậc dẫn đạo những người đáng dẫn đạo (purisadammasārathī): Ngài làm cho thuần thục, uốn nắn chúng. Những người, phi nhân và loài vật thuộc nam tánh (purisā) chưa được điều phục (dametuṃ yuttā) nhưng đáng được điều phục thì gọi là “những kẻ đáng được điều phục” (purisadammā). Vì những con thú giống đực, như Long vương Apalāla, Cūḷodara, Mahodara, Aggisikha, Dhūmasikha, Long Vương Aravāḷa, con voi Dhanapālaka v.v... đều được Ðức Thế Tôn điều phục, xa lìa khỏi mọi độc (cấu uế) và an trú trong các giới luật và tam quy. Cũng vậy, những người đàn ông như Saccaka con trai Ni Kiền tử, Ambaṭṭha đệ tử Bà-la-môn giáo, Pokkharasāti, Soṇadaṇḍa, Kūṭadanta v.v... Và những phi nhân nam như Āḷavaka, Sūciloma và Kharaloma, Sakka Ðế thích vua cõi trời v.v...đều được điều phục uốn nắn theo những phương tiện kỷ luật khác nhau. “Này Kesi, ta điều phục những người đáng được điều phục khi thì ôn hoà, khi thì cứng rắn, khi thì vừa ôn hòa vừa cứng rắn” (A II 112).

48. Ðức Thế Tôn lại còn điều phục những người đã được điều phục, bằng cách tuyên bố sơ thiền v.v... Lần lượt cho những người có giới đã được thanh tịnh v.v... Và công bố con đường tiến lên những đạo lộ cao cả hơn đến bậc Dự Lưu v.v...

Hoặc những chữ “Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu” có thể xem là một mệnh đề. Vì Ðức Thế Tôn dẫn đạo những người đáng điều phục cách nào để ngay trong một thời (giáo hoá) họ có thể đi khắp tám hướng không ngăn ngại (nhờ tám giải thoát). Do đó ngài được gọi là “Bậc đạo sư vô thượng của những người đáng điều phục”, như đoạn kinh sau: “này các Tỷ-kheo, được hướng dẫn bởi người luyện voi, con voi được luyện đi theo một hướng...” (M III 222).

Thiên Nhân Sư

49. Ngài dạy dỗ (anusāsati) bằng phương tiện cái hiện giờ và ở đây, bằng đời sau, và bằng mục đích tối hậu, tùy trường hợp thích đáng, cho nên Ngài là bậc Thầy (Satthar). Hơn nữa, theo Niddesa, “Ðạo sư” Đức Thế Tôn là bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, vì Ngài đưa những người lữ hành về đến nhà (sattha) (caravan). Như một người dẫn đạo lữ hành đưa chúng qua sa mạc đầy những kẻ cướp, không thức ăn, không nước uống, khiến cho chúng vượt qua, vượt qua một cách thích nghi, đưa chúng tới mảnh đất an ổn, cũng thế Đức Thế Tôn làm bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, người đưa kẻ lữ hành về đến nhà, đưa chúng vượt qua sa mạc sinh tử” (Nidd I 446).

50. Của chư thiên và loài người: được nói lên để chỉ những kẻ tốt nhất, những kẻ có khả năng tiến hoá. Vì Đức Thế Tôn đạo sư còn giáo hóa cả đến những súc sinh. Ngay loài súc sinh nhờ được nghe diệu pháp của Thế Tôn cũng có thể được lợi lạc, được tái sinh vào một cảnh giới thuận tiện cho sự tiến hoá, với sự thuận lợi này, vào kiếp tái sinh thứ hai hay thứ ba, chúng có thể dự phần vào đạo và quả.

51. Thiên tử Maṇḍūka và những ví dụ khác chứng mình điều này. Một thuở, khi Đức Thế Tôn đang giảng pháp cho những cư dân trong thành Campā, trên bờ hồ Gaggarā, có một con cóc (Maṇḍūka) nắm được một tướng ở trong tiếng nói của Ðức Thế Tôn. Một kẻ chăn bò đang chống gậy đứng gần đấy, đè chiếc gậy lên đầu con cóc nghiền nát nó. Nó chết, và ngay tức thì tái sinh ở một cung điện vàng son thuộc cõi trời ba mươi ba (Tāvatiṃsa). Nó thấy mình ở đấy như thể vừa tỉnh thức từ một giấc ngủ, giữa một đám tiên nữ, và nó thốt lên “vậy ra ta đã được tái sinh ở đây. Ta đã làm nghiệp gì?” Khi tìm hiểu lý do, nó nhận ra rằng chỉ vì nó đã hiểu được một tướng nơi tiếng nói của Đức Thế Tôn. Nó bèn đem cung điện cõi trời của nó đi đến Thế Tôn và đảnh lễ dưới chân Ngài. Ðức Thế Tôn đã biết chuyện, nhưng cứ hỏi:

Ai đảnh lễ dưới chân ta đấy?
Mà chói sáng quang minh
Của sự thành công
Chiếu sáng khắp xung quanh
Với vẻ đẹp cực kỳ mỹ lệ?

Con cóc trả lời:

Ðời trước con là một con cóc
Lấy nước ao tù làm nhà ở
Chiếc gậy mục tử chấm dứt mạng căn
Trong lúc con đang lắng nghe
Diệu pháp của Ngài.

Ðức Thế Tôn bèn giảng pháp cho nó. Tám vạn bốn ngàn chúng sinh được ngộ nhập pháp. Khi vị thiên tử được nhập trong Dự Lưu quả, vị ấy mỉm cười và biến mất.

Phật

52. Ngài là Phật, đấng đã giác ngộ với trí thuộc về quả giải thoát vì mọi sự có thể biết đã được Ngài biết (buddha).

Hoặc, Ngài khám phá (bujjhi) bốn chân lý tự mình Ngài, và giác tỉnh cho những người khác chân lý ấy, vì những lý do này và khác nữa, Ngài được gọi là giác ngộ. Ðể giải thích ý nghĩa này, có thể trích dẫn toàn đoạn văn trong Niddesa khởi đầu như sau: “Ngài là đấng tìm ra (bujjhitor) những chân lý, cho nên là Giác giả (Buddha). Ngài là đấng đánh thức chúng sinh, nên ngài là giác giả” (Nidd I 457) hoặc có thể giải thích cũng đoạn ấy từ Paṭisambhidā (Paṭis I 174).

Thế Tôn

53 Thế Tôn (Bhagavant) là một danh từ có nghĩa kính trọng tôn sùng gán cho Ngài, được xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, và nổi bật vì những đức tính đặc biệt. Cổ đức có nói:

“Thế Tôn là danh từ tốt nhất
Thế Tôn là danh từ hay nhất
Ðáng úy phục và tôn kính (Deserving awe and veneration)
Thế Tôn do đó là tên của Ngài”.

54. Hoặc giải thích: Tên có bốn loại: ám chỉ giai đoạn của cuộc đời, mô tả một điểm đặc biệt, một sở đắc đặc biệt và được khởi lên một cách tình cờ. Loại tên sau rốt này, theo thế gian thì gọi là ngẫu hứng. Ở đây, tên chỉ một giai đoạn là người danh từ như “bò tơ” (vaccha), “trâu chưa thuần” (damma), “bò kéo cày” (balivaddha) v.v... Tên ám chỉ một đặc điểm như những danh từ “người mang gậy” (daṇḍin), “người che dù” (chattin), “người mang búi tóc” (sikhin) “kẻ có tay” (karin - con voi) v.v... Tên có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt là những danh từ như “người có ba minh” (tevijja) “người có sáu thông” (chaḷabhiñña) v.v... Còn những tên như “sirivaḍḍhaka” (người tăng vẻ sáng chói) “dhanavaḍḍhaka” (người tăng tài sản) v.v... là những tên khởi lên một cách tình cờ, chúng không có tương ứng với ý nghĩa của danh từ.

55. Tên gọi này, Thế Tôn, là một danh từ có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt; nó không được tạo bởi hoàng hậu Māyā hay vua Suddhodana hay bởi tám mươi ngàn quyến thuộc, hay bởi những vị trời đặc biệt như Sakka, Santusita, và những vị khác. Và bậc Tướng quân chánh pháp (Sāriputta) nói như sau “Thế Tôn” Ở đây không phải cái tên do mẹ đặt ra. Ðây là một tên phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo của những Đấng Giác Ngộ, những đấng Thế Tôn, cùng với sự đạt được chánh biến tri dưới cội cây bồ đề; cái tên gọi Thế Tôn “này là một danh xưng dựa trên sự chứng đạt” (Paṭis I 174; Nidd I 143).

56. Ðể giải thích những đức tính đặc biệt mà danh xưng này ám chỉ, đoạn kệ sau đây được trích dẫn:

Ðấng đạo sư (garū) có phước, lạc (bhagī: blessing);
Ngài là người thường lui tới (bhajī),
Người sở hữu (bhāgī)
Những gì được phân tích (vibhattavā);
Ngài đã tạo ra sự từ bỏ (bhaggga),
Ngài là người may mắn (bhāgyavā)
Ngài đã phát triển toàn vẹn (subhāvitattano) trong nhiều cách
Ngài đã đi đến tận cùng của các hữu (bhavantago);
nên Ngài được gọi là Thế Tôn (bhagavā)

Ý nghĩa những danh từ này cần được hiểu theo phương pháp giải thích trong Niddesa (Nidd I 142).

57. Nhưng còn một cách khác:

"Ngài là người may mắn (bhagyavā), có được sự từ bỏ (bhaggavā), liên hệ đến hạnh phúc (yutto bhagehi), một người sở hữu những gì đã được phân tích (vibhattavā)”. Người đã lui tới (bhattavā) “Ngài đã lui được phân tích (vibhattavā) và đã từ bỏ sự đi vào những cõi hữu, nên ngài là Thế Tôn”.

58. Ở đây bằng cách sử dụng đặc tính của ngôn ngữ khởi đầu là những ví dụ “phát triển hình thức, thay đổi hình thức” hoặc bằng cách sử dụng đặc tính “định tính” khởi đầu bằng những ví dụ “có bụng màu lốm đốm” v.v... (xem Pāṇini, Gaṇapāṭha, 6, 3, 109), có thể biết rằng Ngài cũng có thể được gọi là Thế Tôn (Bhagavant) khi đã được gọi là May mắn (bhāgya) do Ngài đã có may mắn đạt đến toàn thiện về Thí và Giới v.v... là những điều kiện phát sinh phúc lạc thế gian và xuất thế gian.

59. Tương tự như vậy, Ngài có thể được gọi là bhagavā vì Ngài đã được gọi là “có sự từ bỏ” (bhaggavā) do những đe dọa (abhañji) sau đây đã được từ bỏ. Ngài đã từ bỏ cả trăm ngàn thứ phiền não, lo lắng và ô nhiễm được phân loại thành tham, sân, si thất niệm; vô tàm và vô quý, phẫn hận (anger and enmity), khinh bỉ và thống trị, ganh tị và tham lam, lừa dối và gian lận, cứng đầu và tự kiêu, ngã mạn và cao ngạo, khoe khoang và lơ đễnh, khát ái và ngu si; ba bất thiện căn, các loại tà hạnh, ô nhiễm, cấu uế, ảo tưởng, tầm tư duy và những phân biệt; bốn điên đảo, lậu hoặc, triền cái, bộc lưu, hệ phược, thói xấu, khát ái, chấp thủ; năm tâm hoang vu, tâm ách phược, những triền cái và những loại ưa thích; sáu căn và những nhóm khát ái; mười bất thiện nghiệp; 62 tà kiến; 108 lối cư xử thuộc về tham ái — nói tóm lại là năm thứ ma phiền não, ma ngũ ấm, ma hành nghiệp, thiên ma và tử ma.

Từ bỏ (bhagga) tham sân si
Ngài không còn lậu hoặc,
Ác pháp được tận trừ
"Thế Tôn” xứng tên gọi.

60. Sự may mắn hạnh phúc của Ngài (bhāgyavata) được chứng tỏ bằng sắc thân đủ trăm công đức, và sự tận trừ các lỗi được chứng tỏ bởi tính cách toàn vẹn của pháp thân Ngài. Hạnh phúc của ngài chỉ sự tôn trọng của thế gian, sự dứt trừ lậu hoặc nơi ngài chỉ sự tôn trọng của những bậc giống như Ngài. Thân hạnh phúc của Ngài được tin cậy của người thế tục, sự từ bỏ lỗi lầm đáng được tin cậy của người xuất gia. Và khi cả hai hạng người này nương tựa nơi Ngài, thì chúng được cứu vớt khỏi thân khổ và tâm khổ, được cứu giúp bằng tài thí lẫn pháp thí, chúng có thể tìm được cả hai thứ phúc lạc thế gian và xuất thế gian.

61. Ngài cũng được gọi là bhagavā (Thế Tôn) vì Ngài liên hệ đến hạnh phúc (bhagehi yuttattā): trong đời, danh từ hạnh phúc được dùng để chỉ sáu thứ là sự làm chủ, pháp, danh tiếng, sáng chói, nguyện, tinh tấn. Ngài đã đạt được sự làm chủ tối thượng trên tâm của Ngài. Ngài có đầy đủ pháp thế gian là các thần thông “hiện thân hình thật nhỏ” (aṇimā: như vi trần), “làm thân nhẹ bổng” (laghimā: làm thân nhẹ đi trên hư không) v.v... Cũng như pháp xuất thế, ngài lại có danh tiếng hoàn toàn thanh tịnh được lan truyền khắp ba cõi. Ngài có vẻ sáng chói của tứ chi, toàn vẹn trong mọi vẻ, có thể làm đẹp mắt những người ưa nhìn thấy sắc thân của Ngài. Ngài có nguyện, nghĩa là phát sinh những thứ cần dùng, bất cứ gì Ngài cần đến và mong ước để tự lợi và lợi tha đều được phát sinh ngay tại chỗ tức khắc cho Ngài dùng. Ngài có sự tinh tấn, nghĩa là chánh tinh tấn, lý do làm cho toàn thể thế gian tôn sùng Ngài.

62. Ngài còn được gọi là bhagavā vì Ngài là đấng “sở hữu những gì đã được phân tích” (vibhattavā), như Ngài đã phân tích và thuyết minh các pháp thành ba loại là thiện, ác và vô ký v.v... Hoặc phân tích các pháp thiện v.v... Thành ra những pháp như uẩn, xứ, giới, đế (chân lý), căn, duyên khởi v.v... Hoặc phân tích khổ đế thành những nghĩa như bức bách, hữu vi, đốt cháy, thay đổi. Tập đế thành những nghĩa tích lũy, nguồn gốc, trói buộc, chướng ngại. Diệt đế thành những nghĩa giải thoát, viễn ly, vô vi, bất tử, và Ðạo đế thành những nghĩa lối ra, nguyên nhân, sự thấy rõ và sự ưu thắng. Ngài đã phân tích, đã khai thị, đã chỉ ra những ý nghĩa ấy.

63. Ngài có thể được gọi là bhagavā (Thế Tôn) khi Ngài được gọi là một người “đã lui tới (bhattavā)” do Ngài đã lui tới (bhaji), đã thân cận, đã thường xuyên thực hành những pháp thế gian và xuất thế gian, siêu nhân, như ba trú là thiên trú, phạm trú và Thánh trú; ba thứ viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly, và hữu viễn ly; ba giải thoát là không vô tướng, vô nguyện, và những thứ khác nữa.

[Ba trú là “thiên trú” = kasiṇa thiền, “phạm trú” = tứ thiền v.v... “Thánh trú” = đắc quả. Về ba thứ viễn ly, xem Ch. IV, phần chú thích]

64. Ngài có thể được gọi là bhagavā (Thế Tôn) vì Ngài được gọi là đấng “đã từ bỏ sự đi vào các loại hữu” (vantagamano bhavesu), vì đối với ba loại hữu (bhava), sự đi vào (gamana) hay nói cách khác, sự khát ái đã được Ngài từ bỏ (vanta). Âm bha từ chữ bhava, âm ga từ chữ gamana, và âm va từ chữ vanta với chữ a dài ra, làm thành bhagavā.

65. Khi thiền giả nhớ lại những đức đặc biệt của Phật theo cách sau: “Vì lý do này Đức Thế Tôn là bậc A-la-hán... Vì lý do này Ngài là Thế Tôn”, thì ngay khi ấy hành giả không bị ám ảnh bởi tham hay sân, hay si, tâm vị ấy có được sự ngay thẳng, nhờ cảm hứng từ Đấng Toàn Thiện” (A III 285).

66. Bởi thế, khi hành giả đã dẹp trừ những triền cái bằng cách ngăn ngừa những ám ảnh của tham v.v... Và tâm hành giả đối diện với đề mục thiền quán một cách ngay thẳng, thì tầm và tứ sinh với một khuynh hướng thiên về những đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ. Khi hành giả tiếp tục luyện tầm và tứ trên đối tượng là những đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ, thì hỷ khởi lên nơi hành giả. Với tâm có hỷ, với hỷ là nguyên nhân gần, sự rối loạn của thân và tâm được an tĩnh nhờ khinh an, thân lạc và tâm lạc khởi lên. Khi có lạc, tâm hành giả, với những đức tính đặc biệt của Thế Tôn làm đối tượng, trở nên định tĩnh và như vậy cuối cùng những thiền chi khởi lên cùng một loạt. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ, hoặc vì hành giả bận tâm tưởng niệm những đức tính đặc biệt thuộc nhiều loại, cho nên chỉ đạt được định cận hành, không đạt đến định an chỉ. Và chính cận hành định ấy cùng được gọi là “niệm Phật”, vì nó khởi lên nhờ tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Thế Tôn.

67. Khi một Tỷ-kheo chú tâm đến việc tưởng niệm đấng Giác Ngộ như vậy, vị ấy cung kính tôn trọng Đức Đại Sư, đạt đến sự viên mãn đức tin, chánh niệm, trí tuệ và công đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúc và an lạc, chinh phục được sự sợ hãi khủng bố. Vị ấy cảm giác như mình đang sống trước mặt Đấng Đạo Sư. Thân xác vị ấy khi trú trong tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Phật, trở thành đấng tôn trọng như một điện thờ Phật. Tâm vị ấy hướng về chư Phật. Khi gặp một cơ hội phạm giới, hành giả cảm thấy tàm quý, như thế đang đứng trước mặt Đấng Đạo Sư. Dù cho hành giả không thâm nhập được gì cao siêu, thì ít nhất cũng tiến đến một cảnh giới an lạc.

Người thực sự có trí,
Thì thường xuyên tưởng niệm
Các đức của Thế Tôn
Ðấng an lạc vĩ đại.

Trên đây là đoạn nói về sự tưởng niệm Thế Tôn, với giải thích chi tiết.

Niệm Pháp

68. Một người muốn tu tập đề mục niệm pháp, hãy đi vào độc cư và tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Pháp (Luật và Kinh tạng cùng chín pháp xuất thế) như sau: “Pháp” được Đức Thế Tôn khéo giảng, tự chứng ngay hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có hiệu năng hướng thượng, được người có trí chứng biết” (M I 37; A III 285).

Khéo thuyết giảng

69. Khéo thuyết giảng: mệnh đề này bao gồm pháp của kinh điển cũng như pháp khác, những mệnh đề còn lại ám chỉ riêng pháp xuất thế. Pháp thuộc kinh điển được khéo thuyết giảng, vì tốt đẹp ở chặn đầu, chặn giữa và chặn cuối, và nó tuyên bố đời sống phạm hạnh hoàn toàn viên mãn trong sạch, với đầy đủ ý nghĩa và chi tiết” (M I 179). Ngay cả một bài kệ, một đoạn kinh trong giáo lý của Đức Thế Tôn cũng tốt đẹp ở chặn đầu với dẫn nhập, ở chặn giữa với những gì nó trình bày và tốt đẹp ở chặn cuối với kết luận. Một quyển kinh tốt đẹp ở chặng đầu với dẫn nhập, cho biết nơi chốn và lý do (duyên khởi) thuyết kinh, tốt đẹp ở chặn giữa vì thích hợp với những người đáng giáo hóa, vì ý nghĩa không mơ hồ, được lập luận có nhân và dụ, và tốt đẹp ở chặn cuối với kết luận làm khởi lên tín tâm nơi người nghe.

70. Cũng vậy toàn bộ giáo lý tốt đẹp ở chặn đầu với giới là sự an lạc bản thân, chặn giữa với định, Tuệ, đạo, quả, và tốt đẹp ở chặn cuối với Niết Bàn. Hoặc tốt đẹp ở chặn đầu vì giới và định. Tốt đẹp ở chặn giữa vì Tuệ và đạo. Tốt đẹp ở chặn cuối vì quả và Niết Bàn. Hoặc, giáo lý tốt đẹp ở chặn đầu vì là sự khám phá tốt đẹp của Ðức Phật. Tốt đẹp ở chặn giữa vì tính chất khéo điều hòa của pháp. Tốt đẹp ở chặn cuối vì đó là đạo lộ tốt mà tăng già đã đi vào.

71. Do nghe pháp mà những triền cái được trừ khử, đó là tốt đẹp ở chặn đầu. Do thực hành pháp mà có lạc khinh an và tuệ là tốt đẹp ở chặn giữa. Kết quả Pháp ấy đem lại là đạo và quả, đưa đến sự bất động gọi là tốt đẹp ở chặn cuối.

72. “Ðời sống phạm hạnh” nghĩa là đời sống phạm hạnh theo giáo lý và đời sống phạm hạnh thuộc đạo lộ mà Ðức Thế Tôn thuyết giảng, đời sống phạm hạnh ấy là “có ý nghĩa” vì có thể được người trí giảo nghiệm, “có chi tiết” vì gợi niềm tin nơi người thường. Nó có ý nghĩa vì có mục đích sâu xa. Nó có chi tiết vì danh tự rõ ràng. Nó “hoàn toàn viên mãn” vì không có điều gì có thể thêm. Nó “trong sạch” vô cấu vì không có điều gì có thể bớt. Lại nữa, pháp có nghĩa vì nó đem lại quả chứng nhờ thực hành đạo lộ, và có chi tiết vì đem lại sự đa văn nhờ nắm vững kinh điển. Pháp là hoàn toàn viên mãn vì liên hệ đến năm pháp uẩn là Giới uẩn, Ðịnh uẩn, Tuệ uẩn, giải thoát uẩn, Giải thoát tri kiến uẩn. “Trong sạch” vì không có khuyết điểm, vì nó tồn tại cho mục đích vượt qua bộc lưu luân hồi sinh tử (M I 134) và vì nó không liên hệ đến những chuyện thế tục.

73. Lại nữa, khéo giảng vì Pháp được tuyên bố một cách thích đáng không ngược. Ngoại đạo thì ngược ở chỗ, cái được xem chướng ngại không phải chướng ngại thực, cái được xem là lối thoát không phải là lối thoát thực, do đó pháp của ngoại đạo là vụng giảng. Những Pháp Thế Tôn giảng thì không ngược như vậy: những Pháp Ngài gọi là chướng ngại thực sự là chướng ngại, những Pháp Ngài gọi là giải thoát thực sự là giải thoát.

Như vậy, trước hết, Pháp của kinh điển là pháp “khéo giảng”.

74. Pháp xuất thế gian là “khéo thuyết giảng” vì đạo lộ phù hợp với Niết Bàn, và Niết Bàn phù hợp với đạo lộ, “con đường đưa đến Niết Bàn đã được Thế Tôn tuyên bố một cách thích đáng cho các đệ tử, Niết Bàn và đạo lộ phù hợp nhau. Cũng như nước của sông Hằng gặp và tiếp nối với nước sông Yamunā, cũng vậy, con đường dẫn đến Niết Bàn đã được Đức Thế Tôn công bố một cách thích đáng cho các đệ tử, Niết Bàn và đạo lộ gặp gỡ” (D II 225).

75. Và Thánh đạo, con đường Trung đạo không thiên cực đoan nào, là được “khéo thuyết giảng”. Các quả Sa-môn cũng được “khéo thuyết giảng” khi được công bố là những cấu uế đã thanh tịnh. Niết Bàn, cũng được khéo giảng khi được công bố bản chất là thường, bất tử, nơi trú ẩn, chỗ nương tựa v.v... Bởi vậy, pháp xuất thế cũng được “khéo thuyết giảng”.

Thiết thực hiện tại

76. Thiết thực hiện tại: trước hết, Thánh đạo là “thiết thực hiện tại” vì có thể thấy được bởi một con người cao quý khi đã xa lìa tham dục v.v... Nơi bản thân: “Này Bà-la-môn, khi một người bị nhuốm bởi tham, bị tràn ngập, tâm bị ám ảnh bởi tham, thì nó suy nghĩ hại mình, hại người, hại cả hai, và cảm thọ đau khổ về tâm. Khi tham đã được trừ diệt, nó không suy nghĩ hại mình, hại người, hại cả hai, và không cảm thọ đau khổ về tâm. Ðây, này Bà-la-môn, là pháp thiết thực hiện tại” (A I 156).

77. Lại nữa, pháp xuất thế có chín loại cũng là thiết thực hiện tại vì khi một người đã đạt đến đấy, thì pháp ấy tự người này thấy được, người tri kiến thẩm sát, không cần nương tựa người khác.

78. Hoặc, kiến (diṭṭhi) thích hợp (pasattha quá khứ của ngữ căn: sams) gọi là sandiṭṭhi pháp chinh phục người ta nhờ tính cách có thể thấy được kết quả ngay trong hiện tại, nên gọi là thiết thực hiện tại. Thánh đạo chinh phục được những phiền não nhờ thấy đúng, Thánh quả và Niết Bàn cũng chinh phục phiền não nhờ chánh kiến làm nhân.

79. Hoặc, cũng có thể giải thích rằng, vì pháp xuất thế (luật) làm ngưng cái vòng khủng khiếp nghiệp v.v... Ngay khi nó vừa được trông thấy nhờ tuệ thể nhập, nên pháp là thiết thực hiện tại vì đáng được thấy.

Không thuộc thời gian

80. Không thuộc thời gian: Pháp ấy không có chậm trễ trong việc đem lại kết quả, nên gọi là không có thời gian (akāla). Nghĩa là, thay vì triển hạn (kéo dài, trì hoãn) một thời gian dài lâu, năm, bảy ngày, mới cho kết quả, thì pháp đem lại kết quả ngay tức thì.

81. Hoặc, cái gì cần một thời gian để cho kết quả là pháp thế gian về thiện (nghiệp). Nhưng pháp này thì không cần thời gian vì kết quả của nó đến ngay, nên gọi là không thuộc thời gian. Ðiều này được nói về đạo lộ hay con đường.

Ðến để mà thấy

82. Ðến để mà thấy: pháp này đáng mời gọi người ta thẩm sát (ehipassa-vidhi) như sau: “hãy đến đây mà thấy pháp này” (ehi passa imaṃ dhammaṃ), cho nên gọi là “đến để mà thấy” (ehipassika). Tại sao Pháp đáng được mời gọi đến mà thấy? Vì đã được tìm thấy và vì thanh tịnh. Nếu một người bảo có tiền hay vàng trong một nắm tay không (tức là nói láo) thì nó không thể bảo “đến đây mà xem”. Mặt khác, phân tiểu có thể thấy, nhưng ta không thể làm người khác hoan hỷ bằng cách khoe “Ðến mà xem cái này”, trái lại, phải lấy cỏ lá mà che cho khuất con mắt vì bất tịnh. Nhưng, pháp xuất thế với chín thành phần thực sự đã được tìm thấy và thuần tịnh như trăng rằm trong bầu trời không mây, như ngọc mani trên tấm vải sạch. Bởi thế, Pháp đáng mời gọi ta “đến mà thấy”.

Dẫn tới trước

83. Pháp này với bốn đạo bốn quả là đáng dẫn dụ, nói cách khác, đáng khơi dậy trong tâm người ta bằng cách tu tập, dù cho y phục hay đầu của ta đang bốc cháy (A IV 520). Do đó pháp này gọi là “Dẫn tới trước” hay hướng thượng (Opanayika). Ðiều này áp dụng cho tám pháp xuất thế hữu vi đã nói trên, còn pháp xuất thế vô vi thì đáng trở thành đối tượng của tâm, nên cũng là “dẫn tới trước”, nghĩa là đáng được xem như chỗ trú ẩn của ta bằng cách chứng nhập.

84. Hoặc cái dẫn dụ (upaneti) người Thánh thiện đến Niết Bàn chính là Thánh đạo. Lại nữa, cái có thể đưa đến giác ngộ là Pháp gồm quả và Niết Bàn.

Ðược người trí chứng biết

85. Ðược người trí chứng biết: Pháp ấy có thể được chứng nghiệm bởi tất cả hạng người trí khởi từ hạng “lợi tuệ” (acutely wise) (A II 135) mỗi người tự chứng lấy như sau: “Đạo ta đã tu, quả ta đã đạt được, diệt ta đã chứng (cessation realized)”. Vì không thể xảy ra cái việc một vị giáo thọ sư tu đạo mà người đồng trú với vị ấy lại từ bỏ được cấu uế, hay người đồng trú được an lạc nhờ vị giáo thọ sư đắc quả, hoặc chứng Niết Bàn nhờ vị giáo thọ sư đã chứng. Bởi thế, Pháp này không thể được thấy như người ta thấy vật trang sức trên đầu người khác, mà chỉ được thấy trong tự tâm mình, nghĩa là chỉ có người có trí kinh nghiệm, không phải lãnh vực của kẻ ngu.

86. Lại nữa, Pháp này khéo thuyết giảng vì nó thiết thực hiện tại, vì không bị triển hạn. Nó không bị triển hạn vì mời gọi sự thẩm sát thì có tính cách hướng tới trước.

87. Khi thiền giả suy nghiệm những đức tính đặc biệt của Pháp như vậy, “thì ngay lúc ấy, tâm vị ấy không bị ám ảnh bởi tham dục, sân nhuế, ngu si, tâm vị ấy ngay lúc đó được ngay thẳng nhờ cảm hứng từ pháp” (A III 285).

Bởi vậy, khi hành giả đã đạt được những triền cái theo cách đã nói (đoạn 66), thì những thiền chi khởi lên trong một tâm sát-na. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính đặc biệt của pháp, hoặc vì hành giả bận tâm tưởng niệm nhiều đức tính đặc biệt thuộc nhiều loại, cho nên thiền vị ấy đạt được chỉ là cận hành định, không đạt đến định an chỉ.

88. Khi một Tỷ-kheo chuyên tâm tưởng niệm pháp, vị ấy nghĩ: “Trong quá khứ, ta chưa từng gặp một bậc thầy nào dạy một pháp hướng thượng như thế, có tài năng như thế, ta cũng không thấy một bậc thầy nào như Đức Thế Tôn. Vì thấy những đức đặc biệt của pháp như vậy, vị ấy tôn trọng cung kính Đấng Đạo Sư, tôn trọng pháp và đạt đến viên mãn về tín v.v... Vị ấy được nhiều hạnh phúc và hân hoan. Vị ấy nhiếp phục được sợ hãi khủng bố, có khả năng nhẫn khổ, cảm thấy như thể đang sống với pháp hiện tiền. Và thân của hành giả, khi an trú trong sự niệm pháp, trở thành vật đáng tôn trọng như một điện thờ. Tâm vị ấy hướng đến sự thành tựu Pháp vô tỷ. Gặp phải cơ hội phạm giới, hành giả có ý thức tàm quí mãnh liệt khi tưởng đến pháp. Và nếu hành giả không thâm nhập được cái gì cao siêu hơn, thì ít nhất cũng tiến đến một cõi an lạc.

Người thực sự có trí,
Thì thường xuyên tu tập
Sự tưởng niệm về Pháp
Tối thắng nhiều tiềm năng.

Niệm Tăng

89. Một người tu tập niệm tăng, nên đi vào độc cư để tưởng niệm những đức tính đặc biệt của đoàn thể Thánh chúng như sau: “Chúng đệ tử của Thế Tôn đã đi vào thiện đạo, trực đạo, chân đạo, chánh đạo, nghĩa là bốn đôi tám vị. Chúng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, cung kính, chắp tay chào, là phước điền vô thượng của thế gian” (A III 286).

90. Ði vào thiện đạo (supaṭipanna) có nghĩa là hoàn toàn nhập đạo, và đó là đạo lộ chân chính (sammā-paṭipadā), con đường không thể đảo lộn, con đường phù hợp với chân lý, con đường không có đối lập, con đường được điều hòa bởi pháp. Chúng đệ tử này nghe (suṇanti) một cách chăm chú lời dạy của đấng Thế Tôn, cho nên gọi chúng là Thanh Văn (sāvaka: người nghe). Chúng đệ tử là hội chúng những Thanh Văn này, cùng chung giới và (chánh) kiến. Ðạo lộ ấy là trực đạo, không bị cong, không có móc (không quanh co) (uncrooked), không khuất khúc, gọi là Thánh đạo, chân đạo, chánh đạo, bởi vì nó phù hợp (với chân lý).

91. Những người đứng trên đạo lộ ấy có thể xem là đã thể nhập thiện đạo, vì có chân đạo. Những người an trú trong quả vị có thể xem là đã thể nhập thiện đạo, vì nhờ chân đạo mà họ đã chứng những gì phải chứng.

92. Lại nữa, hội chúng ấy đã đi vào trực đạo là con đường trung đạo, tránh hai cực đoan, con đường từ bỏ những lỗi của thân cong và lời cong. Hội chúng ấy đi vào chân đạo vì Niết Bàn được gọi là “chân thật”, và vì lấy Niết Bàn làm mục tiêu. Hội chúng đã đi vào chánh đạo là con đường của những người đáng được tôn trọng.

93. Bốn đôi: người có đạo thứ nhất và quả thứ nhất là một đôi, theo cách ấy có bốn đôi. Tám vị kể từng người thì người đứng ở đạo lộ thứ nhất là một người, đứng ở quả vị thứ nhất là một người, như vậy có tám vị.

94. Ðáng cúng dường: Những gì đáng được mang (ānetvā) và cho (hunitabba) là một tặng vật (āhuna: vật tế lễ), có nghĩa là những vật được mang từ xa đến và tặng cho những người có giới hạnh. Ðấy là một danh từ chỉ tứ sự cúng dường. Chúng tăng đáng được những tặng vật vì làm cho tặng phẩm có kết quả lớn, nên gọi là đáng cúng dường (āhuneyya).

95. Cũng như ngọn lửa của Bà-la-môn thờ lửa được gọi là đáng dâng lễ cúng, vì những người này tin tưởng rằng sự cúng tế cho ngọn lửa ấy mang lại kết quả lớn. Chúng tăng cũng vậy, đáng được cúng dường bởi vì những gì cúng dường cho chúng tăng được kết quả lớn.

Dù trải một trăm năm
Thờ lửa tại rừng sâu
Chẳng bằng trong giây lát
Cúng dường bậc chân tu (Dhp 107).

96. Xứng đáng sự mời thỉnh (pāhuneyya): pāhuna là danh từ chỉ tặng phẩm dành cho khách phương xa đến. Nhưng không có đối tượng nào xứng đáng nhận sự thỉnh mời hơn là tăng chúng, vì Tăng là những vị được gặp trong thời gian giữa hai vị Phật, và Tăng có những đức tính hoàn toàn đáng mến mộ.

97. Cúng dường (dakkhiṇa): tặng phẩm vì lòng tin ở đời sau, gọi là đồ cúng dường. Chúng tăng đáng cúng dường vì làm thanh tịnh những thứ cúng thí bằng cách đem lại quả báo lớn.

Chúng tăng đáng cho toàn thể thế gian chào kính: (añjali-kamma) bằng cách chấp tay lên đầu cho nên gọi là đáng tôn trọng kính chào (añjalikaraṇīya).

98. Là ruộng phước vô thượng của thế gian: một nơi không có gì sánh bằng trong thế gian, để gieo trồng phước đức. Vì các loại công đức thế gian đưa đến an lạc và hạnh phúc, nếu y cứ vào Thánh chúng để tăng trưởng nên chúng tăng là “ruộng phước vô thượng của thế gian”.

99. Khi hành giả tưởng niệm những đức đặc biệt của Tăng như thế, thì “tâm hành giả không bị tham, sân, si ám ảnh, có được sự chất trực (chính trực) (rectitude), vì cảm hứng từ chúng tăng” (A III 286). Sau khi hành giả nhiếp phục những triền cái như đã nói (đoạn 66) những thiền chi khởi lên trong một tâm sát-na. Nhưng vì tính chất sâu xa của những đức đặc biệt của Tăng, hay vì tâm hành giả bận tưởng đến những đức đặc biệt thuộc nhiều loại, nên thiền đạt được chỉ là cận hành định, mà không phải là định an chỉ.

100. Khi một Tỷ-kheo chuyên tâm tu tập sự niệm tăng này, thì vị ấy có thái độ cung kính, tôn trọng đối với chúng tăng. Vị ấy được sự viên mãn về tín v.v... Vị ấy có nhiều hạnh phúc an lạc. Vị ấy nhiếp phục được sợ hãi và khủng bố. Vị ấy có khả năng nhẫn khổ. Vị ấy cảm thấy như mình đang sống với sự hiện diện của chúng tăng. Và thân thể của vị ấy, khi an trú trong sự niệm tăng, trở thành đáng tôn trọng như một ngôi nhà làm lễ bố tát, ở đó chư tăng tụ hội. Tâm vị ấy hướng đến sự thành đạt những đức tính đặc biệt của tăng. Khi hành giả gặp phải cơ hội phạm giới, vị ấy liền có ý thức tàm quý mãnh liệt như đang ở trước mặt chúng tăng. Và nếu hành giả không lên được địa vị nào cao hơn, thì ít nhất cũng hướng đến một cảnh giới hạnh phúc.

Người thực sự có trí,
Thì công niệm thường xuyên
Là tưởng niệm Tăng bảo
Có tiềm năng vĩ đại.

Niệm Giới

101. Người muốn tu pháp niệm giới nên đi vào độc cư và tưởng niệm đến những loại giới khác nhau của chính mình, trong những đức tính đặc biệt của chúng như không bị rách v.v... Như sau: “Quả vậy, các loại giới khác nhau của ta đều không bị rách, vá, bị lủng, bị ố, bị lốm đốm, giải thoát, được người trí khen ngợi, không liên hệ, đưa đến định” (A III 286). Cư sĩ niệm giới tại gia, Tỷ-kheo niệm giới xuất gia.

102. Dù giới tại gia hay xuất gia, nếu không bị phá hủy ở chặn đầu hay chặn cuối, không bị rách như miếng giẻ rách ở hai đầu, thì giới ấy gọi là không bị rách. Nếu không một học giới nào bị phá ở chặn giữa thì gọi là giới không bị lủng, như miếng vải không bị đâm thủng ở giữa. Khi học giới không bị vi phạm hai ba lần liên tiếp, gọi là giới không bị vá như một con bò có một miếng da khác màu ở lưng hay bụng. Khi giới không bị phá cùng khắp, cách nhau từng thời khoản, thì gọi là giới không bị lốm đốm như con bò có những đốm trên toàn thân.

103. Hoặc, nói chung, giới không bị rách, bị lủng, bị vá, bị lốm đốm, là khi giới ấy không bị tổn hoại do bảy hệ luỵ thuộc về dục tính (Ch. I, 44) và do sân, hận, cùng những ác pháp khác (xem đoạn 59).

104. Chính những giới ấy là giải thoát vì chúng giải tỏa khỏi sự nô lệ cho dục ái. Chúng được người trí tán thán vì được những bậc trí như Đấng Giác Ngộ khen ngợi. Chúng không liên hệ vì không liên hệ (aparāmaṭṭha) với dục và tà kiến, hoặc vì không thể có sự hiểu lầm (parāmaṭṭhuṃ) rằng “Có khuyết điểm này trong giới của chư vị”. Chúng đưa đến định vì hỗ trợ cho định cận hành và định an chỉ, hoặc cho định thuộc đạo và định thuộc quả.

105. Khi hành giả tưởng đến những giới của mình trong những đức tính đặc biệt của chúng, là không bị rách v.v... “Thì ngay khi ấy, tâm vị ấy không bị tham, sân, si ám ảnh, có được tính chất trực, vì được cảm hứng từ giới” (A III 286). Bởi vậy khi hành giả đã nhiếp phục được những triền cái theo cách đã mô tả (66), thì những thiền chi khởi lên trong một tâm sát-na. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức đặc biệt của giới, hoặc vì tâm hành giả bận tưởng đến nhiều đức tính đặc biệt, thiền đạt được chỉ là cận hành định, không đạt đến định an chỉ.

106 . Khi chuyên tâm vào việc niệm giới, thì hành giả có sự tôn trọng đối với học pháp. Vị ấy sống hòa hợp với những bạn đồng phạm hạnh. Vị ấy chuyên cần chào đón. Vị ấy không sợ tự mình trách cứ mình v.v... Vị ấy thấy sự sợ hãi trong những lỗi nhỏ. Vị ấy đạt đến viên mãn về tín v.v... Vị ấy có nhiều hạnh phúc an lạc. Và dù không đạt đến quả vị gì cao hơn ít nhất vị ấy cũng hướng đến một thiện thú.

Người thật sự có trí,
Sẽ thường xuyên niệm giới
Vì việc này tốt đẹp
Với tiềm năng vĩ đại.

Niệm Thí

107. Muốn tu tập niệm thí nên chuyên bố thí một cách tự nhiên, thường cho và san sẻ. Khởi đầu, nên có quyết định: “Từ nay trở đi, lúc nào có người hiện diện để nhận, thì ta sẽ không ăn dù chỉ một miếng, nếu không bố thí một cái gì trước đó”. Và ngay hôm ấy hành giả nên bố thí một vật gì bằng cách san sẻ tùy phương tiện và khả năng, với những người có những đức tính đặc biệt. Khi đã nắm được tướng trong việc này, hành giả nên đi vào độc cư và tưởng niệm đến sự bố thí của mình trong những đức tính đặc biệt của nó là không có lòng tham v.v... Như sau: “Thật sự là lợi lạc cho ta, thật là lợi ích lớn cho ta, rằng trong cuộc đời bị ám ảnh bởi ô nhiễm của lòng tham (biển lận) ta an trú với tâm không bị ô nhiễm bởi tham. Ta bố thí một cách rộng rãi bàn tay rộng mở, thích thú trong sự từ bỏ, mong được kẻ khác yêu cầu và vui mừng được cho được san sẻ” (A III 287).

108. Ở đây, thật là lợi lạc cho ta: Ta nhất định được những lợi lạc của một người bố thí mà Đức Thế Tôn đã khen ngợi như sau: “Người cho mạng sống (bằng cách bố thí đồ ăn) thì sẽ được mạng sống hoặc cõi trời hoặc cõi người” (A III 42) và “Một người thường bố thí thì được nhiều người lui tới và mến mộ” (A III 40), và “một người bố thí thì luôn luôn được yêu mến, theo định luật của bậc trí” (A III 41) v.v...

109. Thật là lợi ích lớn cho ta, lợi ích lớn ở chỗ ta đã được giáo pháp, được thân người, lại được an trú với tâm không ô nhiễm vì xan tham... Vui thích bố thí và san xẻ.

110. “Trong cuộc đời bị ám ảnh bởi ô nhiễm của lòng tham” nghĩa là giữa những chúng sanh có tham tràn ngập. Ðời là chúng sanh, có nghĩa đã được sinh ra. Tham là một trong những hắc pháp làm hỏng bản tính trong suốt tự nhiên của tâm (xem A I 10). Tham có đặc tính là không thể chịu nổi sự san sẻ hạnh phúc cho người khác.

111. Ta an trú với tâm không bị ô nhiễm bởi tham: tâm không có tham và những ô nhiễm khác như sân, si v.v... Trong đoạn kinh: “Ta sống đời tại gia với tâm giải thoát” (A III 267; A V 331) v.v... Câu này được nói cho người thuộc dòng họ Sakya tên Mahānāma, một người đắc dự lưu quả, khi vị này hỏi về một chỗ trú cho tâm. Trong trường hợp này, ý nghĩa là “Ta sống vượt qua tham” (sân, si v.v...).

112. Bố thí một cách rộng rãi: rộng rãi trong sự bố thí. Với bàn tay rộng mở: với những bàn tay thanh tịnh, luôn luôn rửa sạch để cho tặng quà một cách cẩn trọng bằng chính tay mình. “Ta thích thú trong sự từ bỏ” là thích thú trong việc chuyên tu hạnh xả ly (vossagga). Mong được người khác yêu cầu: (yācayoga) quen với sự được xin (yācana-yogga). Nếu đọc yājayoga thì có nghĩa là chuyên tâm vào (yutta) sự dâng cúng (yāja). “Vui mừng được cho, được san sẻ”, có nghĩa là vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta đem cho và san sẻ những gì ta dùng, và ta thích cả hai điều ấy”.

113. Khi hành giả tưởng đến sự bố thí với những đức tính đặc biệt là khỏi có những cấu uế của tham v.v... Thì “ngay khi ấy, tâm hành giả không bị tham, sân, si ám ảnh, được sự chất trực do cảm hứng từ hạnh bố thí” (A III 287).

Bởi thế, khi hành giả đã nhiếp phục những triền cái theo cách đã nói (đoạn 66), thì những thiền chi khởi lên trong một tâm sát-na. Nhưng do sự sâu xa của những đức đặc biệt của bố thí, hoặc do hành giả bận tưởng niệm những đức đặc biệt nên thiền đạt đến không phải là định an chỉ mà chỉ là định cận hành.

114. Khi một Tỷ-kheo chuyên tâm tưởng niệm về bố thí, vị ấy đâm ra ưa bố thí, thích sự vô tham, hành xử phù hợp với tâm từ, vô uý. Vị ấy có nhiều hạnh phúc an lạc. Và dù không tiến lên quả vị cao, ít nhất hành giả cũng hướng đến một cảnh giới an lạc.

Người thực sự có trí,
Thì thường xuyên tưởng niệm
Công đức và bố thí
Ðầy tiềm năng mãnh liệt.

Niệm Thiên

115. Người muốn tu tập niệm thiên cần phải có những đức tính đặc biệt về tín v.v... do Thánh đạo gợi lên và phải đi vào độc cư để tưởng niệm những đức tính đặc biệt của mình về tín... với chư thiên làm chứng như sau:

“Có chư thiên thuộc cõi Tứ thiên vương thiên (devā cātummahārājika), chư thiên thuộc cõi tam thập tam (devā-tāvatiṁsā), Dạ ma thiên (yāmā), Ðâu suất thiên (hài lòng) (tusitā), Hóa lạc thiên (thích biến hoá) (nimmānaratī). Tha hóa tự tại thiên (paranimmitavasavatti), Phạm chúng thiên (brahmakāyikā) có những chư thiên cao hơn thế nữa. Và chư thiên chúng này có đức tin rằng, sau khi mạng chung ở cõi này, họ sẽ tái sinh ở cõi kia, và đức tin ấy cũng có nơi ta. Và chư thiên chúng ấy có giới... đa văn... Bố thí... Trí tuệ, cho nên khi mạng chung ở cõi này thì tái sinh ở cõi kia, và trí tuệ ấy cũng có nơi ta” (A III 287).

116. Tuy nhiên, trong kinh nói: “Này Mahānāma, khi nào một Thánh đệ tử niệm tín, niệm giới, niệm văn, niệm thí, niệm tuệ của chính mình và của chư thiên, thì khi ấy tâm vị ấy không bị tham, sân, si ám ảnh...” (A III 287). Mục đích là để chứng mimh rằng những đức đặc biệt về giới v.v... nơi chính mình cũng là giới nơi chư thiên, lấy chư thiên làm chứng, như Luận có nói: “Vị ấy tưởng niệm những đức tính đặc biệt của mình, lấy chư thiên làm chứng”.

117. Khi hành giả niệm tín, thí, giới, văn, Tuệ của chư thiên, rồi niệm những đức ấy nơi chính mình thì “tâm hành giả không bị dục tham, sân, si ám ảnh được chánh trực, vì được cảm hứng từ chư thiên” (A III 288). Bởi vậy, khi hành giả đã dẹp được những triền cái với cách đã nói (đoạn 66), những thiền chi khởi lên trong một tâm sát-na. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính v.v... Hoặc vì tâm hành giả bận tưởng niệm nhiều đức đặc biệt, nên chỉ đạt cận hành định, không đắc định an chỉ.

118. Khi một Tỷ-kheo chuyên tâm tu tập niệm thiên, vị ấy được chư thiên thương tưởng, có niềm tin sâu xa hơn có nhiều hạnh phúc an lạc. Và dù không đắc quả gì cao, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một cảnh giới tốt đẹp.

Người thực sự có trí,
Thì việc làm thường xuyên
Là tưởng niệm chư thiên
Nhiều quyền năng an lạc.

Tổng Quát

119. Ðể giải thích chi tiết về những tưởng niệm này, sau câu “Khi ấy tâm hành giả được sự chất trực, vì cảm hứng từ đấng Toàn giác”, được nói thêm rằng: “Này Mahānāma, khi tâm của một Thánh đệ tử chất trực thì ý nghĩa đem lại cảm hứng cho vị ấy, Pháp đem lại cảm hứng cho vị ấy và sự áp dụng Pháp làm cho vị ấy hân hoan. Do hân hoan sanh, hỷ sanh nơi vị ấy” (A III 285).

Câu ý nghĩa đem lại cảm hứng cho vị ấy là sự hài lòng (hỷ túc) do ý nghĩa sau đây được gợi lên: “Ðức Thế Tôn là như vầy vì người là bậc A-la-hán” (đoạn 2). Pháp đem lại cảm hứng cho vị ấy là nói đến hỷ túc do kinh điển đem lại. Sự thực hành pháp làm cho vị ấy hân hoan là nói đến cả hai thứ hỷ túc (xem MA. I, 175).

120. Và ở trường hợp niệm thiên “có cảm hứng từ chư thiên”, nghĩa là tâm khởi lên trong giai đoạn đầu, cảm hứng từ chư thiên hoặc tâm khởi lên trong giai đoạn sau cảm hứng từ những đức tính đặc biệt giống như đức chư thiên, đưa đến cảnh giới chư thiên (xem đ. 117).

121. Những tưởng niệm này chỉ thành công ở những Thánh đệ tử... Vì những đức tính đặc biệt của đấng Thế Tôn, của Pháp, của Tăng, chỉ rõ rệt đối với những vị Thánh đệ tử vì họ có giới không bị rách lủng, vá lốm đốm, có thí không ô nhiễm bởi xan tham, và có những đức tính tương tự với đức tính chư thiên.

122. Trong kinh Mahānāma (A III 285), những tưởng niệm này được Thế Tôn trình bày chi tiết chỉ cho một vị Dự Lưu một chỗ trú khi vị này hỏi về một chỗ trú.

123. Cũng thế, trong kinh Gedha chúng được giảng giải để dạy một Thánh đệ tử nên tịnh tâm mình nhờ phương tiện các tùy niệm, và do đó đạt đến những thanh tịnh cao hơn trong ý nghĩa tối hậu như sau: “Ở đây này các Tỷ-kheo, một Thánh đệ tử niệm về Đức Thế Tôn như sau: “Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài đã thành mãn... Tâm vị ấy có sự chất trực khi tưởng niệm như vậy. Vị ấy đã từ bỏ, giải thoát, nổi lên khỏi tham dục, tức năm dục. Có những hữu tình đạt được thanh tịnh nhờ lấy niệm này làm chỗ trú” (A III 321).

124. Và trong kinh Sambādhokāsa, tôn giả Mahā-Kaccāna giảng dạy những pháp tưởng niệm được giảng là chứng đạt sự rộng mở làm cho tâm được thanh tịnh, và điều này, nói một cách tuyệt đối - chỉ hiện hữu nơi một Thánh đệ tử. “Chư hiền, thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay, Thế Tôn, bậc trí giả, bậc kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt đến chánh lý, chứng ngộ Niết Bàn, đó là sáu tùy niệm xứ. Này chư hiền lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh” (A III 314-15).

125. Cũng vậy, trong kinh Uposatha, sáu tùy niệm được giảng giải để chỉ rõ sự vĩ đại của giới Uposatha kể như một đề mục thiền khiến tâm thanh tịnh, dành cho một Thánh đệ tử tuân giữ giới Uposatha (tám trai giới): “Này Visākhā, thế nào là Uposatha của bậc Thánh? Ðó là sự tuần tự làm cho thanh tịnh tâm còn cấu uế vì những khiếm khuyết ở đây, này Visākhā, một Thánh đệ tử niệm Phật...” (A I 206-11).

126. Và trong sách mười một Pháp khi một Thánh đệ tử hỏi: “Bạch Thế Tôn, làm thế nào để an trú khi chúng con trú với nhiều cách khác nhau?” (A V 328) những pháp này được giảng cho vị ấy để chỉ cách an trú như sau: “Này Mahānāma, người có tín thì thành công, không phải người không có tín. Người có tinh tấn... Người có niệm được an trú... Người có định... Người có Tuệ, này Mahānāma, thành công không phải người không tuệ. Sau khi đã tự mình an trú trong trong năm pháp ấy, này Mahānāma ngươi nên niệm Đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài là bậc đã hoàn mãn (arahatā)” (A V 329-32).

127. Tuy nhiên, người thường cũng có thể niệm sáu pháp này nếu có những đức tính đặc biệt như giới thanh tịnh v.v... Vì khi ông ta tưởng nhớ những khả năng đặc biệt của Đức Phật... dù chỉ do nghe nói, tâm hành giả cũng được an tịnh nhờ vậy những triền cái lắng xuống. Trong niềm hoan hỷ tối thượng, hành giả phát triển tuệ mà còn đắc quả A-la-hán như Trưởng lão Phussadeva trú tại Kaṭakandhakāra.

128 Một lần Trưởng lão trông thấy hình ảnh Thế Tôn do Māra biến hoá. Ngài nghĩ: “Lành thay hình ảnh này, mặc dù còn tham, sân, si huống nữa là sự tốt đẹp của Đức Thế Tôn khi Ngài hoàn toàn không có tham, sân, si” và trưởng lão đạt được hỷ với Thế Tôn là đối tượng, và nhờ tăng trí tuệ, Ngài đắc quả A-la-hán.

Chương bảy gọi là “Sáu tùy niệm” trong luận về tu tập Định, trong Thanh tịnh Đạo được soạn ra vì mục đích làm hoan hỷ những người lành.

-oo0oo-

Chương VIII
Ðịnh: Những Ðề Mục Quán Khác Bằng Tùy Niệm

(Anussati-kammaṭṭhānā-niddesa)

----

Niệm Chết

1. Bây giờ, ta hãy nói về sự tu tập niệm chết (tử tưởng) được liệt kê kế tiếp phần sáu niệm.

Ðịnh nghĩa

Ở đây, chết (maraṇa) là sự gián đoạn mạng căn được giới hạn trong một đời sống. Nhưng chết kể như sự đứt đoạn, nói cách khác sự chấm dứt cái khổ luân hồi nơi một bậc A-la-hán, thì không phải là điều muốn nói ở đây, cũng không phải là cái chết trong chốc lát, cũng không phải cái chết trong nghĩa thường dùng “như cây chết”, “kim loại chết” v.v...

2. Cái chết muốn nói ở đây gồm hai loại, nghĩa là cái chết đúng thời hạn và cái chết phi thời. Ở đây, chết đúng thời xảy đến cùng sự hết phước đức hoặc hết thọ mạng hoặc hết cả hai thứ phước và thọ. Chết phi thời là cái chết xảy ra do cái nghiệp đến gián đoạn sanh nghiệp.

3. Ở đây, cái chết do hết phước đức là một danh từ để chỉ cái loại chết xảy đến chỉ do hậu quả của nghiệp đưa đến tái sinh ở đời trước đã chấm dứt mặc dù những điều kiện thuận lợi cho sự kéo dài tương tục tính của một đời có thể đang còn. Cái chết do thọ mạng tận là danh từ để chỉ loại chết xảy đến do sự chấm dứt thọ mạng thông thường của con người ngày nay, chỉ gồm một trăm năm do sự thù thắng về mạng (như Chư Thiên có) hoặc về thời gian (như đầu một thời kiếp thì có) hoặc về thức ăn (như những Uttarakuru có v.v...). Chết phi thời là danh từ chỉ cái chết của những người mà tương tục thọ mạng bị gián đoạn vì nghiệp có khả năng khiến chúng đọa (cāvana) khỏi vị trí của chúng ngay lúc ấy, như trường hợp Dūsi-Māra (xem M I 337), Kalāburāja (xem J-a III 39) v.v... Hoặc chỉ cái chết của những người mà sự tương tục thọ mạng bị gián đoạn do sự tấn công bằng khí giới v.v... Vì nghiệp đời trước. Tất cả những loại chết này được bao gồm dưới sự chấm dứt mạng căn thuộc loại đã mô tả, Bởi thế Niệm chết là sự nhớ lại cái chết, nói khác đi, nhớ lại sự gián đoạn mạng căn.

Tu Tập

4. Một người muốn tu tập phép quán này, cần đi vào độc cư và luyện sự tác ý một cách có trí tuệ như sau: “Chết sẽ xảy đến, mạng căn sẽ bị gián đoạn”, hay “Chết, chết”.

5. Nếu luyện tập sự tác ý một cách thiếu trí tuệ khi niệm cái chết (có thể xảy ra) của một người thân thì sầu ưu sẽ sinh khởi, như khi một người nọ nghĩ đến cái chết của một đứa con cưng, và niềm hoan hỷ sinh khởi khi nghĩ đến cái chết của một người mình ghét, như khi những người thù nghĩ đến cái chết của người thù, và không một ý thức khẩn trương (sense of urgency) nào khởi lên khi tưởng cái chết của kẻ không thân không thù, như trường hợp xảy ra nơi một người thiêu tử thì khi thấy một thây chết, và sự lo ngại khởi lên khi tưởng đến cái chết của chính mình, như thường xảy đến cho một người nhát gan khi thấy một kẻ sát nhân với cây kiếm.

6. Trong những trường hợp trên, đều không có chánh niệm, cũng không có ý thức khẩn trương, cũng không có tri kiến. Bởi thế hành giả nên nhìn chỗ này chỗ kia, những người đã bị giết hoặc đã chết, và tác ý đến cái chết của những hữu tình đã chết mà trước đây mình đã trông thấy chúng hưởng thọ các lạc, tưởng nghĩ như vậy với chánh niệm, với một ý thức khẩn trương và với tri kiến, sau đó hành giả có thể tác ý theo cách đã nói trên: “Cái chết đã xảy đến” làm như vậy, vị ấy tu tập niệm chết một cách có trí tuệ. Nghĩa là vị ấy tu tập niệm chết như là một phương tiện chính đáng.

7. Khi một người tu tập niệm chết như vậy, thì những triền cái của chúng được điều phục, niệm được an trú với cái chết làm đối tượng, và đề mục thiền đạt đến cận hành định.

Tám Cách Niệm Chết

8. Những người nào nhận thấy niệm chết không tiến xa đến mức ấy, thì hãy niệm chết theo tám cách như sau: (1) như thể có sự xuất hiện của một kẻ sát nhân, (2) sự thành công bị phá sản, (3) so sánh, (4) thân thể bị san sẻ với nhiều chúng sinh, (5) mạng sống mong manh, (6) không tướng, (7) sự giới hạn của không gian, (8) sự ngắn ngủi của sát-na.

9. 1) Ở đây, như thể có sự xuất hiện của một kẻ sát nhân, nghĩa là vị ấy nên tưởng thế này: “Cũng như một kẻ sát nhân xuất hiện với cây gươm, nghĩ ta sẽ chặt đầu người này, rồi kề gươm vào cổ người ấy, cũng vậy, cái chết xuất hiện như thế”. Tại sao? Vì cái chết cùng đến với sự sinh ra và cái chết đoạt mạng sống.

10. Cũng như những mộc nhĩ (nấm) luôn luôn mọc lên với bụi trên đầu, các hữu tình cũng sinh ra mang theo già chết. Vì thức liên hệ đến tái sinh của chúng đạt đến già ngay khi nó vừa sinh ra, rồi cũng tan rã với các uẩn liên kết với nó giống như một tảng đá rơi từ trên đỉnh một mỏm đá. Bởi thế, khởi đầu là cái chết từng sát-na đi liền với sinh. Nhưng cái chết không thể tránh đối với những gì có sinh.

11. Do đó, loại chết muốn nói ở đây cũng đi liền với sinh. Bởi thế, cũng như mặt trời mọc di chuyển dần đến lặn và không bao giờ quay trở lại dù chỉ trong chốc lát, hay như một dòng thác từ núi cao đổ xuống chảy xiết, luôn luôn tuôn chảy và tiếp tục đổ tới, không bao giờ quay trở lại dù chỉ trong thoáng chốc, cũng vậy, chúng sinh này tuần tự du hành hướng về cái chết ngay từ khi nó vừa sinh ra không bao giờ quay trở lại dù chỉ trong chốc lát. Bởi thế có câu:

“Ngay từ lúc một con người vừa
Tượng hình trong bào thai
Là nó chỉ còn có nước là tiến tới trước,
Không thể dù chỉ một lần quay trở lui” (J-a IV 494).

Và trong khi nó tiến tới trước như vậy, cái chết đối với nó càng gần, giống như dòng sông nhỏ dần khô cạn dưới nóng mùa hạ, như trái chín dần đến thời rụng, như bình đất phải vỡ khi lấy búa đánh vào, như những giọt sương tan biến dưới ánh mặt trời. Do vậy có câu:

“Ngày đêm trôi qua
Mạng sống tàn dần
Cho đến kết thúc
Như sông dần khô
Như trái đã chín
Ðợi kỳ rơi rụng” (S I 109).
“Cũng thế hữu tình
Khi đã sinh ra
Nơm nớp lo sợ
Cái chết sẽ đến
Như chiếc bình đất
Khi đã nặn ra
Dù lớn dù nhỏ
Dù nung không nung
Ðều phải tan vỡ.
Cũng thế đời người
Dần đến cái chết” (Sn p. 576f.).
“Sương đầu ngọn cỏ
Tan dưới mặt trời
Cũng thế đời người
Mong manh hư ảo
Bởi thế, mẹ ơi
Ðừng ngăn cản con” (J-a IV 122).

13. Bởi vậy cái chết này, đi kèm với sinh, thật giống như một kẻ sát nhân với cây kiếm chực sẵn. Và giống như kẻ sát nhân kề gươm vào cổ, cái chết đoạt mất mạng sống và không bao giờ đem trở lại mạng sống. Do vậy, cái chết xuất hiện như một kẻ sát nhân với cây gươm chực sẵn, khi nó đã đi cùng với sinh và đoạt mất mạng sống, ta phải tưởng đến cái chết “như dạng một kẻ sát nhân”.

14. 2) Như sự thành công bị phá sản: sự thành công chói sáng bao lâu thất bại chưa đến thắng lướt nó. Nhưng không có sự thành công nào mà có thể tồn tại lâu dài không bị thất bại. Do đó:

“Vua vui mừng bố thí một trăm triệu
Sau khi chinh phục toàn cõi đất
Cho đến cuối cùng vương quốc
Của ông chỉ còn
Giá trị không bằng nửa hạt giẻ
Nhưng khi phước đức hết
Xác thân vua thở hơi cuối cùng
Thì vua Asoka mệnh danh là Vô Ưu
Cũng phải thấy ưu sầu khi chạm mặt thần chết”.

15. Hơn nữa, mọi sức khỏe chấm dứt bằng tật bệnh, mọi tuổi trẻ chấm dứt bằng già nua, mọi sự sống chấm dứt bằng cái chết. Tất cả sự tồn sinh trên thế gian đều do sinh mà có, bị già ám ảnh, bị bệnh tật tấn công thình lình, và bị cái chết đánh ngã gục.

“Như núi đá khổng lồ
Lớn rộng tới trời cao
Tiến đến từ mọi phía
Nghiền nát mọi sinh loài
Già chết nghiền nát hết
Sát lợi, Bà-la-môn
Thương gia người công nghệ
Tiện dân và hốt rác
Nát hết chẳng chừa ai
Dù tượng quân, xa quân
Bộ quân hay chú thuật
Dù đem cả tài sản
Không đánh được tử thần” (S I 102).

Như vậy là cách tưởng đến cái chết: “như sự phá sản mọi sự nghiệp” bằng cách định nghĩa cái chết là vố phá sản cuối cùng của mọi thành công trên đời.

16. 3) Bằng cách so sánh: là so sánh mình với những kẻ khác. Ở đây, chết cần được tưởng bằng cách so sánh theo 7 hạng: so với hạng người có danh vọng lớn, công đức lớn, sức mạnh lớn, thần thông lớn, trí tuệ lớn, với Ðộc giác và với Chư Phật. So sánh như thế nào?

17. Mặc dù những vị như Mahāsammata, Mandhātu, Mahāsudassana, Daḷhanemi, Nimi v.v... thật nổi tiếng vĩ đại có đông đồ chúng, tài sản khổng lồ, thế mà cuối cùng cái chết cũng tóm lấy họ không thể tránh thoát, vậy thì làm sao cuối cùng cái chết lại không đuổi kịp ta?

Cái chết cần được tưởng niệm như vậy, bằng cách tự ví với những người có danh vọng lớn.

18. Thế nào là so với người có công đức lớn?

Jotika, Jaṭila, Ugga
Meṇḍaka và Puṇṇaka
Cùng với những người khác
Thế gian đều bảo rằng
Họ rất nhiều công đức
Vậy mà họ cũng chết
Huống những kẻ như ta

Như vậy là tưởng cái chết bằng cách so với những người có công đức lớn.

19. Thế nào là bằng cách so với người có sức mạnh?

Vāsudeva, Baladeva,
Bhīmasena, Yuddhiṭṭhila,
Và các Cānura người vật tay
Ðều ở dưới năng lực của tử thần
Họ nổi tiếng khắp thế giới
Là do sức mạnh hùng vĩ
Nhưng họ cũng đi đến cái chết
Huống những người như ta?

Cái chết nên được tưởng niệm như vậy bằng cách so với những người có sức mạnh.

20. Thế nào là so sánh với những người có thần thông?

Vị thứ hai trong số chư đại đệ tử
Vị thần thông đệ nhứt
Người với đầu ngón chân cái
Lấy được cả lâu đài vejayanta
Ngay cả người ấy nữa
Với năng lực thần thông
Vẫn rơi hàm thần chết
Như nai vào hàm sư tử
Huống chi đến hạng tôi?

Cái chết nên được tưởng niệm như vậy bằng cách so với những người có thần thông lớn.

21. Thế nào là so với người có trí tuệ lớn?

Thứ nhất trong hai đại đệ tử
Bậc trí tuệ siêu quần
Mà trừ Ðức Thế Tôn ra
Không ai bằng phần mười sáu.
Nhưng dù tuệ căn lớn
Như của Xá Lợi Phất
Ngài cũng phải rơi vào
Năng lực của tử thần
Nói gì đến như tôi?

Cái chết cần được tưởng niệm bằng cách so với những bậc có trí tuệ lớn như trên.

22. Thế nào là bằng cách so với các bậc Ðộc giác? Ngay các vị nhờ sức mạnh của tự tri kiến mình và tự tinh tấn lực của mình, phá tan được tất cả giặc phiền não nhiễm ô và tự mình đạt giác ngộ, những bậc có thể đứng vững một mình như cái sừng tê giác (xem Sn p. 35f.), vẫn không thoát khỏi chết. Vậy làm sao ta lại có thể thoát được?

23. Thế nào là so với những đức Phật toàn giác? Ngay cả Đức Thế Tôn, mà sắc thân được trang hoàng bằng ba mươi hai đại nhân tướng và tám mươi tướng phụ (xem MN 91, và DN 30), mà pháp thân đã viên mãn về giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, thanh tịnh về mọi phương diện, đấng siêu việt về danh xưng, về công đức, về hùng lực, về thần thông, về trí tuệ, đấng không có ai sánh bằng, đấng ngang bằng với những đấng không ai sánh bằng, đấng không hai, đấng viên mãn giác ngộ - ngay đến Ngài cũng thình lình bị dập tắt bởi trận mưa lũ của cái chết, như một đống lửa lớn bị dập tắt bởi một trận mưa lũ.

24. Khi hành giả tưởng niệm cái chết bằng cách tự ví với những người khác, những người có danh xưng lớn v.v... Dưới ánh sáng của tính phổ quát của cái chết, nghĩ rằng “Cái chết sẽ đến với ta như sẽ đến với những con người đặc biệt kia”, thì khi ấy đề mục quán của hành giả đi đến cận hành định.

Ðó là cách tưởng niệm cái chết bằng cách so sánh.

25. 4) Về sự san sẻ thân xác với nhiều chúng sanh: Cái thân này được nhiều chúng sinh cộng trú. Trước hết, nó được chia sẻ cho 80 gia đình sâu bọ. Nơi thân này, có các loại chúng sinh sống bám vào lớp da ngoài, lấy da ngoài làm thức ăn, có những chúng sinh sống bám vào lớp da trong, lấy da trong làm thức ăn, những chúng sinh sống bám vào thịt, lấy thịt làm thức ăn, những chúng sinh sống bám vào gân, lấy gân làm thức ăn, những chúng sinh sống bám vào xương, lấy xương làm thực phẩm, những chúng sinh sống bám vào tủy, lấy tủy làm thực phẩm. Và tại đấy chúng sinh già, chết, bài tiết phân tiểu, thân thể là nhà bảo sanh của chúng, là dưỡng đường của chúng, nghĩa địa của chúng, chỗ đại tiện, tiểu tiện của chúng. Thân thể cũng có thể đi đến chết chóc vì một cuộc nổi loạn của những sâu bọ này. Không những thân này được san sẻ với tám mươi gia đình sâu bọ, mà còn san sẻ với hàng trăm thứ bịnh nội thương và nhiều nguyên nhân gây ra chết chóc từ bên ngoài như rắn rết, bò cạp v.v...

26. Như một cái mục tiêu dựng lên ở ngã tư đường thì tên nhọn, cọc nhọn, chĩa nhọn, đá v.v... bay tới từ mọi phía và trúng nhằm nó, cũng thế mọi thứ tai nạn giáng trên thân thể, và nó có thể đi đến chết chóc do những tai nạn này. Bởi vậy Đức Thế Tôn nói: “Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi ngày tàn đêm xuống, một Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: ta có thể lâm vào chết chóc bằng nhiều cách. Một con rắn có thể mổ ta, hoặc một con bò cạp hay con rết có thể đốt ta. Ta có thể chết vì lý do ấy, hoặc ta có thể vấp ngã, hoặc ta có thể chết vì trúng thực, vì mật bị đảo lộn, vì đàm bị đảo lộn, vì phong bị đảo lộn, làm khô những khớp xương của ta như dao nhọn” (A III 306).

Ðó là cách tưởng niệm cái chết bằng cách tưởng thân xác là chỗ ở của nhiều chúng sinh cộng trú.

27. 5) Về sự mong manh của đời sống: sự sống này bất lực và mong manh. Và đời sống con người gắn liền với hơi thở, gắn liền với những uy nghi đi đứng nằm ngồi, gắn liền với lạnh và nóng, gắn liền với tứ đại, gắn liền với thức ăn.

28. Sự sống chỉ xảy ra khi hơi thở vào và hơi thở ra có đều đặn. Nhưng khi hơi gió trong lỗ mũi đã đi ra mà không vào lại, và khi nó đi vào mà không ra lại, thì khi ấy một con người được kể là đã chết.

Sự sống cũng chỉ có, khi bốn uy nghi được điều hoà, khi một trong bốn uy nghi trội hẳn ba cái kia, thì sự sống bị gián đoạn.

Sự sống cũng chỉ có khi nóng lạnh điều hoà. Khi quá nóng hoặc quá lạnh thì con người không thể sống.

Sự sống cũng chỉ xảy đến khi bốn đại điều hoà. Nhưng với sự rối loạn của địa đại, ngay cả một người mạnh cũng có thể chết nếu thân thể trở nên cứng đờ, hoặc bị rối loạn một trong bốn đại khởi từ thủy đại, nếu thân thể trở nên mềm nhũn và thối vì tiêu chảy v.v... hay nếu thân bị một cơn sốt hoành hành, hay nếu nó bị cắt đứt những đường gân nối các khớp xương (xem Ch. XI, 102).

Và sự sống cũng chỉ xảy ra nơi một người được thực phẩm đúng thời, nếu không được ăn, thì hết sống.

Ðây là cách tưởng chết trong sự mong manh của đời sống.

29. 6) Vô tướng: nghĩa là không định đoạt được (bất định). Nghĩa là cái chết không thể đoán trước được. Với tất cả chúng sanh thì:

Tuổi thọ, bệnh tật, thời gian và nơi chốn
Thân xác này được đặt xuống, số phận:
Thế gian không bao giời biết được những điều này;
Không có dấu hiệu gì báo trước những sự kiện ấy.

30. Ở đây, trước hết tuổi thọ không có tướng vì không thể định đoạt những điều sau: phải sống chừng ấy thời gian, không nhiều hơn. Vì hữu tình chết vào nhiều giai đoạn khi còn là bào thai, vào giai đoạn như sữa đông (kalala) vào giai đoạn abbuda, pesi, ghana, vào lúc một tháng, hai tháng, ba tháng, bốn tháng, năm tháng, mười tháng, và vào lúc ra khỏi bụng mẹ. Sau đó hoặc chúng chết trước năm mươi tuổi hoặc sau năm mươi tuổi.

31. Bệnh không có tướng vì không thể định như sau: các hữu tình chỉ chết vì bệnh này, không chết vì bệnh nào khác. Chúng sinh thường chết vì đủ thứ bệnh khởi từ bệnh mắt, tai... (xem A V 110).

32. Thời gian không có tướng vì không thể định đoạt rằng ta phải chết vào lúc này, không vào lúc nào khác. Vì các hữu tình có thể chết bất cứ vào thời khoảng nào, sáng hay trưa v.v...

33. Nơi chốn thân xác sẽ được đặt xuống cũng không có tướng, bởi vì không thể định rằng, khi người ta chết, chúng phải để thây của chúng nằm xuống tại chỗ này, không chỗ nào khác. Vì người sinh trong làng có thể chết để thây ở ngoài làng, người sinh ngoài làng, có thể chết để thây trong làng. Cũng thế, có kẻ sinh ra trên nước mà chết để thây trên đất, có kẻ sinh ra trên đất, chết để thân trên nước. Tương tự nhiều cách.

34. Số phận cũng không tướng vì không thể định rằng một kẻ chết chỗ kia phải tái sinh tại chỗ này. Vì có người chết từ thiên giới mà tái sinh ở cõi người, có người chết ở nhân gian mà tái sinh ở cõi trời v.v...và với cách ấy thế giới xoay vần, chúng sinh xoay chuyển trong năm sanh thú (cõi) như con bò được gắn vào một cái máy.

Ðây là tưởng đến cái chết vô tướng.

35. 7) Giới hạn của đời người: cõi người ngày nay có giới hạn ngắn ngủi. Một người sống lâu cũng chỉ sống trên dưới một trăm tuổi. Do đó Đức Thế Tôn nói: “Này các Tỷ-kheo, đời người ngắn ngủi. Có đời sống mới phải đi đến, có các nghiệp thiện phải làm, có đời phạm hạnh phải được sống. Ðối với cái gì đã sinh ra, không có chuyện không chết. Người nào sống lâu cũng chỉ sống trên dưới một trăm năm...”

“Loài người thọ mạng ngắn;
Bậc trí phải âu lo
Lửa cháy đầu, hãy sống;
Tử vong rồi phải đến” (S I 108).

Ðức Thế Tôn lại nói: “Hỡi các Tỷ-kheo, ngày xưa có một bậc đạo sư tên Araka ...” (A IV 136) toàn thể kinh này cần được dẫn với bảy ví dụ.

36. Và Phật còn dạy thêm: “Này có Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo tu tập niệm chết như sau: Mong rằng ta sống ngày và đêm tác ý đến lời dạy của Thế Tôn như vậy ta đã làm nhiều”. Một vị khác: “Mong rằng ta sống trọn ngày tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Như vậy ta đã làm nhiều”. Một vị khác nữa: “Mong rằng trong thời gian một bữa ăn, ta sống tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Như vậy ta đã làm nhiều”. Và một vị nữa tu tập niệm chết như sau: “Mong rằng ta sống trong khoảng thời gian nhai và nuốt bốn năm miếng, tác ý đến lời dạy của Thế Tôn. Như vậy ta đã làm nhiều” — Ðây là những Tỷ-kheo trú phóng dật, giải đãi tu tập niệm chết để phá trừ lậu hoặc.

37 “Và này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo tu tập niệm chết như sau: Mong rằng ta sống thời gian nhai nuốt một miếng ăn, tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, như vậy ta đã làm nhiều”. Khi một Tỷ-kheo tu tập niệm chết như sau: “Mong rằng ta sống khoảng thời gian hơi thở vào ra, hay trong khoảng thời gian hơi thở ra vào, tác ý đến lời dạy của Thế Tôn, như vậy ta đã làm nhiều”. Ðây gọi là những Tỷ-kheo trú trong tinh cần, sắc bén tu tập niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc” (A III 305-6).

38. Cuộc đời quả thật ngắn ngủi đến độ không chắc nó có kéo dài trong khoảng kịp nhai nuốt bốn hay năm miếng.

Ðây là niệm chết bằng cách tưởng đến thời khắc ngắn ngủi.

39. 8) Về tánh cách ngắn ngủi trong sát-na: nói cho cùng, đời sống chúng sanh vô cùng ngắn ngủi chỉ trong khoảng một niệm. Như cái bánh xe, khi lăn chỉ lăn trên một điểm và khi nghỉ cũng chỉ nghỉ trên một điểm (điểm tiếp giáp với mặt đất), cũng thế, đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài trong khoảng một niệm. Khi niệm ấy qua đi, chúng sinh ấy được coi như đã chấm dứt, như lời trích dẫn sau đây: “Trong một niệm quá khứ nó đã sống, khi ấy nó không có mặt trong hiện tại, mà cũng không có trong vị lai. Trong một niệm vị lai nó sẽ sống, khi ấy nó không có mặt trong hiện tại hay quá khứ. Và trong niệm hiện tại, nó đang sống, thì nó không có mặt trong quá khứ hay vị lai”.

"Sự sống con người, lạc khổ,
Chỉ những thứ này
Họp lại trong một niệm thoáng qua
Các uẩn đã diệt của những
Người đã chết hay còn sống
Ðều giống nhau, một đi không trở lại
Không có thế giới sanh
Nếu ý thức không sanh
Khi ý thức có mặt,
Thì thế giới tồn tại
Khi ý thức tan rã,
Thế giới chết;
Theo ý nghĩa tuyệt đối
Là như vậy”.

Trên đây là niệm chết theo nghĩa sự ngắn ngủi trong sát-na.

Kết Luận

40. Khi hành giả tưởng niệm bằng một trong tám cách nói trên, tâm vị ấy đạt được chánh niệm an trú với chết là đối tượng, những triền cái bị áp đảo, và những thiền chi xuất hiện.

Nhưng vì đối tượng ở đây là những trạng thái mang tính chất cá biệt và sẽ làm khởi dậy ý thức cấp bách, nên thiền này không đạt đến định an chỉ mà chỉ đến định cận hành. Bây giờ, với sự tu tập đặc biệt, thiền siêu thế và các thiền vô sắc thứ hai và thứ tư có thể đạt đến định ngay cả với những trạng thái có tính chất cá biệt. Vì thiền siêu thế đạt định nhờ thiền tu dần dần các thanh tịnh, còn các thiền vô sắc thì đạt định nhờ vượt qua đối tượng (xem Chương X) vì ở đây, trong hai thiền vô sắc, chỉ có sự vượt qua đối tượng thiền đã đạt định. Nhưng ở đây, trong tưởng về cái chết thuộc về thế gian, thì không là cả hai thứ kể trên bởi thế chỉ đạt định cận hành. Và cận hành định ấy được gọi là “tử tưởng” vì được khởi lên từ phương pháp ấy.

41. Một Tỷ-kheo niệm chết luôn luôn tinh cần tinh tấn. Vị ấy được sự không tham luyến đối với bất cứ loại hiện hữu nào. Vị ấy chinh phục được sự bám víu vào đời sống. Vị ấy thống trách (lên án) (condemn) ác pháp và tránh tích trữ nhiều. Vị ấy không bị cấu uế của lòng tham bốn vật dụng. Vô thường tưởng dần dần phát triển trong tâm vị ấy, và theo sau đó là tưởng về khổ và vô ngã. Trong khi những chúng sinh chưa tu tập tử tưởng thường là nạn nhân của hãi hùng, kinh sợ, bối rối vào lúc chết, như thể thình lình bị dã thú vồ, bị ma quỷ bắt, rắn mổ, kẻ cướp hay sát nhân sấn tới, thì người tu tập niệm chết ngược lại chết một cách tỉnh giác không vọng tưởng, vô uý, không rơi vào bất cứ một tình trạng nào như trên. Và cho dù không đạt đến bất tử ngay trong hiện tại, ít ra vị ấy cũng hướng đến một cõi tốt đẹp khi thân hoại mạng chung.

Người thực sự có trí,
Thì công việc thường xuyên
Là tưởng niệm cái chết
Có năng lực phi thường.

Trên đây là đoạn nói về niệm chết với giải thích chi tiết.

Thân Hành Niệm

42. Bây giờ đến phần mô tả sự tu tập thân hành niệm kể như đề mục thiền, một pháp tu chưa hề được công bố trước khi Ðấng Ðại Giác xuất hiện, vượt ngoài lãnh vực của ngoại đạo. Pháp môn ấy đã được Đức Thế Tôn ca tụng bằng nhiều cách, trong nhiều kinh như: “Này các Tỷ-kheo, có một pháp này, được tu tập, được làm cho sung mãn đưa đến cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn khỏi các khổ ách, chánh niệm tỉnh giác, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến hiện tại lạc trú, đưa đến chứng ngộ minh và giải thoát. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm” (A I 43). Và: “Hỡi các Tỷ-kheo, ai thưởng thức thân hành niệm người ấy nếm vị bất tử, ai không thưởng thức thân hành niệm người ấy không được nếm vị bất tử. Trong quá khứ, những ai đã nếm vị bất tử đều đã thưởng thức thân hành niệm. Những ai đã được pháp thân hành niệm, chính họ đã tìm thấy bất tử” (A I 45). Pháp này đã được mô tả trong 14 phần trong đoạn kinh bắt đầu như sau: “Này các Tỷ-kheo, thế nào là thân hành niệm được tu tập, được làm cho sung mãn có quả báo lớn, có lợi lạc lớn? Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng ...” (M III 89). Mười bốn chương đó là những chương nói về hơi thở, về thế ngồi, về các loại tỉnh giác, về pháp quán bất tịnh, quán tứ đại, và về chín pháp quán tử thi trên nghĩa địa.

43. Ở đây, ba đoạn nói về thế ngồi, về bốn loại tỉnh giác và về quán tứ đại, thuộc tuệ. Chín đoạn về quán nghĩa địa đề cập đến giai đoạn đặc biệt của tuệ gọi là quán nguy hiểm. Và bất cứ sự tu tập định nào đối với thi thể phình trương v.v... bao hàm ở đây, đều được giải thích trong phần Quán Bất Tịnh (chương VI). Vậy chỉ còn hai đoạn thuộc định là đoạn nói về hơi thở và sự hướng tâm đến vẻ gớm ghiếc (quán bất tịnh). Trong hai đoạn này, đoạn nói về hơi thở là một niệm đề mục thiền định riêng, gọi là Niệm Hơi Thở.

Kinh Văn

44. Những gì ở đây muốn nói về thân hành niệm, chính là 32 uế vật. Ðề này được gọi là sự hướng tâm đến vẻ gớm ghiếc của thân thể như sau: “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một vị Tỷ-kheo quán sát thân này, từ dưới bàn chân trở lên cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu” (M III 90). Não được bao gồm trong tủy, nên đây ta chỉ thấy có 31 vật.

45. Sau đây là mô tả sự tu tập dần dần bằng một luận giải về bản kinh.

Giải Thích danh từ

Thân này: là cái thân làm bằng bốn đại chủng này. Dưới từ bàn chân trở lên: từ các gót chân trở lên. Trên cho đến đỉnh tóc xuống: từ phần cao nhất của ngọn tóc đi xuống. Bao bọc bởi da: toàn thể xung quanh được kết thúc bằng da. Chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: vị ấy quán sát thân này đầy những bất tịnh thuộc đủ loại bắt đầu là tóc. Quán như thế nào? “Trong thân này, có tóc, lông ... nước tiểu”.

46. Ở đây, đây là có nghĩa là được tìm thấy ở đấy. Trong thân này, là cái được diễn tả như sau: “từ dưới bàn chân trở lên cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt”. Thân: cái xác. Xác người được gọi là “thân” (kāya) vì đó là nơi tập hợp những dơ uế, vì những vật xấu xa (kucchita) như tóc v.v... và trăm thứ bệnh khởi đầu là bệnh về mắt, đều do thân làm nguồn gốc (āya). Tóc, lông: những vật này khởi đầu bằng tóc, lông gọi là 32 uế vật. Câu văn ở đây cần được hiểu như sau: “Trong thân này có tóc, trong thân này có lông”.

47. Khắp thần thể hơn một thước này, từ gót chân trở lên từ đỉnh tóc trở xuống, và từ khắp nơi trên da, không ai đã từng tìm được một chút gì đẹp đẽ, dù chỉ bằng hạt bụi, chẳng hạn chút ngọc trai, ngọc bích, pha lên, xà cừ, trái lại, “chỉ tìm thấy đủ thứ hôi hám ghê tởm bất tịnh là tóc, lông... nước tiểu”.

Trên đây là luận giải về kinh văn.

Sự Tu Tập

48. Một thiện nam tử muốn tu tập đề mục thiền này phải đi đến một thiện tri thức như đã mô tả (Chương III, đoạn 61-73) để học pháp môn ấy. Và bậc thầy nào chỉ dẫn cách tu cho vị ấy cần bảo vị ấy bảy điều thiện xảo trong việc tu học và mười điều tốt đẹp trong sự chú ý.

Bảy Thiện Xảo Trong Sự Học

Ở đây, bảy thiện xảo trong tu học cần được nói rõ như sau: (1) thuộc lòng trên ngôn từ, (2) thuộc lòng trong tâm, (3) biết rõ màu sắc, (4) hình dáng, (5) phương hướng, (6) định xứ, (7) giới hạn.

49. 1) Ðề mục quán này cốt chú ý đến khía cạnh ghê tởm. Dù hành giả có là Tam Tạng pháp sư đi nữa, sự thuộc lòng từ ngữ vẫn phải học khi bắt đầu chú ý đến đề mục. Vì đề mục chỉ trở thành rõ rệt cho vị ấy nhờ học thuộc lòng, như đối với hai vị thượng tọa học đề mục này với Trưởng lão Mahā Deva ở xứ đồi (Malaya). Khi hai vị này xin Trưởng lão một đề mục thiền quán, Trưởng lão đã cho bản văn 32 uế vật, bảo: “Hãy học chỉ một cái này trong bốn tháng”. Mặc dù hai vị này người thì thông hai tạng, người thông ba tạng, vậy mà bốn tháng sau họ mới chứng quả dự lưu nhờ tụng đọc và hiểu rõ bản văn. Bởi thế, bậc thầy khi giảng đề mục thiền cần phải bảo môn đệ tụng đọc cho thuộc trước.

50. Khi học, nên chia từng nhóm năm “da...”, và sau khi đọc “tóc, lông, móng, răng, da” hãy đọc ngược lại” da, răng, móng, lông, tóc”.

51. Kế đến, với nhóm năm kế tiếp, sau khi đọc “thịt, gân, xương, tủy, thận” vị ấy phải đọc ngược lại “thận, tủy, xương, gân, thịt”.

52. Kế tiếp, với nhóm năm “phổi...” sau khi đọc “tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi” vị ấy phải đọc ngược lại là “phổi, lá lách, hoành cách mô, gan, tim, thận, tủy, xương, gân, thịt, da, răng, móng, lông, tóc”.

53. Kế tiếp, với nhóm năm “não...” sau khi đọc “ruột non, ruột già, màng ruột, phân, não” hành giả đọc ngược chiều “não, phân, màng ruột, ruột già, ruột non, phổi, lá lách, hoành cách mô, gan, tim, thận, tủy, xương, gân, thịt, da, răng, móng, lông, tóc”.

54. Kế tiếp với nhóm sáu “mỡ...” sau khi đọc “mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ” hành giả đọc ngược chiều “mỡ, mồ hôi, máu, mủ, đàm, mật, não, phân, màng ruột, ruột già, ruột non, phổi, lá lách, hoành cách mô, gan, tim, thận, tủy, xương, gân, thịt, da, răng, móng, lông, tóc”.

55. Kế tiếp, với nhóm sáu “nước tiểu...” sau khi đọc “nước mắt, nước mũi, nước miếng (bọt), nước mủ, nước khớp xương, nước tiểu” hành giả đọc ngược chiều ”nước tiểu, nước khớp xương, nước mủ, nước bọt, nước mũi, nước mắt, mỡ, mồ hôi, máu, mủ, đàm, mật, não, phân, màng ruột, ruột già, ruột non, phổi, lá lách, hoành cách mô, gan, tim, thận, tủy, xương, gân, thịt, da, răng, móng, lông tóc”.

56. Hành giả phải đọc thuộc lòng như vậy một trăm lần, ngàn lần, hay cả trăm ngàn lần. Vì chính nhờ đọc như vậy mà đề mục thiền định thành quen thuộc, tâm khỏi tán loạn, các phần trở nên rõ rệt như những ngón tay hay như những cọc hàng rào.

57. 2) Sự nhẩm đọc trong tâm cũng cần thiết như đọc ra tiếng, vì sự đọc thành tiếng là một điều kiện giúp cho sự thuộc lòng trong tâm, và sự nhẩm trong tâm là một điều kiện để thâm nhập tính chất bất tịnh.

58. 3) Về màu sắc: màu sắc tóc v.v... cần được định rõ.

4) Về hình dáng: hình dáng các vật ấy cũng thế, cần định rõ.

5) Phương hướng: trong thân này, từ rốn trở lên gọi là hướng trên, từ rốn trở xuống gọi là hướng dưới. Bởi thế phương hướng được định rõ như sau: “Phần này ở về hướng này”.

6) Ðịnh xứ: ở chỗ nhất định của thân phần này hay khác cần định rõ như sau: phần này được an lập ở chỗ này.

59. 7) Giới hạn: có hai cách định giới hạn, là định giới hạn của phần ấy bằng cách nói rõ nó được giới hạn trên dưới, xung quanh bằng cái này. Hoặc định bằng cái khác với nó như: tóc không phải là lông, và lông không phải là tóc.

60. Khi dạy về thiện xảo trong sự học bằng bảy cách như thế, vị thầy nên biết trong những kinh nào đề mục thiền định này được giảng giải theo quan điểm bất tịnh, và trong kinh nào được giảng giải theo quan điểm bốn đại. Vì trong kinh Ðại Niệm Xứ (DN 22) các phần được trình bày trên khía cạnh bất tịnh. Trong kinh Tượng Tích dụ (MN 28), kinh Giáo giới Rāhula (MN 62) và Giới phân biệt (MN 140) các phần được trình bày dưới khía cạnh tứ đại. Tuy nhiên trong kinh Thân hành niệm (MN 119), bốn thiền được giải thích liên hệ đến một vị mà đề mục thiền này đã xuất hiện với vị ấy như một Kasiṇa màu sắc (xem Chương III). Ở đây khi giảng đề mục này là tứ đại, thì đó là thiền quán và khi giảng là bất tịnh thì đó là một đề mục về tịnh chỉ. Do đó ở đây bàn về nó như là một đề mục định.

Mười Thiện Xảo Về Sự Chú Tâm

61. Sau khi dạy bảy thiện xảo trong học tập, vị thầy cần nói về mười thiện xảo trong việc chú tâm như sau (1) về thứ tự, (2) không quá nhanh, (3) không quá chậm, (4) tránh phân tâm, (5) vượt qua khái niệm, (6) về sự từ bỏ liên tục, (7) về định, (8-10) về ba bản kinh.

62. 1) Ở đây, về thứ tự: là từ khi bắt đầu học thuộc, cần phải chú ý theo dõi thứ tự không bỏ sót. Khi một người không giỏi leo trèo lên một cái thang có ba mươi hai nấc mà cứ leo hai nấc một, thì thân thể vị ấy sẽ mệt mỏi và phải té trước khi tới đỉnh, cũng thế, một người chú tâm trên 32 phần mà bỏ sót thì tâm sẽ mệt mỏi và không hoàn tất sự tu tập, vì vị ấy không đạt được sự thỏa mãn cần phải đạt nhờ tu tập thành công.

63. 2) Khi chú tâm trên đề mục thiền này bằng cách theo dõi thứ tự từng nhóm, hành giả không nên làm quá nhanh. Vì cũng như người khởi hành cuộc hành trình ba dặm, dù vị ấy đã đi về cả trăm lần một cách mau chóng song nếu không chú ý những khúc quanh cần tránh hoặc phải theo, thì vị ấy vẫn cứ phải hỏi cách làm sao để đến đích. Cũng vậy, khi thiền giả chú tâm đến đề mục, đề mục vẫn không trở nên rõ rệt hoặc đem lại sự phân minh nào. Bởi vậy, hành giả không nên chú tâm đề mục quá nhanh.

64. 3) Ngược lại, cũng không quá chậm. Ví như một người muốn đi một cuộc hành trình ba dặm đường trong một ngày, mà dọc đường, vị ấy cứ lang thang thơ thẩn trong rừng cây, hốc đá, ao hồ v.v... Thì không thể hoàn tất cuộc hành trình trong một ngày mà phải hai ba ngày mới đến đích, cũng vậy, nếu hành giả chú tâm quá lâu trên đề mục, vị ấy không đến được cùng đích, và không thể làm cho đề mục trở nên rõ rệt.

65. 4) Tránh phân tâm: Hành giả phải tránh đi ra ngoài đề mục thiền và để tâm bị phân tán trong những đối tượng bên ngoài. Vì cũng như một người đi trên đường dốc đứng chỉ rộng bằng bàn chân, mà cứ nhìn dáo dác khắp nơi không để ý từng bước một, thì có thể té xuống vực sâu trăm trượng bên dưới. Cũng vậy khi hành giả tán tâm ra ngoài đề mục, thì việc thiền định bị thối thất.

66. 5) Về sự vượt qua khái niệm: khái niệm danh từ, bắt đầu bằng “tóc, lông” cần phải được vượt qua, và ý thức cần được an trú ở khía cạnh “bất tịnh” ghê tởm của nó. Vì cũng như một người tìm ra lỗ nước trong rừng vào mùa đại hạn, treo tại đó một cái gì làm dấu như một tàu dừa, để người ta đến tắm, uống nước nhờ sự chỉ dẫn của dấu hiệu. Nhưng khi con đường đã trở nên quá rõ nhờ sự đi lại thường xuyên, thì không cần gì đến dấu hiệu nữa, người ta cứ đến uống và tắm rửa khi cần. Cũng thế, tính cách đáng tởm đã hóa ra quá rõ trệt với hành giả trong lúc vị ấy chú tâm trên đối tượng nhờ phương tiện danh từ “tóc, lông” thì cuối cùng vị ấy phải vượt qua khái niệm, danh từ ấy, mà chỉ trú tâm trên khía cạnh bất tịnh thực sự mà thôi.

67. 6) Về sự lần lượt loại bỏ: Trong khi chú tâm, hành giả cuối cùng nên bỏ ra ngoài những phần nào không hiện rõ. Khi một người mới tu tập chú tâm đến tóc, sự chú ý của vị ấy tiếp tục đi đến những phần khác cho đến cuối cùng là nước tiểu rồi ngưng tại đấy, và khi hành giả chú tâm đến nước tiểu, sự chú tâm của vị ấy tiếp tục cho đến lúc trở lại tóc và ngưng tại đây. Trong khi vị ấy cứ tiếp tục chú tâm như vậy, thì một số phần hiện rõ còn một số không rõ. Hành giả nên tiếp tục chú tâm trên những phần hiện rõ cho đến khi có một cái rõ nhất, và khơi dậy sự xác định bằng cách chú tâm nhiều lần trên cùng một phần đã hiện rõ như thế.

68. Ví như một thợ săn đang bắt một con khỉ sống trong một cụm rừng có ba mươi hai cây dừa, và vị ấy bắn mũi tên xuyên qua tàu dừa của cây đầu tiên và hét lên một tiếng, con khỉ cứ thế nhảy từ cây này qua cây khác cho tới khi nó tới cây cuối cùng, và khi thợ săn cũng bắn tên đến đó thì nó chạy ngược trở lại, đến cây đầu tiên, sau nhiều lần bị theo dõi như vậy, cuối cùng con khỉ nhảy đến vịn vào tàu dừa của cây chặn giữa, và không nhảy nữa dù có bị tên bắn — ở đây cũng vậy.

69. Ba mươi hai uế vật trong thân ví như 32 cây dừa. Con khỉ dụ cho tâm ý. Hành giả như người thợ săn. Tâm hành giả chú trên đối tượng của 32 phần ấy cũng như sự cư trú của con khỉ trong rừng với ba mươi hai cây dừa. Sự chú tâm của hành giả trên từng phần liên tục ví như con khỉ nhảy từ cây này sang cây khác cho đến cuối và trở lại. Trong khi chú tâm trên các phần ấy, một số hiện rõ một số không rõ. Hành giả liên tục hướng sự chú tâm vào những phần hiện rõ và bỏ ra ngoài những phần không rõ, cũng như con khỉ lúc bị săn đuổi nhảy lên từ chỗ có tiếng hét. Cuối cùng, hành giả chú tâm trên phần hiện rõ nhất trong hai phần còn lại, và nhờ vậy đắc định, cũng như con khỉ cuối cùng dừng lại trên một tàu dừa, bám lấy nó và không nhảy nữa dù có bị bắn.

70. Và đây là một ví dụ khác. Ví như có một người ăn đồ khất thực đi đến sống gần một khu làng có 32 nhà, và khi vị ấy được hai phần bố thí tại một nhà đầu tiên, vị ấy bỏ nhà gần đó, và hôm sau khi được ba phần bố thí tại nhà đầu tiên, vị ấy bỏ ra hai nhà kế tiếp, và ngày thứ ba vị xin được đầy bát tại nhà đầu tiên, bèn đi đến nhà ăn để ăn.

71. 32 uế vật cũng như khu làng có 32 nhà. Hành giả ví như người ăn đồ khất thực. Công việc chú ý ban sơ của vị ấy ví như hiền giả đi đến sống gần làng. Vị tiếp tục chú ý hai phần cuối cùng hiện rõ, bỏ ngoài những phần không rõ, giống như người khất thực được hai phần ăn tại nhà đầu tiên, bỏ ra ngoài một nhà, và ngày hôm sau người ấy được ba phần ăn tại nhà đầu tiên, bỏ ra ngoài hai nhà. Sự khơi dậy định bằng cách chú ý liên tục trên đối tượng hiện rõ nhất trong hai cái còn lại, giống như người khất thực xin được đầy bát tại nhà đầu tiên trong ngày thứ ba, rồi đến nhà để ăn.

72. 7) Về định: định từng phần một. Ở đây muốn nói, phải được hiểu là định phát sinh trong mỗi một phần.

73. 8-10) Về ba bản kinh: là những kinh về tăng thượng tâm (chỉ cho thiền), về sự mát mẻ, và về những thiện xảo trong những giác chi, mục đích của chúng là liên kết tâm lực và định lực.

74. 8) Ở đây, bản kinh này nên hiểu là đề cập đến tăng thượng tâm: “Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo chuyên tu tập tăng thượng tâm thỉnh thoảng cần tác ý ba tướng. Thỉnh thoảng vị ấy nên tác ý tướng định, thỉnh thoảng nên tác ý tướng tinh tấn, thỉnh thoảng nên tác ý tướng xả. Nếu một Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm mà chỉ tác ý tướng định, thì tâm vị ấy dễ đi đến giải đãi. Nếu một Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm mà chỉ tác ý tướng tinh tấn, thì khi ấy tâm vị ấy dễ đi đến trạo cử. Nếu một Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm mà chỉ tác ý tướng xả, thì tâm vị ấy không có thể tập trung đúng mức để diệt trừ lậu hoặc. Nhưng này các Tỷ-kheo, một khi Tỷ-kheo muốn tu tập tăng thượng tâm mà cứ thỉnh thoảng tác ý tướng định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh tấn, tỉnh thoảng tác ý tướng xả, thì tâm vị ấy trở nên nhu nhuyễn, dễ sử dụng, trong sáng không dễ vỡ tan, đủ tập trung để diệt trừ lậu hoặc”.

75. “Này các Tỷ-kheo, như một người thợ vàng thiện xảo hay đệ tử người thợ vàng sửa soạn lò bệ, đốt lò và đổ vào đấy vàng thô để luyện, thì vị ấy thỉnh thoảng thụt bệ, thỉnh thoảng rưới nước, thỉnh thoảng ngồi canh chừng. Nếu người thợ vàng ấy chỉ có một bề thụt ống bệ, thì vàng sẽ cháy, nếu chỉ một bề rưới nước, thì vàng sẽ nguội lạnh, và nếu chỉ ngồi nhìn mãi, thì vàng không được tôi luyện đúng mức. Nhưng nếu vị ấy thỉnh thoảng thụt bệ, thỉnh thoảng rưới nước, thỉnh thoảng ngồi canh chừng, thì vàng sẽ trở nên nhu nhuyễn, dễ sử dụng, sáng không dễ vỡ, và vàng ấy trở nên dễ uốn nắn, muốn làm đồ trang sức như dây chuyền, vòng kiềng cổ đều làm được”.

76. “Cũng vậy, này Tỷ-kheo, có ba tướng mà Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm cần phải thỉnh thoảng tác ý... thì tâm vị ấy trở nên nhu nhuyễn dễ sử dụng và tập trung đúng mức để diệt trừ lậu hoặc. Vị ấy đi đến khả năng chứng đắc bất cứ trạng thái nào có thể chứng đắc nhờ tuệ (direct knowledge) mà vị ấy mong muốn” (A I 256-58).

77. 9) Bản kinh này đề cập đến sự mát mẻ “Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo có sáu pháp, thì có thể đạt đến sự mát mẻ tối thượng. Gì là sáu pháp? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi tâm cần được chế ngự, vị ấy chế ngự tâm; khi tâm cần được nỗ lực, vị ấy tinh tấn; khi tâm cần được khuyến khích, vị ấy khuyến khích; khi tâm cần được nhìn với xả, vị ấy nhìn tâm với xả. Vị ấy quyết định đạt đến tăng thượng tâm, vị ấy ái lạc Niết Bàn. Có sáu pháp này, một Tỷ-kheo có thể đạt được sự mát mẻ tối thượng” (A III 435).

78. 10) Thiện xảo về các giác chi đã được đề cập trong phần giải thích thiện xảo về định (Ch. IV, 51-57) trong đoạn bắt đầu “Này các Tỷ-kheo, khi tâm đang giải đãi, thì không phải lúc để tu tập khinh an giác chi ...” (S V 113).

79. Bởi thế thiền giả cần hiểu rõ bảy thiện xảo này trong việc học và mười thiện xảo trong việc chú tâm để học đề mục thiền định một cách thích nghi.

Khởi Sự Tu Tập

80. Nếu người học có thể ở trong cùng một tu viện với thầy, thì vị ấy không cần phải xin giải thích chi tiết nhưng sau khi vị ấy đã nắm vững đề mục và khởi sự tu tập thì có thể xin giải thích từng giai đoạn một đến khi đạt đến sự phân biệt rõ (distinction). Một người muốn đi sống nơi khác để tu tập thì lại khác. Vị ấy cần phải xin giảng giải đề mục một cách chi tiết như đã nói trên, và phải đảo qua đảo lại nhiều lần, giải tất cả nghi vấn. Vị ấy phải từ bỏ một trú xứ thuộc loại không thích hợp như đã tả ở phần biến xứ đất, để đến sống tại một trú xứ thích hợp, rồi vị ấy phải từ bỏ những chướng ngại nhỏ (Chương IV, đoạn 20) và khởi sự công việc chuẩn bị cho sự tác ý đến tướng bất tịnh.

32 Uế Vật: Bàn về chi tiết

81. Khi khởi sự, hành giả trước hết hãy nắm giữ học tướng ở đối tượng tóc. Cách nào? Màu sắc cần phải được định rõ trước hết bằng cách nhổ ra một hai sợi tóc đặt trên lòng bàn tay. Vị ấy cũng có thể nhìn tóc ở nơi chỗ hớt tóc hay trong một bát nước hay bát cháo. Nếu những sợi tóc vị ấy thấy là màu đen, trong lúc nhìn thấy, thì hãy nhớ trong tâm là “đen” nếu màu trắng thì nhớ là “trắng”, nếu màu lẫn lộn, thì hãy nhớ màu nào nổi nhất. Và cũng như trường hợp tóc, tất cả năm món khởi từ tóc cần phải được nắm lấy tướng bằng sự nhìn như vậy.

82. Sau khi học được tướng như thế rồi, và (a) định rõ tất cả những thân phần khác theo màu sắc, hình dáng, phương hướng, trú xứ (định xứ, chỗ ở) (location) và ranh giới (giới hạn) (delimitation) của nó, hành giả kế đó (b) hãy định tính ghê tởm của nó bằng năm cách, là màu sắc, hình dáng, mùi, xuất xứ (môi trường sống) (habitat) và chỗ ở (location) của nó.

83. Sau này là giải thích về tất cả các thân phần theo thứ tự.

Tóc

(a) Trước hết tóc bình thường có màu đen, màu của hột ariṭṭhaka tươi. Về hình dáng, hình ống dài. Về phương hướng, chúng ở phía trên. Về trú xứ (location) của chúng, chúng ở trong lớp da sát lớp da bao bọc cái sọ, giới hạn về hai phía bởi hai vành tai, ở trước bằng cái trán, và ở sau bằng cái gáy. Về cách định ranh giới (delimitation) của nó, tóc có ranh ở dưới là bề mặt của chính những chân tóc, được mắc dính vào đầu bằng cách vào sâu cỡ chừng bằng hạt thóc vào làn da trong bọc lấy cái sọ. Những sợi tóc có giới ranh phía trên là hư không, về xung quanh là tóc, không có hai sợi tóc cùng một nơi. Ðây là định giới hạn của tóc bằng chính tóc. Tóc không phải là lông, lông không phải là tóc, cũng vậy tóc không phải lẫn lộn với 31 phần còn lại trong thân, tóc là một phần riêng biệt. Ðây là cách định ranh giới bằng sự so sánh với các phần khác. Như vậy gọi là định nghĩa tóc về phương diện màu sắc v.v...

84. (b) Ðịnh nghĩa tóc về phương diện bất tịnh, đáng ghê tởm, theo sáu cách nghĩa là theo màu sắc v.v... là như sau. Tóc đáng tởm về màu sắc cũng như về hình dáng, mùi cũng như xuất xứ và chỗ ở của nó.

85. Vì khi thấy màu của một sợi tóc trong một bát cơm, người ta tởm và bảo “Cơm này có tóc! Hãy vứt sợi tóc đi!” Bởi vậy, nó đáng tởm về màu sắc. Cũng vậy khi người ta ăn cơm trong bóng tối ban đêm, người ta cũng lợm nếu có cảm giác ăn nhằm một sợi tóc, vậy là tóc càng đáng tởm về hình dáng.

86. Còn cái mùi tóc, nếu không bôi dầu thơm, tẩm nước hoa v.v... thì lại càng tởm hơn, nhất là khi đốt cháy khét. Mặc dù tóc không đáng tởm một cách trực tiếp về phương diện màu sắc và hình dáng, thì cái mùi của nó cũng đáng tởm một cách trực tiếp. Như phân của đứa trẻ có màu vàng như nghệ, hình dáng như củ nghệ, màu sắc và hình dáng này không có gì đáng tởm nên nói rằng về màu sắc không trực tiếp đáng tởm, song về cái mùi của phân thì đáng tởm một cách trực tiếp.

87. Nhưng cũng như rau mọc ở nương rãnh dơ dáy trong một làng đối với người đô thị văn minh thật đáng tởm và không thể dùng, tóc cũng đáng tởm vì nó mọc trên mảnh da gồm mủ, máu, phân, tiểu, mật, đàm v.v... Ðây là khía cạnh đáng tởm của xuất xứ (habitat) của tóc.

88. Và tóc mọc trên đống gồm 31 thứ bất tịnh kia cũng như nấm mọc từ một đống phân. Do bởi chúng mọc trong chỗ dơ dáy, tóc thật hoàn toàn khó ngửi cũng như rau mọc trên nghĩa địa, trên đống phân v.v... như sen mọc trong lỗ cống... Ðây là khía cạnh đáng tởm của chỗ ở (location).

89. Và cũng như trường hợp tóc, tính chất bất tịnh đáng tởm của tất cả các phần tử khác cũng cần được định rõ (b) theo năm cách là màu sắc, hình dáng, mùi, xuất xứchỗ ở (location). Tuy nhiên tất cả phải được định rõ từng cái một (a) do màu sắc, hình dáng, phương hướng, định xứ (location) và ranh giới (delimitation) như sau:

Lông

90. Ở đây, trước hết, về màu sắc tự nhiên, thì lông không hoàn toàn đen như tóc, mà nâu đen. Về hình dáng, lông có hình rễ cây dừa với cái đầu cong xuống. Về phương hướng chúng gồm cả hai hướng. Về trú xứ (location), trừ chỗ tóc đã mọc, và trừ lòng bàn tay, bàn chân, ngoài ra lông mọc ở phần lớn chỗ phần da còn lại bao bọc thân thể. Về ranh giới, lông được giới hạn bên dưới là chân lông, trên là hư không, và xung quanh là những lông khác. Không có hai sợi lông cùng mọc một chỗ. Ðây là định giới hạn bằng cái đồng, nhưng sự định giới hạn bằng cái khác với nó, thì giống như trường hợp tóc.

[Ghi chú: hai câu cuối này được lập lại ý chót ở cuối đoạn mô tả mỗi phần. Chúng không được lập lại trong bản dịch Anh ngữ].

Móng

91. Móng là tên gọi chỉ hai mươi cái móng tay chân. Chúng đều có màu trắng. Về hình dáng, chúng có hình vảy cá. Về phương hướng thì móng chân ở hướng dưới, móng tay ở hướng trên. Vậy móng ở cả hai hướng. Về trú xứ (location), chúng được gắn chặt trên lưng đầu các ngón tay, ngón chân. Về ranh giới, chúng được giới hạn ở hai phía bởi thịt của đầu ngón, phía trong bằng thịt của lưng ngón, phía ngoài và đầu ngón bằng hư không, và xung quanh bằng chính móng. Không có hai móng cùng nhau.

Răng

92. Có ba mươi hai cái răng khi một con người đầy đủ răng. Răng cũng màu trắng. Về hình dáng thì răng có nhiều hình dáng, trước hết, bốn cái răng giữa ở hàm dưới có hình hột bí sắp thành một hàng trông rất bén, hai cái răng ở hai bên chúng có một cái chân răng và một đầu nhọn và có hình hoa lài, và kế đó mỗi bên là một cái răng có hai chân răng và hai đầu nhọn và có dáng của cái càng xe (wagon prop) rồi đến mỗi hai bên cái răng có ba chân răng và ba đầu nhọn, rồi đến mỗi hai bên cái nữa với bốn cái chân răng và bốn đầu nhọn. Hàm trên cũng thế. Về phương hướng, răng ở phần trên. Về trú xứ (location) răng được mắc vào xương hàm. Về ranh giới, thì rằng được giới hạn bằng bề mặt của chính những chân răng, những chân này được mắc vào xương quai hàm. Phía trên răng được giới hạn bằng hư không, và xung quanh bằng những răng khác.

Da

93. Da trong bao bọc toàn thân, da ngoài có màu nâu, đen hoặc vàng, nếu toàn thể da trên thân được gom lại thì chỉ còn bằng một cái hột xoài. Da trong màu trắng, màu này rõ rệt nhất là khi lớp da ngoài bị trầy vì bỏng hay vì một cú đấm v.v...

94. Hình dáng của da chính là hình dáng của chính thân thể, nói gọn. Nhưng nếu nói chi tiết thì da các ngón chân giống hình cái kém con tằm; trên lưng bàn chân da có hình chiếc giày bít; da của bắp chân có hình mo cau gói cơm bới; da ở trên vế có hình một đãy dài chứa đầy gạo lúa; da nơi mông đít có hình một miếng vải lọc nước đang chứa đầy nước; da trên lưng có hình cái lốt da thứ được căng trên tấm ván; da ở bụng có hình tấm da thú trải trên một chiếc đàn bầu; da trên ngực có hình gần như hình vuông; da ở hai cánh tay có hình tấm da thú trải trên cái đẩy đựng tên; da lưng bàn tay có hình cái hộp đựng dao cạo hay hộp đựng lược chải đầu; da các ngón tay có hình một cái cổ kiềng vòng quanh cuống họng; da mặt có hình dáng một cái tổ sâu bọ đầy những lỗ hổng; da đầu có hình dáng một cái đãy đựng bát.

95. Thiền giả khi phân biệt về da thì trước hết phải định rõ lớp da trong bao bọc cái mặt, ý thức tuần tự, tác ý ở khắp cái mặt khởi đầu bằng môi trên. Kế đó, làn da trong của xương trán. Kế tiếp, hành giả cần định rõ da trong của cái đầu, tách rời da trong với xương sọ bằng cách để ý thức xen vào giữa xương sọ và da trong của đầu, như thể khi ta thọc tay vào khe hở giữa cái bao và cái bát đựng trong bao. Kế tiếp, da trong của vai. Kế tiếp là da trong ở cánh tay mặt phía trước và sau, và tương tự với da trong của cánh tay trái. Kế đó sau khi định rõ da trong của lưng, hành giả nên định rõ da trong của ống chân phải phía trước và sau, và da trong của ống chân trái cũng như vậy. Kế đó, da trong của háng, bụng, ngực cần được tuần tự xác định rõ. Rồi sau khi định rõ da trong hàm dưới kế tiếp da trong của cổ, hành giả chấm dứt khi tới môi dưới. Khi hành giả phân biệt một cách đại cương theo cách ấy, da cũng trở thành rõ rệt đối với hành giả.

96. Về phương hướng, da ở cả hai hướng. Về trú xứ (location), da bao bọc toàn thân. Về ranh giới, da được giới hạn ở dưới bằng mặt trong dính với thịt, và ở trên bằng hư không...

Thịt

97. Có chín trăm mảnh thịt. Về màu sắc, thịt toàn đỏ như màu hoa kiṁsuka. Về hình dáng, thịt ở bắp chân giống hình cơm gói trong mo cau. Thịt ở bắp vế có hình cái chày đá, ở mông thịt có hình dáng cái đáy lò. Thịt ở lưng có hình dáng một tảng đường thốt nốt. Thịt giữa hai xương sườn có hình dáng một lớp vôi hồ trét mỏng. Thịt ở ngực có dáng một cục đất sét nặn thành một trái banh rồi nén xuống. Thịt ở hai cánh tay trên giống hình con chuột lớn gầy.

98. Khi phân biệt như vậy, thịt trở nên rõ rệt đối với hành giả. Về phương hướng, thịt ở cả hai hướng. Về trú xứ (location), thịt được trét khắp trên ba trăm cái xương. Về ranh giới, thịt có giới hạn ở phía dưới là tiết diện của nó gắn liền với tập thể xương, ở trên giới hạn bởi da, và xung quanh bởi những miếng thịt khác...

Gân

99. Có chín trăm cái gân. Về màu sắc, tất cả gân đều màu trắng. Về hình dáng, gân có nhiều hình dáng khác nhau. Vì sợi gân lớn liên kết thân hình lại thì khởi đầu từ phần phía trên của cái cổ và đi xuống phía trước, và năm sợi nữa đi xuống sau lưng, năm sợi qua phải và năm sợi qua trái. Và trong số những sợi gân liên kết bàn tay phải 5 sợi đi xuống phía trước tay và 5 phía lưng bàn tay. Cũng vậy đối với bàn tay trái. Trong những sợi gân nối liền bàn chân phải năm sợi xuống phía trước, năm sợi xuống phía lưng bàn chân... Cũng vậy với bàn chân trái. Như vậy có sáu mươi sợi gân lớn gọi là “những đường gân chống đỡ thân thể” đi từ cổ xuống và liên kết cơ thể lại, tất cả những gợi gân này đều có hình những đọt rau muống. Còn có những sợi khác rải khắp những thân phần khác nhưng nhỏ hơn sáu mươi sợi này, chúng có hình dáng những sợi dây đàn. Lại có những sợi khác nhỏ hơn, hình dáng dây leo, và nhỏ hơn nữa hình sợi chỉ thô. Những sợi trên lưng bàn tay bàn chân có hình dáng những cái móng vuốt của con chim. Những sợi gân trong đầu có hình dáng cái lưới bao đầu trẻ. Còn ở lưng có hình dáng một cái lưới ướt trải ra để phơi. Những sợi gân còn lại, chạy dọc theo các thân phần, có hình dáng một cái áo bằng lưới mắc vào cơ thể.

100. Về phương hướng, gân ở hai hướng. Về trú xứ (location), gân nối liền tất cả những cái xương trong cơ thể lại với nhau. Về ranh giới, phía dưới gân được giới hạn bằng tiết diện của nó, được mắc vào ba trăm cái xương, và phía trên, gân được giới hạn bằng những phần tiếp xúc với thịt và da trong, xung quanh gân được giới hạn bằng những sợi gân khác.

Xương

101. Trừ 32 cái răng, xương gồm có sáu mươi bốn đốt xương tay, 64 đốt xương chân, 64 xương sụn phụ thuộc vào thịt, hai xương gót chân, ở mỗi ống chân có hai xương mắt cá, hai xương ống chân, một xương đầu gối, một xương vế, hai xương háng, 18 xương sống, 24 xương sườn (12 đôi xương sườn), 14 xương ngực, một xương ức, 2 xương cổ, 2 xương bả vai, 2 xương cánh tay, 2 cặp xương cánh tay ngoài, 7 xương cổ, 2 xương hàm, 1 xương mũi, 2 xương mắt, 2 xương tai, 2 xương trán, 1 xương chẩm, 9 xương sinciput (đỉnh đầu). Như vậy là đúng 300 xương. Về màu sắc, xương toàn trắng.

102. Về hình dáng, xương có hình thù khác nhau. Xương cùng của những ngón chân (the end bones of the toes) thì có hình dáng hột kataka. Những đốt xương kế tiếp những xương cùng ấy có hình hột mít, những xương ở gốc ngón chân có hình những cái trống nhỏ. Những cái xương ở trên lưng bàn chân có hình một bó cọng rau bị bầm, xương gót chân có hình hạt cau.

103. Những xương mắt cá có hình hai hòn bi cột lại với nhau. Những xương đùi tại chỗ tựa của chúng trên xương mắt cá, nếu để cả da thì có hình chồi cây sindi, xương cùi chỏ có hình cây cung trẻ con chơi. Xương đùi lớn có hình cái lưng của một con rắn khô. Xương bánh chè có hình một khối bọt mà một mặt đã tan ra. Tại chỗ xương đùi tựa vào xương bánh chè, nó có hình dáng một cái sừng bò bị nhụt. Xương vế có hình dáng một cái rìu vụng đẽo. Chỗ xương vế dính liền với xương háng thì có hình dáng một trái banh. Trong xương háng, ở chỗ xương vế được gắn vào là hình dáng một trái punnāga bị cắt ở đầu.

104. Hai xương háng nếu cột lại với nhau, có dáng cái lò của thợ gốm, để riêng từng cái một thì có dáng cái búa thợ rèn. Xương mông ở đầu mút có hình dáng cái mồng con rắn lật ngược lại. Nó có bảy hay tám lỗ hổng. Những đốt xương sống bên trong có hình dáng những ống bằng chì chồng lên nhau, bên ngoài có dáng một chuỗi tràng hạt. Chúng có 2 hay 3 hàng những cái lòi ra nằm cạnh nhau giống như những cái răng cưa.

105. Trong số 24 xương sườn, những cái xương bất toàn có hình dáng những cây gươm cụt, còn những cái xương toàn vẹn có hình dáng những gây gươm nguyên lành. Nhìn chung cả bộ xương sườn, nó giống đôi cánh dang ra của một con gà trống màu trắng. 14 cái xương ngực có hình dáng của một cái khung xe cũ, xương ức có hình dáng cái muỗng. Những xương cổ có hình dáng những cán dao nhíp.

106. Những xương bả vai có hình dáng cái lưỡi cày ở Tích Lan bị mòn một phía. Xương cánh tay trong có hình dáng cái cây dừa sinh đôi. Xương cườm tay có dáng những ống chì dính liền nhau. Xương lưng bàn tay có hình dáng một bó rau cọng bị bầm dập. Về những ngón tay thì xương ở góc ngón có dạng những cái trống nhỏ, những xương giữa ngón có dáng những hột mít còn xương ở đầu ngón có dáng những hột kataka.

107. 7 xương cổ có hình dáng những vòng bằng cây tre xâu lại với nhau trên một cái gậy. Xương hàm dưới có dáng cái dụng cụ thợ rèn (ring fastening). Xương hàm trên có dáng cây dao róc mía. Xương ở 2 lỗ mắt và lỗ mũi có dáng những trái cau đã bỏ hột. Xương trán có hình dáng cái chén làm bằng vỏ sò lật úp. Xương lỗ tai có dáng những hộp dao cạo. Xương ở chỗ khăn bịt đầu được quấn ngang qua, ở phía trên xương trán và xương lỗ tai có hình dáng một lát bánh cong lên. Xương chẩm có dáng một trái dừa méo với đầu lủng lỗ.

108. Xương sinciput có dáng một cái dĩa làm bằng trái bầu khô khâu lại bằng những mũi kim may. Về phương hướng, chúng ở cả hai hướng. Về trú xứ, chúng ở khắp thân thể. Nhưng đặc biệt ở đây, xương đầu tựa trên xương cổ, xương cổ tựa trên xương sống, xương sống tựa trên xương mông, xương mông tựa trên xương vế, xương vế tựa trên xương đầu gối, xương đầu gối tựa trên xương ống chân, xương ống chân tựa trên xương mắt cá, xương mắt cả tựa trên xương bàn chân. Về ranh giới, xương được giới hạn bên trong bằng tủy, trên bằng thịt, đầu xương và chân xương bằng những cái xương khác...

Tủy

109. Ðây là chất tủy ở trong xương. Về màu sắc tủy có màu trắng. Về hình dáng, tủy ở trong mỗi cái xương có hình dáng một cây mía thấm ướt độn vào ruột một ống tre. Tuỷ ở trong mỗi xương nhỏ có hình dáng một cây mía thấm ướt độn trong một cành tre. Về phương hướng, tủy nằm cả hai hướng. Về trú xứ, nó nằm ở trong xương. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi mặt trong của cái xương...

Thận

110. Ðây là hai miếng thịt được nối lại bởi một đường duy nhất. Về màu sắc, thận có màu đỏ sẩm, màu của hột pālibhaddaka (coral tree). Về hình dáng, nó có dáng một cặp banh chơi của trẻ con hoặc dáng hai trái xoài dính vào một cái cọng duy nhất. Về phương hướng, nó ở hướng trên. Về trú xứ, nó nằm hai bên quả tim, được buộc bằng một sợi gân lớn xuất phát từ dưới cổ và tách ra làm hai sau khi đi một đoạn ngắn. Về ranh giới, thận được giới hạn bằng cái gì thuộc về thận...

Tim

111. Ðây là khối thịt tim. Về màu sắc, nó có màu của cái lưng của cánh hoa sen đỏ. Về hình dáng, nó có hình một cái chồi hoa sen bỏ những cánh ngoài rồi lật ngược lên. Phía ngoài nó láng, bên trong giống như mặt của một trái bầu (loofah) (kosātakī). Ở nơi người có trí tuệ, trái tim hơi rộng, nơi người không trí tuệ, nó chỉ mới là một cái chồi. Bên trong có một lỗ hổng bằng hột punnāga ở đây một lượng máu bằng nửa pasata được cất chứa (*), với máu này làm điểm tựa, tâm đại (tâm giới) (mind-element) và thức đại (ý thức giới) (mind-consciousness-element) phát sinh.

[(*) Inside it there is a hollow the size of a punnāga seed’s bed where half a pasata measure of blood is kept]

112. Máu của người có tánh tham thì màu đỏ, tánh sân thì màu đen, tánh si thì giống như nước rửa thịt, máu ở nơi người có tánh suy nghĩ nhiều thì giống canh đậm màu, máu người có tánh tín nhiều giống màu vàng hoa kanikāra, máu người tánh tuệ thì trong sáng, không vẩn đục, thuần tịnh như một viên ngọc rửa với nước trong sạch, và nó như chói sáng.

113. Về phương hướng, nó nằm ở hướng trên. Về trú xứ, nó ở giữa hai vú phía trong thân thể. Về ranh giới, tim được giới hạn bởi cái gì thuộc về tim...

Gan

114. Ðây là hai lá thịt. Về màu sắc, nó có màu nâu hơi đỏ. Màu như cái bề lưng không quá đỏ của những cánh hoa súng trắng. Về hình dáng, nó có một góc hai đầu giống như hình lá koviḷāra. Nơi người ngu đần, nó chỉ có một lá và lớn, nơi người có trí tuệ, có hai hay ba lá nhỏ. Về phương hướng, gan ở phía trên. Về trú xứ gan ở bên mặt, phía trong kể từ hai vú. Về ranh giới nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về gan...

Hoành Cách Mô

115. Ðây là cái bao của thịt, gồm hai loại, đóng và không đóng. Về màu sắc, cả hai loại đều màu trắng, màu như miếng giẻ mosselin (muslin) (dukūla). Về hình dáng, nó có hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng, hoành cách mô đóng ở phía trên, cái kia (không đóng) nằm ở hai hướng. Về trú xứ, hoành cách mô đóng được tìm thấy ở cái bọc ngoài tim và thận, hoành cách mô không đóng được tìm thấy bao bọc thịt dưới lớp da trong ở khắp cơ thể. Về ranh giới, nó được giới hạn ở dưới bởi thịt, trên bởi da trong và xung quanh bởi cái gì thuộc về hoành cách mô...

Lá Lách

116. Ðây là miếng thịt giống cái lưỡi ở nơi bụng. Về màu sắc, nó có sắc xanh của hoa nigguṇḍi. Về hình dáng, nó có dáng cái lưỡi trâu, to bằng bảy ngón tay. Về phương hướng, nó ở phía trên. Về trú xứ, nó ở gần phía bụng trên, bên trái của tim, khi bị thương lòi lá lách ra, thì mạng sống của một sinh vật chấm dứt. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về lá lách...

Phổi

117. Phổi được chia làm hai hoặc ba mảnh thịt. Về màu sắc, nó có màu đỏ, màu của trái sung chưa chín lắm. Về hình dáng, nó có hình một lát bánh dày được cắt không đều. Phía bên trong phổi lạt lẽo và thiếu chất dinh dưỡng, như một miếng rơm đã nhai rồi, bởi vì nó bị ảnh hưởng của sức nóng của hỏa đại do nghiệp sanh, hỏa này bốc lên mỗi khi có nhu cầu ăn uống. Về phương hướng, thì nó ở trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy bên trong thân thể giữa hai vú, treo lơ lửng trên tim và gan, và che khuất hai cái này. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về phổi...

Ruột

118. Ðây là cái ống ruột được cuộn lại hai mươi mốt khúc dài 32 bàn tay đối với đàn ông, và 28 bàn tay đối với đàn bà. Về màu sắc, nó có màu trắng như hồ vôi trộn lẫn cát. Về hình dáng, nó giống như con rắn đứt đầu cuộn lại đặt trong một cái máng đầy cả máu. Về phương hướng, ruột ở cả hai hướng. Về trú xứ, ở phía trên nó được gắn liền với ống dẫn thức ăn, và dưới thì gắn liền với ống dẫn phân (hậu môn), như vậy ruột nằm trong thân thể suốt từ giới hạn yết hầu đến hậu môn. Về ranh giới, ruột được giới hạn bởi cái gì thuộc về ruột...

Trực Tràng

119. Ðây là chỗ buộc chặt tại những nơi ruột cuộn lại. Về màu sắc, nó có màu trắng như rễ sen ăn được, và hình dáng cũng như những ngó sen ấy. Về phương hướng, nó ở cả hai hướng. Về trú xứ, nó được tìm thấy ở trong 21 cuộn ruột, như những sợi dây kết những vành dây thừng lại với nhau để chùi chân. Nó buộc những cuộn ruột lại với nhau để chúng khỏi tuột xuống khi người ta làm việc nặng với cày bừa v.v... Hệt như sợi dây nơi cái máy bừa đất buộc chặt tấm ván bừa đặt vào cái máy, mỗi khi máy được kéo đi trên ruộng để bừa đất, trước khi gieo lúa. Về ranh giới, trực tràng được giới hạn bởi những gì thuộc về trực tràng...

Bao Tử

120. Ðây là những gì đã được ăn, uống, nhai, nếm và đang có mặt ở trong dạ dày. Về màu sắc, nó có màu của thức ăn đã được nuốt vào. Về hình dáng, nó có dáng một túi vải buộc lơi lỏng chứa cơm bên trong. Về phương hướng nó nằm hướng trên.

121. Về trú xứ, nó ở trong dạ dày. Cái được gọi dạ dày là một phần của màng ruột, nó giống như một tấm vải ướt dài được vặn hết nước ở hai đầu, ở giữa căng phồng lên với không khí bên trong. Bên ngoài dạ dày láng lẩy, nhưng bên trong, nó giống cái bong bóng vải bị dơ vì gói cặn bả thịt, hoặc là giống bên trong của một cái vỏ trái mít thối. Ðó là nơi những dòi trùng sống lúc nhúc như rừng: ba mươi hai gia đình những sán lãi như lãi kim, lãi đũa v.v... Khi nào không có ăn uống gì vào, chúng nhảy lên kêu gào và vồ lấy thịt ở quả tim, còn khi có thức ăn uống được nuốt vào, thì chúng chờ đợi với những cái mồm ngóc lên, tranh nhau giật lấy hai ba miếng nuốt xuống đầu tiên. Dạ dày vừa là nhà bảo sanh, vừa là nhà xí. Vừa là bệnh viện, và nghĩa trang của những con trùng này. Hệt như vào thời hạn hán, bỗng có một trận mưa, thì những gì được nước cuốn vào cống rãnh ở cổng của một khu làng hạ tiện, nghĩa là đủ thứ dơ dáy như nước tiểu, phân, những mảnh da, xương gân, cũng như đờm, dãi máu v.v... Những thứ ấy trộn lẫn với nhua cùng với bùn và nước đã được tụ ở đấy, rồi hai ba ngày sau những quyến thuộc sâu bọ xuất hiện, những thứ ấy lên men, được hâm nóng bởi sức nóng mặt trời, nên sủi bọt lên trên, đen ngòm hôi hám và ghê tởm đến nổi người ta không thể nào tới gần, hay nhìn vào đó, huống chi là ngửi và nếm. Cũng vậy, dạ dày là nơi mà đủ thứ thức ăn uống lọt vào sau khi được nghiền bởi cái chày răng, được đảo qua đảo lại bằng cái bàn tay của lưỡi, được làm dính vào nhau bằng đờm và nước miếng, lúc đó nó đã mất hết màu sắc hương vị, để khoát lấy bộ mặt của đống hồ thợ dệt, và của đồ chó mửa, để rồi được nhúng trong mật, đàm, phong đã tụ ở đấy, và nó lên men do năng lực của sức nóng trong bao tử, sôi sục theo bầy sán dòi, sủi bọt ở trên mặt cho đến khi nó biến thành một thứ phân uế, hoàn toàn thối tha nôn mửa, chỉ cần nghe nói tới cũng đủ làm người ta hết muốn ăn uống, chứ đừng nói gì đến nhìn nó bằng con mắt tuệ. Và khi đồ ăn uống rơi vào dạ dày, chúng được chia thành năm phần: sán lãi, vi trùng một phần, lửa bao tử đốt cháy hết một phần, một phần biến thành nước tiểu, một phần nữa thành phân, phần cuối cùng mới biến thành dưỡng chất, bồi bổ máu thịt v.v...

122. Về ranh giới, nó được giới hạn bằng cái bọc chứa và bởi những gì thuộc bao tử...

Phân

123. Về màu sắc, phân có màu của đồ ăn được ăn vào. Về hình dáng, đó là hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng, nó ở hướng dưới. Về trú xứ, phân được tìm thấy trong chỗ chứa các đồ ăn đã tiêu hoá, hậu môn.

124. Hậu môn là phần thấp nhất ở cuối ruột, nó nằm giữa lỗ rốn, và chỗ tận cùng của xương sống lưng. Nó có chiều dài 8 đốt tay và giống như một cái ống tre. Như nước mưa rơi từ chỗ cao chảy xuống chỗ thấp, và ngừng tại đấy, cũng vậy, chỗ chứa đồ ăn đã tiêu hóa là nơi mà bất cứ thức ăn uống gì đã rơi vào chỗ chứa đồ ăn chưa tiêu, đã được nấu chín và làm cho sôi sục với sức nóng của bao tử, và đã trở nên mềm nhuyễn như thể được xay trong cối đá, sẽ chảy xuống qua những lỗ ruột và nó được ép lại ở đấy cho đến khi trở thành đông đặc như đất sét nâu tộng vào ống tre, ở đó nó nằm lại.

125. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi chỗ chứa thức ăn đã tiêu hóa và bởi những gì thuộc về phân...

Não

126. Ðây là những cục tủy được tìm thấy ở trong xương sọ. Về màu sắc, nó có màu trắng như thịt của một cái nấm (mộc nhĩ) có thể bảo nó có màu sữa quậy lên, nhưng chưa đông thành ván sữa. Về hình dáng, nó có hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng, nó ở phía trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy trong sọ như bốn cục bột nhồi sắp gần nhau theo hình dạng bốn phần ráp của chiếc sọ. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi mặt trong của sọ và những gì thuộc về não...

Mật

127. Có hai thứ mật: mật tại chỗ và mật luân lưu. Ở đây về màu sắc, mật trong túi mật có màu dầu đặc madhuka, mật luân lưu có màu hoa ākulī đã héo. Về hình dáng, cả hai thứ mật đều có hình dáng củ trú xứ nó. Về phương hướng, túi mật thuộc hướng trên, còn mật luân lưu thì cả hai hướng. Về trú xứ, mật luân lưu rải ra như một giọt dầu trên mặt nước khắp châu thân trừ tóc, lông, rằng, móng, những nơi không thịt và những chỗ da khô cứng. Khi mật này bị xáo trộn, thì mắt vàng, co giật, thân thể run rẩy và ngứa ngáy. Túi mật nằm cạnh lá gan ở giữa tim và phổi, có hình dáng như trái Kosātakī. Khi túi mật bị xáo trộn, sinh vật nổi điên khùng, mất hết tàm quý và làm những việc bình thường nó không thể làm, nói lời mà thường nó không nói, suy nghĩ những điều bình thường nó không nghĩ. Về ranh giới, mật được giới hạn bởi những gì thuộc về mật...

Ðàm

128. Ðàm ở trong thân thể ước lượng một tô đầy. Về màu sắc, nó có màu trắng của nước lá cây nāgabalā vắt ra. Về hình dáng, nó có hình dáng trú xứ của nó. Về phương hướng, nó ở trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy trên mặt của màng ruột. Giống như rong rêu màu xanh đọng trên mặt nước rẽ ra, khi có cái gậy hay que thọc vào trong nước, nhưng rồi dán lại như cũ. Cũng thế, khi ăn uống vào, lúc thức ăn uống lọt xuống bao tử, lớp đàm này rẽ ra rồi dán lại. Nếu đàm yếu, thì bao tử trở nên hôi hám ghê tởm như mùi phân hay mùi trứng thối miệng ợ ra và toát ra mùi trứng thối dâng lên từ bao tử, làm cho người ấy phải bị nói: “Ði đi miệng thối lắm”. Nhưng khi đàm này nhiều, thì nó giữ cho mùi thối ấy nằm dưới mặt bao tử, giống như cái nắp đậy một thùng phân. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi những gì thuộc về đàm...

Mủ

129. Mủ được phát sinh do máu bị thối. Về màu sắc nó có màu của lá trở màu trắng bạc, nhưng ở thây chết, nó có màu cháo đặc bị thiu. Về hình dáng, nó có hình dáng chỗ ở của nó. Về phương hướng, nó ở cả hai hướng. Về trú xứ, thì mủ không có chỗ ở nhất định, nó được tìm thấy ở chỗ nào nó tụ lại. Mỗi khi máu bị đọng ứ lại, và thối tại một thân phần nào do bị thương tích, bị gai đâm hay bị cháy v.v... Hay chỗ có mụt nhọt xuất hiện, thì có thể tìm thấy mủ tại đấy. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về mủ...

Máu

130. Có hai loại máu: máu được tích trữ và máu lưu động. Về màu sắc, máu tích trữ có màu dùng dịch lạc (sữa) đông đặc đã nấu, máu lưu động có màu dung dịch lạc trong sáng. Về hình dáng, cả hai thứ đều có dáng của trú xứ máu. Về phương hướng, máu tích trữ thuộc về hướng trên, máu lưu động thuộc cả hai hướng. Về trú xứ, trừ tóc, lông, móng ra, những nơi không có thịt và những chỗ da khô cứng, còn thì máu lưu thông khắp toàn thân ngũ thủ uẩn bằng cách chạy theo một mạng lưới tĩnh mạch (đường gân máu). Máu tích trữ chứa đầy phần dưới lá gan khoảng một chén đầy và bằng cách tóe ra từng lúc khi một ít lên tim, thận và phổi, nó giữ cho thận, tim, gan, và phổi thấm ướt. Khi nó không thấm ướt thận, tim v.v... thì sinh vật đâm ra khát nước. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi những gì thuộc về máu...

Mồ Hôi

131. Ðây là thủy đại, chất nước rỉ ra từ những lỗ chân lông. Về màu sắc, nó có màu của dầu mè trong. Về hình dáng, nó có dáng của trú xứ nó. Về phương hướng, nó thuộc cả hai hướng. Về trú xứ, không có trú xứ nhất định cho mồ hôi, nó được tìm thấy khắp nơi cũng như máu. Nhưng nếu thân thể bị nóng, do sức nóng của lửa hay mặt trời hay bởi sự thay đổi nhiệt độ v.v... Thì mồ hôi tiết ra từ tất cả những lỗ chân lông và chân tóc, như khi cắt những cọng sen hoặc bông súng lôi ra khỏi nước, chúng rỉ nước ra. Bởi thế hình dáng của mồ hôi nên được hiểu là tương đương với lỗ chân tóc và lỗ chân lông. Hành giả khi phân định mồ hôi chỉ nên chú ý đến mồ hôi như khi nó đang nằm đầy cả lỗ chân lông và chân tóc. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về mồ hôi...

Mỡ

132. Ðây là một chất dầu bóng dày đặc. Về màu sắc, nó có màu của gừng cắt ra từng lát mỏng. Về hình dáng, ở nơi người to béo nó có dáng như những miếng giẻ màu vàng nhạt đặt giữa da trong và thịt. Ở thân thể người gầy, mỡ có hình dáng những miếng giẻ đặt hai ba lớp trên thịt đùi, thịt bắp vế, thịt lưng cạnh xương sống và thịt bao quanh bụng. Về phương hướng, nó ở cả hai hướng. Về trú xứ, mỡ tràn lan khắp thân thể một người béo mập. Ở người gầy, mỡ được tìm thấy nơi bắp chân... Mặc dù ở trên, nó được mô tả là “láng bóng” nhưng nó cũng không được sử dụng làm dầu xức đầu hay xức mũi gì cả, vì tính chất ghê tởm tột bực của nó. Về ranh giới, nó có giới hạn ở phía dưới bởi thịt, trên bởi lớp da trong và xung quanh bởi cái gì thuộc về mỡ...

Nước Mắt

133. Ðây là chất nước rỉ ra từ con mắt. Về màu sắc có màu dầu mè trong. Về hình dáng, nó có hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng, nó ở hướng trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy trong những lỗ mắt, nhưng không phải luôn luôn nước mắt được tìm thấy trong lỗ mắt, như mật trong túi mật mà khi người ta cảm thấy vui mà cười thật lớn hay khi khi cảm thấy buồn mà khóc hoặc khi ăn những thứ cay nồng, hoặc khi mắt bị ảnh hưởng bởi khói bụi, chất dơ v.v... Thì do những nguyên nhân này phát sinh ra nước mắt tràn đầy trong lỗ mắt hay tiết ra ngoài. Hành giả khi quán nước mắt, chỉ nên quán nó đang đầy lỗ mắt. Về ranh giới, chúng có giới hạn bởi cái gì thuộc về nước mắt...

Mỡ Nước

134. Ðây là chất dầu bóng đã tan ra. Nó có màu dầu dừa. Cũng có thể bảo nó có màu dầu rưới trên cháo. Về hình dáng, nó như một màng trong, hình dạng một giọt dầu loang ra trong nước lắng, khi người ta tắm. Về phương hướng, nó ở cả hai hướng. Về trú xứ, nó được tìm thấy nhiều nhất là ở trong lòng bàn tay, lưng bàn tay, gót chân, lưng bàn chân, chót mũi, trán, chỗ vai nhô lên. Và nó không luôn luôn được tìm thấy trong tình trạng tan ra tại những chỗ ấy, nhưng khi những thân phần này nóng lên vì sức nóng của lửa, của mặt trời, của sự xáo trộn thời tiết, hay xáo trộn tứ đại, thì mỡ nước này lan ra đó đây, tại những chỗ kia, như cái màng tạo nên bởi một giọt dầu loang trên mặt nước đứng, lúc người ta tắm. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về mỡ nước...

Nước Bọt

135. Ðây là chất nước trộn lẫn bọt ở trong miệng. Về màu sắc, nó màu trắng màu của bọt. Về hình dáng, nó có hình dáng trú xứ nó, hoặc có thể nói là hình dáng của bọt. Về phương hướng, thì nó ở hướng trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy trên lưỡi sau khi ở hai bên má chảy xuống. Và không phải rằng luôn luôn nước bọt tụ lại ở đây, mà khi sinh vật trông thấy một thức ăn đặc biệt nào đó, hay nhớ lại thức ăn ấy, hay bỏ vào miệng một cái gì hoặc cay, hoặc đắng, hoặc mặn, hoặc chát, hoặc chua, hay khi bị ngất xỉu, hay cơn buồn nôn nổi lên vì một cớ gì, thì khi ấy nước bọt xuất hiện chảy xuống hai má trong rồi đậu lại trên lưỡi. Nó đọng ít ở đầu lưỡi và nhiều ở gốc lưỡi. Nó có thể làm thấm ướt lúa hay gạo hoặc bất cứ thứ gì nhai được, khi được đưa vào miệng. Nó giống như nước mà không bị khô cạn từ trong một cái hố nước múc đổ tới nơi bờ cát bên sông. Về ranh giới nó hạn bởi những gì thuộc về nước bọt...

Nước Mũi

136. Ðây là chất dơ tiết ra từ não. Về màu sắc nó có màu của hạt cau non. Về hình dáng, nó có hình dáng của trú xứ nó. Về phương hướng, nó ở phía trên. Về trú xứ, nó được tìm thấy làm đầy hai lỗ mũi. Nhưng nước mũi không phải luôn luôn được tích tụ ở đấy, đúng hơn, khi sinh vật khóc hay bị xáo trộn tứ đại vì thức ăn hay nhiệt độ thì mặt não trong đầu biến thành đàm nhạt và phun ra, chảy xuống theo vòm miệng (palate) đầy hai lỗ mũi và đọng ở đó hoặc chảy ra hệt như một người bọc váng sữa trong một lá sen cột lại rồi đâm thủng ở đáy thì sữa cũng chảy ra theo cách ấy. Hành giả quán về nước mũi chỉ nên quán nó đầy hai lỗ mũi. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi cái gì thuộc về nước mũi...

Nước Khớp Xương

137. Ðây là chất nhờn ở trong những khớp xương trong thân thể. Về màu sắc, nó có màu của chất nhựa kanikāra. Về hình dáng, nó có hình dáng trú xứ của nó. Về phương hướng, nó ở cả hai hướng. Về trú xứ, nó được tìm thấy bên trong 180 cái khớp xương, có nhiệm vụ làm cho trơn khớp. Nếu chất nước này thiếu hụt thì một người đứng lên ngồi xuống, chuyển thân ra trước sau hay qua lại, hay có duỗi, những cái xương của nó kêu răn rắc như tiếng búng tay, và mới đi bộ vài dặm, phong đại của người ấy đã xáo trộn đau nhức tứ chi. Nhưng nếu một người có nhiều nước ở khớp xương, thì xương nó không kêu răn rắc khi ngồi xuống đứng dậy v.v... Và dù đi một quãng đường thật xa, phong đại của nó cũng không bị đảo lộn và tứ chi không đau nhức. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi những gì thuộc về nước ở khớp xương...

Nước Tiểu

138. Ðây là dung dịch nước tiểu. Về màu sắc, nó có màu của nước dưa giá. Về hình dáng, nó có hình dáng của nước chứa trong một bình nước chúc vòi xuống. Về phương hướng, nó ở hướng dưới. Về trú xứ, nó được tìm thấy trong bàng quang (bong bóng). Như một cái bình có nhiều lỗ nhỏ mà không có miệng, được đặt trong một một hố phân, dung dịch trong hố phân đó thấm vào trong bình, mặc dù không có cái miệng. Cũng vậy, nước tiểu tiết từ trong thân đi vào bàng quang mặc dù không có lối vào rõ rệt. Tuy thế, lối ra của nó thì rõ.

Khi bàng quang đầy nước tiểu thì sinh vật có nhu cầu tiểu tiện. Về ranh giới, nó được giới hạn bởi bên trong của bàng quang và bởi những gì thuộc nước tiểu. Ðấy là định giới hạn bằng cấu đồng. Ðịnh giới bằng cái dị thì như trong trường hợp tóc (đoạn 90).

Ðịnh Tướng Khởi

139. Khi hành giả đã định rõ các phần khởi đầu bằng tóc như trên qua màu sắc, hình dáng, phương hướng, trú xứ và ranh giới, và chú tâm theo cách đã chỉ dẫn khởi từ Đoạn 61 (theo thứ tự) không quá nhanh... (tác ý tưởng bất tịnh) theo 5 khía cạnh màu sắc, hình dáng, mùi, xuất xứ và chỗ ở (đoạn 84 và kế tiếp) và cuối cùng vượt qua khái niệm danh từ (đoạn 66). Khi ấy, cũng như một người có mắt tốt đang quan sát một tràng hoa 32 màu cột trên một sợi chỉ xâu duy nhất, tất cả hoa đồng thời hiện rõ cho vị ấy, cũng vậy, khi hành giả quan sát thân này như sau: Ở trong thân này, có tóc v.v... Thì tất cả những vật ấy đồng thời hiện rõ cho hành giả. Do đó ở trên trong phần giải thích về thiện xảo trong sự tác ý, có nói rằng: “Bởi khi một người sơ cơ tác ý tóc, sự chú ý của vị ấy tiếp tục cho đến khi nó đạt đến phần cuối cùng là nước tiểu và dừng lại ở đấy” (đoạn 67).

140. Nếu khi tất cả 32 phần đã hiện rõ với hành giả, nếu vị ấy cũng tác ý như trên đối với ngoại vật (như đã chú tâm trên 32 thể ở nội thân) thì khi ấy những người, súc vật v.v... Di động trước mắt bấy giờ bỗng tuột hết cái tướng chúng sanh, và chỉ như là tổng hợp các phần tử. Và khi chúng nuốt vào những thức ăn uống, thì trông như thể thức ăn uống đang được đặt vào trong một tập hợp những phần tử ấy.

141. Khi hành giả tiếp tục tác ý đến những phần tử ấy (là ghê tởm), tuần tự bỏ ra những phần không rõ như đã nói ở đoạn 67 thì cuối cùng định tướng xuất hiện nơi hành giả. Ở đây sự xuất hiện của tóc v.v... Về màu sắc, hình dáng, trú xứ và ranh giới là học tướng, khía cạnh ghê tởm của nó về mọi phương diện là tợ tướng.

Khi hành giả phát triển tợ tướng thì định tướng sẽ khởi lên, nhưng đây chỉ thuộc sơ thiền, như đã được tả dưới đề mục “bất tịnh kể như một đề mục thiền” (Chương IV, đoạn 74 và kế). Và chỉ có một định tuớng sơ thiền xuất hiện nơi người mà đối với họ chỉ có một phần tử (trong 32 phần) được hiện rõ hoặc là người đã đạt được định tướng trong một phần và không nỗ lực gì thêm.

142. Nhưng nhiều sơ thiền, tùy theo số lượng các phần, được phát sinh nơi một người mà đối với vị ấy nhiều phần đã hiện rõ, hoặc nơi một người đã đạt định tướng với một phần nhưng còn nỗ lực thêm về các phần khác. Ðó là trưởng lão Mallaka.

Vị trưởng lão này cầm tay trưởng lão Abhaya, người tụng đọc kinh Trường bộ và sau khi nói: “Thiền giả Abhaya trước hết hãy học vấn đề này”, ông nói tiếp: “Mallaka là vị trưởng lão đã đắc 32 thiền về 32 uế vật. Nếu nhập sơ thiền mỗi ngày một thể, và mỗi đêm một thể, thì vị tiếp tục nhập trong hơn nửa tháng. Nếu chỉ nhập mỗi ngày một thể, thì vị ấy tiếp tục trong hơn một tháng”.

143. Và mặc dù thiền này có thể thành công như trên với sơ thiền, tuy vậy nó được gọi là “thân hành niệm” vì nó thành công nhờ ảnh hưởng của sự tưởng niệm về màu sắc, hình dáng...

144. Và vị Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm này là người “chinh phục được sự chán ghét và ưa thích ưa chán không chinh phục được vị ấy, vị ấy sống vượt qua được sự ưa chán khi nó khởi lên. Vị ấy là người chinh phục được sợ hãi khiếp đảm, sợ hãi khiếp đảm không chinh phục được vị ấy, vị ấy sống vượt qua sợ hãi khiếp đảm khi nó nổi lên. Vị ấy là người chịu đựng nóng lạnh... Chịu đựng các cảm thọ về thân... Chết điếng người” (M III 97); vị ấy trở thành người đạt được bốn thiền dựa trên khía cạnh màu sắc của tóc v.v... và đạt đến các thần thông (xem MN 6).

Bởi thế, người có trí,
Hãy tinh cần ngày đêm
Tu tập thân hành niệm
Ðem lại nhiều lợi ích.

Niệm Hơi Thở

145. Bây giờ đến phần mô tả sự tu tập Niệm hơi thở kể như một đề mục thiền. Ðức Thế Tôn đã tán thán nó như sau: “Và này các Tỷ-kheo, định do quán hơi thở này, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, là an lạc và cao thượng, là trú xứ an lạc vô nhiễm, loại trừ và làm cho tịnh chỉ các ác bất thiện tư duy ngay khi chúng khởi lên” (S V 321).

Kinh Văn

Ðức Thế Tôn đã mô tả niệm hơi thở này có 16 mục căn cứ như sau: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào niệm hơi thở được tu tập, được làm cho sung mãn, là vừa an lạc vừa cao cả, là một trú xứ an lạc vô nhiễm, loại trừ và làm cho tịnh chỉ các ác bất thiện tư duy ngay khi chúng khởi lên?

”Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đi đến khu rừng hay đến một gốc cây hay ngôi nhà trống, ngồi xuống kiết già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, luôn tỉnh giác vị ấy thở vào, tỉnh giác vị ấy thở ra.

“(1) Khi thở vô dài, vị ấy biết ‘tôi thở vô dài’; hay khi thở ra dài vị ấy biết ‘tôi thở ra dài’. (2) Thở vô ngắn, vị ấy biết ’Tôi thở vô ngắn’; hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết ’Tôi thở ra ngắn’. (3) Vị ấy tập ‘Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra’. (4) Vị ấy tập ‘An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra’.

“(5) Vị ấy tập ‘Cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘Cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở ra’. (6) Vị ấy tập ‘Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra’. (7) Vị ấy tập ‘Cảm giác tâm hành tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘Cảm giác tâm hành tôi sẽ thở ra’. (8) Vị ấy tập ‘An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra’.

“(9) Vị ấy tập ‘Cảm giác về tâm tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘Cảm giác về tâm tôi sẽ thở ra’. (10) Vị ấy tập ‘Khiến tâm hân hoan tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘Khiến tâm hân hoan tôi sẽ thở ra’. (11) Vị ấy tập ‘Khiến tâm định tĩnh tôi sẽ thở vô’; vị ấy tập ‘Khiến tâm định tĩnh tôi sẽ thở ra’. (12) Vị ấy tập, ‘Khiến tâm cởi mở tôi sẽ thở vô”; vị ấy tập ‘Khiến tâm cởi mở tôi sẽ thở ra’.

“(13) Vị ấy tập ‘Quán vô thường tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập ‘Quán vô thường tôi sẽ thở ra’. (14) Vị ấy tập ‘Quán tan hoại tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập ‘Quán tan hoại tôi sẽ thở ra’. (15) Vị ấy tập ‘Quán tịch diệt tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập ‘Quán tịch diệt tôi sẽ thở ra’. (16) Vị ấy tập ‘Quán từ bỏ tôi sẽ thở vào’; vị ấy tập ‘Quán từ bỏ tôi sẽ thở ra’ (S V 321-2).

146. Tuy nhiên sự mô tả về cách tu tập chỉ toàn vẹn về mọi mặt sau khi luận giải về kinh văn, bởi thế ở đây luận giải được dẫn đầu bằng một luận giải về phần đầu của đoạn kinh.

Giải Thích Danh Từ

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định về quán hơi thở được tu tập, được làm cho sung mãn: Thế nào là một câu hỏi tỏ ý muốn giải thích chi tiết sự tu tập về định qua phép quán hơi thở trong những hình thức khác nhau của nó.

147. Ở đây, tu tập có nghĩa khởi lên, tăng trưởng. Ðịnh do quán hơi thở là định liên hệ đến việc niệm hơi thở hay định về pháp niệm hơi thở. Ðược làm cho sung mãn là tập đi tập lại nhiều lần.

148. Vừa an lạc vừa cao cả (santo c’ eva paṇīto ca): nó an lạc ở cả hai phương diện và cao cả về cả hai phương diện. Nghĩa là thế nào? Không như quán bất tịnh, một đề mục thiền chỉ an lạc và cao cả khi đã thâm nhập, nhưng đối tượng quán của pháp này thì không cao cả cũng không an lạc vì đối tượng (trong giai đoạn học tập) thì thô, và (sau đó) đối tượng là đáng tởm. Trái lại, pháp quán này (niệm hơi thở) thì không thế, nó an lạc lắng dịu bởi tính chất an lạc của đối tượng và bởi tính chất an lạc của sự thâm nhập (penetration) và nó cao cả do tính chất cao cả của đối tượng và bởi tính chất cao cả của sự thâm nhập.

149. Ðó là một trú xứ an lạc vô nhiễm: nó không có sự lẫn lộn với các thành phần thấp kém, nên gọi là vô nhiễm. Ðây không có vấn đề phải tạo xong công việc chuẩn bị tiên khởi mới đạt đến an lạc (như trường hợp quán biến xứ Kasiṇa) hay phải tới giai đoạn cận hành định (access) mới an lạc (như ở trường hợp quán bất tịnh). Pháp quán này an lạc và cao cả ngay tự bản chất của nó, khởi từ sự chú ý đầu tiên của ta trên đối tượng (hơi thở) đã là an lạc. Có người bảo nó vô nhiễm bởi vì nó không bị pha lẫn cái gì khác, nó có giá trị dinh dưỡng và ngay từ bản chất nó đã êm dịu rồi. Bởi thế cần hiểu rằng nó “vô nhiễm” và là “trú xứ an lạc” vì nó đưa đến sự an lạc thân và tâm ngay trong mỗi lúc thấm nhuần pháp quán này.

150. Ngay khi vừa khởi lên: khi nào chúng (Những ác bất thiện tư duy) không được chế ngự. Ác: xấu. Bất thiện tư duy (akusala): là những tư duy được phát sinh bởi không thiện xảo (akosalla). Nó loại trừ ngay: loại bỏ, nhiếp phục ngay lúc đó. Làm cho tịnh chỉ (vūpasameti): nó hoàn toàn làm an tịnh (suṭṭhu upasameti), hay nói cách khác, khi cuối cùng được đưa đến viên mãn nhờ thấm đạo, thì nó đoạn hẳn.

151. Nói tóm lại ý nghĩa ở đây là: “Này các Tỷ-kheo, bằng cách nào, do phương pháp, hệ thống nào, mà định do niệm hơi thở được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ vừa an lạc vừa cao cả... ngay khi chúng khởi lên?”

152. Bấy giờ Ðức Thế Tôn dạy: “Ở đây, này các Tỷ-kheo...” để giải thích chi tiết điều trên.

Ở đây, này các Tỷ-kheo có nghĩa là này các Tỷ-kheo, ở trong giáo pháp này. Chữ “Ở đây” có nghĩa là trong giáo pháp của Phật kể như điều kiện tiên quyết cho một người để phát sinh định lực qua phép quán hơi thở trong tất cả hình thức (nghĩa là 16 đề tài) của nó, và ám chỉ rằng trạng thái như vậy không hiện hữu ở trong một nền giáo lý nào khác. Vì kinh dạy: “Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây mới có đệ nhất Sa-môn, ở đây có đệ nhị Sa-môn, ở đây có đệ tam Sa-môn, ở đây có đệ tứ Sa-môn, các giáo lý khác không có Sa-môn” (M I 63; A II 238).

153. Ði đến khu rừng... hay ngôi nhà trống: có nghĩa vị ấy đã tìm ra một chỗ ở thích hợp cho sự tu tập định bằng cách niệm hơi thở. Vì tâm vị Tỷ-kheo này từ lâu đã bị phân tán trong những đối tượng sắc pháp v.v... Nó không muốn theo dõi đối tượng của sự tu định qua pháp niệm hơi thở, nó cứ bỏ chạy khỏi đường rầy giống như một chiếc xe buộc vào một con bò hoang. Bây giờ, giả sử một mục tử muốn luyện một con bê hoang đã bú sữa từ một bò mẹ hoang, thì anh ta phải đem nó đi xa khỏi bò mẹ, cột nó ra riêng bằng một sợi dây buộc vào một cái cọc đóng chặt xuống đất, khi đó con bê có thể vùng vằng qua lại, nhưng vì không thể rứt ra được nên cuối cùng nó sẽ ngồi xuống hay nằm xuống bên cạnh cái cọc. Cũng vậy, khi vị Tỷ-kheo muốn luyện cái tâm từ lâu đã bị hỏng vì được nuôi dưỡng bằng các sắc pháp, thì vị ấy phải đưa nó ra khỏi các đối tượng sắc pháp và đem nó vào rừng hay tới một gốc cây, hoặc một chỗ trống, buộc nó lại ở đấy, vào cái cọc là hơi thở vô ra, với sợi dây là niệm lực. Tâm vị ấy khi đó có thể lăng xăng qua lại vì nó không còn có được những đối tượng mà lâu nay nó đã quen thuộc, song vì không thể rứt sợi dây “niệm” để thoát ra, nên nó phải ngồi lại, nằm xuống bên đối tượng (hơi thở) dưới ảnh hưởng của định cận hành và an chỉ (access and absorption). Bởi thế cổ đức nói:

154.

“Như một người luyện trâu
Cột trâu vào cọc
Cũng vậy ở đây tâm vị ấy cần
Ðược cột chắc vào đối tượng nhờ niệm”.

155. Hoặc, pháp niệm hơi thở này kể như một đề mục tu tập thiền định — đề mục trước tiên trong số những đề mục thiền mà tất cả chư Phật, (một số) Duyên Giác và Thanh Văn đã sử dụng làm căn cứ để đạt đến thiền chứng và hiện tại lạc trú — pháp niệm hơi thở này không dễ dàng tu tập nếu không từ bỏ trú xứ gần những làng mạc huyên náo với tiếng ồn của phụ nữ, đàn ông, voi ngựa, vì tiếng động là cây gai đối với thiền (xem A V 135), trong khi ở một khu rừng xa làng mạc, một thiền giả có thể thoải mái khởi sự tu tập đề mục thiền này, và thành tựu Tứ thiền trong pháp niệm hơi thở, rồi lấy thiền này làm căn bản để biến tri các hành (xem Chương XX, đoạn 2 và kế tiếp) (với tuệ), vị ấy có thể đắc A-la-hán, quả vị cao tột. Ðó là lý do Ðức Thế Tôn bảo “đi đến khu rừng” v.v... Trong khi nêu rõ một trú xứ thích hợp cho hành giả.

156. Vì Ðức Thế Tôn giống như một bậc Thầy về nghệ thuật xây dựng những cảnh trí (xem D I 9, 12; D II 87). Như bậc Thầy về nghệ thuật xây cất quan sát cảnh trí dự định cho 1 thành phố, ngắm thật kỹ lưỡng khung cảnh ấy, và chỉ dẫn “Hãy xây dựng thành phố tại đây”, và khi thành phố đã hoàn tất, vị ấy được vinh dự lớn của vua ban, cũng vậy Ðức Thế Tôn xem xét một trú xứ về phương diện thích nghi cho thiền giả, và Ngài chỉ dẫn: “Hãy tu tập đề mục thiền định của ngươi tại đây” và về sau, khi thiền giả đã tu tập đề mục thiền và đắc A-la-hán quả và nói: “Ðức Thế Tôn quả thực là Ðấng Toàn Giác”, Ðức Thế Tôn nhận được danh xưng lớn.

157. Và Tỷ-kheo nào được ví như một con báo. Như một con báo lớn chúa tể loài báo, trốn trong một rừng cỏ hay rừng cây hay bãi đá hoang vu trong rừng để bắt các dã thú — trâu rừng, bò rừng, beo v.v... — cũng vậy, vị Tỷ-kheo tu tập đề mục thiền trong rừng sẽ bắt được tuần tự Dự Lưu đạo, Nhất Lai đạo, Bất Hoàn đạo, A-la-hán đạo, và cả những Thánh quả ấy nữa, bởi thế cổ đức nói:

“Như con báo trong rừng
Bắt được các dã thú
Vị đệ tử của Phật
Với trí tuệ, tinh cần
Nhờ ẩn vào rừng sâu
Ðược quả vị cao nhất”(Mil 369).

Bởi thế Đức Thế Tôn nói: “Ði vào khu rừng” v.v... là để nêu rõ 1 trú xứ dễ thúc nhanh sự chứng quả.

158. Ở đây, đi đến khu rừng là đi đến bất cứ một loại rừng nào có được sự an lạc của độc cư, trong số những loại rừng được tả như sau: “ngoài cái cọc ranh giới, tất cả đất ấy là rừng” (Paṭis I 176; Vibh 251), và “Một trú xứ ở rừng là một nơi xa cách 500 tầm cung” (Vin IV 183). Đến một gốc ấy: đến gần một gốc cây. Đến ngôi nhà trống (chỗ trống): đi đến một khoảng đất hẻo lánh trống trải và ở đây, vị ấy cũng được xem là đã đi đến một “chỗ trống” nếu vị ấy đi đến một trong bảy trú xứ còn lại (là một tảng đá, một khe núi, một hang động, một bãi tha ma, một cụm rừng, một khoảng trống giữa trời, một đống rơm).

159. Sau khi chỉ định 1 trú xứ thích hợp cho ba mùa cho khí chất và tính tình (về mùa nóng, rừng là thích hợp, về mùa rét, gốc cây, mùa mưa, khoảng trống. Với người đàm thạnh (phlegmatic humour), bản chất lãnh đạm thì rừng là thích hợp; với người mật thạnh (bilious humour) gốc cây thích hợp; với người phong thạnh (windy humour), khoảng trống thích hợp. Với người tánh si (deluded temperament), rừng thích hợp; với người tánh sân, gốc cây thích hợp; với người tánh tham, khoảng trống thích hợp) và thích hợp cho sự tu tập niệm hơi thở, Đức Thế Tôn nói “ngồi xuống” v.v... Chỉ rõ một thế ngồi an lạc không đưa đến trạo cử cũng không đưa đến giải đãi. Rồi ngài bảo: “ngồi kiết già” v.v... để chỉ rõ tính cách vững chãi trong tư thế ngồi, sự dễ dàng cho hơi thở vô ra và cách để phân biệt đối tượng.

160. Ở đây kiết già là thế ngồi với hai vế hoàn toàn xếp lại. Lưng thẳng phần trên thân thể thẳng đứng, với 18 đốt xương sống thẳng lên. Vì khi ngồi như vậy, da, thịt và gân của hành giả không bị cong quẹo, những cảm thọ khởi lên nếu chúng bị cong, sẽ không khởi lên. Vì thế tâm hành giả trở thành chuyên nhất, và đề mục thiền, thay vì sụp đổ đạt đến lớn mạnh tăng trưởng.

161. An trú niệm trước mặt (parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā) = sau khi đặt (ṭhapayitvā) niệm (satiṃ) trước mặt, đối diện với đề mục thiền (kammaṭṭhānābhimukhaṃ). Hoặc cũng có thể hiểu là, theo Paṭisambhidā: “Pari có nghĩa là sự kiểm soát (Pariggaha), mukkhaṃ (cái miệng) có nghĩa là lối ra, Sati (niệm) có nghĩa an trú (upaṭṭhāna), bởi thế mà nói niệm kể như một lối ra được kiểm soát (parimukhaṃ satiṃ)” (Paṭis I 176). Ý nghĩa vắn tắt ở đây là sau khi làm cho niệm trở thành lối ra có được kiểm soát (lối ra là ra khỏi cái đối lập với nó, tức sự quên lãng hay bất giác).

162. Tỉnh giác vị ấy thở vào, tỉnh giác vị ấy thở ra: sau khi đã ngồi như vậy, an trú niệm như vậy, vị Tỷ-kheo không bỏ cái niệm ấy, mà luôn luôn tỉnh giác vị ấy thở vào, tỉnh giác vị ấy thở ra. Có nghĩa rằng vị ấy là một người làm việc có tỉnh giác, có ý thức.

163. (i) Thở vô dài v.v... được nói lên để chứng tỏ vị ấy là một người hành giả có tỉnh giác trong nhiều phương diện khác nhau. Vì trong Paṭisambhidā, trong phần trình bày về câu “Luôn tỉnh giác vị ấy thở vào, tỉnh giác vị ấy thở ra”, được nói như sau: “Vị ấy là một hành giả tỉnh giác trong ba mươi hai phương diện: (1) khi vị ấy biết tâm chuyên nhất, không tán loạn, nhờ phương tiện là hơi thở vô dài, khi ấy niệm được an trú nơi vị ấy, do niệm và do sự biết rõ ấy, hành giả là một người làm việc có tỉnh giác. (2) Khi vị ấy biết rõ sự nhất tâm không tán loạn, bằng hơi thở ra dài... (31) bằng hơi thở vô quán từ bỏ... (32) Khi vị ấy biết rõ sự nhất tâm không tán loạn, bằng hơi thở ra quán từ bỏ, niệm được an trú nơi vị ấy, do niệm ấy và sự biết rõ ấy, vị ấy là một người làm việc có tỉnh giác” (Paṭis I 176).

164. Ở đây thở vô dài (assasanto) là hít vô một hơi dài. “Assāsa là hơi gió thoát ra, Passāsa là hơi gió vào” bản giải luật nói. Nhưng trong các bản luận về Kinh thì ngược lại. Ở đây, khi một hài nhi ra khỏi bụng mẹ, trước tiên gió từ bên trong đi ra và sau đó gió từ ngoài mới đi vào kèm theo bụi bặm, chạm vào lưỡi gà, và bị dập tắt (với cái hắt hơi của đứa trẻ). Ðây là những gì nên hiểu về danh từ Assāsa và Passāsa.

165. Nhưng độ dài và ngắn của chúng cần được hiểu bằng khoảng các không gian (addhāna). Vì, cũng như nước hay cát chiếm một khoảng không gian được gọi là “một dải nước dài”, một bãi cát dài, dải nước ngắn, bãi cát ngắn, cũng thế trong trường hợp thân thể của voi hay rắn, những hơi thở vô và hơi thở ra được xem như là những vi thể từ từ lấp đầy cái khoảng không gian dài, nghĩa là chiều dài của thân thể chúng, và từ từ đi ra trở lại. Bởi thế hơi thở chúng được gọi là “dài”. Hơi thở làm đầy nhanh chóng một khoảng không gian ngắn, chẳng hạn thân thể một con chó, con thỏ v.v... Và đi ra trở lại rất nhanh. Bởi thế mà những hơi thở này được gọi là “ngắn”.

166. Và trong trường hợp con người, một số người thở vô và thở ra dài, do khoảng cách thời gian, như voi và rắn thở, trong khi một số khác thở vô thở ra ngắn như chó, thỏ thở. Do vậy, những hơi thở nào du hành qua một đoạn đường dài trong khi đi vào và đi ra, cần được hiểu là dài về thời gian, và những hơi thở nào du hành qua một khoảng cách ngắn trong khi đi vào và ra, cần được hiểu là ngắn về thời gian.

167. Bây giờ, vị Tỷ-kheo ấy biết rõ “Tôi thở vô, thở ra dài” trong khi thở vô và thở ra dài, theo chín cách. Và sự tu tập về bốn niệm xứ bao gồm trong Thân hành niệm cần được hiểu là đã được kiện toàn ở trong phương diện nơi người biết như vậy, như Paṭisambhidā nói:

168. Thế nào là khi thở vô dài, vị ấy biết “Tôi thở vô dài?”, khi thở ra dài, vị ấy biết “Tôi thở ra dài?” (1) Vị ấy thở một hơi vô dài kể như một khoảng cách dài. (2) Vị ấy thở một hơi ra dài kể như một khoảng cách dài. (3) Vị ấy thở vô và thở ra những hơi vô dài và hơi ra dài kể như khoảng cách. Khi vị ấy thở vào và thở ra những hơi vô và hơi ra dài kể như khoảng cách, tinh tấn khởi lên. (4) Tinh tấn (zeal) vị ấy thở vô một hơi vô dài vi tế hơn trước kể như một khoảng cách. (5) Tinh tấn vị ấy thở ra một hơi ra dài tinh tế hơn trước kể như một khoảng cách. (6) Tinh tấn vị ấy thở vô và thở ra những hơi vô và hơi ra dài vi tế hơn trước kể như khoảng cách. Khi với tinh tấn, vị ấy thở vô và thở ra những hơi vô và hơi ra dài tinh tế hơn trước kể như khoảng cách, hân hoan khởi lên. (7) Với hân hoan vị ấy thở vô một hơi vô dài vi tế hơn trước kể như một khoảng cách. (8) Với hân hoan, vị ấy thở ra một hơi ra dài vi tế hơn trước kể như một khoảng cách. (9) Với hân hoan, vị ấy thở vô và thở ra những hơi vô và hơi ra dài vi tế hơn trước kể như khoảng cách. Khi vị ấy, với hân hoan, thở vô và thở ra những hơi vô và hơi ra dài vi tế hơn trước kể như khoảng cách, tâm vị ấy từ bỏ những hơi thở vô hơi thở ra dài, và xả được an trú.

”Những hơi thở vô và hơi thở ra dài theo chín cách trên là một thân thể. Nền tảng (establishment, foundation) là niệm. Sự quán niệm (contemplation) là trí rõ biết (knowledge). Thân thể là nền tảng, nhưng nó không phải là niệm. Niệm vừa là nền tảng vừa là niệm. Bằng phương tiện niệm ấy và trí rõ biết ấy, hành giả quán thân. Ðó là lý do ‘sự tu tập nền tảng của niệm hay thân niệm xứ gồm trong sự quán thân thể kể như thân thể (quán thân trên thân)’ (xem D II 290) được nói đến” (Paṭis I 177).

169. (ii) Cùng một phương pháp giải thích ấy cũng được áp dụng cho những hơi thở ngắn. Nhưng có sự khác nhau này. Trong khi ở trường hợp đầu ”một hơi thở vô dài kể như một khoảng cách (as an extent)” được nói đến, ở đây “một hơi thở vô ngắn kể như một chút (as an little)” (độ dài thời gian) được nói đến (Paṭis I 182).

170. Vậy cần hiểu rằng, chỉ khi nào vị Tỷ-kheo biết rõ những hơi thở vô và thở ra theo 9 cách trên như “khoảng cách dài” và như “một chút” (thời gian), thì vị ấy mới được xem là “thở vô dài, vị ấy biết ‘Tôi thở vô dài;’ ... thở ra ngắn, vị ấy biết ‘Tôi thở ra ngắn’.

“Loại dài cũng như loại ngắn,
Hơi thở vô và hơi thở ra,
Ðó là bốn thứ xảy ra
Trên chót mũi Tỷ-kheo.”

171. (iii) Vị ấy tập “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô... thở ra”: Vị ấy tập như thế này: “Tôi sẽ thở vô, trong đó, vừa làm cho toàn thể hơi thở vô nghĩa là chặng đầu chặng giữa và chặng cuối của nó, được biết đến, được rõ rệt. Tôi sẽ thở ra trong khi vừa làm cho toàn thể chặng đầu chặng giữa chặng cuối của hơi thở ra được biết đến, được rõ rệt. Làm cho chúng được biết đến, được trở nên rõ rệt, bằng cái cách ấy hành giả vừa thở vô và thở ra với ý thức liên hệ đến sự rõ biết. Bởi vậy mà nói rằng “Vị ấy tập ‘Tôi sẽ thở vô...’”

172. Ðối với một vị Tỷ-kheo này, thì chặn đầu của toàn thân hơi thở vô hoặc hơi thở ra được rõ rệt, mà chặn giữa hay chặn cuối thì lại không rõ, vị ấy có thể phân biệt chặn đầu nhưng gặp khó khăn ở chặn giữa và chặn cuối. Ðối với 1 Tỷ-kheo khác, chặn giữa được rõ, mà chặn đầu chặn cuối thì không, vị ấy chỉ có thể phân biệt chặn giữa, và gặp khó khăn với chặn đầu và cuối. Ðối với 1 vị Tỷ-kheo khác nữa, thì chặn cuối cùng được rõ, mà chặn đầu chặn giữa thì không, vị ấy chỉ có thể phân biệt chặn cuối, mà lại gặp khó khăn với chặn đầu và giữa. Nhưng cũng có vị Tỷ-kheo, đối với ông ta tất cả giai đoạn đều rõ, vị ấy có thể phân biệt cả ba chặn mà không có khó khăn nào với bất cứ chặn nào. Chỉ rõ rằng người ta nên như vị Tỷ-kheo sau cùng này, do đó Phật dạy: “Vị ấy tập ‘Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô... thở ra’”.

173. Ở đây, Vị ấy tập là cố gắng, nỗ lực theo cách ấy. Hoặc sự chế ngự ở đây, nơi một người như vậy, chính là tu tập tăng thượng giới (the higher virtue), tâm vị ấy đang tu tập tăng thượng tâm (the higher consciousness), và tuệ vị ấy đang tu tập tăng thượng tuệ (the higher understanding). Bởi thế Vị ấy tập luyện, lập đi lập lại nhiều lần, phát triển, thường xuyên thực hành, ba loại tu tập này trên đối tượng ấy, bằng phương tiện niệm ấy, bằng phương tiện sự chú ý ấy. Ðó là ý nghĩa cần được hiểu ở đây.

174. Ở đây, trong phần đầu của pháp quán (nghĩa là hai đề mục đầu trong 16 đề mục) hành giả chỉ nên thở vô, thở ra không làm cái gì khác ngoài việc đó. Chỉ sau đó, hành giả mới cần phải dấn mình vào việc khơi dậy sự rõ biết v.v... Bởi vậy mà thì hiện tại được dùng trong kinh văn: “vị ấy biết ‘Tôi thở vô‘ ... vị ấy biết ‘Tôi thở ra’”. Nhưng thì vị lai trong đoạn “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô” cần được hiểu là cốt để chứng tỏ rằng, cái công việc làm khởi lên giác tỉnh v.v... phải được bắt đầu từ đó trở đi.

175. (iv) Vị ấy tập: “An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô...”; vị ấy tập luyện như sau: “Tôi sẽ thở vô, thở ra, mà đồng thời làm cho an ổn, hoàn toàn an tịnh, chấm dứt, làm cho tịnh chỉ, các thân hành thô”.

["thân hành” là hơi thở vô và hơi thở ra. Mặc dù hơi thở có nguồn gốc ở thức tâm nhưng nó vẫn được gọi là “thân hành” (bodily-formation: 1 tạo tác thuộc về thân thể) bởi vì hiện hữu của nó gắn liền với cái thân do nghiệp sinh, và nó được thành hình với thân là phương tiện.]

176. Ở đây cần được hiểu là bao gồm cả trạng thái thô và tế và luôn cả sự tuần tự làm cho an tịnh. Vì trước khi vị Tỷ-kheo chưa phân biệt rõ đề mục thiền, thì thân tâm vị ấy bị dao động, nên chúng là thô. Và trong khi tính cách thô phù của thân và tâm chưa được lắng xuống thì những hơi thở vô và hơi thở ra còn thô. Chúng mạnh hơn thường, hai cánh mũi hành giả trở nên không thích nghi, vị ấy tiếp tục thở vô thở ra bằng miệng. Nhưng khi thân và tâm được phân biệt rõ, thì hơi thở trở nên lắng dịu, và khi thân tâm đã lắng dịu, thì những hơi thở vô thở ra xảy đến một cách quá tinh tế đến nỗi hành giả phải tìm tòi xem nó có hiệnu hữu (exist) hay không.

177. Ví như một người đứng yên lại sau khi chạy, hay xuống đồi, hay đặt một gánh nặng đang đội trên đầu, thì khi ấy những hơi thở vô ra của nó thô, cánh mũi không yên, nó cứ tiếp tục thở bằng miệng. Nhưng nếu nó đã hết cơn mệt, đã uống nước, tắm rửa, đắp một mảnh vải ướt nơi ngực, nằm xuống trong bóng mát, thì những hơi thở ra vào của nó cuối cùng xảy đến quá tế nhị đến nỗi nó phải tìm xem chúng có hiện hữu hay không. Vị Tỷ-kheo cũng vậy.

178. Tại sao? Vì khi trước, vào lúc vị ấy chưa phân biệt, thì nơi vị không có sự quan tâm, không có phản ứng, không có tác ý, không có sự quán sát, rằng “ta đang tuần tự làm cho thanh tịnh từng mỗi thân hành còn thô”. Nhưng khi vị ấy đã phân biệt thì có. Bởi thế, thân hành của vị ấy trong lúc vị ấy đã phân biệt, là vi tế so với thân hành khi chưa phân biệt. Do đó mà Cổ đức nói:

“Tâm và thân dao động,
Thì hơi thở gấp;
Nhưng khi thân không dao động,
Thì hơi thở vi tế.”

179. Trong khi phân biệt đề mục thiền, hành là thô, và nó (tương đối) vi tế trong cận hành định sơ thiền; ở cận hành định sơ thiền, hành là thô tương đối với sơ thiền; hành là thô ở sơ thiền và cận hành định nhị thiền so với nhị thiền; ở nhị thiền và cận hành định của tam thiền, hành là thô so với tam thiền; trong tam thiền và cận hành định tứ thiền, hành là thô (so với tứ thiền), và ở tứ thiền nó cực kỳ vi tế đến độ nó gần đạt đến chỗ chấm dứt. Ðây là quan điểm của những vị tụng đọc Trường và Tương Ưng Bộ kinh. Các vị tụng đọc Trung bộ thì cho rằng, ở sơ thiền, nó thô so với cận hành định nhị thiền v.v... Tuy nhiên, tất cả đều đồng ý rằng, thân hành xảy đến trước khi phân biệt trở nên được an tịnh trong khi phân biệt, và thân hành trong khi phân biệt trở nên an tịnh ở cận định của sơ thiền... và thân hành xảy ra trong cận định tứ thiền trở nên an tịnh ở tứ thiền. Ðây là phương pháp giải thích trong trường hợp tịnh chỉ tướng.

180. Nhưng trong trường hợp tuệ quán, thì thân hành xảy ra vào lúc không phân biệt là thô, khi phân biệt tứ đại thì nó là tế; phân biệt tứ đại là thô so với phân biệt tứ đại sở tạo (derived materiality); phân biệt tứ đại sở tạo là thô so với phân biệt tất cả sắc pháp (all materiality); phân biệt sắc pháp là thô so với phân biệt vô sắc (immaterial) là tế; phân biệt vô sắc là thô so với phân biệt sắc và vô sắc là tế; phân biệt sắc và vô sắc là thô so với phân biệt duyên (conditions) là tế; phân biệt duyên là thô so với sự thấy được danh sắc (mentality-materiality) với những duyên của nó là tế; sự thấy này cũng là thô so với sự thấy bằng tuệ có những đặc tính vô thường v.v... làm đối tượng là tế; sự thấy trong tuệ yếu ớt (weak insight) là thô so với sự thấy với tuệ mãnh liệt (strong insight).

Ở đây, sự an tịnh cần được hiểu là sự an tịnh tương đối của cái sau so với cái trước nó. Như vậy tình trạng thô và tế, sự tuần tự làm cho an tịnh, cần được hiểu như trên đây.

181. Nhưng ý nghĩa điều này được nói trong Paṭisambhidā như sau: “Thế nào là ‘An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô... vị ấy tập? Gì là những thân hành? Những hơi thở vô dài ... hơi thở ra dài (cảm giác toàn thân) thuộc về thân; những cái này vì được gắn liền với thân, nên gọi là những thân hành;’ vị ấy luyện tập làm cho an tịnh, ngưng lại, làm cho tịnh chỉ những thân hành ấy.

“Mỗi khi có những thân hành mà do đó có sự đổ lui, đổ tới, nghiêng qua, nghiêng lại và có sự dao động, rung chuyển của thân hình, thì vị ấy tập: ‘Tôi sẽ thở vào và làm cho an tịnh (các) thân hành;’ ‘Tôi sẽ thở ra và làm cho an tịnh thân hành’. Khi có những thân hành mà qua đó không có sự nghiêng tới, lui, qua, lại đủ hướng, không có sự dao động, lung lay, rung chuyển của thân thể, thì vị ấy tập một cách tế nhị, an tịnh như sau: ‘Tôi sẽ thở vô và làm cho tịnh chỉ thân hành;’ ‘Tôi sẽ thở ra và làm cho tịnh chỉ thân hành’.

182. “(Vấn nạn:) Vậy thì vị ấy tập ‘Tôi sẽ thở vô làm cho an tịnh thân hành... thở ra...’ trong trường hợp ấy, không có sự phát sinh ý thức về gió, không có sự phát sinh những hơi thở vô và thở ra, không có sự phát sinh niệm về hơi thở, không có sự phát sinh định do niệm hơi thở, và do đó bậc trí không nhập cũng không xuất từ sự chứng đạt ấy.

183. “(Trả lời:) Khi vị ấy tập ‘Tôi sẽ thở vô làm an tịnh thân hành’ ‘Tôi sẽ thở ra làm an tịnh thân hành’, như vậy có sự phát sinh ý thức về gió, có sự phát sinh hơi thở vô và hơi thở ra, có sự phát sinh niệm hơi thở, có sự phát sinh định do niệm hơi thở, và do đó bậc trí có nhập và xuất khỏi sự chứng đạt ấy.

184. “Như thế nào? Như khi một cái chuông được đánh lên. Lúc đầu những âm thanh thô xuất hiện và ý thức xuất hiện, vì cái tướng của âm thanh thô là dễ nhận, dễ chú ý, dễ quan sát; và khi những âm thanh thô đã ngừng, thì sau đó những âm thanh tế xuất hiện và ý thức xuất hiện bởi vì cái tướng âm thanh tế là dễ nhận, dễ chú ý, dễ quan sát; và khi những âm thanh tế đã ngừng, thì sau đó ý thức xuất hiện bởi vì nó có cái tướng của âm thanh tế làm đối tượng — cũng vậy, lúc đầu những hơi thở vô và hơi thở ra thô xuất hiện và ý thức không bị phân tán bởi vì tướng hơi thở vô và hơi thở ra thô rất dễ nhận, dễ chú ý, dễ quan sát; và khi những hơi thở vô và hơi thở ra thô đã ngừng, thì đến những hơi thở vô và hơi thở ra tế xuất hiện, và ý thức không bị phân tán, bởi vì tướng của hơi thở vô và hơi thở ra tế là dễ nhận, dễ tác ý, dễ quan sát; và khi những hơi thở vô và hơi thở ra tế đã ngừng, thì sau đó ý thức cũng không phân tán bởi vì nó có tướng của hơi thở vô và hơi thở ra tế làm đối tượng.

“Bởi vậy, nên có sự phát sinh ý thức về gió, có sự phát sinh những hơi thở vô và hơi thở ra, có sự phát sinh niệm hơi thở, có sự phát định do niệm hơi thở, và bởi thế bậc trí nhập và xuất từ sự chứng đạt ấy.

185. “Những hơi thở vô và thở ra làm an tịnh thân hành là một thân thể. Nền tảng (establishment, foundation) là niệm. Sự quán niệm là trí rõ biết (knowledge). Thân là nền tảng, nhưng nó không phải là niệm. Niệm vừa là nền tảng vừa là niệm. Bằng phương tiện niệm ấy và trí rõ biết ấy, hành giả quán thân. Ðó là lý do nói ‘sự tu tập nền tảng của niệm (an trú niệm) gồm trong việc quán thân thể trên thân thể’” (Paṭis I 184-6).

Trên đây là luận giải kế tiếp về bốn pháp đầu, nói về sự quán thân.

Phương Pháp Tu Tập

186. Bốn pháp đầu tiên được đề ra như 1 đề mục thiền dành cho người sơ cơ nhưng ba nhóm bốn kế đó nghĩa là quán cảm thọ, quán tâm và quán các pháp, là để cho một người đã đắc thiền trong bốn pháp đầu. Bởi thế, nếu một thiện gia nam tử là người sơ cơ muốn tu tập đề mục thiền này, và muốn nhờ tuệ phát sinh ở đệ tứ thiền qua phép niệm hơi thở để chứng quả A-la-hán, thì vị ấy trước hết phải làm các việc liên hệ đến sự thanh tịnh giới v.v... Theo cách đã mô tả, sau đó vị ấy nên tìm một vị thấy thuộc loại đã đề cập ở trước, mà học đề mục thiền gồm 5 giai đoạn.

187. Ðây là 5 giai đoạn: học (learning), hỏi (questioning), an lập (establishing), thấm nhuần (absorption) và đặc tính (characteristic). Ở đây Học có nghĩa là học đề mục thiền. Hỏi là hỏi về đề mục thiền. An lập (an trú) là an trú đề mục thiền. Thấm nhuần là thấm nhuần đề mục thiền. Ðặc tính là đặc tính của đề mục thiền, tức là sự xác định bản chất cá biệt của đề mục thiền như vầy: “Ðề mục thiền này có một đặc tính như vậy”.

188. Học đề mục thiền với năm giai đoạn như trên, thì hành giả không mệt nhọc mà cũng không làm phiền bậc thầy. Trong khi tác ý đến đề mục thiền này, niệm hơi thở, hành giả có thể hoặc ở gần thầy hay ở chỗ khác, một trú xứ thuộc loại đã tả, học đề mục thiền trong năm giai đoạn, mỗi khi nghe giảng một ít về đề mục, và để nhiều giờ để học thuộc nó. Vị ấy nên đoạn trừ những chướng ngại nhỏ. Sau khi ăn uống đã xong, sau khi qua cơn chóng mặt (dizziness) sau bữa ăn, hành giả nên ngồi cho thoải mái. Rồi khi đã chắc chắn mình không nhầm lẫn một chữ nào trong những gì đã được học từ vị thầy, hành giả nên làm cho tâm phấn chấn bằng cách tưởng niệm những đức đặc biệt của ba ngôi báu.

189. Ðây là những giai đoạn tác ý đề mục (1) đếm, (2) theo dõi (connection), (3) chạm, (4) gắn vào, (5) quan sát, (6) quay đi, (7) thanh lọc (8) nhìn lại. Ở đây, đếm chỉ có nghĩa là đếm, theo dõi là liên tục theo dõi, chạm là chỗ những hơi thở ra vào chạm đến, gắn vào là định an chỉ (absorption), quan sát là tuệ, quay đi là đạo, thanh tịnh là quả, nhìn lại là kiểm lại.

190. 1) Ở đây, thiện nam tử mới khởi sự tu trước hết hãy tác ý đến đề mục thiền bằng cách đếm. Khi đếm, vị ấy không nên dừng lại dưới 5 hay đi quá số 10 hay làm bất cứ một sự gián đoạn nào. Nếu chưa đến số 5 mà đã ngừng lại thì tâm vị ấy trở nên nóng nảy trong khoảng giới hạn chật hẹp, như một đàn súc vật bị nhốt lại trong cái ràng chật. Nếu đi quá số 10 thì tâm hành giả dễ lấy con số (hơn là hơi thở) làm điểm tựa. Nếu gián đoạn, thì hành giả sẽ hoang mang vì không biết đề mục thiền đã đạt đến hoàn tất hay chưa. Bởi thế, hành giả nên đếm mà không có những lỗi trên.

191. Khi đếm, lúc đầu nên đếm chậm (nghĩa là thở rồi mới đếm) như người đong lúa đếm. Một người đong lúa sau khi làm đầy đồ đong, nói “Một” và đổ nó ra, rồi đong đầy trở lại, tiếp tục nói “Một, một” trong khi lượm bỏ rác rưởi mà ông ta có thể thấy được. Tương tự như thế với “Hai, hai” v.v... Bởi vậy, hành giả có thể lấy hơi thở ra hoặc hơi thở vào, cái nào hiện rõ cho vị ấy hơn cả, để bắt đầu đếm “Một, một” và đếm cho đến “Mười, mười”, chú ý từng hơi thở khi nó xảy ra.

192. Khi hành giả đếm cách ấy, những hơi thở vào và hơi thở ra trở nên rõ rệt đối với vị ấy trong lúc hơi thở đi vào đi ra. Rồi hành giả có thể từ bỏ việc đếm chậm (đếm sau) như người đong lúa đếm, và có thể đếm nhanh (nghĩa là đếm trước) như người mục tử đếm bò. Vì khi một người mục tử thiện xảo bỏ những hòn sỏi trong túi và đi đến đàn bò vào buổi sáng, tay cầm roi, ngồi trên thanh gỗ chắn cổng chuồng bò, lùa sau lưng những con vật ấy, người kia đếm từng con khi nó đến cổng, nói “một”, “hai” mỗi tiếng bỏ xuống một hòn sỏi và những con bò suốt đêm bị nhốt trong đàn bò chật chội bây giờ ùa ra nhanh từng bầy, chen chúc nhau trong khi chúng thoát ra. Bởi thế người mục tử đếm nhanh (đếm trước) “ba, bốn, năm” cứ thế cho đến muời. Cũng vậy, những hơi thở vô và thở ra, đã trở nên rõ rệt đối với vị ấy trong khi ông ta đếm theo cách trước, bây giờ tiếp tục di chuyển nhanh chóng.

193. Rồi, khi biết chúng tiếp tục di chuyển nhanh vị ấy không nắm lấy hơi thở khi nó ở bên trong hay ra ngoài thân, mà nắm lấy nó khi vừa đến cửa mũi, và có thể đếm nhanh (trước): “một, hai, ba, bốn, năm; một, hai, ba, bốn, năm, sáu ... bảy ... tám ... chín ... mười”. Vì bao lâu đề mục thiền còn liên kết cùng số đếm thì chính nhờ trợ lực của sự đếm ấy mà tâm trở nên chuyên nhất, như một con thuyền trên dòng nước chảy xiết được vững vàng nhờ trợ lực của một bánh lái.

194. Khi vị ấy đếm nhanh, đề mục thiền trở nên rõ rệt đối với vị ấy như một tiến trình không gián đoạn. Rồi khi biết rằng nó đang tiến trình không gián đoạn, hành giả có thể đếm nhanh (trước) như vừa mô tả, mà không phân biệt hơi gió khi nó đang ở trong hay ngoài thân. Vì khi đưa tâm vào trong đi theo hơi thở vô thì tâm như bị thổi rạp bởi hơi gió bên trong, hay bị độn đầy mỡ. Nếu đưa tâm ra ngoài đi theo hơi thở ra thì nó sẽ bị phân tán bởi những đối tượng tạp nham bên ngoài. Nhưng sự tu tập của vị ấy sẽ thành công nếu vị ấy dán chặt niệm ở trên chỗ mà những hơi thở ra vào chạm đến. Vì lý do đó mà ở trên nói rằng: Vị ấy có thể đếm nhanh (trước) theo cách đã tả, không phân biệt hơi gió khi nó ở trong hay ở ngoài.

195. Nhưng hành giả cần phải tiếp tục đếm như vậy trong bao lâu? Cho đến khi nào, mặc dù không đếm mà niệm vẫn được an trú trên những hơi thở vô và thở ra làm đối tượng. Bởi vì đếm chỉ là một phương tiện để an trú niệm trên những hơi thở vô và thở ra làm đối tượng, cắt đứt sự phân tán của tầm tư duy (vọng tưởng).

196. 2) Sau khi tác ý hơi thở theo cách đếm, hành giả bấy giờ nên tác ý hơi thở bằng cách theo dõi. Ðoạn những hơi thở vào và thở ra bằng niệm, sau khi đã từ bỏ số đếm. Và đấy không phải bằng cách theo dõi chặn đầu, chặn giữa và chặn cuối.

[Theo dõi (tùy, anugamana) là xảy ra cùng với (anuanu pavattana) đi theo (anugacchana) bằng niệm, lấy những hơi thở vô ra làm đối tượng khi chúng xảy đến. Bởi thế mà luận nói: “Và đó không phải bằng cách theo dõi chặn đầu, giữa và cuối”. “Rốn là chặn đầu” bởi vì những hơi thở phát khởi từ đấy. Vì quan niệm về mỗi đầu ở đây được nói theo nghĩa khởi mới khởi lên vừa rồi. Vì thực sự là chúng (những hơi thở) tiếp tục khởi lên suốt dọc đường dài từ lỗ rốn đến chót mũi, và khởi lên chỗ nào là tan ra tại chỗ ấy, bởi vì không có sự di động của các pháp. Danh từ thông thường “chuyển động” ám chỉ những sự khởi lên liên tục tại những chỗ giáp liền nhau là chặn giữa. “Chót mũi là chặn cuối”, lỗ mũi là điểm cuối, đây là giới hạn thông thường khi ta dùng danh từ “hơi thở vô và hơi thử ra, vì chính do đó mà những hơi thở được gọi là “do tâm sanh” bởi vì ở bên ngoài thì không có sự sinh khởi của những gì do tâm sinh hay bắt nguồn từ tâm]

197. Rốn là chặn đầu của hơi gió thoát ra, tim là chặn giữa và chót mũi là chặn cuối. Chót mũi là khởi điểm của hơi gió đi vào, tim là chặn giữa và rốn là chặn cuối. Nếu hành giả theo dõi như vậy thì tâm sẽ bị phân tán vì bất an và tán loạn, như luận nói: “Khi hành giả đi vào cùng với niệm theo dõi chặn đầu, chặn giữa, chặn cuối của hơi thở vô, thì tâm vị ấy bị phân tán bên trong, cả thân lẫn tâm vị ấy bị bất an, tán loạn dao động. Khi hành giả đi ra cùng với niệm theo dõi chặn đầu, chặn giữa, chặn cuối của hơi thở ra thì tâm vị ấy bị phân tán bên ngoài, cả thân lẫn tâm vị ấy bị bất an, tán loạn, dao động” (Paṭis I 165).

3-4) Bởi thế, khi tác ý hơi thở bằng cách theo dõi, hành giả nên làm vậy không phải bằng chặn đầu, chặn giữa và chặn cuối mà tốt hơn bằng sự chạm xúc và bằng dán chặt.

198. Sự tác ý hơi thở bằng sự chạm xúc không tách rời với sự tác ý bằng dán chặt như trong trường hợp cách “đếm” tách rời cách “theo dõi”. Khi hành giả đếm những hơi thở tại chỗ mỗi hơi thở chạm tới, là vị ấy tác ý hơi thở bằng đếm và chạm xúc. Khi vị ấy đã từ bỏ sự đếm hơi thở, và theo dõi chúng nhờ niệm cũng ở một chỗ ấy và dán chặt tâm nhờ định, thì ta gọi vị ấy đang tác ý trên hơi thở bằng theo dõi, chạm và dán chặt. Và ý nghĩa điều này có thể được hiểu rõ nhờ những ví dụ Về Người Không Thể Ði và Người Gác Cổng được đưa ra trong các Luận giải, và nhờ ví dụ Cái Cưa được nói trong Paṭisambhidā.

199. Ðây là ví dụ về người Không Thể Ði được: như có một người què đẩy một cái đu để giải trí bầy trẻ và mẹ chúng người ấy ngồi dưới chân cái cọc của cái đu và nhìn thấy cả hai đầu và chặn giữa của tấm ván đu lần lượt qua lại, tuy vậy anh ta không (cần) di chuyển khỏi chỗ ngồi để mà nhìn thấy cả hai đầu và chặn giữa. Cũng vậy, khi một Tỷ-kheo đặt mình với chánh niệm ở nơi chân cái cọc để neo niệm lại, và đẩy cái đu là những hơi thở vô và những hơi thở ra, vị ấy ngồi với niệm an trú trên tướng ở cùng một chỗ ấy, và theo dõi bằng niệm chặn đầu chặn giữa và chặn cuối của những hơi thở vô và hơi thở ra tại chỗ chúng chạm đến mỗi khi ra vào giữ tâm dán chặt ở đấy, khi ấy hành giả nhìn thấy chúng mà không cần di động khỏi chỗ của mình. Ðây là ví dụ về người què.

200. Ðây ví dụ về người gác cổng: cũng như một người gác cổng không khám xét những người ở trong và ngoài thành, hạch hỏi “Ông là ai? Ở đâu? Ði đâu? Cầm cái gì trong tay đó?” — Bởi vì đó không phải việc của người ấy, nhưng anh ta phải xét từng người khi nó đến tại cổng, cũng vậy, những hơi thở vô đã vào bên trong và những hơi thở ra đã đi ra, thì không phải cái bận tâm của vị Tỷ-kheo, nhưng vị ấy chú tâm đến chúng ngay khi chúng đến ngang cái cửa mũi.

201. Và ví dụ về cái cưa cũng nên được hiểu từ đầu, vì có chỗ nói:

“Tướng, hơi thở vô, thở ra, không phải là đối tượng của một tâm duy nhất;
Người nào không biết ba việc ấy thì không đạt được sự tu tập.
“Tướng, hơi thở vô, thở ra, không phải là đối tượng của một tâm duy nhất;
Người nào biết ba việc ấy thì có thể đạt được sự tu tập.”

202. “Thế nào là ba cái này không phải là đối tượng của một tâm duy nhất tuy vậy chúng cũng không xa lạ? Thế nào là tâm không phân tán, và vị ấy chứng tỏ nỗ lực, thi hành một nhiệm vụ, và đạt đến kết quả?

“Giả sử có một thân cây đặt trên một mảnh đất bằng, và một người cắt nó với một cái cưa. Niệm của người ấy được an trú bởi những cái răng cưa chỗ chạm với thân cây, ông ta không cần chú ý đến những răng cưa khi chúng tới và lui, mặc dù chúng không xa lạ với ông khi chúng lui tới như vậy, và ông ta biểu dương một nỗ lực, thi hành một nhiệm vụ và hoàn tất một kết quả. Cũng vậy, vị Tỷ-kheo ngồi, sau khi an trú niệm ở chót mũi hay ở môi trên, không cần chú ý đến những hơi thở vô và thở ra khi chúng vô ra, mặc dù chúng không lạ gì đối với vị ấy (không phải ông không biết đến chúng) khi chúng đi vô đi ra như vậy và vị ấy biểu lộ nỗ lực, thi hành một công việc, và hoàn tất một kết quả.

203. “‘Nỗ lực’: Nỗ lực là gì? Thân và tâm của một người tinh tấn thì trở nên dễ sử dụng gọi đó là nỗ lực. Công việc ở đây là gì? Những cấu uế được từ bỏ nơi một người tinh tấn, tâm tư duy nơi vị ấy được làm cho lắng xuống đây là công việc. Gì là kết quả? Những trói buộc (kiết sử, xiềng xích) được từ bỏ nơi một người tinh tấn, và những khuynh hướng nội tại (tùy miên) nơi vị ấy được đoạn trừ đây là kết quả.

“Bởi vậy, ba thứ nói trên (tướng, hơi thở vô, hơi thở ra) không phải là đối tượng của nhất tâm, tuy vậy chúng không phải không được biết đến, và tâm không bị phân tán (bởi chúng), và hành giả biểu hiện nỗ lực: thi hành một công việc, và đạt đến một kết quả.

“Người nào mà niệm hơi thở vô
Thở ra được viên mãn, khéo tu tập,
Và dần dần đưa đến tăng trưởng,
Thì, như lời Phật dạy,
Người ấy sáng chói thế gian
Như trăng rằm không mây” (Paṭis I 170-72; Dhp 172; Thag 548)

Ðây là ví dụ về cái cưa. Ở đây, điều cần được hiểu là hành giả không được chú ý (hơi thở) chưa đến và đã đi.

204. Khi một người chú ý đến đề mục thiền này, có lúc tướng khởi lên cho vị ấy không lâu sau đó, và khi ấy sự dán chặt, nói cách khác là định được trang sức bằng những thiền chi còn lại (tầm, tứ, hỷ lạc) được hoàn tất.

205. Sau khi một người đã chú ý đến việc đếm hơi thở, thì cũng giống như, khi một thân thể bất an ngồi xuống trên một cái ghế hay giường, giường hay ghế ấy sẽ lún và kêu răng rắc, cái bọc (giường) trở nên nhàu nát, nhưng khi một thân thể không bị bất an ngồi xuống, thì giường hay ghế không lún xuống, cũng không kêu răng rắc, bọc giường không nhàu nát, giống như được độn bông vải lên đầy, tại sao? Bởi vì một thân thể không bất an thì nhẹ nhàng. Cũng vậy sau khi hành giả đã chú ý đến việc đếm (hơi thở), khi sự bất an của thân thể đã được làm cho lắng dịu bằng cách tuần tự chấm dứt những hơi thở vô và hơi thở ra thô phù thì khi ấy cả thân và tâm trở nên nhẹ nhàng: thân xác có vẻ như sẵn sàng bay bổng lên hư không.

206. Khi những hơi thở vô và thở ra còn thô của hành giả đã chấm dứt, tâm vị ấy khởi lên cùng với tướng của hơi thở vô thở ra vi tế làm đối tượng cho nó. Và khi ngay cái tướng này cũng chấm dứt, thì tâm vẫn tiếp tục sinh khởi với những tướng còn tuần tự vi tế hơn nữa, làm đối tượng cho nó. Như thế nào.

207. Giả như một người đánh một cái chuông đồng với một thanh sắt lớn, tức thì một sinh khởi với tiếng kêu lớn của chuông làm đối tượng, rồi khi tiếng vang lớn đã ngưng, tâm sẽ sinh khởi sau đó với tướng của tiếng nhỏ làm đối tượng, và khi tiếng này đã dứt, tâm vẫn tiếp tục sinh khởi với âm thanh dần càng vi tế làm đối tượng. Ðây là điều cần được hiểu, được đề cập chi tiết trong đoạn bắt đầu bằng “Như khi một tiếng chuông được đánh lên” (đoạn 84).

208. Vì trong khi những đề mục thiền quán khác trở nên sáng sủa hơn khi càng lên một giai đoạn cao hơn, thì đề mục thiền này lại không như thế, quả vậy, khi hành giả tiếp tục tu tập đề mục này, nó trở nên mỗi lúc một vi tế hơn đối với vị ấy ở một giai đoạn cao hơn, đến nỗi đạt đến một điểm nó không còn hiện rõ.

Tuy nhiên, khi nó trở nên không hiện rõ như vậy, thì vị Tỷ-kheo không nên đứng dậy khỏi chỗ ngồi, rũ chiếu mà đi. Phải làm sao? Vị ấy không nên đứng lên với ý nghĩ: “Hay ta sẽ đi hỏi thầy?” hoặc “Ðề mục thiền của ta mất rồi chăng?” vì khi bỏ mà đi như thế, làm dao động tư thế của ông ta như vậy, thì vị ấy phải bắt đầu đề mục thiền trở lại. Bởi thế, Vị ấy nên cứ tiếp tục ngồi như cũ, và thay vì để ý đến chính hơi thở thật sự khi nó chạm lỗ mũi, hành giả hãy tạm thời để tâm vào ngay chót mũi ấy, xem như đối tượng quán tạm thời của Vị ấy.

209. Cách làm như sau. Vị Tỷ-kheo nên nhận chân sự không hiện rõ ấy của đề mục thiền, và suy xét như thế này: “Những hơi thở vô và thở ra này thật sự hiện hữu ở chỗ nào? Chỗ nào chúng không hiện hữu? Ở người nào chúng không hiện hữu? Khi suy nghĩ như vậy, hành giả thấy rằng chúng không có nơi người đang còn trong bụng mẹ, hay nơi chúng sinh thuộc cõi Phạm Thiên (sắc giới), không có nơi những người chết, hay nơi những người đã đắc đệ tứ thiền, hay nơi những người sinh vào sắc giới hoặc vô sắc giới hay nơi những người đã đắc Diệt tận định. Hành giả nên tự nhủ rằng “Nay rõ ràng là ta không đang ở trong bụng mẹ, không ở dưới nước, không ở cõi trời Phạm Thiên, không phải thây chết hay đắc tứ thiền, hay sinh vào sắc giới, vô sắc giới cũng không đắc diệt thọ tưởng định. Nhưng hơi thở vô thở ra này thật sự còn ở trong ta, chỉ vì tuệ ta chậm lụt không thể phân biệt được chúng”. Rồi, dán chặt tâm tại chỗ mà bình thường hơi thở chạm đến, hành giả hãy tiếp tục chú tâm đến chỗ ấy.

210. Những hơi thở vô và thở ra ấy phát sinh chạm vào mũi với một người có mũi dài, và chạm vào môi trên của người có lỗ mũi ngắn. Bởi thế, hành giả nên dán chặt tướng như thế này: “Ðây là cái chỗ mà hơi thở chạm đến”. Vì lý do này mà Ðức Thế Tôn dạy rằng “Này các Tỷ-kheo, ta không nói một người thất niệm, một người không hoàn toàn tỉnh táo, rằng nó nên tu tập niệm hơi thở” (M III 84).

211. Mặc dù bất cứ đề mục thiền nào cũng chỉ thành công nếu hành giả có chánh niệm tỉnh giác, nhưng đề mục nào khác cũng trở nên càng ngày rõ rệt hơn khi hành giả tiếp tục tác ý đến nó. Còn pháp niệm hơi thở này thì khó, thật khó tu tập, đó là một địa hạt mà chỉ có tâm của chư Phật, các bậc Duyên Giác và Thanh Văn mới quen thuộc. Ðó không phải là chuyện tầm thường, mà những người tầm thường cũng không thể tu tập được. Càng chú ý đến nó, thì càng trở nên an tịnh và vi tế hơn nữa.

Bởi thế mà ở đây cần có niệm và tuệ tăng thịnh.

212. Cũng như khi may thêu trên một tấm vải mỏng, thì cần một cây kim mảnh, và cần một dụng cụ xâu kim còn mảnh hơn, tu tập đề mục thiền này cũng vậy, như miếng vải mỏng, niệm giống như cây kim, cả hai thứ sau cùng này cần phải tăng thịnh. Một Tỷ-kheo phải có niệm và tuệ cần thiết, và không được tìm kiếm những hơi thở vô và hơi thở ra ở đâu khác ngoài ra chỗ thường chúng vẫn chạm đến.

213. Ví như một nông phu, sau khi cày một lúc, thả cho bò tự do gặm cỏ và ngồi xuống bóng mát để nghỉ, thì khi ấy những con bò của anh ta bỏ đi vào rừng. Nếu là một người cày thiện xảo muốn bắt chúng lại, buộc vào ách như cũ, thì anh ta sẽ không lang thang trong rừng để tìm dấu chân chúng, mà đem theo con roi da và cái gậy lùa bò, đi thẳng đến chỗ uống nước của chúng thường ngày, rồi ngồi hay nằm đấy (mà đợi). Sau khi đã lang thang một phần ngày, những con bò sẽ đến nơi uống nước mà uống tắm rửa. Khi trông thấy chúng đã xuất đầu lộ diện, người cày bèn cột chúng cho chắc với sợi dây và dùng cái gậy để lùa chúng trở về, cột ách vào cổ chúng để tiếp tục cày ruộng. Vị Tỷ-kheo cũng thế, không nên tìm hơi thở vô hơi thở ra ở chỗ nào khác hơn là chỗ chúng thường tiếp giáp, và vị ấy nên dùng con roi niệm và cái gậy tuệ và dán chặt tâm tại chỗ chúng thường chạm đến, cứ tiếp tục chú ý đến chỗ ấy. Vì trong khi chú ý theo cách đó, không bao lâu chúng sẽ xuất hiện trở lại, như những con bò sẽ trở lại nơi chúng thường uống nước. Như vậy hành giả có thể buộc chặt chúng với sợi dây niệm, cột ách chúng tại chỗ ấy và chăn chúng bằng cây gậy tuệ, tiếp tục chuyên chú vào đề mục thiền.

214. Khi làm như vậy, chẳng bao lâu tướng xuất hiện nơi hành giả. Nhưng “tướng” này không đồng nhất, với một số người khi nó xuất hiện phát sinh một xúc chạm nhẹ.

215 Giống như sự xúc chạm của lụa hay vải, hay một luồng gió. Nhưng đấy là những gì được trình bày trong các bản Luận sớ: đối với một số người, nó xuất hiện như một vì sao hay một chòm ngọc hay ngọc trai, với một số người khác “tướng” xuất hiện với sự va chạm thô như chạm phải những hột bông vải hay một cái móc áo làm bằng gỗ, với những người khác nữa thì giống như một sợi dây bện dài hay một tràng hoa hay một làn khói, lại còn một số người bảo rằng nó giống như một cái màng nhện giăng tơ hay một làn mây mỏng phớt hay một đóa hoa sen hay một cái bánh xe hay vừng mặt trời, vừng mặt trăng.

216. Quả vậy, điều này tương tự trường hợp một số Tỷ-kheo ngồi lại với nhau cùng đọc một bản kinh. Khi một vị hỏi: “Kinh này đối với hiền giả như thế nào?” một người bảo: “Tôi thấy giống như thác nước trên núi” một vị khác thì: “Với tôi kinh này như cây rừng”, và vị thứ ba nói: “Theo tôi kinh này giống như một cây ăn trái tỏa rộng bóng mát”. Một quyển kinh mà ba người nhìn khác nhau. Cũng thế, cùng một đề mục thiền này hiện tướng sai khác vì sự khác biệt giữa lối nhận thức (tưởng, perception) (nghĩa là, lối nhận thức khởi lên trước khi tướng xuất hiện. Pm, 273). Tướng này là do tưởng sinh, nguồn gốc của nó là tưởng, nó được xuất phát từ tưởng. Bởi vậy, cần được hiểu rằng, khi tướng xuất hiện sai khác nhau chính là do sự sai biệt về tưởng.

217. Và ở đây, cái tâm với hơi thở vô làm đối tượng là một, tâm lấy hơi thở ra làm đối tượng là một tâm khác, và cái tâm lấy tướng làm đối tượng lại là một tâm khác nữa. Với một người không hiểu rõ ba cái này, thì đề mục thiền không đạt đến an chỉ định, cũng không đạt đến cận hành định. Nhưng đề mục đạt đến cận hành định và luôn cả an chỉ định, nếu một người hiểu rõ ba điều này. Vì luận nói:

"Tướng, hơi thở vô,
Hơi thở ra, không phải là
đối tượng của một tâm duy nhất,
Người nào không biết
Ba việc này
Thì sự tu không đạt
Tướng, hơi thở vô,
Hơi thở ra, không phải là đối
Tượng của một tâm duy nhất,
Người nào biết rõ ba việc này
Thì tu có thể đạt.” (Paṭis I 170)

218. Và khi tướng đã xuất hiện theo cách trên, vị ấy nên đi đến bậc thầy và thưa: “Bạch đại đức, tướng như vậy đã xuất hiện nơi con.” Theo những vị tụng đọc Trường bộ kinh thì vị thầy không nên nói “Ðó đúng là tướng” mà cũng không nên nói “Ðó không phải là tướng”; mà chỉ nên bảo “Hiền giả, có xảy ra việc như thế” và sau đó hãy nói “Cứ tiếp tục chú tâm trên đề mục nhiều lần như vậy;” Bởi vì, nếu vị thầy bảo: “Ðó là tướng, thì vị Tỷ-kheo có thể đâm ra tự mãn, bỏ dở ngang đấy (M I 193 và kế tiếp), nếu vị thầy bảo “Ðó không phải tướng”, thì vị Tỷ-kheo có thể bị thối tâm và bỏ cuộc; bởi thế vị thầy nên khuyến khích đệ tử tiếp tục chú tâm mà đừng nói gì cả. Nhưng những vị tụng đọc Trung bộ kinh thì bảo vị thầy nên nói “Hiền giả, đó là tướng, tốt lắm. Hãy tiếp tục chú tâm trở lại”.

219. Khi ấy hành giả nên dán chặt tâm nơi chính cái tướng đã xuất hiện ấy, như vậy, từ đây trở đi, sự tu tập của vị tiến hành theo cách dán chặt tâm. Như Cổ đức nói:

"Dán chặt tâm trên tướng
Bỏ những khía cạnh ngoại lai (vọng tưởng)
Người có trí buộc tâm
Ở hơi thở ra vào.”

220. Vừa khi tướng xuất hiện, những triền cái nơi vị ấy được đàn áp, những cấu uế lắng xuống, niệm được an trú, và tâm vị ấy tập trung vào cận hành định.

221. Khi ấy hành giả không nên chú ý đến tướng về phương diện màu sắc, hay xem xét tính cách đặc biệt ở nơi nó. Vị ấy nên bảo trì nó cẩn thận như hoàng hậu bảo dưỡng bào thai của một vị sẽ làm Chuyển luân vương hay như một nông phu giữ gìn đồng lúa chín, vị ấy nên tránh bảy việc không thích hợp khởi đầu là trú xứ không thích hợp, và đào luyện (tu tập) (cultivate) bảy điều thích hợp. Khi bảo trì như vậy, vị ấy nên làm cho nó tăng trưởng và cải thiện nhờ sự chú tâm nhiều lần, rồi vị ấy nên thực hành mười thiện xảo về định (Ch. IV, 42) và làm phát sinh sự quân bình của nghị lực (evenness of energy) (Ch. IV, 66).

222. Khi nỗ lực như vậy, hành giả đắc tứ thiền và ngũ thiền trên tướng ấy, theo cách đã mô tả ở phần Kasiṇa đất 5-8 (xem lại đoạn 189). Tuy nhiên, khi một Tỷ-kheo đã đắc tứ thiền và ngũ thiền, và muốn đạt đến sự thanh tịnh bằng cách tu tập đề mục thiền do phương pháp quán sát và quay đi, thì vị ấy cần làm cho thiền ấy trở thành quen thuộc bằng cách làm chủ nó với năm cách (Ch. IV, 131) rồi khởi hành lên đường tuệ quán bằng cách định rõ danh sắc. Như thế nào?

223. Khi xuất thiền, hành giả thấy rằng những hơi thở vô và thở ra có nguồn gốc của chúng ở thân và tâm, và cũng như khi những ống bệ thợ rèn đang được thổi, thì hơi gió chuyển động nhờ cái bao và nhờ nỗ lực đúng mức của người thợ, cũng thế những hơi thở vô và thở ra là nhờ thân và tâm.

Kế đến, hành giả định rõ hơi thở vô, hơi thở ra và thân thể là “sắc”, còn tâm (consciousness) và những trạng thái liên hệ đến tâm (tâm sở) là cái “vô sắc” (tâm). Ðây là nói vắn tắc, chi tiết sẽ nói rõ về sau trong phần phân định về Danh sắc (Ch. XVIII, đoạn 3 và kế tiếp).

224. Sau khi định rõ danh sắc như trên hành giả tìm kiếm điều kiện phát sinh ra nó. Do tìm kiếm vị ấy thấy được, và nhờ vậy vượt qua những hoài nghi về đường lối danh sắc sinh khởi trong ba thời (Ch. XIX).

Sau khi vượt khỏi hoài nghi, hành giả Giác Ngộ ba đặc tính cho danh sắc, bắt đầu bằng khổ, hiểu chúng theo nhóm (Ch. XX, 2); vị ấy từ bỏ mười khuyết điểm của tuệ khởi đầu là sự ngộ (illumination), tuệ này khởi lên vào những giai đoạn đầu của Sanh diệt trí (Ch. XX, đoạn 105 và kế tiếp) và vị ấy định rõ đạo là trí biết rõ con đường không có những khuyết điểm ấy (Ch. XX, 126).

Hành giả đạt đến hoại trí (contemplation of dissolution) bằng cách từ bỏ tác ý đến tướng sinh khởi. Khi tất cả các hành đã trở nên khủng khiếp do quán sự hoại diệt không ngừng của chúng thì tâm hành giả trở nên vô dụng đối với chúng (Ch. XXII).

Sau khi tuần tự đạt đến bốn Thánh đạo như thế, và an lập trong quả A-la-hán, cuối cùng hành giả đạt đến mười chín loại tri kiến thẩm sát (Ch. XXII, 180) và vị ấy trở thành người xứng đáng nhận những đồ cúng dường của thế gian gồm cả Phạm thiên giới.

225. Ðến đây, sự tu tập định qua phương pháp niệm hơi thở, khởi đầu bằng đếm và kết thúc bằng nhìn lại (đoạn 189) đã xong. Ðây là phần luận giải về đoạn bốn câu đầu, với mọi phương diện.

Giải danh từ tiếp theo (Ðoạn bốn câu thứ hai)

226. Vì không có phương pháp nào riêng biệt cho sự tu tập đề mục thiền ở trường hợp ba đoạn bốn câu sau, bởi thế chỉ cần hiểu nghĩa danh từ trong những đoạn này, theo luận sớ.

(v) Vị ấy tập: “Cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở vô ... tôi sẽ thở ra”, có nghĩa là làm cho cảm giác hạnh phúc (về tâm) được giác tri, được rõ rệt. Ở đây, cảm giác hỷ thọ được kinh nghiệm bằng hai cách (a) đối tượng, và (b) với sự không mơ hồ.

227. Thế nào là hỷ được cảm thọ với đối tượng? hành giả đạt được đến hai thiền trong đó hỷ có mặt. Vào lúc hành giả thật sự đạt đến những thiền này, hỷ được cảm thọ với đối tượng do sự đạt thiền, do sự cảm thọ đối tượng. Thế nào là với sự không mơ hồ? Sau khi nhập và xuất một trong hai thiền có hỷ kèm theo, hành giả quán sát với tuệ cái hỷ liên hệ với thiền ấy, là dễ bị tan rã, hoại diệt và ngay lúc tuệ quán ấy, hỷ được cảm thọ với sự không mơ hồ do thâm nhập những đặc tính của nó (vô thường v.v...).

228. Vì Paṭisambhidā nói: (a) “Khi hành giả biết sự nhất tâm, tâm không tán loạn qua những hơi thở vô dài, niệm được an trú nơi vị ấy. Nhờ niệm ấy và sự rõ biết ấy, hỷ ấy được cảm thọ. Khi hành giả biết sự nhất tâm không tán loạn qua hơi thở ra dài... qua hơi thở vô ngắn... qua hơi thở ra ngắn... qua những hơi thở vô... những hơi thở ra cảm giác toàn thân... qua những hơi thở vô thở ra an tịnh thân hành, niệm được an trú nơi vị ấy. Nhờ niệm ấy, và sự rõ biết ấy, hỷ ấy được cảm thọ.

(b) “Hỷ được cảm thọ bởi hành giả khi vị ấy chú ý, khi vị ấy biết, thấy, thẩm sát, làm cho vững tâm, tâm quyết định với tín, nỗ lực tinh tấn, an trú niệm, tập trung tâm, hiểu biết với trí tuệ, trực tri cái cần phải trực tri, hiểu đầy đủ cái cần hiểu đầy đủ, tu tập cái cần phải tu tập, và chứng cái cần chứng. Chính với cách ấy mà hỷ được cảm thọ” (Paṭis I 187).

229. (vi-viii) Ý nghĩa ba mệnh đề còn lại cần được hiểu tương tự, nhưng có một sai khác này. Sự cảm thọ lạc cần được hiểu là ở ba thiền, và cảm giác tâm hành là ở bốn thiền. Tâm hành gồm hai uẩn thọ, tưởng. Và trong trường hợp mệnh đề cảm giác lạc thọ Paṭisambhidā nói như sau: “để chỉ rõ cả bình diện của tuệ ở đây có hai thứ ‘lạc’: thân lạc và tâm lạc” (Paṭis I 188). An tịnh tâm hành: là an tịnh tâm hành thô, chấm dứt nó. Và điều này cần được hiểu chi tiết như đã nói ở phần thân hành (đoạn 176-85).

230. Hơn nữa, ở đây, trong mệnh đề “cảm giác hỷ thọ” (là cái thật sự được quán trong đoạn 4 câu này) cảm thọ được nói dưới mục “hỷ” (là một hành) còn ở mệnh đề “lạc” cảm thọ được nói trong hình thức của cảm thọ chính cống. Trong hai mệnh đề “tâm hành” cảm thọ là cái nhất thiết gắn liền với tưởng vì “Tưởng và thọ thuộc về tâm, những thứ này vì đi liền với tâm nên đó là những tâm hành” (Paṭis I 188).

Bởi vậy, đoạn bốn câu này cần được hiểu là đề cập đến quán cảm thọ.

Giải danh từ tiếp (Ðoạn bốn câu III)

231. (ix) Trong đoạn bốn pháp thứ ba, cảm giác về tâm cần được hiểu là qua bốn thiền.

(x) Làm cho tâm hân hoan: Vị ấy tập vừa làm cho tâm vui vẻ, gieo sự vui tươi vào trong tâm làm tâm phấn khởi, hoan hỷ, tôi sẽ thở vô, tôi sẽ thở ra. Ở đây, có sự hân hoan về hai mặt, nhờ định và nhờ tuệ.

Thế nào là nhờ định? Vị ấy đắc hai thiền trong đó hỷ có mặt. Vào lúc hành giả thật sự nhập hai thiền ấy, thì hành giả gợi niềm vui cho tâm, gieo hân hoan vào nó, với hỷ câu hữu với thiền này.

Còn nhờ tuệ là thế nào? Sau khi nhập và xuất một trong hai thiền câu hữu với hỷ, hành giả với tuệ thấy rằng hỷ câu hữu trong thiền ấy có thể bị hoại diệt rơi rụng, như vậy vào lúc tuệ quán ấy xảy ra thật sự, hành giả khơi dậy niềm hân hoan trong tâm, gieo hân hoan vào nó bằng cách lấy hỷ câu hữu với thiền này làm đối tượng.

Một người tiến hành theo cách trên đây được gọi là “'Làm cho tâm hân hoan tôi sẽ thở vô... Tôi sẽ thở ra...’ vị ấy tập”.

232. (xi) Làm cho tâm định tĩnh: một cách quân bình (sanaṃ) đặt để (ādahanto) tâm trên đối tượng của nó nhờ sơ thiền v.v... Hoặc, sau khi đã nhập và xuất từ những thiền này, hành giả thấy với tuệ rằng cái định câu hữu với thiền ấy là dễ hoại diệt, khi ấy vào lúc thật sự đắc tuệ quán (at the actual time of insight), sự nhất tâm trong một sát-na (momentary) [*] khởi lên nhờ thâm nhập (đi sâu vào) (những đặc tính vô thường v.v...) Như vậy, những câu “ Vị ấy tập, tôi sẽ thở vào làm cho tâm định tĩnh... Tôi sẽ thở ra...” cũng là để nói về một người đã đặt tâm một cách quân bình, trên đối tượng đó, nhờ phương tiện là sự nhất tâm khởi lên từng sát-na như vậy.

[*] sự nhất tâm trong 1 sát-na (momentary unification of the mind): định chỉ kéo dài trong một chốc. Vì định hay sự nhất tâm này cũng thế, khi nó sinh khởi một cách không gián đoạn trên đối tượng của nói và không bị pháp đối nghịch thắng lướt thì nó dán chặt tâm một cách bất động, như thế đang ở trong định.

233. (xii) Làm cho tâm giải thoát: hành giả thở vô thở ra trong khi ấy vừa làm cho tâm cởi mở, giải tỏa tâm khỏi tầm và tứ nhờ nhị thiền, khỏi hỷ ở tam thiền, khỏi lạc và khổ ở tứ thiền Hoặc sau khi đã nhập và xuất những thiền này, hành giả thấy với tuệ cái tâm liên kết với thiền này dễ đi đến hoại diệt, rồi khi có tuệ thật sự xảy ra, hành giả giải thoát cởi mở tâm khỏi thường tưởng bằng cách quán vô thường, khỏi lạc tưởng bằng cách quán khổ, khỏi ngã tưởng bằng quán vô ngã, khỏi sự ham thích bằng quán ly dục, khỏi tham bằng quán đoạn diệt, khỏi sinh bằng quán diệt, khỏi sự chấp thủ bằng quán từ bỏ (xả ly). Do đo mà nói: Vị ấy tập “Tôi sẽ thở vô làm cởi mở tâm... Tôi sẽ thở ra...”

["giải thoát”: có nghĩa là cô lập, tách riêng nhờ giải thoát gồm trong sự đàn áp; từ bỏ những triền cái. “Vào lúc đắc tuệ quán thật sự” (at the actual time of insight): hoại trí vào lúc quán tán hoại (dissolution). Vì tán hoại là cực điểm của vô thường. Bởi thế hành giả quán tán hoại nhờ đó thấy được dưới đề mục tâm, toàn thể lĩnh vực các hành đều là vô thường không trường cửu, và do khổ nói tại trong cái gì vô thường (the suffering inherent in what is impermanent), và do sự vắng mặt của ngã trong cái gì khổ hành giả thấy rằng toàn thể lĩnh vực các hành ấy là khổ, không lạc, là vô ngã, không phải ngã. Nhưng bởi vì cái gì vô thường, khổ, phi ngã thì không phải là cái để thích thì cái đó không đáng tham, do vậy hành giả trở nên vô dục ly tham đối với toàn diện lĩnh vực các hành kia khi nó được thấy dưới ánh sáng của hoại diệt là vô thường, phi ngã, hành giả không thích thú trong đó, tham của vị ấy đối với nó phai nhạt khi nhuốm được tâm hành giả. Khi vị ấy trở nên vô dục và tham phai nhạt như thế, trước hết chỉ nhờ trí hiểu biết thế gian mà vị ấy khiến cho tham ngừng lại và không khơi dậy thêm, vị ấy không làm cho tham sinh khởi. Hoặc khi tham của vị ấy đã phai nhạt, thì bằng tri kiến của riêng mình, vị ấy làm phát sinh sự chấm dứt các hành không hiện rõ cũng như các hành hiện rõ, vị ấy không khởi chúng lên, có nghĩa hành giả chỉ chỉ đem lại sự chấm dứt các hành chứ không đem lại sự sinh khởi chúng. Khi đã đi vào con đường này, đạo lộ này, thì hành giả buông bỏ chứ không nắm bắt. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là, sự quán về vô thường v.v... Này gọi là buông bỏ theo nghĩa, từ bỏ và buông bỏ có nghĩa là đi vào, bởi vì nó từ bỏ những cấu uế cùng với các hành nghiệp phát sinh ra uẩn và vì do thấy những lỗi lầm trong các hành do thiên về cái đối lập với hành, nghĩa là Niết Bàn, nó đi vào Niết Bàn ấy. Do đó hành giả nào có được sự quán niệm ấy sẽ từ bỏ các cấu uế và đi vào Niết Bàn theo như đã nói: Ở đây, sự quán niệm cái gì vô thường chỉ là vô thường, thì gọi là “Quán vô thường” đây là một tên chỉ tuệ phát sinh nhờ xem các hành thuộc ba lĩnh vực thế gian (mà để riêng lĩnh vực siêu thế) là vô thường. “Thoát khỏi vô thường tưởng là thoát ra khỏi quan niệm sai lầm phát sinh ra sự thấy các hành (các pháp hữu vi) là thường, bất diệt, những quan niệm khác cũng nên được xem là bao gồm trong đề mục tưởng. Cũng vậy, với lạc tưởng v.v... “Bằng quán ly dục” bằng phương tiện là sự quán niệm phát sinh ở dưới hình thái là ly dục đối với các hành. “Thoát khỏi sự thích thú” là khỏi tham câu hữu với hỷ. “Nhờ quán tán hoại”: nhờ phép quán phát sinh tương tự dưới hình thái tàn tạ, do đó “ly tham” được nói. “Bằng quán diệt”: nhờ thấy một cách liên tục sự chấm dứt (diệt) các hành. Hoặc, quán diệt là quán các hành chỉ diệt mà không sinh khởi lại trong tương lai. Vì đây là Dục thoát trí (Knowledge of Desire for Deliverance) được tăng thạnh. Do đó luận chủ nói: “Thoát khỏi sanh”. Sự quán niệm ở hình thái từ bỏ là quán “quán từ bỏ” Giải thoát khhỏi nắm bắt” (chấp thủ): có nghĩa là hết xem (các pháp là thường, lạc v.v... Hoặc ở đây ý nghĩa có thể được hiểu là giải thoát khỏi sự nắm bắt dây nối tái sinh” (Vism-mhṭ 279) Xem các chương XX và XXI (kiết sanh)]

Vậy đoạn bốn câu này cần được hiểu là sự quán tâm.

Giải thích danh từ tiếp theo đoạn bốn câu thứ tư

234. (xiii) Nhưng trong đoạn bốn, về quán vô thường, cần phân biệt trước hết là cái vô thường, sự hay tính chất vô thường, sự quán vô thường và con người quán vô thường.

Ở đây, năm uẩn là cái vô thường. Tại sao? Bởi vì bản chất của chúng là sinh diệt và biến đổi. Sự vô thường là sinh diệt, diệt và dị (biến đổi) ở trong chính những uẩn đó, hoặc là sự phi hữu của chúng sau khi hiện hữu, nghĩa là sự tan vỡ của các uẩn đã sinh bằng cách từng sát-na tán hoại, vì chúng không tồn tại giống nhau trong hai sát-na kế tiếp.

Quán vô thường là quán sắc v.v... là “vô thường” do bởi tính chất vô thường nói trên. Một người quán vô thường là người có được sự quán niệm ấy. Vậy, chính khi một người như thế thở vô thở ra mới có thể nói rằng: “quán vô thường tôi sẽ thở vô... Thở ra, Vị ấy tập"

235. (xiv) Quán tán hoại: có hai thứ là hủy hoại và tan rã hoàn toàn. “Hủy hoại” (destruction) là sự tan biến của các hành, sự phân tán, rã rời của chúng gọi là “tan rã” đây là sát-na diệt (momentary cessation). Ở đây các Hành hoàn toàn tan rã, và khi điều này được đạt đến, gọi là “tịch diệt” tức Niết Bàn (Vism-mhṭ 280).

Khi hành giả có được sự quán niệm gồm hai khía cạnh nói trên, thì có thể bảo rằng “Vị ấy tập: Quán tán hoại tôi sẽ thở vô, quán tán hoại tôi sẽ thở ra.”

[Cái gì được gọi là thường là cái dài lâu, vĩnh cửu như Niết Bàn. Cái được gọi là “vô thường là cái gì không trường cửu có sinh diệt. Nói ngũ uẩn vô thường có nghĩa đó là những pháp hữu vi. Tại sao? Vì bản chất của chúng là sinh, diệt và biến dị. Ở đây, các pháp hữu vi sinh khởi do nhân và duyên, sự xuất hiện của chúng từ phi hữu, sự thủ đắc (acquisition) một bản ngã riêng chúng, gọi là “sinh” (rise). Sự diệt, chấm dứt của chúng từng sát-na sau khi đã sinh ra thì gọi là diệt. Sự biến đổi do tuổi già là “dị”. Vì cũng như giữa cơ hội sinh tan biến và cơ hội diệt tiếp theo không có sự gián đoạn nơi sự vật. Cũng vậy, không có sự gián đoạn nơi sự vật vào cái lúc đối diện với tán hoại, nói cách khác, trong lúc “trú”, mà danh từ thường dùng là “già”. Bởi thế, già có nghĩa là cái gì của một pháp đơn độc duy nhất, gọi là “già trong sát-na” (momentary ageing). Và nói thẳng ra, không có gián đoạn ở nơi sự vật giữa những cơ hội sinh và diệt, nếu không thì kết quả là một cái này sinh mà một cái khác diệt” (Vism-mhṭ 280)]

(xv) Cùng một cách giải thích trên đây cũng áp dụng cho mệnh đề Quán tịch diệt.

236. (xvi) Quán từ bỏ: từ bỏ cũng thuộc hai loại, là từ bỏ theo nghĩa xả ly, và từ bỏ theo nghĩa thâm nhập. Từ bỏ chính là một lối quán, nên gọi là “quán từ bỏ”. Vì tuệ vừa được gọi là “từ bỏ kể như xả” và vừa được gọi là “từ bỏ kể như thâm nhập” vì trước hết, bằng cách thay thế những tính ngược lại, nó từ bỏ những gì ô nhiễm cùng với những hành nghiệp phát sinh ra uẩn, và thứ đến, do thấy sự “khốn nạn” của những pháp hữu vi, nó còn đi vào tịch diệt bằng cách thiên về xu hướng Niết Bàn, cái ngược lại với hữu vi. (Ch. XXI, 18). Và đạo lộ này vừa được gọi là “từ bỏ kể như xả ly” và vừa được gọi là “từ bỏ kể như đi sâu vào” vì nó xả bỏ các ô nhiễm cùng với những hành nghiệp sinh ra uẩn, bằng cách đoạn tận chúng, và nó đi vào Niết Bàn bằng cách lấy Niết Bàn làm đối tượng của nó. Lại nữa, cả hai thứ (tuệ và tri kiến về đạo lộ) được gọi là tùy quán (anupassanā) vì chúng thường xét lại, nhìn lại từng tri kiến trước đây của chúng. Khi hành giả có được sự quán niệm gồm hai khía cạnh nói trên, thì có thể bảo rằng “Vị ấy tập”: quán từ bỏ tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tôi sẽ thở ra.”

[Từ bỏ bằng cách thay thế cái đáng bỏ bằng pháp đối lập với nó, hoặc cắt đứt nó, thì gọi là “từ bỏ kể như xả”. Cũng vậy, hành vi từ bỏ ngã trong sự không tạo nghiệp, nghĩa là từ bỏ tất cả điều kiện tái sinh vào các hữu đi vào Niết Bàn bằng cách xu hướng Niết Bàn (trong tuệ) hoặc bằng cách lấy Niết Bàn làm đối tượng (trong đạo lộ) thì gọi là “từ bỏ bằng cách thâm nhập” “Qua sự thay thế những tính đối lập”: Ở đây, trước hết, quán vô thường từ bỏ thường tưởng, chính là từ bỏ, bằng cách thay cái đối lập. Và sự từ bỏ theo cách ấy là dưới hình thức đưa đến vô sinh (non-occurrence). Vì tất cả hành nghiệp bắt nguồn từ cấu nhiễm do thấy các hành là thường và tất cả uẩn hậu quả của nghiệp (the kamma-resultant aggregates) có gốc rễ ở cả hai thứ trên (hành nghiệp cùng ô nhiễm hay phiền não), cái có thể sanh khởi ở tương lai, hành và uẩn ấy đều được từ bỏ bằng cách làm cho chúng không sanh khởi. Cũng vậy trong trường hợp khổ tưởng v.v... “Do thấy sự khốn nạn của những pháp hữu vi”: Do thấy những lỗi vô thường v.v... Trong ba cõi hữu, lãnh vực các hành. Ðó là “cái đối lập với các hành do bởi tính trường cửu của nó v.v... Khi các ô nhiễm đã được trừ khử nhờ đạo lộ, các hành nghiệp (những tạo tác của nghiệp) được gọi là “được từ bỏ” do sự phát sanh trong chúng bản chất “không gây tạo quả báo” còn các uẩn có gốc rễ trong những hành ấy được gọi là “được từ bỏ” do chúng được làm cho không sanh khởi. Do vậy, đạo lộ từ bỏ tất cả những thứ này, đó là ý nghĩa muốn nói. (Vism-mhṭ 281). Danh từ pakkhandana (dịch là đi vào) được dùng để định nghĩa hành vi “đức tin”, và còn có thể dịch là “nhảy vào”, “lao vào"]

237. Ðoạn bốn câu này chỉ đề cập đến tuệ thuần túy trong khi ba đoạn bốn câu trên thì đề cập đến định và tuệ.

Trên đây là giải thích về sự tu tập niệm hơi thở với mười sáu đề mục cần được hiểu.

Kết Luận

Pháp niệm hơi thở với mười sáu đề mục trên đây như vậy có kết quả lớn có lợi ích lớn.

238. Sự lợi ích lớn của nó cần được hiểu ở đây là an tịnh vì kinh dạy: “Và này các Tỷ-kheo sự tập trung nhờ niệm hơi thở nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, là vừa an tịnh vừa cao cả” (S V 231) v.v... và vì nó có thể cắt đoạn tầm tư duy. Vì nó là một lạc trú an tịnh, cao cả, không ô nhiễm, nên nó cắt đứt sự tán loạn do tầm chướng ngại định và nó giứ tâm chỉ trú trên hơi thở làm đối tượng. Bởi thế, kinh dạy rằng: “niệm hơi thở cần được tu tập để đoạn tầm tư duy” (A IV 353).

239. Lại nữa, lợi ích lớn của nó cần được hiểu là điều kiện căn bản để cho sự viên mãn minh kiến và giải thoát, vì Đức Thế Tôn dạy: “Này các Tỷ-kheo, niệm hơi thở khi được tu tập, được làm cho sung mãn, viên mãn bốn niệm trú. Bốn niệm trú (xứ) khi được tu tập, được làm cho sung mãn, viên mãn bảy giác chi. Bảy giác chi được tu tập được làm cho sung mãn, viên mãn minh kiến và giải thoát” (M III 82).

240. Lại nữa, lợi ích lớn của nó cần được hiểu là ở chỗ nó khiến cho ta biết được hơi thở vô thở ra cuối cùng, vì Đức Thế Tôn dạy; “Này Rāhula, khi niệm hơi thở được tu tập như thế, được làm cho sung mãn, thì ngay cả hơi thở cuối cùng cũng được biết đến khi chúng chấm dứt, không phải không biết” (M I 425-6).

241. Ở đây, có ba loại hơi thở cuối cùng khi chấm dứt đó là cuối cùng trong các hữu, cuối cùng trong thiền, và cuối cùng trong sự chết. Vì những hơi thở vô thở ra chỉ phát sinh ở dục hữu mà không phát sinh ở sắc hữu và vô sắc hữu, nên có những hơi thở cuối cùng trong các hữu. Trong các thiền, hơi thở chỉ hiện hữu ở ba thiền đầu, không hiện hữu ở thiền thứ tư, do vậy có hơi thở cuối cùng thiền định. Những hơi thở khởi lên theo tốc hành tâm thứ mười sáu đi trước tử tâm, chấm dứt cùng với tử tâm, gọi là những hơi thở cuối cùng trong cái chết.

242. Khi một Tỷ-kheo đã tu tập đề mục thiền này, thì vào lúc khởi lên tốc hành tâm thứ mười sáu trước tử tâm, nếu vị ấy chú ý đến sự sinh khởi của những hơi thở cuối cùng ấy, thì tướng sinh của chúng hiện rõ nơi vị ấy, nếu chú ý đến tướng trú, thì tướng trú hiện rõ, nếu chú ý đến tướng diệt thì tướng diệt hiện rõ cho vị ấy. Và như vậy là nhờ vị ấy đã hoàn toàn phân biệt được hơi thở vô hơi thở ra làm đối tượng.

243. Khi một Tỷ-kheo đã đắc A-la-hán quả nhờ tu tập một đề mục nào khác vị ấy có thể định được thọ mạng của mình còn bao lâu, mà cũng có thể không định được. Nhưng khi vị ấy đắc quả do tu tập đề mục thiền này thì vị ấy luôn luôn có thể định được thời chết của mình. Vị ấy biết “Các hành duy trì sinh mạng ta bây giờ chỉ còn tiếp tục đến chừng ấy, không lâu hơn.” Do đó vị ấy chuẩn bị tắm rửa thay y phục rồi nhắm mắt như trường hợp trưởng lão Tissa ở tu viện Koṭapabbata, trưởng lão Mahā Tissa ở tu viện Mahā Karañjiya, Trưởng lão người khất thực ở vương quốc Devaputta và như hai anh em trưởng lão ở tu viện Cittalapabbata.

244. Ðây là một câu chuyện tỉ dụ. Sau khi tụng giới bổn Pātimokkha vào ngày rằm bồ tát, một trong hai vị Trưởng lão vốn là hai anh em, đi đến trú xứ của mình, được vây quanh bởi toàn thể tăng chúng. Khi đứng ngắm trăng, ngài nhẩm tính các hành duy trì thọ mạng của bản thân, và bảo tăng chúng: “Từ trước tới nay, các ông đã thấy những Tỷ-kheo Niết Bàn theo kiểu nào?” Người thì đáp, “Từ trước tới nay, con thấy các vị nhập Niết Bàn khi còn ngồi trên toà.” Người khác nói, “Con đã thấy những vị ngồi kiết già giữa trời mà nhập Niết Bàn.” Vị trưởng lão nói, “Bây giờ ta sẽ cho chư hiền thấy một người nhập Niết Bàn trong lúc đang đi bách bộ.” Rồi Ngài vạch một đường trên khoảnh sân đi dạo, bảo “Ta sẽ đi từ đầu đường đến cuối rồi trở lại, khi đến lằn mức này ta sẽ đạt Niết Bàn.” Nói xong Ngài bước lên con đường kinh hành và đi đến đầu kia. Khi trở về ngài nhập Niết Bàn ngay lúc bước lên lằn đã vạch.

Bởi vậy, người có trí
Hãy để dành thì giờ
Tu tập niệm hơi thở
Vì có nhiều lợi ích

Trên đây là giải thích chi tiết về niệm hơi thở.

Quán Về Tịch Diệt (Niết Bàn)

245. Một người muốn tu tập niệm diệt (the recollection of peace) hãy đi vào độc cư để tưởng đến những đức đặc biệt của Niết Bàn, nói cách khác là sự tịnh chỉ tất cả các khổ như sau: “Này các Tỷ-kheo, dầu cho loại pháp nào, hữu vi hay vô vi, ly tham được xem là tối thượng trong tất cả pháp, (tức là) sự nhiếp phục kiêu mạn, sự nhiếp phục khát ái, sự nhổ lên tham ái, sự chặt đứt tái sinh, sự đoạn diệt tham ái, sự ly tham, đoạn diệt, Niết Bàn” (A II 34).

246. “Pháp” là những tính chất cá biệt. Hữu vi hay vô vi do các duyên nhóm họp mà thành hay không do duyên nhóm họp mà thành. “Ly tham được xem là tối thượng trong tất cả pháp”. Trong tất cả pháp hữu vi và vô vi, thì ly tham được gọi là cao nhất, tốt nhất.

247. Ở đây “ly tham” không phải chỉ là sự vắng bóng tâm tham, mà đúng hơn ở đây sự “nhiếp phục kiêu mạn, ... Niết Bàn” được gọi là ly tham. Ly tham được gọi là nhiếp phục kiêu mạn, vì khi đạt đến ly tham thì tất các thứ kiêu mạn được nhiếp phục, được cởi bỏ. Ly tham được gọi là nhiếp phục khát ái vì khi đạt đến ly tham, thì mọi khát ái đối với dục lạc bị loại bỏ, bị dập tắt. Ly tham được gọi là “nhổ lên tham ái” vi khi đạt đến ly tham sự nương tựa vào năm dục công đức bị bãi bỏ. Ðược gọi là sự “chặt đứt tái sinh” vì khi đạt đến ly tham, thì vòng luân chuyển trong ba cõi hữu được chấm dứt. Ðược gọi là đoạn diệt tham ái vì khi đạt đến ly tham thì tham ái bị phá hủy hoàn toàn, tàn tạ, chấm dứt. Ðược gọi là Niết Bàn vì đi ra khỏi (nikkhanta), thoát ly (nissata). Không liên hệ với khát ái, mà thông thường còn có tên là “sự chấp thủ” vì bằng cách bảo đảm sự tái sinh tương tục, khát ái là yếu tố nối liền, liên kết, gắn bó bốn loài chúng sinh, năm thú, bảy thức, và chín cõi.

248. Trên đây là cách niệm diệt hay Niết Bàn theo những đặc tính của nó khởi đầu là ly tham. Nhưng Niết Bàn còn nên tưởng niệm theo những đức tính đặc biệt khác mà Đức Thế Tôn đã mô tả trong các kinh như: “Này các Tỷ-kheo, ta sẽ dạy cho các ngươi cái vô vi (không được tạo tác) ... chân lý bỉ ngạn (bờ bên kia) ... cái khó thấy ... cái bất hoại ... cái trường cửu ... cái không biến dị ... cái bất tử ... cái hiền thiện ... cái an ổn ... cái kỳ diệu ... cái nguyên vẹn ... cái không sầu ... cái thanh tịnh. .. dòn đảo ... chỗ trú ...” (S IV 360-72).

249. Khi hành giả tưởng đến tịch diệt với những đức tính đặc biệt ly tham v.v... Theo cách ấy, thì ngay lúc ấy, tâm vị ấy không bị tham ám ảnh, ngay lúc ấy tâm vị ấy được chất trực vì ảnh hưởng của tịch diệt, Niết Bàn (Xem Ch VII đoạn 65 và kế tiếp). Bởi vậy, khi hành giả đã trừ khử những triền cái theo cách đã nói trong phần Tưởng niệm về Ðấng giác ngộ (niệm Phật) v.v... Những thiền chi khởi lên trong một sát-na duy nhất. Nhưng do bởi những đức sâu xa của Niết Bàn, hoặc vì hành giả bận tưởng niệm nhiều đức tính khác nhau, nên thiền khởi lên chỉ là cận hành định mà không đạt đến định an chỉ. Và thiền ấy cũng được gọi là niệm về tịch diệt, bởi vì nó khởi lên nhờ những đức đặc biệt của tịch diệt.

250. Và cũng như trong trường hợp sáu tưởng niệm diệt này cũng chỉ đi đến viên mãn nơi một vị Thánh đệ tử. Tuy vậy, nó cũng có thể làm đối tượng nhớ nghĩ cho một người thường ái lạc Niết Bàn, bởi vì chỉ nghe nói không thôi, cũng làm cho tâm phát sinh tín nhạo.

251. Một vị Tỷ-kheo chuyên tâm tưởng đến tịch diệt như vậy thường ngủ trong an lạc và thức trong an lạc, các căn tịch tịnh, tâm an bình, vị ấy có tàm quý, tin tưởng quyết định đạt đến quả cao, được sự tôn trọng cung kính của những vị đồng phạm hạnh. Và ngay dù vị ấy không chứng nhập được cái gì cao hơn, ít nhất cũng hướng đến một thiện thú.

Bởi thế người có trí
Siêng tu không biết mệt
Pháp tưởng niệm tịch diệt
Ðem lại nhiều thiện báo

Trên đây là niệm diệt được giải thích chi tiết.

Chương tám này, gọi là “Mô tả các tùy niệm kể như những đề mục thiền” ở trong phần luận giải về Sự tu tập Ðịnh trong Thanh tịnh Ðạo, được biên soạn với mục đích làm cho những người lành được hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương IX
Mô Tả Ðịnh - Các Phạm Trú

(Brahmavihāra-niddesa)

----

(1) Từ

1. Bốn phạm trú được kể là những đề mục thiền kế tiếp những đề mục tùy niệm kể như đề mục thiền (Ch. III, 105). Những đề mục này là Từ (loving-kindness) (mettā), Bi (compassion) (karuṇā), Hỷ (gladness; altruistic joy) (muditā), Xả (equanimity) (upekkhā). Một vị thiền giả muốn tu tập trước hết đề mục Từ, nếu vị ấy là người sơ cơ, thì phải trừ khử những chướng ngại và học đề tài thiền. Rồi, sau khi ăn xong, qua cơn chóng mặt sau bữa ăn, vị ấy nên ngồi thoải mái tại một chỗ khuất nẻo. Ðể bắt đầu, hành giả nên quán sát sự nguy hiểm trong sân hận và sự lợi lạc trong kham nhẫn.

2. Tại sao? Bởi vì cần phải từ bỏ sân, đạt đến an nhàn trong sự tu tập đề mục thiền này, mà vị ấy không thể từ bỏ những nguy hiểm nếu không thấy được chúng và không thể đạt đến những lợi lạc nếu vị ấy không biết.

Bây giờ, nguy hiểm trong sân hận có thể được thấy mô tả trong các kinh như: “Này chư hiền, khi một người nổi sân, nó là miếng mồi cho sân, tâm nó bị ám bởi sân, nó giết hại chúng sanh...” (A I 216). Và lợi ích trong sự an nhẫn cần được hiểu theo sự mô tả trong các kinh như:

“Chư Phật dạy, không pháp nào cao hơn nhẫn nhục,
Và không Niết Bàn nào cao hơn kham nhẫn” (D II 49; Dhp 184);
“Lấy nhẫn làm quân lực:
Ta gọi Bà-la-môn” (Dhp 399);
“Không có pháp nào cao cả hơn nhẫn nhục” (S I 222).

3. Rồi hành giả nên khởi sự tu tập từ tâm vì mục đích tách rời tâm khỏi sân đã được thấy là nguy hiểm, và đưa tâm đến nhẫn nhục đã được biết là lợi ích.

Nhưng khi khởi sự, hành giả cần biết rằng, lúc ban đầu tâm từ nên được trải đến một hạng người nào, mà không đến hạng nào.

4. Vì tâm từ lúc đầu không nên trải đến 4 hạng người sau đây: người mà ta ghét hay có ác cảm sẵn, người mà ta rất yêu mến, người ta không ưa không ghét, và người ta thù. Và cũng không nên trải tâm từ đặc biệt là đến kẻ khác phái hay đến một người đã chết.

5. Vì lý do nào mà ta không nên trải tâm từ đến những hạng trên? Ðể một người khả ố vào địa vị một người mến thương thì mệt lòng. Ðể một người rất thân vào địa vị một người dửng dưng cũng mệt; và nếu một bất hạnh nhỏ nào xảy đến cho người ấy, thì hành giả gần như muốn khóc. Ðể một người dửng dưng vào địa vị một người khả kính, khả ái thì rất mệt. Còn nếu nhớ đến một kẻ thù thì hành giả sẽ nổi sân. Vì những lý do đó mà lúc đầu không nên trải tâm từ đến những hạng người ấy.

6. Và nếu hành giả trải tâm từ đặc biệt đến người khác phái, thì tham dục khởi lên nơi hành giả do người ấy làm nguồn cảm hứng. Có một vị trưởng lão thường đến khất thực tại nhà nọ. Một người cư sĩ bạn của người con trai trong gia đình ấy hỏi trưởng lão: “Bạch đại đức ta nên trải tâm từ đến người nào?” Vị trưởng lão trả lời: “Ðến một người ta thương mến”. Người cư sĩ ấy yêu mến vợ con anh ta. Do tu tập từ tâm trải đến nàng, vị ấy đấm vào vách tường suốt đêm ấy. Sau khi thọ bát quan trai giới, vị ấy khóa cửa phòng, ngồi trên một tọa cụ để tu tập quán tâm từ. Bị mù quáng bởi tham dục khởi lên dưới lớp vỏ từ tâm, anh toan đi đến thăm người vợ, và vì không trông thấy cửa nên vị ấy đập vào vách để thoát ra dù có phải làm đổ tường (Visṃ-mhṭ 286). Do vậy, không nên trải tâm từ đặc biệt đến kẻ khác phái.

7. Còn nếu hành giả trải tâm từ đến một người đã chết, thì vị ấy không đạt được an chỉ hay định cận hành gì cả. Như có một Tỷ-kheo trẻ khởi sự trải tâm từ đến vị giáo thọ sư là đối tượng. Tâm từ của vị ấy không tiến triển chút nào cả. Vị ấy đi đến một vị Thượng tọa Tỷ-kheo và bạch: “Bạch Ðại đức, con rất thường đắc thiền nhờ quán tâm từ, mà bây giờ quán mãi không đắc, là tại sao?” Vị trưởng lão dạy: “Hiền giả hãy tìm tướng ấy đi.” (nghĩa là đối tượng của thiền quán). Vị Tỷ-kheo đi tìm, và được biết vị giáo thọ sư đã chết. Ông liền tiếp tục tu tập trải tâm từ đến một đối tượng khác, và đắc định. Vì thế không nên trải tâm từ đến một người đã chết.

8. Trước tiên tâm từ nên được trải đến chính bản thân hành giả, lặp đi lặp lại như sau: “Mong rằng ta được an lạc, thoát khổ ách” hoặc: “Mong rằng tôi thoát được hận thù, buồn khổ, lo âu và sống hạnh phúc”.

9. Như vậy, có phải là mâu thuẫn với những gì được nói ở trong kinh điển hay không? Vì không có chỗ nào nói tới việc trải tâm từ đến chính mình trong Vibhaṅga: “Và làm thế nào một Tỷ-kheo tu tập biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ? Giống như vị ấy có tâm từ khi thấy một người rất thân mến, cũng vậy vị ấy rưới khắp tất cả hữu tình với từ tâm” (Vibh 272), và trong Paṭisambhidā thì nói: “Bằng năm cách nào, từ tâm giải thoát được làm cho sung mãn không giới hạn? Mong rằng tất cả chúng sanh thoát khỏi hận thù, buồn khổ, lo âu và được sống trong an lạc. Mong rằng mọi loài có thở ... mọi loài được sinh ra ... mọi người ... mọi kẻ có một nhân tính, đều thoát khỏi hận thù, buồn khổ, lo âu và sống được an lạc” (Sn 145); Có phải là mâu thuẫn với những bản văn này?

10. Không mâu thuẫn. Tại sao không? Bởi vì, văn trên là nói đến định. Còn sự tu tập sơ khởi này, trải tâm từ đến chính bản thân, là muốn nói chuyện lấy bản thân để làm ví dụ. Vì dù có tu tập tâm từ cho đến một trăm năm hay một ngàn năm theo kiểu “Tôi được an lạc hạnh phúc” v.v... thì cũng không bao giờ đắc định. Nhưng nếu hành giả tu tập tâm từ như sau: “Tôi được an lạc. Cũng như tôi muốn an lạc và sợ đau khổ, như tôi muốn sống, không muốn chết, thì các chúng sinh khác cũng vậy.” Khi lấy bản thân làm ví dụ, thì ước mong cho những chúng sinh khác được an lạc hạnh phúc khởi lên nơi hành giả. Và phương pháp này đã được ám chỉ bởi Ðức Thế Tôn khi ngài nói:

Tâm ta đi cùng khắp,
Tất cả mọi phương trời,
Cũng không tìm thấy được,
Ai thân hơn tự ngã,
Tự ngã đối mọi người,
Quá thân ái như vậy.
Vậy ai yêu tự ngã,
Chớ hại tự ngã người (S I 75; Ud 47)

11. Bởi vậy hành giả trước hết nên lấy mình làm ví dụ, trải từ tâm đến khắp bản thân. Kế tiếp, để tiến hành sự tu tập một cách dễ dàng, hành giả có thể tưởng đến những món quà, những lời tử tế v.v... dễ mến, dễ yêu, những đức hạnh, đa văn khả kính, khả phục nơi một vị giáo thọ sư hay đồng giáo thọ sư, một vị y chỉ sư hay đồng y chỉ sư. Trải tâm từ đến vị ấy theo cách khởi đầu là: “Mong rằng con người hiền thiện ấy được hạnh phúc an vui, thoát mọi khổ ách”. Với một người như thế làm đối tượng, dĩ nhiên là hành giả đắc định liền.

12. Nhưng nếu vị Tỷ-kheo ấy không chỉ bằng lòng với bấy nhiêu, mà muốn phá vỡ những hàng rào, thì kế đó vị ấy nên trải tâm từ đến một người bạn rất yêu mến, rồi đến một người dửng dưng xem như người rất yêu mến, rồi đến một kẻ thù xem như không hận thù. Và trong khi làm như vậy, hành giả cần khiến cho tâm nhu nhuyễn dễ sử dụng ở mỗi trường hợp trước khi qua trường hợp kế tiếp.

13. Nhưng nếu hành giả không có kẻ thù, hoặc nếu hành giả thuộc hàng người vĩ đại không xem người nào là kẻ thù dù cho người đó có hại mình, thì vị ấy không nên để tâm đến chuyện trải tâm từ đến một kẻ thù và nghĩ: “Bây giờ từ tâm của ta đã trở nên dễ dàng đối với một người dửng dưng. Ta nên trải tâm từ ấy đến một kẻ thù.” Vì đối với một người thực sự có một kẻ thù, thì mới nên trải tâm từ đến kẻ ấy như đến một người không thân không thù.

(Xua Tan Tâm Hận)

14. Nếu hận tâm khởi lên nơi hành giả khi áp dụng tu tập trải tâm từ đến một người thù vì nghĩ lại những vố ác độc người ấy đã chơi, thì hành giả nên xua đuổi cơn hận bằng cách liên tục nhập thiền quán từ tâm đối với bất cứ người nào được kể ở trước, và sau mỗi lần xuất khởi thiền này, lại hướng tâm từ đến người ấy.

15. Nhưng nếu mối hận vẫn âm ỉ trong tâm mặc dù bao nhiêu nỗ lực của hành giả, thì

Hãy nhớ đến cái cưa
Với những hình ảnh tương tự
Và cứ nỗ lực, nỗ lực nhiều lần
Ðể bỏ lại hận thù sau xa thật xa.

Hành giả nên tự khuyến cáo như sau: “Này kẻ đang nổi sân kia, há Ðức Thế Tôn đã không dạy rằng: Này Tỷ-kheo, dù cho những kẻ cướp có tàn bạo cắt đứt hết tay chân mình bằng một cái cưa hai cán, người nào vì kẻ ấy mà trong lòng nổi lên sân hận thì đó không phải người thực hành giáo lý của ta?” (M I 129). Và:

“Lấy sân để báo sân
Tệ hơn nổi sân trước
Ðừng đem sân báo sân
Thắng trận chiến khó thắng
Ai biết kẻ khác sân
Vẫn giữ tâm bình an
Vị ấy làm lợi ích
Cho người và bản thân” (S I 162).

và “Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp xảy đến cho một người, khiến cho kẻ thù của nó thỏa mãn, lợi lạc. Gì là bảy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một kẻ thù mong mỏi như sau đối với người nó thù: “Mong rằng nó xấu xí. Tại sao? Vì một kẻ thù không thích thú với vẻ đẹp của kẻ thù. Vậy mà khi một người tự làm mồi cho sân, bị sân chinh phục, thì dù nó có tắm rửa sạch sẽ, bôi dầu thật láng, mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao đến đâu, nó cũng xấu xí khi đang giận dữ. Ðây là điều thứ nhất xảy đến cho một người nổi sân dù người ấy là đàn ông hay đàn bà, làm cho kẻ thù của nó được thỏa mãn. Lại nữa, một kẻ thù mong muốn như sau cho kẻ thù của nó: “Mong rằng nó nằm ngủ trong khổ sở... Mong rằng nó không có may mắn... Mong rằng nó không có tài sản... Mong rằng nó không có danh xưng... Mong rằng nó không có bè bạn... Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung nó đừng có được tái sinh vào thiện thú, thiên giới.” Tại sao? Một kẻ thù không bao giờ muốn cho kẻ thù đi đến thiện thú. Vậy mà khi một người đang tự làm mồi cho sân, bị sân chinh phục, thì nó làm các thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành. Do làm các ác hành về thân, khẩu, ý như vậy. Sau khi thân họai mạng chung nó tái sinh vào ác thú, đọa xứ, địa ngục, vì làm mồi cho sân” (A IV 94).

Và: “Như một khúc gỗ từ giàn hỏa, bị cháy cả hai đầu và hỏng chặn giữa, không làm củi với nó được ở trong làng cũng như trong rừng. Ta nói rằng kẻ kia cũng như vậy” (A II 95, It 90). “Bây giờ nếu ngươi sân hận là ngươi không thực hành lời Phật dạy. Ðem sân báo sân, ngươi sẽ còn tệ hơn người nổi sân trước và ngươi sẽ không thắng được trận chiến khó thắng; ngươi sẽ tự làm cho ngươi những điều có lợi cho kẻ thù, và ngươi sẽ giống như một khúc gỗ trên giàn hỏa!"

16. Nếu sân hận lắng dịu khi hành giả nỗ lực như trên thì tốt. Nếu không, hành giả nên xóa bỏ mối tức giận kia bằng cách nhớ lại vài ưu điểm nơi người kia, những điều gợi niềm tin khi được nhớ đến.

17. Vì một người được chế ngự trong thân hành với sự chế ngự của vị ấy, mọi người đều biết, mặc dù ngữ hành và ý hành của vị ấy không được chế ngự. Khi ấy hãy bỏ qua hai thứ sau và chỉ nên nhớ đến sự chế ngự về thân hành nơi vị ấy.

18. Một người khác thì có thể được chế ngự về ngữ hành, và sự chế ngự của vị ấy ai cũng biết — vị ấy có thể là người lịch sự biết chào hỏi tử tế, người dễ nói chuyện, thân mật, cởi mở, lễ độ trong ngôn ngữ, có thể giảng nói Pháp với giọng êm tai, giải thích về Pháp với lời ý nghĩa (chi tiết) đầy đủ — mặc dù thân hành và ý hành của vị ấy không được chế ngự. Trong trường hợp ấy, nên bỏ qua hai điều sau và nên nhớ lại ngữ hành của vị ấy.

19. Một người khác có thể được chế ngự về ý hành và sự chế ngự của vị ấy trong khi lễ bái ở chánh điện v.v... ai cũng thấy rõ. Vì khi một người tâm không được chế ngự đi lễ ở chùa tháp hay đến lễ bái ở cây Giác Ngộ hay lễ bái các vị Trưởng lão, vị ấy không cẩn trọng ngồi ở giảng đường thì tâm trí đi rong hoặc ngủ gục; còn một người tâm chế ngự thì làm lễ một cách cẩn trọng và khoan thai, chăm chú nghe pháp, nhớ kỹ và biểu lộ lòng tin qua thân và lời của mình. Có thể người đó chỉ chế ngự trong ý hành, mặc dù thân và lời không được chế ngự. Trong truờng hợp ấy nên bỏ qua thân và lời của họ, và nhớ lại sự chế ngự ý hành của họ.

20. Nhưng cũng có thể có người không chế ngự gì ráo về cả ba thứ. Khi ấy nên khởi lòng từ mẫn đối với họ như sau: Mặc dù bây giờ vị ấy đang lang thang trong thế giới loài người, tuy nhiên sau một chuỗi ngày anh ta sẽ thấy mình ở một trong tám đại địa ngục và mười sáu địa ngục khủng khiếp. Vì sự tức giận cũng hạ xuống do lòng từ mẫn. Lại còn trong một người khác nữa, thì có thể ba thân ngữ, ý, hành đều được điều phục. Khi ấy hành giả có thể nhớ lại bất cứ loại nào trong người ấy, loại hành mà mình thích, vì tâm từ trải đến một người như vậy rất dễ dàng.

21. Và để làm rõ ý nghĩa trên, đoạn sau đây từ kinh Anguttara Nikāya, chương Năm pháp, cần được trích dẫn đầy đủ: “Này các Tỷ-kheo, có năm cách trừ khử hiềm hận nhờ đó khi hiềm hận khởi lên trong vị Tỷ-kheo, có thể được trừ khử hoàn toàn” (A III 186-90).

22. Nhưng nếu sự tức giận vẫn khởi lên nơi hành giả, mặc dù những nỗ lực trên, thì hành giả nên tự trách như sau:

Dù ngươi bị kẻ thù làm hại
Với những điều nó có thể làm
Thì đừng nên tự hại tâm ngươi
Vốn không thuộc quyền năng của nó

Ðã từ thân cắt ái xuất gia
Sao không từ bỏ luôn sân hận?
Sân tâm phá tận ngay gốc rễ
Mọi giới được ngươi đã vun bồi

Thật rõ là ngu quá đi thôi
Khi giận vì lỗi lầm kẻ khác
Ấy chứng tỏ ngươi đang bắt chước
Chính hành vi lầm lỗi của người

Nếu kẻ kia muốn xúc não ngươi
Mà làm nhiều hành vi khả ố
Thì chính ngươi đang chiều ý nó
Để cho cơn giận bùng lên

Cơn giận dữ chưa chắc hại ai
Nhưng chắc chắn hại ngươi trước nhất
Kẻ sân trước lên đường đau khổ
Người sân sau bén gót theo sau

Nếu như ngươi là người gây hấn
Khiến kẻ kia trả đũa lại ngươi
Thì hãy nên hạ ngay cơn giận
Vì chính ngươi đã tạo lỗi lầm

Các pháp chỉ kéo dài thoáng chốc
Vật gây nhân đã chấm dứt rồi
Sao còn ôm lòng tức giận ai?
Ai làm hại, ai đang bị hại?

23. Nếu hiềm hận vẫn không giảm, hành giả tự nên xét đến sự kiện rằng mình và người đều là sở hữu chủ của nghiệp. Trước hết, hành giả nên xét điều này trong tự thân: “Có lợi ích gì khi tức giận như vậy? Há chẳng phải nghiệp sân này của ngươi chỉ đưa đến hại cho ngươi? Vì ngươi là sở hữu chủ của nghiệp, kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là bà con, là quyến thuộc, làm nơi trú ẩn; ngươi sẽ là kẻ thừa tự của bất cứ nghiệp gì ngươi đã làm (xem A III 186). Và đây không phải là loại nghiệp đưa ngươi đến giác ngộ viên mãn, đến sự giác ngộ chưa từng được tuyên bố, hay đến địa vị Thanh Văn, hay đến bất cứ địa vị nào như Phạm thiên, Ðế thích, hay ngai vàng của một Chuyển luân vương hay một vị vua v.v... mà trái lại, đây là loại nghiệp đưa ngươi đến đọa lạc khỏi nền giáo lý, đưa ngươi đến địa vị của những kẻ ăn đồ dư thừa v.v... và đến nhiều sự khổ sở trong địa ngục v.v... Ngươi giống như kẻ tay cầm cục than nóng đỏ hay phân để đánh người, chưa gì chính mình đã cháy và hôi thối.”

24. Sau khi xét như trên, hành giả lại nên nghĩ: Kẻ kia tức giận ngươi để làm gì? Có phải điều ấy chỉ đưa đến tai hại cho chính nó? Vì Tôn giả kia là sở hữu chủ nghiệp, thừa tự của nghiệp... vị ấy sẽ thừa kế bất cứ nghiệp gì mình đã gây tạo. Và đây không phải là thứ nghiệp đưa vị ấy đến giác ngộ viên mãn, đến sự giác ngộ chưa từng được tuyên bố, đến quả vị Thanh Văn hay đến một địa vị nào như là Phạm thiên, Ðế thích, Chuyển luân vương hay vua chúa; đúng hơn, đây là thứ nghiệp đưa vị ấy đến sự đọa lạc khỏi nền Giáo lý, hay cả đến địa vị những kẻ ăn đồ dư thừa... và đến nhiều loại khổ thống trong các địa ngục v.v... Vị ấy như một người muốn ngược gió tung bụi vào kẻ khác, cuối cùng chỉ làm cho chính thân mình lấm bụi.

Vì Ðức Thế Tôn đã dạy như sau:

“Hại người không ác tâm,
Người thanh tịnh, không uế.
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi” (Dhp 125).

25. Nhưng nếu hiềm hận vẫn không nguôi trong hành giả, khi quán xét như trên, thì khi ấy nên quán những đức tính đặc biệt của Thế Tôn ngày xưa, trong lối hành xử của Ngài.

26. Cách quán như sau. Ngươi nay đã xuất gia há lại không nhớ rằng: Bậc đạo sư của ngươi khi còn là Bồ Tát, hành những hạnh ba-la-mật suốt bốn vô số kiếp và một trăm ngàn tiểu kiếp, Ngài đã không để cho sân làm ô nhiễm tâm, dù cho kẻ thù nhiều dịp cố hại mạng Ngài?

27. Ví dụ như trong Bổn sanh truyện Sīlavant (J-a I 261). Khi các thân hữu của Ngài đều đứng lên để phòng vệ vương quốc đang bị chiếm đoạt bởi vua thù nghịch, do sự xúi giục của một gian thần oán ghét Ngài (và sự oán ghét này là do chính hoàng hậu của vua gieo vào tâm ông ta) - khi ấy, Ngài không để cho họ nhấc lên một khí giới nào. Lại nữa, khi ngài bị chôn sống cùng với một ngàn người, ngập tới cổ, trong một lỗ đất tại nghĩa địa, Ngài cũng không có một tư tưởng hận thù nào. Và sau khi thoát chết nhờ một nỗ lực anh hùng và với sự giúp đỡ của một con dã can đến ăn thây chết cào đất cho Ngài lên, Ngài trở về phòng ngủ do một phi nhân dẫn lối, và trông thấy kẻ thù đang nằm trên giường mình, Ngài vẫn không giận, mà đối xử với y như bạn, làm một cuộc kết giao, rồi thốt lên:

“Người luôn luôn hi vọng, bậc trí không chán nản;
Ta thật thấy tự ngã như ta đã mong muốn” (J-a I 267).

28. Và trong Bổn sanh Khantivādin, khi vua Kāsi, ngu ngốc hỏi Ngài: “Này Sa-môn, ngươi giảng Pháp gì?”, Ngài đáp ”Tôi là người giảng về nhẫn nhục”. Khi vua sai đánh đòn Ngài bằng những cây có gai và chặt hết tay chân Ngài, Ngài vẫn không có một niệm sân nào khởi lên (J-a III 39).

29. Có lẽ không có gì lạ lắm nếu một người thành niên đã xuất gia hành động như vậy, nhưng Bồ-tát còn làm như thế lúc Ngài là một hài nhi. Trong Bổn sanh Cūḷa Dhammapāla, tay chân Ngài bị chặt theo lệnh vua cha như chặt bốn búp măng non, và mẹ Ngài đã than khóc:

“Ôi những cánh tay con ta đã bị chặt đứt
Những cánh tay đã được tắm trong bột trầm
Con ta, kẻ thừa tự toàn cõi đất:
Ồ, ta ngạt thở mất thôi!” (J-a III 181).

Khi ấy vua cha Mahāpatāpa vẫn chưa thỏa mãn còn ra lệnh chặt đầu Ngài. Nhưng Ngài vẫn không tỏ chút nào oán hận, vì đã quyết định như sau: “Ðây là lúc ta phải chế ngự tâm, này Dhammapāla ơi, hãy vô tâm đối với tất cả bốn người này, cả với cha ngươi đang bảo chặt đầu ngươi, với người đao phủ, với người mẹ đang khóc ngươi, và với cả chính ngươi.”

30. Và có lẽ không lạ lắm khi một người được sinh làm người hành động như thế. Nhưng Bồ tát khi làm súc sinh cũng vậy. Vì khi Ngài làm con voi Chaddanta Ngài bị thọc vào rốn một cây gậy tẩm thuốc độc, tuy thế Ngài không để cho sân hận khởi lên đối với người thợ săn đã làm Ngài bị thương vì Ngài không muốn làm nhiễm ô tâm bằng sân hận, như kinh nói:

“Voi bị trúng gậy
Liền hỏi thợ săn
Tâm không sân hận!
Có gì giết thân?” (J-a V 51).

Khi được trả lời: “Hoàng hậu của vua Kāsi sai đến lấy cặp ngà của Ngài”, voi bèn cắt đứt đôi ngà rực rỡ trao cho anh ta.

31. Và khi Ngài làm một khỉ chúa, người mà Ngài đã cứu ra khỏi một hốc đá nghĩ:

“Ðây cũng là thực phẩm
Như bao thứ thịt rừng
tại sao ta đang đói
Không giết nó mà ăn?
Ta sẽ đi khắp nơi
thịt khỉ làm lương thực
Ta sẽ qua sa mạc
Sống nhờ món ăn này” (J-a V 71).

Nghĩ thế bèn lấy một hòn đá đánh lên đầu khỉ. Khỉ nhìn kẻ ấy với đôi mất đẫm lệ và bảo:

“Ôi không nên làm thế,
Vì ngươi sẽ gặt hái
Hậu quả của việc ác
Như tất cả người khác
Ðã làm việc như ngươi” (J-a V 71).

Và với tâm vô sân, bất chấp nỗi đau đớn, khỉ đã đưa người kia đến đích an ổn .

32. Và khi còn làm long vương Bhūridatta, trong lúc Ngài đang giữ tám trai giới vào lễ Uposatha, đang nằm trên một tổ kiến, mặc dù Ngài bị bắt, bị rắc lên mình một thứ để gây mê giống như ngọn lửa thời kiếp tận, và bị bỏ trong một cái hộp làm đồ chơi cho khắp xứ Jambudīpa, Ngài vẫn không chút oán hận nào đối với người Bà-la-môn nọ.

33. Khi làm long vương Campeyya cũng vậy, Ngài không để cho sân khởi lên nơi tâm mặc dù bị kẻ bắt rắn đối xử tàn bạo.

“Vào dịp lễ Bố tát
Trong khi ta trai giới
Bị người bắt rắn bắt
Làm trò ở kinh đô
Biến hình xanh vàng đỏ
Ðúng như y mong muốn;
biến đất khô thành nước
Biến nước thành đất khô
Giá như ta nổi giận
Ðã nghiền nó ra tro
Nếu ta không tự chủ
Thì giới đã hỏng to
Kẻ nào giới không lo
Không đạt đích tối thượng” (Cp 85).

34. Lại nữa khi Ngài làm long vương Saṅkhapāla, bị mười sáu đứa trẻ trong làng mang đi trên một cây gậy sau khi đâm ngài bị thương tám chỗ và nhét gai vào các lỗ hổng vết thương. Chúng xỏ một dây bự qua lỗ mũi Ngài, làm cho Ngài đau đớn kịch liệt khi kéo lê thân thể trên đất. Mặc dù chỉ cần trừng mắt một cái Ngài có thể biến cả mười sáu đứa thành tro Ngài không để lộ một chút sân hận, như kinh nói:

“Vào ngày mười bốn rằm
Ta thường giữ trai giới
Mười sáu đứa trẻ làng
mang dây cùng chỉa ba
xẻ mũi xâu giây vào
kéo ta đi lê lết
dù đau đớn khốc liệt
Ta không để thù hận
quấy động ngày trai giới” (J-a V 172).

35. Và Ngài đã thực hiện nhiều điều kỳ diệu khác nữa, như được kể ở trong Bổn sanh Mātuposaka (J-a IV 90). Vậy, thực không thích hợp,không xứng đáng với ngươi nếu khởi lên những ý tưởng hiềm hận, vì ngươi đang muốn được như Đức Thế Tôn đạo sư, đấng đã đạt đến Toàn trí, đấng mà đức nhẫn nhục, không ai sánh bằng trong toàn thế giới gồm cả Phạm thiên.

36. Nhưng, nếu nghĩ những đức đặc biệt của Thế Tôn mà hiềm hận vẫn không lắng dịu, vì từ lâu vị ấy đã quen nô lệ cho phiền não, thì vị ấy nên đọc lại những kinh đề cập đến vòng sinh tử tiếp nối vô tận như “Này các Tỷ-kheo, không dễ gì tìm thấy một chúng sinh nào chưa từng là mẹ ngươi... cha ngươi... anh ngươi... chị ngươi... con trai ngươi... con gái ngươi” (S II 189). Bởi thế, hành giả nên nghĩ về người kia như sau: “Cái người này, khi còn làm mẹ ta, trong quá khứ đã từng cưu mang ta suốt mười tháng trong bụng, và tay rửa những phân, tiêu, sài, đẹn của ta không chút nhờm gớm, nâng niu ta trên gối, nuôi nấng ta, ẵm bồng ta bên nách. Và người này khi làm cha ta trong quá khứ, đã đi những con đường của bò dê đi, những con đường gập ghềnh hiểm trở để làm nghề lái buôn, vì ta mà liều mạng trong chiến trường, trên những con tàu lênh đênh ngoài biển khơi, và làm những việc gian nan khác. Người ấy đã kiếm tiền bằng đủ mọi cách để nuôi ta. Và người này, khi làm anh ta chị ta, con trai ta, con gái ta trong quá khứ, đã từng giúp đỡ ta. Bởi thế, thật không xứng đáng nếu ta ôm lòng thù hận người ấy”.

37. Nhưng nếu hành giả vẫn không dập tắt được hiềm hận bằng cách trên đây, thì nên xét đến những lợi ích của từ tâm như sau: “Này ngươi, kẻ đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, há không phải Đức Thế Tôn đạo sư đã dạy rằng: ‘Này các Tỷ-kheo, khi từ tâm giải thoát được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm thành bánh xe, nền tảng, được an trú, được củng cố, và được tu tập thích đáng, thì sẽ có được mười một lợi ích. Ðó là những gì? Người ấy ngủ trong an ổn, thức trong an ổn, không chiêm bao ác mộng, người ấy được người khác yêu mến, được phi nhân yêu mến, chư thiên hộ trì; lửa, khí giới và độc chất không làm hại được; tâm người ấy dễ định; nét mặt khinh an; người ấy chết tâm không rối loạn, và nếu không đắc quả gì cao thì vị ấy sẽ tái sinh vào Phạm thiên giới’ (A V 342). Nếu ngươi không chấm dứt những tư tưởng hiềm hận này, thì ngươi sẽ không được những lợi lạc ấy.”

38. Nhưng nếu bằng cách đó, hành giả cũng không thể hết tức giận, thì hãy phân tích các yếu tố. Như thế nào? (Vị ấy nghĩ): “Ngươi, kẻ đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình kia, khi ngươi tức giận kẻ kia, thì cái gì nơi kẻ ấy làm ngươi tức giận? Ngươi giận tóc? Hay lông? Hay móng ... Hay nước tiểu. Hoặc, có phải ngươi tức giận địa đại ở trong tóc v.v... Hay thủy đại? Hay hỏa đại? Hay phong đại ngươi tức giận? Hay trong số năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới bởi đó vị tôn giả đó được gọi bằng tên đó, cái gì ngươi tức giận? Ngươi tức giận sắc uẩn, hay thọ uẩn, hay tưởng uẩn, hay hành uẩn, hay thức uẩn? Ngươi tức giận nhãn xứ hay sắc xứ? ... ý xứ hay pháp xứ? Ngươi tức giận nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới? ... ý giới, pháp giới? Hay ý thức giới ngươi tức giận?” Bởi vì khi hành giả cố phân tích thành các yếu tố như vậy, cơn giận của vị ấy không tìm thấy chỗ đặt chân, như một hạt tiêu đặt trên đầu cái mũi dùi hay một bức tranh treo giữa hư không.

39. Nhưng nếu hành giả không làm được sự phân tích trên, thì nên cố tặng một món quà. Món quà có thể hoặc là do hành giả tặng người kia, hay do hành giả nhân từ người kia. Nhưng nếu người ấy có mạng sống không thanh tịnh, và những vật dụng của vị ấy không đáng dùng, thì món quà nên do hành giả tặng. Và khi một người làm như thế, hiềm hận ở trong nó hoàn toàn lắng xuống. Và ở trong nơi người kia, dù đã kết oan gia từ một đời trước, lúc ấy oán giận cũng tiêu. Như trường hợp xảy đến cho vị trưởng lão nhận một cái bát từ nơi vị thượng tọa ăn đồ khất thực ở tu viện Cittapabbata, vị này đã ba lần khiến trưởng lão phải rời khỏi trú xứ, bây giờ tặng trưởng lão cái bát với những lời: “Bạch đại đức, cái bát này đáng giá tám đồng ducats, là do mẹ tôi cho tôi, bà là một tín nữ, và cái bát này kiếm được bằng phương tiện hợp pháp. Mong cho bà tín nữ ấy được phước đức. “Như vậy, hành vi bố thí thật là có hiệu quả lớn. Và điều này đã được nói:

"Một món quà điều phục kẻ chưa điều phục
Một tặng phẩm có đủ thứ tốt lành
Nhờ cho tặng phẩm mà người ta bớt gay cấn
Và chịu hạ cố mà nói những lời tử tế.”
(Sự phá vỡ rào ngăn - Tướng)

40. Khi hiềm hận đối với kẻ thù nghịch đã lắng xuống hành giả có thể trải tâm từ đến người ấy nữa, cũng như đến một người thân, người rất thân và người dửng dưng. Rồi hành giả nên phá vỡ những rào ngăn bằng sự tập luyện tâm từ luôn luôn, thành tựu tính bình đẳng đối với cả bốn người, nghĩa là chính bản thân, người thân, người dưng và kẻ thù.

41. Tính chất của tính bình đẳng ấy như sau. Giả sử vị ấy đang ngồi tại một nơi kia cùng với một người thân, một người dưng và một người thù, với vị ấy là bốn, khi ấy những kẻ cướp đi đến bảo vị ấy: “Bạch đại đức, cho chúng tôi một vị Tỷ-kheo.” Và khi được hỏi để làm gì, chúng trả lời: “Ðể cắt cổ lấy máu làm lễ tế thần linh. “Lúc đó, nếu hành giả nghĩ: “Hãy để cho chúng mang đi người này, hay người này”. Như thế là vị ấy chưa bỏ những rào ngăn. Và nếu vị ấy nghĩ: “Hãy để chúng mang ta đi, đừng mang những người kia” thì cũng là chưa phá vỡ rào ngăn. Tại sao? Vì vị ấy tìm cách tự hại khi muốn để cho người ta mang đi, và chỉ tìm sự an ổn cho người khác mà thôi. Vậy, chỉ khi nào vị ấy không thấy một người nào trong bốn người ấy đáng đem cho kẻ cướp, khi vị hướng tâm mình một cách bình đẳng đến bản thân cũng như đến ba người kia, vị ấy mới là phá vỡ rào ngăn.

42. Do đó cổ đức nói: (Bài kệ lặp lại ý trên)

43. Ðồng thời với sự phá vỡ rào ngăn, tướng và cận hành định khởi lên cho vị Tỷ-kheo ấy. Nhưng khi sự phá vỡ rào ngăn đã đạt đến kết quả hành giả sẽ đắc định theo cách đã tả trong phần Kasiṇa đất không khó khăn nhờ đào luyện, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy.

Ở điểm này hành giả đã đắc sơ thiền, từ bỏ năm yếu tố, có được năm yếu tố, tốt đẹp ở ba phương diện, có mười đặc tính, và câu hữu với từ. Và khi thiền này đã đạt được thì do tu tập, đào luyện, làm cho sung mãn tướng ấy, hành giả tuần tự đắc nhị thiền, tam thiền trong hệ thống bốn thiền, và nhị, tam, tứ thiền trong hệ thống năm thiền.

(Kinh văn và luận giải)

44. Bấy giờ, chính là với những thiền khởi từ sơ thiền, mà vị Tỷ-kheo ấy “An trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, trên, dưới, bốn bên; cùng khắp thế giới bình đẳng, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, chan chứa, cao cả, vô biên, không hận, không não” (Vibh 272; D I 250). Vì tính cách rộng rãi này chỉ phát sinh ở nơi một người tâm đã đắc định sơ thiền và các thiền còn lại.

45. Với tâm câu hữu với từ: tâm có từ. Một phương: bất cứ hướng nào trong đó hành giả trông thấy một chúng sanh đầu tiên, và (tâm từ) lan khắp đến những chúng sinh gồm trong phương ấy. Biến mãn: chạm đến làm thành đối tượng của vị ấy. Trú: làm phát sinh một chỗ trú, (một tương tục trong bốn uy nghi) dành cho các phạm trú.

46. (lược) Bốn bên: là những phương trung gian. Cứ thế hành giả để cho tâm sung mãn đức từ rải rắc qua lại khắp mọi hướng như một con ngựa trong trường đua. Cho đến điểm này, sự gieo rắc tâm từ còn chỉ rõ từng phương hướng riêng biệt.

47. Cùng khắp thế giới v.v... Chỉ sự biến mãn tâm từ không giới hạn. Bình đẳng: là đối với tất cả, hạng hạ, trung thượng, người bạn, kẻ thù, người dưng v.v... như với chính bản thân. Hoặc còn có nghĩa là với tất cả tâm hồn mình (nguyên văn: sabbattāya: với tất cả bản thân, hết mình) không chừa một chút gì sót lại mà không thấm nhuần bởi tâm từ.

48. Biến mãn với tâm từ: được lặp lại ở đây để dẫn các tiếng đồng nghĩa sau: quảng đại v.v... Hoặc, nó được lặp lại vì không có hai tiếng “cũng vậy” như trong trường hợp sự biến mãn có định hướng trước đó. Hoặc lặp lại để làm kết luận. Chan chứa, tràn trề, trong sự biến mãn. Cao cả là chỉ về bình diện, từ bình diện dục giới mà biến mãn tâm từ lên đến sắc giới. Vô lượng: do sự quen thuộc (trong việc biến mãn) và do lấy vô lượng chúng sanh làm đối tượng. Không hận do từ bỏ ác tâm và sân hận, không não là do từ bỏ buồn phiền đau khổ.

49. Và cũng như tính cách quảng đại này chỉ thành công với một người mà tâm đã đắc định, tính cách rộng lớn được nói trong Paṭisambhidā cũng cần được hiểu là chỉ thành công nơi một người đã đắc định.

50. “Từ tâm giải thoát được tu tập biến mãn không giới hạn bằng 5 cách, ấy là: mong rằng tất cả hữu tình thoát khỏi hận thù ưu não và sống hạnh phúc. Mong rằng tất cả loài có hơi thở... tất cả sinh vật... tất cả mọi người... tất cả những gì có một nhân cách, đều được thoát khỏi hận thù, ưu não và sống hạnh phúc” (Paṭis II 130).

51. Từ tâm giải thoát được tu tập với sự biến mãn có từng bộ loại bằng 7 cách: “Mong tất cả nữ nhân thoát khỏi hận thù, ưu não và sống hạnh phúc. Mong tất cả nam nhân... tất cả bậc Thánh... phi Thánh... tất cả chư thiên... tất cả loài người... tất cả chúng sanh ở những đọa xứ được thoát khỏi hận thù ưu não và sống hạnh phúc” (Paṭis II 131).

52. Từ tâm giải thoát được tu tập biến mãn theo từng phương hướng có 10 cách: Mong rằng tất cả chúng sanh ở phương đông thoát khỏi hận thù, ưu não, và sống hạnh phúc. Mong rằng chúng sanh ở phương tây... phương bắc... phương nam... phương trung gian về đông... phương trung gian về tây... phương trung gian về nam... phương trung gian về bắc... phương dưới... phương trên... thoát khỏi hận thù ưu não và sống hạnh phúc. Mong rằng tất cả những vật có thở phương đông... Mong rằng tất cả sinh vật phương đông... Mong rằng tất cả người ở phương đông... Mong rằng tất cả những gì có nhân cách ở phương đông...(v.v.)... ở phương trên được giải thoát khỏi hận thù, ưu não và sống hạnh phúc. Mong rằng tất cả đàn bà ở phương đông... Mong rằng tất cả đàn ông ở phương đông... Mong rằng tất cả Thánh giả phương đông... Mong tất cả Phi Thánh ở phương đông... Mong rằng chư thiên phương đông... Mong tất cả loài người ở phương đông... Mong rằng tất cả chúng sanh trong đọa xứ ở phương đông... (v.v.)... được thoát khỏi hận thù, ưu não và sống hạnh phúc” (Paṭis II 131).

53. Ở đây, tất cả là không chừa sót một ai. Chúng sanh hay hữu tình: dịch từ satta, bị giữ lại, hay bị tóm lấy (visatta) bởi dục và tham đối với năm uẩn, khởi đầu là sắc, nên gọi là satta (hữu tình). Vì Đức Thế Tôn dạy như sau: “Này Rādha, phàm dục nào đối với sắc, tham nào đối với sắc, phàm thích thú nào trong đó, khát ái nào đối với nó, đã nắm giữ (satta) nó, tóm lấy nó (visatta), đó là lý do một hữu tình (satta) được gọi"( S III 190). Nhưng trong ngôn ngữ thông thường, danh từ cũng dùng để gọi những người không tham, (lược).

54. Vật có thở (pāṇa) được gọi như thế là vì hiện hữu của chúng tùy thuộc vào hơi thở vô hơi thở ra. Hữu tình (bhūta) vì có hiện hữu (bhūtatta: sự trở thành) có trở thành (sambhūtatta) được sinh ra (abhinibbattatta) Người (puggala) “puṃ” là tên gọi địa ngục. Có nghĩa là chúng đọa (galanti) vào địa ngục, nên gọi là puggala (bố đặc già la). Tự ngã (attabhāva) là tên gọi cái thân vật lý; hay cả ngũ uẩn, vì đó kỳ thực chỉ là một khái niệm xuất phát từ năm uẩn (mặc dù trong nghĩa tối hậu, thì ngã tính ấy hoàn toàn không).

55. Và tất cả những danh từ còn lại cần được hiểu như là đồng nghĩa với “tất cả chúng sanh” theo ngôn ngữ thông dụng. Dĩ nhiên còn nhiều tiếng đồng nghĩa khác, nhưng vì để sáng sủa rõ ràng mà từ tâm giải thoát được tu tập bằng cách biến mãn không giới hạn theo 5 cách đã nói, và chỉ nói đến 5 cách ấy mà thôi (nghĩa là satta, pana, bhūta, puggala, và attabhāva).

56. Những người cho rằng không những chỉ có sự sai biệt trên ngôn từ giữa những tiếng “chúng sanh” có hơi thở... mà còn có sự khác biệt thực sự trong ý nghĩa, sẽ thấy đoạn đề cập đến sự biến mãn không phân loại, vô hạn, đã xác chứng ngược lại. Bởi thế, thay vì hiểu theo cách đó sự biến mãn vô giới hạn từ tâm giải thoát được thực hiện đối với bất cứ cách nào trong 5 cách trên đều được cả.

Và ở đây, “mong rằng tất cả chúng sanh thoát khỏi hận thù” là một định an chỉ (absorption, appaṇā) thoát khỏi ưu (abyābajjha) là một an chỉ, và thoát khỏi não là một an chỉ, “mong rằng chúng sống hạnh phúc” là một an chỉ. Do đó hành giả nên tu tập biến mãn từ tâm với bất cứ câu nào trong đó mà hành giả cho là sáng sủa rõ ràng. Bởi thế với bốn loại định trong mỗi một cách của 5 cách, có tất cả 20 thứ định ở trong sự tu tập biến mãn không giới hạn.

57. Trong sự biến mãn có phân loài, với bốn thứ an chỉ định trong mỗi cách thuộc bảy cách, thì có 28 thứ định an chỉ (absorption). Và ở đây, nam, nữ là nói theo phái tính; Thánh, phi Thánh là chỉ Thánh và phàm; chư thiên, người và chúng sanh ở đọa xứ là nói theo các loại tái sanh.

58. Trong sự biến mãn theo phương sở, với 20 thứ định trong mỗi phương, thì có 200 thứ định; và với 28 thứ mỗi phương thì có 280 thứ làm thành 480. Do đó, tất cả thứ định đề cập trong Paṭisambhidā lên đến 528 thứ.

59. Bởi vậy, khi thiền giả tu tập từ tâm giải thoát do bất cứ một loại định nào trong số đó, thì sẽ có được 11 lợi ích đã nói ở đoạn 37, bắt đầu là ngủ trong an lạc.

60. Ở đây, ngủ yên có nghĩa là thay vì ngủ một cách trằn trọc, quay qua quay lại và ngáy như người thường làm, vị ấy ngủ thoải mái, đi vào giấc ngủ như đi vào thiền chứng.

61. Thức trong an lạc: thay vì thức dậy một cách bực dọc, càu nhàu, ngáp dài và quay qua lại như người khác vị ấy trở dậy một cách an lạc không nhăn nhó, như một đóa sen nở.

62. Vị ấy không chiêm bao ác mộng: Khi nằm mộng vị ấy chỉ có những mộng lành, như là mộng lễ bái điện thờ Phật, cúng dường, nghe pháp. Vị ấy không thấy mộng dữ như người thường, như thấy bị giặc vây, bị thú dữ dọa dẫm hay thấy té xuống vực sâu. (xem Ch.14, đ.45)

63. Vị ấy được người yêu mến: vị ấy được loài người yêu mến quí chuộng như chuỗi đeo cổ, như tràng hoa trang sức trên đầu.

64. Vị ấy được phi nhân yêu mến: được phi nhân, không phải người cũng yêu mến vị ấy như loài người yêu mến. Như trưởng lão Visākha. Truyện kể rằng: “Ngài vốn là một vị địa chủ sống ở Pāṭalīputta (Patna). Khi còn ở đây, vị ấy nghe đồn: Ðảo Tambapaṇṇi (Tích Lan) được trang hoàng bằng một dãi điện đài thờ Phật và rực rỡ bóng hoàng y, ở đấy người ta có thể ngồi hay nằm chỗ nào tùy thích, khí hậu dễ chịu, trú xứ tiện nghi, dân chúng dễ chịu và tất cả mọi điều dễ chịu ấy có thể đạt được dễ dàng tại đấy.”

65. Vị ấy giao tài sản lại cho vợ con và chỉ đem một đồng “ducat” may vào chéo áo rời nhà ra đi. Vị ấy dừng lại bên bờ biển một tháng để chờ tàu, trong thời gian ấy, với tài khéo trong việc buôn bán, vị ấy làm ra 1000 đồng.

66. Cuối cùng vị ấy đi đến ngôi đại tự ở Anurādhapura, và xin xuất gia. Khi được đưa đến nhà đại chúng nhóm họp (Sīmā) để làm lễ xuất gia, cái túi đựng một ngàn đồng vàng rơi khỏi thắt lưng vị ấy. Khi được hỏi “Cái gì đó?”, vị ấy đáp: “Bạch chư đại đức, đấy là một ngàn tiền vàng.” Ðại chúng bảo ông: “Này cư sĩ, sau lễ xuất gia, thì không thể phân phát chúng được nữa. Hãy phân phát ngay bây giờ đi.” Vị ấy nói: Hãy đừng để cho một ai đến dự lễ xuất gia của Visākha này ra về với bàn tay trắng.” rồi mở túi vải ra giữa sân chùa mà bố thí tất cả tiền ấy. Sau đó vị ấy làm lễ xuất gia, và thọ giới cụ túc.

67. Sau khi xuất gia được 5 năm, đã quen thuộc với hai bộ luật (Ch. III, 31), vị ấy làm lễ tự tứ cuối mùa an cư (vào mùa mưa), xin một đề mục thiền thích hợp và khởi sự du phương, ở mỗi tu viện bốn tháng, làm tất cả các phận sự trong chùa giống như những thường trú tăng tại mỗi nơi. Trong khi du phương như vậy, vị đại đức dừng lại trong một khu rừng để xét lại con đường đã đi; ngài thốt lên bài kệ sau đây tuyên bố rằng nó thật tốt đẹp:

“Từ lúc thọ cụ túc
cho đến lúc dừng đây
Không lỗi Sa-môn hạnh
Hãy hoan hỷ điều này.”

68. Trên đường đi đến Cittalapabbata, ngài gặp một ngã ba và đứng đấy không biết rẽ lối nào. Khi ấy một vị trời sống trong hang đá đưa ra một tay chỉ đường cho Ngài đi.

69. Ngài đến tu viện Cittapabbata. Sau khi ở đấy bốn tháng, vị ấy nằm nghĩ: “Ngày mai ta sẽ ra đi”. Rồi một vị thần sống trong một cây “Maṇila” ở cuối đường đi kinh hành, ngồi trên một bực thềm mà khóc. Vị trưởng lão hỏi “Ai đấy?” — “Con đây, Maṇiliyā, bạch đại đức” — “Tại sao con khóc?” — “Vì ngài sắp đi xa” — “Ta ở đây có lợi gì cho ngươi?” — “Bạch đại đức trong khi ngài ở, các phi nhân ở đây đối xử với nhau ôn hòa tử tế. Bây giờ ngài đi, thì chúng sẽ khởi sự gây lộn và nói tục.” Vị đại đức bảo: “Nếu sự sống của ta làm cho các ngươi an vui, thì tốt” và ngài lưu lại bốn tháng nữa, và lại nghĩ đến chuyện ra đi. Vị thần lại khóc như trước. Bởi thế ngài tiếp tục sống ở đấy, và chính nơi ấy ngài đã nhập Niết Bàn.

Một Tỷ-kheo an trú tâm từ được phi nhân yêu mến là như vậy.

70. Chư thiên hộ trì vị ấy: như cha mẹ bảo hộ con.

71. Lửa, độc chất và khí giới không hại được vị ấy: không xâm nhập cơ thể của người an trú tâm từ, như ngọn lửa đối với tín nữ Uttarā (Ch. XII, 34), như độc chất với trưởng lão Cūḷa-Sīva người tụng Tương Ưng Bộ Kinh, như con dao trong trường hợp chú tiểu Saṅkicca.

72. Lại có câu chuyện về con bò mẹ đang cho con bú. Một thợ săn nghĩ, ta sẽ bắn nó, và ném vào nó một cái chĩa dài cán. Nó chạm đến thân bò cái nhưng văng đi như một ngọn lá. Ðó không phải nhờ định an chỉ hay cận hành gì nơi bò cái, mà chỉ nhờ từ tâm của nó đối với con bê. Tâm từ có mãnh lực lớn lao như vậy.

73. Tâm vị ấy dễ tập trung: Tâm của một vị an trú tâm từ thì mau định, không có giải đãi lừ đừ.

74. Vẻ mặt khinh an: mặt vị ấy biểu lộ sự bình an.

75. Vị ấy chết không tán loạn: Với người an trú từ tâm, chết không mê loạn, như đi vào giấc ngủ.

76. Nếu vị ấy không thâm nhập cái gì cao hơn: nếu không thể đạt đến một trình độ cao hơn (sự an trú tâm từ) để chứng A-la-hán quả, thì khi hết đời này, vị ấy tái sinh vào Phạm thiên giới như người thức dậy từ một giấc ngủ.

Trên đây là giải thích chi tiết về tu tâm từ.

(2) Bi

77. Một người muốn tu tập tâm bi cần phải khởi đầu bằng sự quán sát nguy hiểm trong sự thiếu tâm bi và lợi ích của tâm bi.

Và lúc mới khởi sự quán sát như vậy, hành giả không nên hướng tâm đến người thân v.v... trước; bởi vì người thân thì chỉ giữ nguyên địa vị một người thân, người bạn rất thân chỉ giữ nguyên địa vị một người bạn rất thân, người dửng dưng vẫn chỉ nguyên vẹn là một người dưng, một người khó ưa cũng chỉ vẫn là một kẻ khó ưa, và một người thù thì chỉ vẫn là một kẻ thù. Một người đã chết và một người khác phái cũng không phải là lĩnh vực cho việc tu tập ban sơ này.

78. Trong Vibhaṅga có nói: “Và thế nào một Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với Bi? Cũng như vị ấy sẽ cảm thấy thương xót khi nhìn một người thiếu may mắn, bất hạnh. Cũng thế, vị ấy biến mãn tất cả chúng sanh với tâm bi” (Vibh 273). Bởi thế trước hết, khi thấy Một người khốn nạn, không may, bất hạnh, đáng thương xót về mọi phương diện, một người không đẹp mắt, bị dồn đến tình trạng khốn khổ tột cùng tay và chân đều cụt hết, ngồi trong chỗ dành cho người tàn tật, với một cái rổ để trước mặt, một bầy ruồi nhặng ùa lên từ tay chân anh ta, và thấy anh ta đang rên siết, thì tâm bi mẫn nên khởi lên đối với nạn nhân như sau: Khổ thay vị chúng sanh này, mong sao vị ấy có thể thoát khỏi đau khổ này.”

Nhưng nếu hành giả không gặp một người như thế, thì hành giả có thể khởi bi tâm với một người làm ác, mặc dù người ấy đang sung sướng, bằng cách so sánh y với với một người sắp bị hành hình. Như thế nào?

79. Giả sử một kẻ trộm cướp đã bị bắt quả tang với những vật trộm, và tuân lệnh vua xử trảm, lính của vua trói và dẫn y đến nơi hành quyết. Người ta cho y những đồ ăn để nhai, cho cả tràng hoa và hương liệu, dầu và cau trầu. Mặc dù y vừa đi dọc đường vừa thưởng thức những thứ ấy, làm như thể y đang sung túc vui vẻ nhưng không ai nghĩ rằng y thực sự hạnh phúc khá giả. Trái lại, người ta cảm thấy thương xót đối với y, nghĩ rằng: “Cái tên khốn nạn này sắp sửa chết, mỗi bước y đang đi là một bước gần đến chỗ chết hơn nữa.” Cũng thế, một Tỷ-kheo lấy tâm bi làm đối tượng thì nên khởi bi tâm đối với một kẻ làm ác, dù là nó đang hạnh phúc: “Mặc dù kẻ khốn nạn này hiện giờ đang hạnh phúc, vui vẻ hưởng thụ tài sản y, nhưng vì y không làm được một thiện hành nào về thân, ngữ, ý trong hiện tại, y sẽ đi đến cái khổ không nói được ở trong các đọa xứ.”

80. Sau khi đã khởi bi tâm đối với người ấy như trên, kế đó hành giả nên khởi bi tâm đối với một người thân rồi đối với một người dửng dưng, và đến một kẻ thù, tuần tự theo cách ấy.

81. Nhưng nếu hiềm hận đối với kẻ thù khởi lên như đã nói trước đây, thì hành giả nên làm cho nó lắng dịu với phương pháp mô tả dưới đề mục Từ (đoạn 14-39). Và ở đây cũng thế, khi một người đã làm những hành vi thiện, và thiền giả thấy hay nghe người ấy đã bị rơi vào một trong những loại phá sản, khởi đầu là phá sản về sức khỏe, quyến thuộc, tài sản v.v... người ấy đáng gợi lòng bi mẫn của thiền giả, nhưng dù không bị bất cứ sự phá sản nào trong loại trên, thì người ấy vẫn được xót thương như sau: “Thật sự người ấy bất hạnh, vì không thoát khỏi khổ luân hồi. Và theo cách đã trình bày, hành giả nên phá vỡ những rào ngăn giữa bốn hạng người, ấy chính là bản thân, người thân, người dửng dưng và kẻ thù. Rồi tu tập đào luyện tướng bi ấy, làm cho nó sung mãn, hành giả nên tăng cường định bằng tam thiền và tứ thiền theo cách đã nói trong phần Từ.

82. Nhưng theo thứ tự trong Luận sớ về Tăng Chi Bộ thì kẻ thù nên được lấy làm đối tượng đầu tiên cho tâm bi, và khi tâm đã được làm cho nhu nhuyễn đối với người ấy, thì kế đó trải tâm bi đến người bất hạnh, rồi người thân, rồi tới chính mình (đoạn 78). Bởi vậy hành giả nên khởi sự tu tập, phá bỏ những rào ngăn, và tăng cường định bằng cách mô tả ở đây mà thôi.

83. Sau đó, sự biến mãn một cách quảng đại là biến mãn không phân biệt các loài theo năm cách, biến mãn có phân loài theo bảy cách, và sự biến mãn về phương sở theo mười cách, và những lợi lạc như ngủ yên v.v... cần được hiểu ở đây theo cách đã nói trong phần tu tập Từ.

Ðấy là giải thích chi tiết về sự phát triển tâm Bi.

(3) Hỷ

84. Một người khởi sự tu tập tâm hỷ không nên bắt đầu với người thân và ba hạng kia, vì một người thân không phải là nhân gần của hỷ chỉ vì sự thân mến, còn nói chi đến người dưng và kẻ thù. Người khác phái và người đã chết cũng không thuộc lĩnh vực quán hỷ tâm.

85. Tuy nhiên, một người bạn rất thân có thể là nguyên nhân gần cho hỷ — người mà Luận gọi là “người bạn tốt”; vì người ấy luôn luôn vui vẻ: anh ta cười cái đã, rồi mới nói sau. Bởi thế, người ấy nên làm đối tượng đầu tiên để biến mãn tâm hỷ. Hoặc khi thấy hay nghe một người thân được hạnh phúc, vui vẻ, hài lòng, thì hỷ có thể được khởi lên như sau: “Thật vui, thật tốt, thật tuyệt” Vì Vibhaṅga nói: “Và thế nào một Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ? Cũng như khi thấy một người thân yêu, hành giả sẽ sung sướng, cũng vậy, hành giả biến mãn tất cả chúng sinh với tâm hỷ ấy” (Vibh 274).

86. Nếu người bạn tốt hay người thân của hành giả trong quá khứ thì hạnh phúc mà hiện tại đang khổ sở bất hạnh, thì hỷ vẫn có thể được khởi lên bằng cách nhớ lại hạnh phúc đã qua của người ấy và quán tưởng hỷ như sau: “Trong quá khứ, anh ta giàu có, nhiều quyến thuộc tùy tùng, và luôn luôn vui vẻ”. Hoặc, hỷ có thể được khởi lên bằng cách quán tưởng hỷ nơi vị ấy trong tương lai như: “Trong tương lai, anh ta lại hưởng được sự thành công như thế, sẽ được cỡi trên lưng voi, lưng ngựa có tàng lọng che v.v...”

Sau khi đã khởi tâm hỷ đối với một người thân, hành giả có thể hướng tâm ấy tuần tự đến một người không thân không thù (dửng dưng) rồi đến một người thù.

87. Nhưng nếu niềm hận khởi lên nơi hành giả khi nhớ đến kẻ thù, thì nên làm nó lắng xuống theo cách đã nói trong phần quán Từ tâm (đoạn 14-39).

Hành giả nên phá rào ngăn bằng tâm bình đẳng trải khắp cả bốn người, nghĩa là ba người trên đây và chính mình. Do tu tập, đào luyện tướng ấy, thường xuyên luyện tập nó, hành giả nên tăng cường định cho đến tam thiền, tứ thiền như đã tả dưới đề mục Từ.

Kế tiếp, tính cách quảng đại, tức sự biến mãn hỷ tâm không phân loài trong năm cách, có phân loài theo bảy cách, và sự biến mãn có tính cách phương sở theo mười cách, cùng với những lợi ích “ngủ yên” v.v... cần được hiểu tương tự như đã nói trong phần quán tâm từ.

Trên đây là giải thích chi tiết về sự tu tập tâm Hỷ.

(4) Xả

88. Một người muốn tu tâm xả cần phải đắc tam thiền hay tứ thiền về quán tâm từ, bi, hỷ. Hành giả nên ra khỏi tam thiền (trong tứ thiền) sau khi đã quen thuộc với thiền này, và cần thấy rõ nguy hiểm trong ba phạm trú trước, bởi vì chúng liên kết với sự chú ý vào hạnh phúc của chúng sanh khi nghĩ: “Mong rằng chúng được hạnh phúc” bởi vì chúng gần gũi với ưa và ghét, và vì sự liên kết với hoan hỷ trong ba thiền đầu là thô. Và hành giả cũng cần thấy sự lợi lạc trong xả, vì nó an bình. Rồi, hành giả hãy khởi tâm xả bằng cách nhìn với xả, một người không thân không thù. Sau đó với xả nhìn một người thân v.v... Vì như Luận nói: “Và thế nào một Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả? Cũng như vị ấy cảm thấy bình thường (xả) khi trông thấy một người không thương không ghét, cũng vậy, vị ấy biến mãn tất cả chúng sanh với tâm xả” (Vibh 275).

89. Bởi thế hành giả nên khơi dậy tâm xả đối với người dưng theo cách đã nói. Rồi, qua người dưng ấy, hành giả nên phá những rào ngăn trong mỗi trường hợp giữa ba hạng người là người thân, người bạn tốt và kẻ thù, rồi cuối cùng là chính bản thân. Và hành giả nên tu tập tướng ấy, đào luyện, làm cho sung mãn.

90. Và khi hành giả làm như thế, tứ thiền khởi lên nơi hành giả theo cách đã nói trong phần Kasiṇa đất. Nhưng khi ấy thì sao? Tứ thiền có khởi lên nơi một người đã đắc tam thiền về Kasiṇa đất không? Trả lời là không. Tại sao? Vì đối tượng không giống nhau. Nó chỉ khởi lên nơi một người mà tâm thiền đã đắc với pháp quán từ, bi, hỷ, bởi vì đối tượng tương tự.

Nhưng tính cách quảng đại, lợi lạc cần được hiểu theo cách đã nói trong phần quán tâm TỪ.

Ðây là giải thích chi tiết về sự tu tập XẢ.

(Tổng Quát)

91.

Sau khi biết bốn phạm trú
Do bậc đại Thánh nói ra
Còn giải thích tổng quát này
hành giả nên công nhận

(Ý Nghĩa)

92. Trước hết là ý nghĩa của từ, bi, hỷ, xả. Nó tan ra (mejjati): nên gọi từ (loving-kindness) (mettā), có nghĩa là nó có năng lực hòa tan (solvent) (siniyhati). Lại nữa, nó phát sinh đối với một người bạn (mitta), hoặc đó là lối xử sự đối với một người bạn, nên gọi là từ (mettā).

Khi có sự đau khổ nơi những người khác, thì điều ấy làm cho (karoti) trái tim người hiền thiện xúc động (kampana), nên đó là sự bi mẫn (compassion) (karuṇā). Hoặc, nó đánh bạt (*) nỗi đau khổ của người khác, tấn công và tiêu hủy nó, nên gọi là bi. Hoặc nó rải rác (kiriyati) trên những người đau khổ, trải đến chúng bằng sự biến mãn nên gọi là bi (karuṇā).

[(*) kiṇāti: đánh, không có trong tự điển PTS]

Những người có được tâm trạng này thì vui vẻ (glad) (modanti), hoặc chính nó là vui (modati), sự vui vẻ (modana), gọi là hỷ (gladness) (muditā).

Tâm này nhìn (upekkhati) một cách thản nhiên từ bỏ những sự bận tâm như: “Mong rằng chúng thoát khỏi hận thù”, nhờ có tính bình đẳng, gọi là xả (equanimity) (upekkhā).

(Ðặc Tính v.v...)

93. Về đặc tính v.v... thì từ ở đây có đặc tính là đem lại sự an lạc (Thể). Nhiệm vụ nó là thích an lạc (Dụng). Tướng của nó được biểu hiện bằng sự xóa bỏ ưu phiền. Nhân gần của nó là sự thấy khía cạnh đáng yêu ở trong chúng sinh. Nó thành công khi làm cho ác tâm (sân) lắng dịu, và nó thất bại khi phát sinh lòng yêu ích kỷ, vị ngã.

94. Bi có đặc tính là đem lại sự giảm khổ. Nó có nhiệm vụ là không chịu được nỗi khổ của người khác. Nó được biểu hiện bằng sự không tàn bạo. Nhân gần của nó là thấy sự khốn đốn nơi những người ngập tràn nỗi thống khổ. Nó thành công khi nó làm cho sự tàn bạo hạ xuống, và nó thất bại khi làm cho phát sinh buồn khổ.

95. Hỷ có đặc tính là vui mừng trước sự thành công của người khác. Nhiệm vụ nó là không ganh tị. Nó được biểu hiện bằng sự từ bỏ nỗi chán ghét. Nó có nhân gần là sự trông thấy thành công của người. Nó thành công khi làm cho sự chán ghét tiêu tan, và nó thất bại khi nó làm phát sinh sự vui nhộn.

96. Xả đặc tính là phát triển tính thản nhiên đối với hữu tình. Nhiệm vụ nó là thấy sự bình đẳng trong chúng sinh. Nó biểu hiện bằng sự bặt dứt thân thù. Nhân gần của nó là thấy rõ chủ nhân của nghiệp như sau: “Chúng sinh là chủ nhân của ngiệp chúng. Ai chọn lựa, nếu không phải chính chúng, để được hạnh phúc, để được thoát khổ, hay để khỏi mất sự thành công mà mình đã đạt tới?” Tâm xả này thành công khi nó làm cho ghét và ưa lắng xuống, nó thất bại khi nó phát sinh cái bình thản của vô trí, mà chính là cái thờ ơ do ngu si của phàm phu có căn đế là đời sống tại gia.

(Mục Ðích)

97. Mục đích tổng quát của bốn phạm trú này là sự an lạc của tuệ giác và một hình thức tái sinh tốt đẹp trong tương lai. Mục đích riêng biệt của từng phạm trú là: (theo thứ tự) từ bỏ sân v.v... Vì ở đây, Từ có mục đích là dẹp tâm sân, Bi ngăn tâm tàn ác, Hỷ trừ tâm chán ghét, Xả trừ tâm hận và tham. Vì kinh dạy: “Này chư hiền, đây là lối thoát khỏi sân, đó là từ tâm giải thoát... Ðây là lối thoát khỏi tàn hại tâm, tức bi tâm giải thoát... Ðây là lối thoát khỏi chán ghét, này chư hiền, đó là hỷ tâm giải thoát. Ðây là lối thoát khỏi tham, này chư hiền, đó là xả tâm giải thoát” (D III 248).

(Những Kẻ Thù Gần Và Xa)

98. Và ở đây, mỗi thứ có hai kẻ thù, một gần một xa. Phạm trú từ có tham là kẻ thù gần, vì cả tham lẫn từ có chung một đặc điểm là chỉ thấy những cái tốt. Tham (đối với từ) như một kẻ thù theo sát nút, và để tìm một cơ hội. Bởi thế, từ cần được phòng vệ kỹ khỏi tham. Và sân ngược với từ, là kẻ thù xa của từ, như một kẻ thù nấp trong một hốc đá trong rừng hoang. Bởi thế từ cần phải được tu tập khi đã hoàn toàn hết cái nguy cơ nổi sân. Vì không thể nào vừa tu tâm từ mà đồng thời cảm thấy giận dữ nổi lên (xem D III 247-48).

99. Bi có kẻ thù gần là nỗi buồn liên hệ tại gia, vì cả hai có chung một điểm là thấy nỗi khổ. Sự buồn bã này đã được tả như sau: “Khi một người cảm thấy mất mát vì không được các sắc do mắt nhận thức, các sắc khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, liên hệ đến thế vật, hoặc vì nhớ lại các sắc ngày xưa đã được mà nay đã qua, đã diệt, đã biến đổi, thì buồn khổ khởi lên trong nó. Loại buồn khổ (ưu) như vậy được gọi là ưu liên hệ tại gia” (M III 218). Và sự tàn bạo, không như nổi buồn tương tự với bi, là kẻ thù xa của nó. Bởi vậy, bi cần được tu tập tránh xa nguy cơ tàn bạo, vì không thể nào tu tập bi mà đồng thời lại tàn hại đối với chúng sanh.

100. Hỷ có niềm vui liên hệ tại gia là kẻ thù gần, vì cả hai đều chung đặc tính là thấy sự thành công. Hỷ liên hệ tại gia được nói đến như sau: “Khi một người cảm thấy lợi lạc, khi nhận được các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, liên hệ đến thế vật, hoặc nhớ lại các sắc mà ngày xưa nó đã được mà nay đã qua, đã chấm dứt, đã biến đổi, hỷ khởi lên trong nó. Loại hỷ như vậy gọi là hỷ liên hệ tại gia” (M III 217). Và sự thù ghét, không giống như niềm vui, tương tự với hỷ chính là kẻ thù xa của nó. Bởi vậy, hỷ cần phải được tu tập không có mặt của nguy cơ thù ghét, vì không thể tu tập hỷ mà đồng thời lại bất mãn đối với những trú xứ xa xôi và những vật liên hệ đến tăng thượng thiện (higher-profitableness).

101. Xả có xả do vô tri liên hệ đến đời sống tại gia là kẻ thù gần, vì cả hai đều có chung một đặc tính là không biết đến xấu tốt. Sự vô tri đó được nói đến như sau: “Khi một người ngu si, ám độn, kẻ vô văn, phàm phu, thấy sắc với con mắt, xả khởi lên (vì nó) không chinh phục được phiền não, không chinh phục được quả dị thục, không thấy nguy hiểm. Loại xả ấy không vượt khỏi sắc pháp. Xả như vậy được gọi là xả liên hệ tại gia” (M III 219). Và tham cùng ghét, không giống như sự vô tri tương tự với xả, là kẻ thù xa của nó. Bởi thế, xả cần được tu tập không có nguy cơ ưa ghét. Vì không thể đồng thời nhìn với xả mà lại vừa bốc cháy bởi tham hay sân.

(Chặng Ðầu, Chặng Giữa, Chặng Cuối)

102. Sự hăng hái muốn thực hành là chặng đầu của tất cả mọi sự nói trên. Sự trừ khử các triền cái v.v... là chặng giữa. Ðịnh là chặng cuối. Ðối tượng của chúng là một hay nhiều chúng sinh kể như một đối tượng tâm pháp.

(Thứ Tự Trải Rộng)

103. Sự mở rộng đối tượng bắt đầu ở cận hành định hay an chỉ định. Ðây là thứ tự mở rộng: Giống như một người cày thiện xảo trước hết vạch ranh giới một khoảnh đất rồi mới khởi sự cày, cũng thế, trước tiên hãy định giới hạn một nhà và tập trải tâm từ đến tất cả những người ở trong nhà ấy, theo cách khởi đầu là: “Trong nhà này (trú xứ này), mong rằng tất cả chúng sinh thoát khỏi thù hận”. Khi tâm đã được nhu nhuyễn dễ sử dụng đối với nhà ấy, hành giả có thể giới hạn đến hai nhà, kế tiếp lần lượt đến ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười nhà, một con đường, nửa khu làng, toàn làng, một vùng, một xứ xở, một phương và như vậy leo lên cho đến một thế giới, hay ngoài phạm vị ấy nữa, trải tâm từ đến những chúng sanh trong những phạm vi như thế. Cũng vậy với bi v.v... Ðây là thứ tự trong sự mở rộng.

(Kết Quả)

104. Như các vô sắc là kết quả của thiền quán về các biến xứ (Kasiṇa), và phi tưởng phi phi tưởng xứ là kết quả của định, và sự đắc quả là kết quả của tuệ và sự đạt tịch diệt là kết quả của định và tuệ, cũng vậy phạm trú xả là kết quả của ba phạm trú từ, bi, hỷ. Vì, giống như những cái rui nhà không thể được gát trong hư không nếu trước hết không dựng giàn và cột, kèo. Cũng vậy, không thể phát triển tứ thiền trong những phạm trú này nếu chưa tu tập tam thiền về chúng.

(Bốn Câu Hỏi)

105. Có thể đặt câu hỏi: Tại sao từ, bi, hỷ, xả được gọi là bốn phạm trú (brahmavihāratā)? Tại sao chỉ có bốn? Thứ tự chúng ra sao? Tại sao chúng được gọi là “vô lượng” trong Abhidhamma?

106. Có thể trả lời: Phạm trú ở đây cần được hiểu là tốt nhất, vô cấu. Vì những “trú” này tốt nhất ở chỗ đó là thái độ thích nghi đối với chúng sanh. Và cũng như những vị trời Phạm thiên trú với tâm vô nhiễm, thiền giả liên hệ đến những trú này cũng an trú ngang hàng với các hàng Phạm thiên. Do đó, chúng được gọi là phạm trú theo nghĩa “tốt nhất” và “vô cấu”.

107. Và đây là những giải đáp cho những câu hỏi: Tại sao chúng chỉ có bốn?

Có bốn là do những đạo lộ đưa đến thanh tịnh
Và các bộ bốn pháp khác, thứ tự chúng là
Sự an lạc, vân vân...
Phạm vi chúng được thấy là
Vô lượng, nên chúng là “Vô lượng”.

108. Vì trong bốn trú này, Từ là phương pháp đưa đến thanh tịnh đối với một người nhiều sân (ác ý), Bi dành cho người nhiều tàn bạo, Hỷ cho người nhiều chán ghét, bực dọc và Xả cho người nhiều tham dục. Lại nữa, sự lưu tâm đến chúng sanh cũng chỉ có bốn mặt, ấy là đem lại an lạc, tẩy trừ đau khổ, vui trước sự thành công của chúng, và không bận tâm, tức vô tư hay xả. Và một người trú trong bốn Vô lượng cần tu tập từ, bi, hỷ, xả giống như một người mẹ có bốn người con, một còn bé, một bị què, một đang độ thanh xuân, và một đang bận rộn với những công việc làm riêng của nó. Vì bà mẹ ấy muốn đứa bé lớn lên, đứa què được lành mạnh, đứa đang tuổi thanh xuân hưởng thụ lâu dài những lợi lạc của tuổi trẻ, và không bận tâm chút nào đến đứa đang lo công việc riêng của nó. Bởi lý do đó mà các tâm vô lượng chỉ có bốn, do đạo lộ đưa đến sự thanh tịnh v.v...

109. Và một người muốn tu tập bốn phạm trú này nên thực hành chúng trước hết là bằng cách tìm an lạc cho chúng sinh, vì đặc điểm của từ tâm chính là tâm cầu an lạc; kế đó, khi thấy hay nghe hay đoán rằng những kẻ mà mình đang cầu an lạc cho đó, đang bị đau khổ dày xéo, phạm trú nên thực hành là sự đưa đến cái việc tẩy trừ đau khổ - và bi có đặc tính ấy. Khi thấy sự thành công của những người mà mình cầu cho an lạc, và thấy sự hết khổ nơi những người mà mình cầu cho thoát khổ, thì phạm trú nên được thực hành là hỷ - và phạm trú hỷ có đặc tính ấy. Nhưng sau đó thì không còn gì phải làm, bởi thế phạm trú cần được thực hành là xả, nói cách khác, tình trạng của một người ngắm nhìn; và phạm trú xả có cái đặc tính ấy. Do vậy mà thứ tự của bốn phạm trú cần được đặc từ trước, rồi đến bi, hỷ và xả.

110. Tất cả bốn, tuy nhiên, phát sinh với một phạm vi vô lượng, vì phạm vi của chúng là vô lượng chúng sinh.

(Phát Sinh Tam Thiền Và Tứ Thiền)

111. Mặc dù chúng có một đặc tính duy nhất là có một phạm vi vô lượng, song ba phạm trú đầu chỉ thuộc thiền ba bậc (trong bốn thiền) và thiền bốn bậc (trong hệ thống năm thiền). Tại sao? Vì chúng không rời khỏi Hỷ. Nhưng tại sao mục đích của chúng không ra khỏi Hỷ? Bởi vì chúng là sự thoát khỏi ác ý (sân) v.v... vốn được phát sinh bởi đau khổ. Nhưng Xả thì chỉ thuộc vào thiền duy nhất còn lại. Tại sao? Vì nó liên hệ đến cảm thọ xả. Vì phạm trú Xả phát sinh trong khía cạnh bình thản đối với chúng sinh, thì không hiện hữu biệt lập với cảm thọ xả, tức không khổ không lạc.

112. Tuy nhiên, có người có thể nói: “Ðức Thế Tôn đã dạy trong chương tám pháp (Tương ưng), khi nói tổng quát về bốn vô lượng: ‘Kế tiếp, này các Tỷ-kheo, các ngươi hãy tu tập định có tầm tứ, và nên tu tập định không tầm có tứ, và các ngươi nên tu tập định không tầm tứ, và các ngươi nên tu tập định có hỷ, ... không hỷ, và các ngươi nên tu tập định câu hữu với lạc và định câu hữu với xả’ (A IV 300). Do đó cả bốn vô lượng đều có bốn thiền và năm thiền.”

113. Nên trả lời vị ấy như sau: “Ðừng nói như vậy, vì nếu sự tình là như vậy, thì quán thân v.v... cũng sẽ có bốn thiền và năm thiền. Nhưng không có dù chỉ là sơ thiền trong sự quán thọ hoặc hai nhóm kia (xem Ch. VIII, 43). Bởi vậy đừng hiểu lầm Đức Thế Tôn bằng cách bám lấy danh từ. Lời Đức Thế Tôn sâu xa, và nên được hiểu như ý định mà lời ấy muốn ám chỉ.”

114. Và ý định ở đây là: Lúc đó, Đức Thế Tôn được thỉnh cầu giảng Pháp như sau: “Bạch Đức Thế Tôn, lành thay, nếu Đức Thế Tôn giảng pháp cho con một cách vắn tắt, để sau khi được nghe Pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần” (A IV 299). Nhưng Đức Thế Tôn không tin tưởng vị Tỷ-kheo này cho lắm, bởi vì mặc dù nghe Pháp, vị ấy vẫn tiếp tục sống tại đấy thay vì đi làm phận sự của Sa-môn hạnh, và Đức Thế Tôn diễn tả sự thiếu tin tưởng của Ngài như sau: “Cũng thế có một số người lầm lạc chỉ hỏi Ta, và khi Pháp đã được giảng cho chúng, chúng vẫn nghĩ rằng chúng không cần theo ta” (A IV 299). Nhưng vị Tỷ-kheo này có hy vọng đắc A-la-hán quả, bởi vậy Ngài giáo giới ông thêm một lần nữa, bảo: “Bởi vậy, này Tỷ-kheo, ngươi cần phải học tập như sau: ‘nội tâm ta sẽ an trú, hoàn toàn vững trú, các ác bất thiện pháp đã khởi lên trong tâm sẽ không xâm chiếm tâm ta và ở đấy.’ Như vậy, này Tỷ-kheo, ngươi cần phải học tập” (A IV 299). Nhưng điều được nói trong lời khuyên này là định căn bản gồm trong chỉ một chuyện nhất tâm “ở bên trong” (Nội tâm) theo nghĩa trong chính bản thân (xem Ch. XIV, 75).

115. Sau đó, Ngài dạy cho vị Tỷ-kheo về cách tu tập định ấy bằng tâm từ, để chứng tỏ rằng: vị ấy không nên chỉ bằng lòng với bấy nhiêu là đủ, mà nên tăng cường định căn bản như sau: “Khi nào nội tâm của ngươi được an trú, khéo vững trú, các ác bất thiện pháp được sanh khởi không xâm chiếm được tâm ngươi, không có chân đứng. Khi ấy, này Tỷ-kheo, ngươi cần phải học tập như sau: ‘Từ tâm giải thoát sẽ được ta tu tập, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì được củng cố, được khéo tinh cần thực hành.’ Như vậy, này Tỷ-kheo, ngươi cần phải học tập” (A IV 299-300), sau đó Ngài lại dạy thêm: “Khi định này đã được ngươi tu tập, này Tỷ-kheo, được ngươi làm cho sung mãn, khi ấy ngươi cần nên tu tập định với tầm tứ này ... và ngươi nên tu tập định câu hữu với xả” (A IV 300).

116. Ý nghĩa là như vầy: Này các Tỷ-kheo, khi định căn bản này đã được ngươi tu tập bằng phương tiện của tâm từ, thì khi ấy, thay vì chỉ bằng lòng với chừng ấy ngươi nên làm cho định căn bản ấy đạt đến đệ tứ thiền, đệ ngũ thiền trong những đối tượng khác bằng cách phát triển nó thêm theo cách khởi đầu là “với tâm từ”.

117. Và sau khi nói như vậy, Ngài thêm: “Này Tỷ-kheo, khi nào định này của ngươi đã được tu tập, được làm cho sung mãn như vậy, khi ấy, này Tỷ-kheo, ngươi cần phải học tập như sau: ‘Bi tâm giải thoát sẽ được ta tu tập...’ (A IV 300), v.v..., chỉ rõ rằng “ngươi hãy phát triển nó thêm nữa bằng tứ thiền, ngũ thiền trong những đối tượng khác, sự phát triển này được dẫn đầu bằng những phạm trú còn lại là bi, hỷ, xả.”

118. Sau khi đã chỉ rõ thế nào sự phát triển định ấy bằng tứ thiền, ngũ thiền được đi trước bằng từ tâm giải thoát v.v... và bảo vị Tỷ-kheo: “Khi nào định này đã được ngươi tu tập, này Tỷ-kheo, được làm cho sung mãn thì khi ấy, dù ngươi đi bất cứ đâu, ngươi sẽ đi trong an lạc, bất cứ ở đâu ngươi đứng, ngươi sẽ đứng trong an lạc, bất cứ ở đâu ngươi ngồi, ngươi sẽ ngồi trong an lạc, bất cứ ở đâu ngươi nằm, ngươi sẽ nằm trong an lạc” (A IV 301). Từ đó, cần được hiểu rằng ba phạm trú từ, bi, hỷ chỉ có ba thiền đầu, và xả chỉ có tứ thiền duy nhất còn lại. Và chúng cũng được giải thích tương tợ trong Abhidhamma.

(Giới Hạn Cao Nhất Của Mỗi Phạm Trú)

119. Trong khi những phạm trú này chỉ thuộc hai loại về khía cạnh thiền chứng là tam thiền và thiền duy nhất còn lại (nghĩa là tứ thiền hay ngũ thiền), tuy vậy, mỗi phạm trú có một hiệu quả khác nhau ở chỗ “có vẻ đẹp là hiệu quả cao nhất” v.v... vì chúng được mô tả như thế trong kinh Haliddavasana, như được nói: “Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát có vẻ đẹp là tối cao... Bi tâm giải thoát có tâm không vô biên xứ là tối cao... Hỷ tâm giải thoát có thức vô biên xứ là tối cao... Xả tâm giải thoát có vô sở hữu xứ là tối cao” (S V 119-21).

120. Nhưng tại sao chúng được nói như vậy? Vì mỗi thứ là căn bản cho một thứ. Vì đối với người an trú từ tâm, chúng sinh không có vẻ gớm ghiếc. Vì quen thuộc với khía cạnh không gớm ghiếc của sự vật, khi vị ấy chú ý tác ý những màu sắc thuần tịnh không gớm ghiếc như là màu xanh đen, tâm vị ấy đi vào chúng không khó khăn. Bởi vậy, từ là căn đế cho sự giải thoát nhờ tịnh tướng (xem M II 12; M-a III, 256), nhưng không phải cho cái gì vượt xa hơn. Bởi thế mà gọi nó “có vẻ đẹp là tối cao.”

121. Một người trú tâm bi đã rõ biết hoàn toàn sự nguy hiểm trong sắc pháp, vì bi khởi lên trong vị ấy khi trông thấy nỗi khổ của chúng sinh, vì có cái tướng ra (sắc pháp) nên bị đánh bằng gậy v.v... Do đó, vì biết rõ nguy hiểm của sắc, nên khi bỏ cái biến xứ mà vị ấy đang quán, dù đấy là tướng của Kasiṇa đã thay một Kasiṇa khác, và chỉ tác ý khoảng không [còn lại (xem Ch. X, 6)] nghĩa là sự thoát khỏi sắc pháp, thì khi ấy tâm vị ấy đi vào khoảng không đó không khó khăn. Bởi thế bi là điểm tựa căn bản cho không vô biên xứ, nhưng không cho cái gì vượt ngoài không vô biên xứ. Ðó là lý do nói ”có không vô biên xứ là tối cao.”

122. Khi hành giả trú hỷ, tâm vị ấy trở nên quen thuộc với sự quán tâm vì hỷ khởi lên ở nơi vị ấy khi thấy tâm chúng sinh khởi lên dưới hình thức sự vui mừng về một lý do nào đó. Rồi khi vị ấy vượt qua lĩnh vực không vô biên xứ mà vị ấy đã đạt đến, và tác ý đến thức có đối tượng của nó là tướng hư không, thì tâm hành giả đi vào thức ấy không có khó khăn. Bởi thế hỷ là điểm tựa căn bản cho thức vô biên xứ. Nhưng không phải cho cái gì vượt ngoài thức vô biên xứ. Ðó là lý do nó được gọi là “Có thức vô biên xứ là tối thượng.”

123. Khi trú xả, tâm hành giả trở nên thiện xảo trong sự quán tưởng cái gì trong ý nghĩa tối hậu vốn phi hữu, vì tâm vị ấy đã chuyển hướng khỏi sự quán sát những gì là hiện hữu trong ý nghĩa tối hậu, nghĩa là lạc, sự thoát khỏi khổ v.v... vì không còn có bận tâm gì nữa thuộc loại “mong chúng sinh được hạnh phúc” hay “mong chúng được thoát khổ” hay “mong chúng không mất sự thành công đã đạt đến”. Bây giờ tâm hành giả đã quen với sự chuyển hướng từ sự quán những gì hiện hữu theo nghĩa tối hậu và trở nên thiện xảo trong việc quán tưởng những gì phi hữu theo nghĩa tối hậu, “chúng sinh chỉ là cái danh” (khái niệm), và bởi thế khi hành giả vượt qua thức vô biên xứ đã đạt, và trú tâm trên sự vắng mặt của Thức, vốn phi hữu về đặc tính riêng của nó, vốn là thực tại theo nghĩa tối hậu (được sinh ra, trở thành — xem M I 260), thì tâm hành giả đi vào trong cái không, cái phi hữu ấy không khó khăn (Ch. X, 32). Bởi thế xả là điểm tựa căn đế cho Vô sở hữu xứ, nhưng không cho cái gì vượt ngoài vô sở hữu xứ. Ðó là lý do nói “Có Vô sở hữu xứ là tối cao.”

124. Khi hành giả đã hiểu rằng hiệu quả đặc biệt của mỗi phạm trú gồm tuần tự là “Có vẻ đẹp là tối cao” hành giả lại còn nên hiểu thêm rằng chúng viên mãn những thiện pháp khởi đầu là bố thí. Vì tâm của các vị Bồ tát giữ quân bình bằng cách đặt an lạc của chúng sinh lên hàng đầu, bằng sự ghét thấy chúng sinh đau khổ, bằng sự mong muốn những thành công của chúng sinh đạt được lâu bền, và bằng sự vô tư bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Và cho tất cả chúng sinh, những Bồ tát bố thí tặng phẩm, tức nguồn an lạc, mà không phân biệt rằng: “Phải cho kẻ này, không nên cho kẻ kia”. Và để tránh làm hại chúng sinh, Bồ tát thọ trì cấm giới. Bồ tát thực hành hạnh từ bỏ vì mục đích viên mãn giới. Bồ tát thanh lọc tuệ vì mục đích thấy rõ không mơ hồ, cái gì là tốt và xấu đối với chúng sinh. Bồ tát luôn luôn khơi dậy tinh tấn vì an lạc và hạnh phúc cho chúng sinh trên hết. Khi đã được sự vững vàng anh dũng nhờ tấn lực tối cao, Bồ tát trở nên kham nhẫn đối với nhiều lỗi lầm của chúng sinh. Bồ tát không lừa dối chúng sinh khi hứa hẹn “Ta sẽ cho ngươi cái này. Ta sẽ làm cái này cho ngươi.” Bồ tát có quyết tâm không lay chuyển đối với hạnh phúc và an lạc của chúng sinh. Do tâm từ kiên cố, Bồ tát đặt chúng sinh lên trước bản thân mình. Do xả Bồ tát không mong cầu quả báo. Sau khi viên mãn mười Ba-la-mật như vậy, các phạm trú này lại còn kiện toàn tất cả thiện pháp như Mười Lực, Bốn Vô Úy, Sáu loại trí không chung với Thanh Văn đệ tử (Paṭis I 121f), và Mười tám pháp của đấng Giác ngộ (Cp-a). Ðây là nói các phạm trú làm viên mãn các thiện pháp, khởi từ bố thí.

Chương chín gọi là “Mô Tả Ðịnh - Các Phạm Trú” trong Luận về Ðịnh tu tập thuộc luận Thanh tịnh Ðạo, được soạn thảo vì mục đích làm cho những người lành được hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương X
Ðịnh - Các Vô Sắc Xứ

(Āruppa-niddesa)

----

(1) Không Vô Biên Xứ

1. Về bốn vô sắc xứ tiếp theo bốn phạm trú, một người muốn tu tập không vô biên xứ trước hết, thấy nguy hiểm trong sắc pháp thô qua sự vót gậy gộc v.v... do câu: ”Chính vì sắc pháp mà có vót gậy, đao, các cuộc đấu tranh, luận tranh, khẩu chiến xảy ra; việc này không hiện hữu trong vô sắc giới”, và với sự mong mỏi ấy, hành giả đi vào đạo lộ vô dục đối với các sắc pháp, đối với đoạn diệt và chấm dứt sắc pháp“ (M I 410); và hành giả cũng thấy nguy hiểm trong sắc pháp qua ngàn thứ ưu não khởi đầu là bệnh đau mắt. Bởi thế, để vượt qua sắc pháp hành giả nhập tứ thiền với bất cứ kasiṇa nào trong 9 kasiṇa khởi từ kasiṇa đất, loại bỏ kasiṇa khoảng trống có giới hạn.

2. Mặc dù đã vượt khỏi sắc thô nhờ tứ thiền thuộc sắc giới, tuy thế hành giả còn muốn vượt luôn cả kasiṇa sắc (tế) bởi vì nó là tướng tương tự với sắc thô. Vị ấy làm việc này như thế nào?

3. Giả sử một người nhát gan bị một con rắn đuổi trong một khu rừng, nó trốn khỏi rừng và chạy bán sống bán chết ra khỏi rừng, khi ấy bất kỳ đến đâu, hễ trông thấy một ngọn lá chuối có vằn vện, hay một cây leo, hay một sợi dây, hay một đường nứt nẻ trên mặt đất, là nó sợ hãi bất an, và không muốn nhìn chỗ ấy. Lại, ví như nó sống trong một khu làng có một người oan gia thù hiềm, ngược đãi nó và khi bị kẻ ấy hăm dọa đánh đòn nó, nó bèn bỏ đi sống tại một làng khác. Khi ấy nếu tại đây nó gặp một người khác có nét mặt tương tự, giọng nói và cử chỉ tương tự, thì nó đâm ra sợ hãi, bất an không muốn nhìn người ấy.

4. Áp dụng ví dụ trên, thì thời gian vị Tỷ-kheo lấy sắc thô làm đối tượng là thời gian người kia bị đe dọa bởi con rắn và kẻ thù. Thời gian vị Tỷ-kheo vượt khỏi thô sắc nhớ tứ thiền thuộc sắc giới, là như người trốn khỏi rừng, và người đi làng khác ở. Sự quán sát của vị Tỷ-kheo và thấy rằng ngay cả sắc của Kasiṇa cũng là tướng tương tự với thô sắc, và muốn vượt luôn cả Kasiṇa ấy nữa, là giống như người trông thấy ngọn lá có vằn v.v... và như người trông thấy dáng mặt của một người giống kẻ thù mà không muốn nhìn vì lo âu sợ hãi.

Và ở đây, tỉ dụ về con chó bị báo vồ, và về con quỉ pisāca với người nhát gan cũng cần được hiểu như thế.

5. Bởi vậy khi hành giả đã trở nên nhàm chán đối với các sắc của Kasiṇa, đối tượng thiền thứ tư, và muốn tránh xa nó, thì hành giả thành tựu sự làm chủ ở 5 phương diện. Rồi khi xuất khỏi tứ thiền đã quen thuộc phạm vi sắc giới hành giả thấy nguy hiểm trong thiền này như sau: “Thiền này có đối tượng là sắc pháp mà ta đã chán ngấy”, “nó có hỷ là kẻ thù gần” và “nó thô hơn các Giải thoát” (peaceful liberations). Tuy nhiên ở đây không có tính (tương đối) thô phù của những thiền chi (như trong trường hợp của bốn thiền sắc giới), vì những vô sắc có cùng hai thứ thiền chi như thiền thuộc sắc giới này.

6. Khi hành giả đã thấy nguy hiểm trong thiền thứ tư thuộc sắc giới như vậy, và chấm dứt ràng buộc với nó, vị ấy tác ý đến không vô biên xứ cho là an tịnh. Rồi khi hành giả đã trải rộng kasiṇa đến giới hạn bầu vũ trụ hay đến mức xa như ý muốn, vị ấy bỏ kasiṇa sắc nhờ tác ý đến không gian mà sắc ấy chạm đến, nhìn nó như là không gian hay “không vô biên”.

7. Khi bỏ kasiṇa, hành giả không xếp nó lại như cuộn một chiếc chiếu, cũng không rút nó đi như lấy một cái bánh ra khỏi hộp. Chỉ có nghĩa là hành giả đừng tác ý đến nó, chú ý quan sát nó, mà chỉ chú ý đến khoảng không gian mà kasiṇa chạm đến, xem là “khoảng không, khoảng không”, thì mới gọi là hành giả đã bỏ kasiṇa.

8. Và khi kasiṇa bị bỏ, nó không cuộn lên lăn đi. Gọi rằng kasiṇa đã bị bỏ chỉ vì hành giả không chú ý đến nó, vì sự chú ý bây giờ hướng đến khoảng không, khoảng này được quan niệm như là khoảng trống để lại khi dời bỏ kasiṇa (sắc). Dù nó được gọi là “khoảng không” để lại do sự từ bỏ kasiṇa hay “khoảng không do kasiṇa chạm đến” hay “khoảng không tách biệt với kasiṇa”, nó đều ám chỉ cùng một chuyện.

9. Hành giả tác ý đến tướng khoảng không ấy nhiều lần là “khoảng không, khoảng không”, đánh vào nó bằng tầm tứ. Khi hành giả tác ý vào nó nhiều lần, đánh vào nó với tầm và tứ, thì những triền cái được chế ngự, niệm được an trú và tâm hành giả trở nên định tĩnh trong cận hành định. Hành giả tiếp tục tu tập tướng ấy, làm cho sung mãn.

10. Khi hành giả tiếp tục tác ý đến tướng hư không như vậy, chú ý đến nó liên tục theo cách ấy, thức thuộc về không vô biên xứ khởi lên nơi hành giả ở trong định với đối tượng là hư không, như thức thuộc về sắc giới đã khởi lên trong trường hợp quán biến xứ đất (kasiṇa) v.v... Và ở đây cũng thế, trong giai đoạn đầu có 3 hay 4 tốc hành tâm thuộc dục giới liên hệ đến cảm thọ xả trong khi tốc hành tâm thứ tư hay thứ năm thì thuộc về vô sắc giới. Phần còn lại cũng giống như trường hợp kasiṇa đất (Ch. IV, 74).

11. Tuy nhiên, có sự khác biệt này. Khi thức thuộc vô sắc giới đã khởi lên như thế, vị Tỷ-kheo từ trước đến đây đã nhìn dĩa kasiṇa bằng con mắt thiền, tự thấy mình chỉ nhìn khoảng trống sau khi tướng ấy đột nhiên biến mất, do sự tác ý đã hình thành trước đây là “khoảng không, khoảng không”. Vị ấy giống như người đã dùng một miếng giẻ màu nhét vào lỗ trống trong một chiếc xe bít kín, trong một cái thùng hay cái bình, và đang nhìn vào chỗ ấy, rồi bỗng do cơn gió mạnh hay một tác động nào khác, miếng giẻ bị rớt ra và người kia thấy mình đang nhìn hư không.

(Kinh Văn Và Giải)

12. Và ở điểm này, Luận nói: “Với sự hoàn toàn vượt qua sắc tưởng, với sự biến mất những chướng ngại tưởng không tác ý sai biệt tướng, biết rằng ‘Hư không là vô biên’, vị ấy chứng và trú Không vô biên xứ” (Vibh 245).

13. Hoàn toàn có nghĩa là, về mọi phương diện. Vượt qua sắc tưởng: ám chỉ cả hai (a) các thiền thuộc sắc giới được nói ở đây dưới đề mục “tưởng” và (b) những đối tượng của các thiền này. Vì (a) thiền về sắc giới được gọi là “sắc” trong những đoạn kinh như “Nội hữu sắc vị ấy quán ngoại sắc” (M II 12) và (b) “sắc” cũng chỉ cho đối tượng của thiền sắc giới, trong những đoạn kinh như: “vị ấy thấy các ngoại sắc... xấu và đẹp” (M II 13) Do đó ở đây danh từ sắc tưởng (rūpa-saññā) trong nghĩa “tưởng về sắc” được dùng để chỉ (a) thiền sắc giới được gọi như vậy dưới đề mục là “tưởng”. Và nó cũng chỉ (b) nó có nhãn hiệu (saññā) “sắc” cho nên đối tượng của thiền được đặc nhãn hiệu là sắc. Ðiều muốn nói ở đây là “sắc” là tên của nó. Bởi vậy cần hiểu rằng đây cũng một danh từ để chỉ (b) cái liệt vào kasiṇa đất v.v... đối tượng của thiền ấy.

14. Với sự vượt qua: với sự đoạn diệt, tịch diệt. Có nghĩa là sự đoạn dứt, tịch diệt của những sắc tưởng này, kể như thiền, gồm 15, với thiện, dị thục và duy tác (mỗi cái 5) (profitable, resultant and functional) và của cả những vật có nhãn hiệu sắc, kể như đối tượng của những tưởng ấy, gồm chín thứ với kasiṇa đất v.v... (đoạn 1), hành giả chứng và trú không vô biên xứ. Vì vị ấy không thể chứng và trú không vô biên xứ nếu không hoàn toàn vượt qua các tưởng về sắc.

15. Ở đây không có sự vượt qua các tưởng này ở nơi một người mà tham đối với các đối tượng của các tưởng ấy chưa đoạn diệt; và khi những sắc tưởng này đã được vượt qua thì đối tượng của chúng cũng được vượt qua. Vì thế cho nên trong Vibhaṅga chỉ nói đến sự vượt qua các tưởng mà không nói đến sự vượt qua các đối tượng. Ở đây, những tưởng về sắc là gì? Đó là tưởng tri nơi một vị đã đạt đến một thiền chứng thuộc về sắc giới hay nơi một vị đã được tái sinh ở sắc giới, hay nơi một vị trú lạc thuộc sắc giới ngay trong đời này. Ðây là những gì được gọi là tưởng về sắc. Những tưởng về sắc này được vượt qua, siêu việt, nên nói là “với sự hoàn toàn vượt qua sắc tưởng” (Vibh 261). Nhưng luận giải này cũng cần được hiểu là đề cập đến cả sự vượt qua đối tượng, bởi vì những thiền chứng này phải được đạt nhờ vượt qua đối tượng, chúng không được đạt nhờ giữ lại đối tượng ấy như trong sơ thiền và các thiền kế tiếp.

16. Với sự biến mất đối ngại tưởng: Ðối ngại tưởng là những tưởng khởi lên do căn tiếp xúc với trần tương ứng, đây là một danh từ chỉ tưởng về các vật có hình sắc thấy được (rūpa) v.v... như Luận nói: “Ở đây, gì là các đối ngại tưởng? Tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc — đó là ‘đối ngại tưởng’” (Vibh 261). Có nghĩa là sự biến mất hoàn toàn, sự từ bỏ, không sinh khởi của 10 thứ đối ngại tưởng này, gồm 5 thiện dị thục và 5 bất thiện dị thục.

17. Dĩ nhiên những tưởng này cũng không được có ở nơi một người đã nhập sơ thiền v.v... vì thức khi ấy không sinh khởi do cái cửa năm căn. Nhưng sự nhắc đến các tưởng ấy ở đây nên hiểu như là một sự giới thiệu về thiền này với mục đích gợi sự quan tâm đối với nó, cũng như trong trường hợp tứ thiền có nhắc đến lạc và khổ đã được xả bỏ ở thiền trước đấy, và trong trường hợp đạo lộ thứ ba có nhắc đến ngã kiến v.v... đã được từ bỏ trước đấy.

18. Hoặc, mặc dù những tưởng này cũng không được có nơi một người đã đạt đến sắc giới, nhưng sự không có mặt của chúng ở đây thì không phải vì chúng đã được từ bỏ, vì sự tu tập (thiền) sắc giới không đưa đến sự đoạn diệt tham đối với sắc, và sự phát sinh các thiền sắc giới ấy thực sự phụ thuộc vào sắc. Nhưng sự tu tập về vô sắc này đưa đến đoạn tận tham đối với sắc. Bởi vậy, có thể nói được rằng chúng thực sự được từ bỏ ở đây.

19. Kỳ thực, chính vì chúng đã không được bỏ trước đấy, mà Đức Thế Tôn dạy rằng: Âm thanh là cây gai đối với người có sơ thiền (A V 135). Và chính vì chúng được từ bỏ ở đây mà bất động (Vibh 135) thuộc về các vô sắc và trạng thái giải thoát an tịnh của chúng được nói đến (M I 33), và Aḷāra Kālāma không thấy 500 cỗ xe đi qua sát vị ấy mà cũng không nghe tiếng chúng trong khi vị ấy đang ở trong một thiền chứng vô sắc (D II 130).

20. Không tác ý các tưởng sai biệt: Có hai nghĩa, thứ nhất là các loại tưởng thuộc ý giới (mind element) và ý thức giới (mind - consciousness element) nơi một người chưa chứng đắc, như Vibhaṅga nói: “Ở đây gì là các tưởng sai biệt? Sự tưởng tri, nhận thức nơi một người chưa đắc mà có ý giới hoặc ý thức giới, đây gọi là ‘các tướng sai biệt’” (Vibh 261) — những loại tưởng ấy sinh khởi có đối tượng khác nhau (đủ loại) là sắc, thanh v.v...; thứ hai, vì bốn mươi bốn loại tưởng — nghĩa là, tám loại tưởng thiện thuộc dục giới, mười hai loại tưởng bất thiện, mười một loại dị thục thiện thuộc dục giới, hai dị thục bất thiện và mười một loại tưởng duy tác thuộc dục giới — chính chúng có sự sai biệt đủ loại; có bản chất khác nhau ...

21. Và hai điều cần được hiểu: Trước hết, sự vắng mặt của tưởng sai biệt được nói ở đây theo hai cách là “vượt qua” và “biến mất”, vì các sắc tưởng và các đối ngại tưởng ở trước không hiện hữu ngay cả trong loại hữu phát sinh do thiền này lúc tái sinh, nói gì đến khi thiền này được chứng và trú trong hữu ấy, và Thứ hai, trong trường hợp những tưởng sai biệt, sự “không tác ý” đến chúng được nói vì hai mươi bảy loại tưởng — nghĩa là, tám loại tưởng thiện dục giới, chín loại tưởng duy tác (functional), và mười loại tưởng bất thiện — vẫn còn hiện hữu trong loại hữu phát sinh bởi thiền này. Vì khi hành giả chứng và trú thiền này, vị ấy làm thế bằng cách không tác ý đến chúng, nếu còn tác ý đến chúng thì không đạt được.

22. Và ở đây nên hiểu vắn tắt rằng sự từ bỏ sắc giới được ám chỉ bằng câu “với sự vượt qua các sắc tưởng” và sự từ bỏ, không tác ý đến tất cả tâm và tâm sở dục giới được án chỉ bằng câu “với sự biến mất các đối ngại tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt”.

23. Hư không vô biên được gọi như thế là vì biên giới sinh và biên giới diệt của nó không được biết đến, cái khoảng không còn lại sau khi dời bỏ kasiṇa gọi là “hư không”. Và ở đây, tính chất “vô biên” cần được hiểu là ám chỉ các sự tác ý nữa, bởi vậy Vibhaṅga nói: “Vị ấy đặt, để tâm trong khoảng không ấy, vị ấy biến mãn không giới hạn, nên gọi là ‘hư không vô biên’” (Vibh 262).

24. Vị ấy chứng và trú Không vô biên xứ: Nó không có biên giới (anta) nên gọi là vô biên (ananta). Cái gì không có giới hạn trong không gian (ākāsaṃ anantaṃ) thì gọi là hư không vô biên. Hư không vô biên ấy là một “xứ” (āyatana) trong ý nghĩa nó là một trú xứ cho thiền có bản chất liên hệ với nó, như “thiên xứ” là trú xứ dành cho chư thiên. Vị ấy chứng và trú hư không vô biên xứ sau khi đạt đến xứ ấy, tức không vô biên, sau khi làm cho nó phát sinh, hành giả trú với sự trú (gồm trong bốn uy nghi) phù hợp với nó.

Ðây là giải thích chi tiết về không vô biên xứ kể như một đề mục thiền.

(2) Thức Vô Biên Xứ

25. Khi hành giả muốn tu tập thức vô biên xứ, trước tiên cần phải đạt đến sự làm chủ theo năm cách, trong thiền chứng về không vô biên xứ. Rồi hành giả cần thấy nguy hiểm của không vô biên xứ như sau: “Thiền này có sắc thiền là kẻ thù gần, và nó không được an tịnh như Thức vô biên xứ”. Bởi thế sau khi chấm dứt ràng buộc của hành giả đối với không vô biên xứ, vị ấy hãy tác ý thức vô biên xứ như là an tịnh hơn, tác ý nhiều lần “thức, thức” với thức biến mãn không gian làm đối tượng. Hành giả nên tác ý, quán sát nó, tác động trên thức ấy bằng tầm và tứ, nhưng không nên chỉ tác ý theo cách này “vô biên, vô biên” (nghĩa là hoặc tác ý “vô biên” không).

26. Khi hành giả hướng tâm thiền nhiều lần trên tướng ấy như vậy, những triền cái được từ bỏ, niệm được an trú và tâm trở nên định tĩnh trong cận hành định. Hành giả tu tập tướng ấy nhiều lần, làm cho sung mãn. Khi hành giả làm như vậy, thức thuộc về thức vô biên xứ khởi lên trong định, với cái thức biến mãn hư không làm đối tượng cũng như cái thức thuộc về không vô biên xứ đã khởi lên với khoảng không làm đối tượng. Phương pháp giải thích tiến trình đắc định ở đây cần được hiểu theo cách đã tả.

(Kinh Văn Và Giải)

27. Ở điểm này, kinh nói: “Hoàn toàn vượt qua không vô biên xứ, biết rằng “Thức là vô biên”, vị ấy chứng và trú “Thức vô biên xứ” (Vibh 245).

28. Ở đây, “hoàn toàn”: Như đã giải thích. Vượt khỏi không vô biên xứ: Thiền ấy được gọi là không vô biên xứ như đã nói ở đoạn 24, và đối tượng của nó cũng được gọi như thế. Vì đối tượng cũng là hư không vô biên theo cách đã nói (đoạn 24), và bởi vì nó là đối tượng của thiền vô sắc đầu tiên, (lược). “Vượt không vô biên xứ” bao gồm cả thiền lẫn đối tượng của nó, vì thức vô biên xứ chỉ được chứng và trú nhờ vượt qua, nhờ không tác ý đến, làm cho không sinh khởi, cả thiền lẫn đối tượng về không vô biên.

29. Thức vô biên: Ðiều muốn nói là, hành giả tác ý như sau: “Thức là vô biên” đối với cái thức đã khởi lên biến mãn lấy hư không làm đối tượng, là không vô biên. Hoặc, “vô biên” ám chỉ sự chú ý. Vì khi hành giả chú ý không ngừng đến cái Thức có hư không làm đối tượng thì sự chú ý của hành giả hướng đến hư không ấy cũng là “vô biên”.

30. Vì điều này được nói trong Vibghanga: “Thức là vô biên”: hành giả tác ý đến hư không được biến mãn bởi thức, vị ấy biến mãn một cách vô giới hạn, do đó mà nói là “Thức vô biên” (Vibh 262). Nhưng trong đoạn văn taṃ yeva ākāsaṃ viññāṇena phuṭaṃ (bởi chính cái thức đã biến mãn hư không ấy) sử dụng cách “bởi thức” phải được hiểu theo nghĩa đối cách (accusative), vì đó là cách các vị Luận sư đã giải thích. Ðiều muốn nói trong câu “Vị ấy biến mãn vô giới hạn” là “vị ấy tác ý đến cái Thức đã biến mãn hư không ấy” (taṃ yeva ākāsaṃ phuṭaṃ viññāṇaṃ).

31. Hành giả chứng và trú Thức vô biến xứ: (lược) Thức này là “xứ” bởi vì nó là nền tảng cho thiền có bản chất liên hệ với nó v.v... Những gì còn lại cũng như lối giải thích ở phần trước.

Ðây là giải thích chi tiết về Thức vô biên xứ.

(3) Vô Sở Hữu Xứ

32. Khi hành giả muốn tu tập Vô sở hữu xứ, trước hết, cần phải thành tựu sự thiện xảo (làm chủ) theo năm cách trong thiền chứng về Thức vô biên xứ. Rồi hành-giả nên thấy nguy hiểm trong thức vô biên xứ như sau: “Thiền này có Không vô biên xứ là kẻ thù gần của nó và nó không được an tịnh như vô sở hữu xứ.” Sau khi đã từ bỏ sự bám víu vào Thức vô biên xứ, hành giả nên tác ý Vô sở hữu xứ xem là an tịnh. Hành giả nên tác ý đến sự phi-hữu (hiện tại), sự trống rỗng, khía cạnh viễn ly của chính cái Thức (quá khứ) thuộc về Không vô biên xứ đã trở thành đối tượng của (thức thuộc về) Thức vô biên xứ. Hành giả thực hiện điều này như thế nào?

33. Không còn tác ý đến thức này nữa, bây giờ hành giả phải chú ý nhiều lần như sau: “không có gì cả, không có gì cả” hoặc “không, không” và quán sát nó, tác động lên nó với tầm và tứ.

34. Khi hành giả hướng tâm đến tướng như vậy, thì những triền cái bị áp đảo, niệm được an trú, và tâm hành giả tập trung ở cận hành định. Hành giả tu tập tướng ấy nhiều lần, làm cho nó sung mãn. Khi làm như vậy, thức thuộc về vô sở hữu xứ khởi lên trong định, đối tượng của nó là trạng thái không, phi hữu, viễn ly của Thức đã biến mãn hư không trước đấy, cũng như thức thuộc Thức vô biên xứ đã lấy cái Thức biến mãn hư không làm đối tượng (Nói tóm lại, thì: Không vô biên xứ có đối tượng là Không vô biên, Thức vô biên xứ có đối tượng là cái Thức đã quán Không vô biên, và Vô sở hữu xứ thì có đối tượng là cái phi hữu, trống rỗng của cái Thức đã quán không vô biên vậy). Và ở đây cũng vậy, phương pháp giải thích định là như cách đã nói trước.

35. Nhưng có sự khác nhau này. Ví như một người thấy một đoàn thể tăng chúng nhóm họp tại một phòng hội họp, thấy xong thì bỏ đi chỗ khác. Sau buổi họp, khi chúng tăng đã đứng lên ra về, người kia trở lại, và khi anh ta đứng ở bực cửa nhìn lại phòng họp chỉ thấy đó là một khoảng không, chỉ thấy nó vắng vẻ, chứ không nghĩ “Bao nhiêu Tỷ-kheo ấy đã chết, bao nhiêu Tỷ-kheo ấy đã đi khỏi vùng này.” Ðúng hơn, người ấy chỉ thấy “Ðây đã vắng vẻ, trống không” — cũng vậy, sau khi bằng con mắt thiền thuộc về Thức vô biên xứ, vị ấy đã trú và quán cái Thức đã khởi lên lấy hư không làm đối tượng, bây giờ khi Thức đó đã biến mất do vị ấy tác ý “Không có gì” từ trước trong công việc chuẩn bị, thì hành giả chỉ trú và quán sự phi hữu của nó, nghĩa là sự ra đi của thức ấy, khi Thức thuộc vô sở hữu xứ đã khởi lên trong định.

(Kinh Văn Và Giải)

36. Và tại điểm này, kinh nói: “Hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ, biết rằng ‘Không có gì’, hành giả chứng và trú Vô sở hữu xứ” (Vibh 245).

37. “Hoàn toàn” đã được giải thích. “Vượt qua thức vô biên xứ”: Ở đây cũng thế, thiền này được gọi là “xứ” theo cách được giải, và đối tượng của thiền ấy cũng được gọi như vậy. Bởi vì đối tượng cũng là “thức vô biên” theo cách đã nói, và vì là đối tượng của thiền vô sắc thứ hai, là “xứ” của nó theo ý nghĩa chỗ trú, như “chư thiên xứ” là chỗ ở của chư thiên, do vậy, đấy là một trú xứ bằng thức vô biên. Cũng vậy, nó là “thức vô biên”, và bởi vì nó là nhân cho thiền thuộc loại ấy nên nó là căn cứ địa của thiền này theo nghĩa trú xứ, như Kambojā là căn cứ địa hay trú xứ của ngựa. “Căn cứ địa” bằng Thức vô biên cũng thế. Bởi vậy, phải hiểu rằng “hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ” là bao gồm cả thiền lẫn đối tượng của nó, vì “căn cứ địa” này, xứ này, gồm trong Vô sở hữu xứ, cần phải được chứng và trú bằng cách vượt qua, thành phi hữu, không tác ý đến thiền thức vô biên xứ, cả thiền lẫn đối tượng.

38. “Không có gì cả” (natthi kiñci): Ðiều muốn nói ở đây, là hành giả tác ý như sau: “Không có gì cả” Hành giả làm cho chính cái Thức ấy thành phi hữu làm cho nó vắng mặt, biến mất, thấy rằng không có gì cả, do đó nói là vô sở hữu (Vibh 262) được diễn tả theo cách giống như là sự hiểu biết (với tuệ giác) tính chất dễ đi đến hoại diệt. Tuy nhiên, ý nghĩa cần được hiểu theo cách đã nói trên. Vì câu “Vị ấy làm cho Thức ấy trở thành phi hữu, làm cho nó vắng mặt, làm cho nó biến mất” là nói về một người không tác ý đến Thức ấy, không chú ý, quán sát nó, mà chỉ chú ý đến sự phi hữu của nó, tính trống rỗng của nó, sự viễn ly của nó; câu này không có ý nghĩa khác (xem Ch.XXI, đ. 17).

39. Vị ấy chứng trú vô sở hữu xứ: “xứ” này không có sở hữu (kiñcana) nên gọi là vô sở hữu (akiñcana). Ám chỉ sự biến mất của Thức thuộc về không vô biên xứ. Vô sở hữu này là “xứ” trong nghĩa nó là nền tảng cho thiền ấy. Còn lại thì như trước.

Trên đây là giải thích chi tiết về vô sở hữu xứ.

(4) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

40. Khi hành giả muốn tu tập Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì trước hết phải thiện xảo theo năm cách, về sự chứng đắc vô sở hữu xứ. Rồi vị ấy cần phải thấy nguy hiểm trong vô sở hữu xứ và lợi lạc trong cái gì cao hơn như sau: “Thiền này có Thức vô biên xứ là kẻ thù gần của nó, và nó không được an tịnh như Phi tưởng phi phi tưởng xứ” hoặc: “Tưởng như bệnh, như cục bướu, như mũi tên... cái này là an tịnh, cao cả, đó là phi tưởng phi phi tưởng xứ” (M II 231). Bởi vậy sau khi đã từ bỏ bám víu vô sở hữu xứ, vị ấy nên tác ý đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ xem là an tịnh. Hành giả nên tác ý nhiều lần đến thiền chứng về vô sở hữu xứ đã phát sinh, lấy phi hữu làm đối tượng cho thiền ấy, tác ý đến nó là “an tịnh; an tịnh”, và hành giả nên chú ý đến nó, quán sát nó, tác động trên nó với tầm và tứ.

41. Khi hành giả hướng tâm nhiều lần đến tướng ấy theo cách trên, những triền cái được áp đảo, niệm được an trú, và tâm hành giả trở nên tập trung trong cận hành định. Hành giả tu tập tướng ấy nhiều lần làm cho nó sung mãn. Khi hành giả tu tập như vậy, thức thuộc về phi tưởng phi phi tưởng xứ phát sinh, lấy bốn uẩn tạo nên thiền chứng về vô sở hữu xứ làm đối tượng của nó, cũng như Thức vô sở hữu xứ đã lấy sự biến mất của thức trước nó làm đối tượng. Và ở đây cũng vậy, phương pháp giải thích định cần được hiểu theo cách đã nói.

(Kinh Văn Và Giải)

42. Và ở điểm này, kinh nói: “Bằng cách vượt qua hoàn toàn vô sở hữu xứ, hành giả chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ” (Vibh 245).

43. “Hoàn toàn” như đã giải thích. “Vượt qua Vô sở hữu xứ” ám chỉ vừa thiền vừa đối tượng “vô sở hữu”.

44. Phi tưởng phi phi tưởng xứ: khi ấy nơi hành giả, có cái tưởng mà, với sự có mặt của nó, thiền chứng này được gọi là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ,” và trong Vibhaṅga, để chỉ con người chứng ấy, một người trước hết được xác định là người “không có tưởng cũng không không tưởng,” có nói: “vị ấy tác ý đến cùng một đối tượng vô sở hữu xứ ấy xem là an tịnh, tu tập thiền chứng với các hành còn dư tàn do đó mà gọi là ‘người không tưởng cũng không phi tưởng’” (Vibh 263).

45. Ở đây, “vị ấy tác ý... là an tịnh” có nghĩa, vị ấy chú ý đến thiền này là an tịnh vì tính cách an tịnh của đối tượng như sau: “thiền chứng này thực an tịnh làm sao, vì nó có thể làm cho ngay cả phi hữu biến thành đối tượng của nó, mà vẫn tồn tại!”

Nếu hành giả tác ý đến nó như là “tịch tịnh”, thì làm sao có sự vượt qua? Bởi vì không có ước muốn thực sự muốn đạt đến nó. Vì, mặc dù hành giả tác ý đến nó là “tịch tịnh”, nhưng nơi vị ấy không có mối quan tâm hay phản ứng hay sự tác ý như “Ta sẽ tác ý đến thiền này” hoặc “Ta sẽ đạt đến thiền này” hoặc “Ta sẽ quyết định về độ dài thời gian của nó” hoặc “Ta sẽ xuất khỏi nó” hoặc “Ta sẽ quán sát nó” Tại sao không? Bởi vì Phi tưởng phi phi tưởng xứ là an tịnh hơn và tốt hơn Vô sở hữu xứ.

46. Ví như một ông vua đang tuần tự du hành qua một đường phố với nghi vệ của vua chúa, cỡi trên một thớt voi lẫm liệt, và ông đang nhìn những thợ thuyền chỉ vận một chiếc khố và một chiếc khăn bịt đầu, đang làm những thủ công nghệ như chạm trổ ngà voi v.v... tay chân họ lấm đầy bụi của bột ngà voi v.v... Bấy giờ trong khi vua hài lòng với tài khéo của họ và nghĩ: “Những người thợ thủ công nghệ này thật là thiện xảo. Chúng đã luyện được nghề khéo thay.” Nhưng vua không có nghĩ rằng: “Ôi ước gì ta có thể từ bỏ vương vị và trở thành một người thợ thủ công nghệ như thế; vì sao? Vì những lợi-lạc lớn trong uy vệ của ngôi vua; Ông ta để lại sau lưng những người thợ và tiếp tục du hành. Cũng vậy, thiền giả này mặc dù tác ý thiền chứng ấy là “tịch tịnh”, nhưng nơi ông không có sự quan tâm, phản ứng hay sự chú ý như “Ta sẽ tác ý đến thiền này” hoặc “Ta sẽ đạt đến thiền này” hoặc “Ta sẽ quyết định trú thiền trong bao lâu” hoặc “Ta sẽ xuất khỏi nó” hoặc “Ta sẽ quán sát nó”.

47. Khi hành giả tác ý đến thiền này như là “tịch tịnh” theo cách đã nói, vị ấy đạt đến định tưởng tối thượng vi tế do tưởng này, vị ấy được gọi là “người không phải có tưởng không phải vô tưởng” và về vị ấy, ta nói là “vị ấy tu tập thiền chứng này với các hành còn sót lại.”

"Thiền chứng với các hành còn dư tàn” là chỉ thiền chứng thuộc vô sắc thứ tư ở đó các hành đã đạt đến một mức độ vô cùng vi tế.

48. Bây giờ để chỉ rõ ý nghĩa của loại tưởng đã đạt đến, do tưởng này mà thiền này được gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vibhaṅga nói: “Phi tưởng phi phi tưởng xứ là những trạng thái tâm hay tâm sở nơi một mgười đã đạt đến phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc nơi một người đã được tái sinh tại đấy, hoặc nơi một người trú lạc phi tưởng phi phi tưởng ngay trong đời này” (Vibh 263). Cái gì muốn nói ở đây là những trạng thái tâm và tâm sở nơi một người đã chứng đắc.

49. Ý nghĩa danh từ ở đây là: thiền ấy, với các trạng thái liên hệ của nó, không có tưởng mà cũng không phi tưởng do bởi vắng bóng những thô tưởng và có mặt những tưởng vi tế, nên gọi là “phi tưởng phi phi tưởng”. Nó là “phi tưởng phi phi tưởng” và là một “xứ” vì nó được gồm trong ý xứ và pháp xứ.

50. Hoặc: Tưởng ở đây không phải là tưởng, vì nó không thể làm nhiệm vụ quyết định của tưởng, mà nó cũng không phải là phi tưởng, vì nó hiện diện trong một trạng thái vi tế, như một hành còn sót lại, nên nó là “phi tưởng phi phi tưởng”, lại là một xứ với nghĩa là nền tảng cho những trạng thái khác, nên nó là “phi tưởng phi phi tưởng xứ”.

Và ở đây không phải chỉ có tưởng mới là như vậy, mà thọ cũng là phi thọ phi phi thọ, thức cũng là phi thức phi phi thức, xúc cũng là phi xúc phi phi xúc, và cũng vậy đối với các pháp liên hệ còn lại.

51. Và nên làm sáng tỏ ý nghĩa này bằng những ví dụ khởi đầu là sự bôi dầu trên bát. Một chú tiểu bôi dầu đầy cái bát rồi dẹp nó lại. Vào lúc uống nước cháo, một vị thượng tọa bảo chú đem bát lại. Chú nói: “Bạch đại đức có dầu trong bát”. Nhưng khi thượng tọa bảo chú: “Này chú tiểu, hãy đem dầu lại đây để ta đổ vào ống dầu.” Thì chú trả lời: “Bạch đại đức không có dầu”. Ở đây, như trường hợp nói có dầu với ý nghĩa trong bát có bôi dầu không thể đổ cháo vào, và nói không có dầu là nghĩa không có để đổ vào ống dầu. Cũng vậy, tưởng này không phải tưởng vì nó không thể làm nhiệm vụ quyết định của tưởng, và nó cũng không phải phi tưởng vì nó hiện diện dưới một hình thái vô cùng vi tế như là một hành còn sót lại.

52. Nhưng cái gì là nhiệm vụ của tưởng muốn nói ở đây? Ðấy là sự nhận biết đối tượng, và phát sinh ly dục nếu làm đối tượng cho tuệ. Nhưng nó không thể làm cho nhiệm vụ nhận thức có tính cách quyết định, cũng như sức nóng trong nước hâm hẩm không có thể làm nhiệm vụ luộc chín và nó không thể phát sinh ly dục bằng cách quán đối tượng với tuệ theo cách mà tưởng có thể làm trong trường hợp các thiền chứng khác.

53. Quả vậy, không có Tỷ-kheo nào có thể đạt đến ly dục nhờ quán năm uẩn liên hệ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ nếu vị ấy chưa làm cái việc phân tích đối với các uẩn khác (xem Chương XX đoạn 2 và kế tiếp). Và hơn nữa, dù cho ngài Xá Lợi Phất hay một người bẩm chất rất thông tuệ và có khiếu về tuệ giác như ngài, có thể làm được chuyện ấy, thì vẫn phải làm bằng cách quán theo nhóm như: “Như vậy, những pháp này trước kia không mà nay có, và sau khi hiện hữu chúng biến mất” (M III 28), chứ không phải bằng tuệ giác trực tiếp thực sự đối với từng pháp một khi chúng sanh khởi, đó là mức tinh tế mà thiền chứng này đạt đến.

54. Và ý nghĩa này cần được làm sáng tỏ bằng ví dụ về nước trên đường, cũng như ví dụ về sự bôi dầu trên bát. Một chú tiểu đang đi trước một vị đại đức khi du hành. Chú thấy một ít nước và bảo: “Bạch đại đức có nước, đại đức hãy bỏ dép ra.” Khi ấy vị đại đức bảo, “Nếu có nước thì hãy đem áo tắm lại để ta tắm.” Nhưng chú tiểu lại nói: “Bạch đại đức, không có.” Ở đây, “có nước” là trong nghĩa nó làm ướt giày. Còn “không nước” là trong nghĩa nước để tắm. Cũng vậy, tưởng này là “phi tưởng” vì nó không thể làm cái việc nhất định của tưởng, và nó cũng không là “phi tưởng” vì nó hiện diện dưới hình thức vi tế như một hành còn sót lại.

55. Và ý nghĩa này cần được làm sáng tỏ không những chỉ với những ví dụ này mà còn bằng những ví dụ thích ứng khác nữa.

"Chứng” và “trú” đã được giải thích.

Trên đây là giải thích chi tiết về phi tưởng phi phi tưởng xứ kể như một đề mục thiền.

[Tổng quát]

56. Như vậy,

Ðấng Cứu thế vô song đã nói:
Bốn cõi vô sắc
biết những điều tổng quát này
Sẽ không phải là vô ích.

57.

Vì các thiền vô sắc
Kể về sự vượt qua đối tượng
thì gồm có bốn thứ
Bậc trí không nhận sự vượt qua các thiền chi.

58. Trong bốn vô sắc này, vô sắc đầu là do vượt qua những tướng về sắc pháp, vô sắc thứ hai là do vượt qua hư không, vô sắc thứ ba là do vượt qua thức phát sinh với hư không làm đối tượng, và vô sắc thứ tư là do vượt qua sự biến mất của thức lấy hư không làm đối tượng ấy. Bởi thế, chúng cần được hiểu là có bốn về số lượng, cùng với sự vượt qua đối tượng trong mỗi trường hợp. Nhưng bậc trí không chấp nhận một sự vượt qua nào của các thiền chi, vì ở bốn thiền vô sắc này không có sự vượt qua những thiền chi như trong trường hợp các thiền chứng thuộc sắc giới. Mỗi thiền vô sắc này chỉ có hai thiền chi là xả và nhất tâm.

59.

Vì vậy, chúng tuần tự vi tế dần
Mỗi thiền vi tế hơn thiền trước nó
Có hai hình ảnh làm sáng tỏ
Ðó là chiều dài vải, và tầng lầu.

60. Ví như có một lâu đài bốn tầng, trên tầng đầu có đủ năm thứ dục lạc dưới hình thức rất vi tế như thiên vũ, thiên ca và thiên nhạc, thiên hương hoa thực phẩm, giường nệm y phục v.v... và trên tầng thứ hai những thứ này còn vi tế hơn, tầng thứ ba càng vi tế và tầng thứ tư thì vi tế nhất, tuy vậy chúng vẫn là những tầng lầu và không có sự khác biệt giữa chúng về phương diện bản chất, chỉ có sự tuần tự vi tế của năm món dục lạc mà tầng này vi tế hơn tầng dưới nó. Lại nữa, ví như có những đoạn vải dày một lớp, hai lớp, ba lớp, bốn lớp, dệt bằng thứ chỉ thô, tế, tế hơn và rất tế bởi một phụ nữ, tất cả bốn tấm đều cùng một kích tấc, thì mặc dù con số là bốn đoạn chúng chỉ khác nhau về tính cách êm dịu vi tế và đắt giá. Cũng thế mặc dù chỉ có hai thiền chi trong cả bốn vô sắc, là xả và nhất tâm, nhưng mỗi thiền cần được hiểu là vi tế hơn thiền trước nó do sự tuần tự vi tế của các thiền chi.

61. Và về sự kiện mỗi thiền vi tế hơn thiền trước nó có hình ảnh như sau.

62. Có một cái lều dựng trên một chỗ dơ dáy. Một người đi đến, nhờm gớm sự dơ uế nên tựa hai tay vào lều như đu. Một người thứ hai đến tựa vào người ấy. Người thứ ba đến và nghĩ, cả hai người kia không khá được, vì nếu cái lều sụp thì chúng chắc chắn ngã. Vậy ta sẽ đứng ngoài. Do vậy thay vì tựa vào người thứ hai, anh ta đứng ngoài. Rồi một người thứ tư đi đến, và vì thấy sự bất ổn của hai người đầu, nghĩ rằng người đứng ngoài vững hơn, anh đứng tựa vào người ấy.

63. Cái khoảng không mà từ đấy kasiṇa đã được dời bỏ, ví như căn lều dựng chỗ dơ uế. Thức thuộc không vô biên xứ, lấy không gian làm đối tượng, do chán ghét các sắc vi tế, là giống như người đầu bám vào cái lều vì nhờm gớm đồ dơ. Thức thuộc thức vô biên xứ, mà sự sinh khởi nương vào thức thuộc không vô biên xứ, là ví như người tựa vào người bám cái lều. Thức thuộc vô sở hữu xứ, thay vì lấy cái thức thuộc không vô biên làm đối tượng, lại lấy sự phi hữu của thức ấy làm đối tượng, ví như người thứ ba sau khi xét thấy bất ổn nơi hai người trước, không tựa vào người thứ hai, mà đứng ngoài. Thức thuộc phi tưởng phi phi tưởng xứ, phát sinh nương nơi thức thuộc vô sở hữu, cái thức ra ngoài, nghĩa là ở nơi phi hữu của thức trước đấy - thì ví như người đứng tựa vào người thứ ba, sau khi đã xét thấy bất ổn ở hai người đầu, và nghĩ rằng người đứng ngoài đã khéo đứng.

64.

Và trong khi khởi lên như vậy,
Thức này lấy đó làm đối tượng
Vì không có cái nào tốt bằng
Cũng như người nương tựa vào vua để sống
Dù thấy những lỗi lầm nơi ông.

65. Vì mặc dù thức thuộc phi tưởng phi phi tưởng xứ đã thấy lỗi ở vô sở hữu xứ như sau: “Thiền này có Thức vô biên xứ làm kẻ thù gần, mặc dù vậy, nó vẫn lấy đó làm đối tượng vì không có cái nào khác. Giống như người ta vì sinh mạng phải lệ thuộc vào một ông vua có những lỗi lầm mà họ thấy được. Cũng vậy, Thức thuộc phi tưởng phi phi tưởng xứ lấy Vô sở hữu xứ làm đối tượng mặc dù vẫn thấy những lỗi của nó, và sở dĩ như vậy là vì không tìm thấy đối tượng nào tốt hơn.

66.

Như người leo thang cao
Nương vào các điểm tựa
Như người đi trên núi
Tựa vào đỉnh ngọn núi
Như người đứng trên vực
Nương vào hai đầu gối
Mỗi thiền dựa thiền trước
Cũng y hệt như vậy.

Chương mười gọi là “Mô tả về các Thiền Vô Sắc” trong Luận về Ðịnh tu tập thuộc luận Thanh tịnh Ðạo, được soạn thảo vì mục đích làm cho những người lành được hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương XI
Mô Tả Ðịnh - Kết Luận

(Samādhi-niddesa)

----

(Tưởng về Bất tịnh trong thức ăn)

1. Bây giờ, đến phần trình bày về sự tu tập Bất tịnh tưởng đối với thức ăn, được liệt vào “Một tưởng” tiếp theo các vô sắc xứ (Ch. III,105).

Ở đây, đồ ăn (āhāra) là cái gì nuôi sống (āharati: mang lại, phát sinh). Nó thuộc bốn loại: thức ăn vật lý (đoàn thực), xúc thực, hành thực (tư niệm thực), và thức thực.

2. Nhưng ở đây, cái gì nuôi cái gì? Ðoàn thực nuôi cái sắc chất gồm tám thứ mà dưỡng chất là thứ tám (Xem Ch. XVIII, đoạn 5 trở đi). Xúc thực nuôi ba thứ cảm thọ. Hành thực nuôi sự tái sinh trong ba loại hữu. Còn thức thực nuôi danh-sắc vào lúc tái sinh.

3. Khi có đoàn thực thì có chấp thủ (bám víu), đem lại nguy hiểm? Khi có xúc thực thì có ái, đem lại nguy hiểm? Khi có hành thực thì có tái sinh, đem lại nguy hiểm? Khi có thức thực thì có kiết sanh (nối kết với sự tái sinh) đem lại nguy hiểm. Ðể chứng minh chúng gây ra sự khủng khiếp như thế nào, đoàn thực cần được sáng tỏ với ví dụ ăn thịt con (S II 98), xúc thực như bò cái bị lột da (S II 99), hành thực với ví dụ hố than hừng (S II 99) và thức thực với ví dụ một trăm cái cọc nhọn (S II 100).

4. Nhưng về bốn loại thức ăn này, thì chỉ có đoàn thực, những gì được ăn, uống, nhai, nếm, là được kể ở đây như là “thức ăn” trong ý nghĩa này. Tưởng khởi lên như là sự nhận rõ khía cạnh bất tịnh trong thứ đồ ăn này gọi là “tưởng về thức ăn bất tịnh”.

5. Một người muốn tu tập tưởng bất tịnh về thức ăn, cần phải học đề mục thiền và chắc chắn mình không còn nghi về một chữ nào trong những gì đã học. Rồi vị ấy nên đi vào độc cư và quán sát mười khía cạnh bất tịnh trong đoàn thực là về việc ra đi, tìm kiếm, sử dụng, sự tiết lậu, chỗ chứa, vật không tiêu hóa, vật được tiêu hóa, kết quả, sự tuôn ra, sự vấy bẩn.

6. 1. Ở đây, về việc ra đi: ngay cả khi một người đã xuất gia trong một giáo pháp vĩ đại như thế, mà sau khi đọc tụng kinh điển hoặc tu tập có thể là suốt đêm, sau khi dậy sớm làm các phận sự trong sân điện thờ, hay quét sân có cây bồ đề, lấy nước uống và nước rửa, sau khi làm vệ sinh cá nhân, rồi ngồi xuống mà quán đề mục thiền hai ba chục lần và đứng lên, thì lại phải lấy y bát, bỏ lại sau lưng núi rừng vắng vẻ của tu viện đem lại hạnh phúc độc cư, nơi có bóng mát, nước trong, với những chỗ sạch sẽ, im mát, khả ái, phải gác lại niềm ái lạc độc cư của các bậc Thánh, để dấn thân đi vào làng mạc mà kiếm thức ăn, như một chú dã can (chồn hoang), hướng đến nghĩa địa.

7. Và khi vị ấy ra đi như vậy, từ lúc bước xuống khỏi giường hay ghế, vị ấy phải bước dẫm lên một tấm thảm đầy bụi và phân chim v.v... Tiếp đến, vị ấy phải coi chừng cái bậc cửa, còn bất tịnh hơn trong phòng, vì nó thường bị bẩn vì phân dơi, phân chuột v.v... Tiếp đến là cái sân dưới lại còn đáng tởm hơn sân phía trên, vì nó ngấm đầy những thứ phân cú, phân bồ câu v.v... Kế đến là đất, còn ghê tởm hơn sân dưới vì nó đầy cỏ úa, lá rụng bay tứ tung, nước tiểu, phân, đờm dãi của những chú tiểu bị bệnh và về mùa mưa thì nó dơ dáy vì nước và bùn v.v... Và vị ấy phải xem con đường đến tu viện, lại còn đáng tởm hơn cái vườn.

8. Rồi, sau khi đảnh lễ Cây Bồ đề và điện Phật, khi đứng nơi mà hành giả thường đứng để suy nghĩ nên đi khất thực hướng nào thì hành giả khởi sự nghĩ: “Thay vì chiêm ngưỡng điện thờ như chòm ngọc trai này, và chiêm ngưỡng cây Giác ngộ khả ái như một chòm đuôi công này, và trú xứ đẹp như lâu đài chư thiên này, bây giờ ta phải quay lưng với một nơi mê hồn như vậy để ra đi vì miếng ăn”. Và trên đường đi đến làng, cảnh tượng một con đường đầy cả gai góc, con đường gập ghềnh vì nước xoáy, đang đợi hành giả.

9. Kế tiếp, sau khi vị ấy đã mặc áo trong như kẻ che đậy một mụt ghẻ, thắt dây ngang lưng như người băng bó một vế thương, mặc thượng y như người che dấu một bộ xương, lấy ra cái bình bát như người cầm đồ đựng dược phẩm, khi vị ấy đến gần cổng làng, thì có thể cảnh tượng một thi thể của voi, của ngựa, của trâu, của người, của rắn, của chó đang chờ đợi, và chẳng những phải nhìn thấy chúng, mà hành giả còn phải chịu cho lỗ mũi bị tấn công bởi mùi thối tha của chúng.

Kế tiếp, khi hành giả đứng nơi cổng làng, vị ấy còn phải dò xét những đường làng để tránh nguy hiểm của voi dữ, ngựa dữ v.v...

10. Như vậy, kinh nghiệm về bất tịnh này, khởi từ khi dẫm lên tấm thảm và kết thúc với đủ loại thây chết phải nhìn, phải ngửi, hành giả phải trải qua vì đoàn thực: “Ôi đoàn thực quả thực là một điều bất tịnh!”

Ðó là quán xét tính chất bất tịnh của đoàn thực về khía cạnh ra đi.

11. 2. Thế nào là về sự tìm kiếm? khi hành giả đã chịu đựng sự bất tịnh khi đi như trên, và đã vào đến làng, khoác tấm y bá nạp, vị ấy phải lang thang trên những đường làng từ nhà này đến nhà khác như một kẻ ăn mày với cái dĩa trong tay. Và về mùa mưa, bất kỳ đặt chân đến chỗ nào hành giả cũng bị ngập nước và bùn lên tới bắp chân. Phải cầm bát một tay, một tay vén y. Về mùa nóng, thì hành giả phải lang thang với thân thể lấm bụi, cỏ rác, phong trần (nghĩa là bụi do gió thổi). Khi đến một nhà nào đó, hành giả phải nhìn thấy, ngay cả phải bước vào những lỗ cống, và ao nước dơ đầy ruồi nhặng, nhung nhúc đủ loại sâu dòi, một thứ nước trộn lẫn nước rửa cá, nước rửa thịt, vo gạo, nước đờm, nước dãi, phân chó, phân heo, không thiếu thứ gì, từ đấy ruồi bay lên và đậu trên y, trên bát, trên đầu của hành giả.

12. Và khi vị ấy đi vào một ngôi nhà, thì có người cho, người không cho. Và khi cho, có người cho cơm nguội từ hôm qua, bánh thiu, nước lèo đã thối v.v... Có người không cho, bảo: “Xin đại đức cứ đi tới,” có người giữ im lặng, làm như không trông thấy ông ta. Có người tránh mặt. Lại có người đối xử bằng những lời gay gắt như “Ði đi, Sa-môn trọc đầu”. Khi đã lang thang trong làng kiểu ấy để khất thực như một kẻ ăn mày xong, hành giả phải rời khỏi làng.

13. Vậy, kinh nghiệm này, khởi đầu bằng sự đi vào trong làng và chấm dứt với sự ra khỏi làng, một kinh nghiệm đáng tởm do nước dơ, bùn v.v... phải dẫm lên, phải trông thấy, và chịu đựng, cái kinh nghiệm ấy phải được trải qua vì đoàn thực: “Ôi, đoàn thực quả thật là một chuyện đáng ghê tởm!”

Ðó là sự ghê tởm (tính bất tịnh) cần được quán sát về phương diện tìm kiếm.

14. 3. Thế nào là về sử dụng? Sau khi đã kiếm đủ thức ăn đoàn thực theo cách ấy, ngồi thoải mái tại một nơi thoải mái ngoài khu làng, thì bao lâu hành giả chưa nhúng tay vào đó (ăn bốc) vị ấy có thể mời mọc một vị Tỷ-kheo khả kính hay một người đàng hoàng, nếu gặp, để san sẻ thức ăn ấy. Nhưng khi đã nhúng tay vào đó vì đói bụng, hành giả sẽ hổ thẹn nếu phải mời ai ăn. Và khi hành giả đã nhúng tay bóp nát thức ăn ấy, mồ hôi chảy xuống năm ngón tay vị ấy làm cho bất cứ loại đồ ăn khô nào cũng phải ướt đẫm.

15. Và khi vẻ ngoài tốt đẹp của nó đã bị hỏng vì sự bóp nát, làm thành nắm tròn cho vào miệng, thì khi ấy hàm răng dưới hoạt động như một cái cối, hàm răng trên như cái chày, lưỡi như bàn tay. Ðồ ăn ở đấy bị nghiền nát bằng chày răng giống như thức ăn trong máng ăn của chó, trong khi vị ấy đảo qua lại bằng cái lưỡi. Rồi nước bọt ở đầu lưỡi làm lấm nó, nước bọt đặc ở đằng sau lưỡi làm lấm nó, bẩn nơi chân răng chỗ tăm không xỉa đến, cũng làm lấm nó.

16. Khi đã bị nghiền, bị lấm như vậy, hợp chất đặc biệt này bây giờ đã mất hết màu sắc mùi vị nguyên thủy của nó, trở thành một thức hoàn toàn làm nôn mửa như đồ chó nôn ra trong một cái máng ăn. Song mặc dù tình trạng nó là như vậy, nó vẫn có thể được nuốt xuống bởi vì đã khuất tầm con mắt thấy.

Trên đây là tính cách bất tịnh cần được quán về phương diện sử dụng.

17. 4. Thế nào là về sự tiết ra? Chư Phật, Ðộc-giác và Chuyển Luân Vương chỉ có một trong bốn thứ tiết lậu là mật, đàm, mủ và máu. Nhưng những người kém công đức thì tiết lậu cả bốn thứ. Bởi thế, khi đồ ăn đã đến giai đoạn được ăn và vào bên trong, và khi ấy, nơi một người tiết nhiều mật nó trở thành buồn nôn như trộn lẫn với dầu madhuka, nơi một người tiết đàm nhiều, nó giống như được lẫn với nước lá cây nāgabalā, nơi một người tiết mủ nhiều, nó giống như lẫn với sữa thối và nơi một người tiết máu nhiều, nó như được nhuộm, hoàn toàn nôn mửa. Ðây là khía cạnh bất tịnh của tiết lậu cần được quán.

18. 5. Thế nào là về chỗ chứa? Khi thức ăn đã vào ở trong bụng và lẫn với một trong những thứ tiết lậu nói trên, thì cái chỗ chứa mà nó đi vào không phải là dĩa bằng vàng, đĩa bằng bạc hay đĩa bằng pha lê gì cả. Trái lại, nếu nó được nuốt vào bởi một người mười tuổi, thì nó được tìm thấy trong một lỗ chứa phân mười năm không rửa. Nếu nó được nuốt vào bởi một người hai mươi tuổi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi,sáu mươi, bảy mươi, tám mươi, chín mươi, nếu nó được nuốt vào bởi một người một trăm tuổi, thì nó tự thấy được nằm trong một thùng phân một trăm năm không rửa. Ðây là khía cạnh bất tịnh về chỗ chứa cần được quán sát.

19. 6. Thế nào là về phương diện không được tiêu hoá? Sau khi thức ăn này đã đến một chỗ như thế làm chỗ chứa nó, bao lâu nó chưa được tiêu thì nó vẫn ở nguyên chỗ, được vây phủ bởi bóng tối mịt mờ, những luồng gió len lỏi vào nó, nhuốm đủ thứ mùi dơ uế hoàn toàn hôi thối buồn nôn. Và cũng như khi một đám mây trái mùa đổ mưa xuống vào thời hạn hán, các hồ đầy những thứ rác rưởi và xác chết, rắn, chó v.v... ở cổng làng tiện dân, bấy lâu nung nấu dưới sức nóng của mặt trời, bây giờ sủi bọt lên, cũng vậy, những gì đã được nuốt xuống hôm đó và hôm trước đó cứ ở lại đó với nhau, bị nhốt kín dưới lớp đàm, sủi bọt do sự lên men bởi sự nóng của hỏa đại trong cơ thể, thức ăn ấy trở thành một tập thể gớm ghiếc. Ðây là tính chất bất tịnh về phương diện cái khó tiêu.

20. 7. Thế nào là về khía cạnh những gì được tiêu hoá? Khi thức ăn nuốt vào, mà được nấu chín hoàn toàn bởi sức nóng trong cơ thể thì nó không biến thành vàng, bạc v.v... như quặng vàng, quặng bạc được nấu ra vàng bạc. Thay vì thế, nó sủi bọt, sủi bong bóng biến thành phân và chứa đầy chỗ chứa đồ ăn đã tiêu hoá, như đất sét nâu được ém đầy vào một cái ống bằng bay thợ nề, và nó biến thành nước tiểu chứa đầy bàng quang. Ðây là tính chất bất tịnh về phương diện đồ ăn được tiêu hóa cần phải quán.

21. 8. Thế nào là về phương diện kết quả? Khi nó được tiêu hoá, nó sản xuất đủ thứ dơ dáy gồm tóc, lông, móng, răng, và những thứ còn lại. Khi nó không được tiêu, thì nó phát sinh một trăm thứ bệnh khởi đầu bởi ngứa ngáy, sởi, đậu mùa, phung hủi, dịch, lao phổi, ho, tiêu chảy v.v... Ðấy là kết quả của nó. Ðây là tính chất bất tịnh cần quán sát về phương diện kết quả.

22. 9. Thế nào là về phương diện thoát ra? Khi nó được nuốt vào, nó vào bằng một cửa, mà sau đó khi đi ra nó tuôn ra bằng nhiều cửa theo cách khởi đầu là “ghèn từ con mắt, ráy tai từ lỗ tai” (Sn 197). Khi nuốt xuống, nó được nuốt cùng với một đám đông người tụ họp. Nhưng khi chảy ra, khi đã biến thành phân, tiểu v.v... thì nó chỉ được bài tiết trong quạnh quẽ cô đơn. Vào ngày thứ nhất, người ta khoái thích ăn nó, nở mặt nở mày, đầy hạnh phúc và hân hoan. Vào ngày thứ hai, người ta bịt hai lỗ mũi để tống nó ra, vẻ mặt nhăn nhó, nhờm gớm và buồn thảm. Vào ngày đầu, người ta nuốt nó xuống với sự thỏa mãn, thèm thuồng, tham ăn, say mê. Nhưng vào ngày thứ hai, chỉ sau một đêm trôi qua, người ta bài tiết nó với vẻ chán chường, hổ thẹn, sỉ nhục và nhờm gớm. Bởi vậy, Cổ Ðức có nói:

23.

Thức ăn uống được đánh giá lớn lao—
Thứ cứng để nhai, thứ mềm nhấm nháp—
Tất cả đi vào bằng một cửa,
Nhưng do chín cửa chúng ùa ra.

Thức ăn uống quý giá như vậy—
Thứ cứng để nhai, thứ mềm nhấm nháp—
Người thích ăn có bạn sum vầy,
Nhưng chỉ bài tiết trong cô độc.

Thức ăn uống quý giá làm sao—
Thứ cứng để nhai, thứ mềm nhấm nháp—
Khi ăn thì khoái thích lên cao,
Khi bài tiết gớm nhờm câm lặng.

Thức ăn uống quý giá thế mà—
Thứ cứng để nhai, thứ mềm nhấm nháp—
Chỉ cần một đêm trôi qua cũng đủ,
Biến chúng thành uế vật thối tha.

Ðấy là tính chất bất tịnh cần được quán sát về khía cạnh tuôn ra.

24. 10. Thế nào là về khía cạnh vấy bẩn? Vào lúc sử dụng nó, hành giả làm bẩn tay, môi, lưỡi, lưỡi trong, và những thứ này trở nên gớm ghiếc vì dính đầy thức ăn. Và ngay cả khi được tẩy rửa, nó cũng phải được rửa nhiều lần để hết mùi thối. Và cũng như khi cơm đang sôi, thì những trấu, bột bao bọc hạt gạo v.v... nổi lên trên và vấy bẩn cái miệng, cái vành, cái vung nồi, khi ăn cũng vậy, khi đồ ăn dâng lên trong khi nó được nấu và sục sôi bởi hỏa đại trong thân xác lan khắp châu thân, nó biến thành tét răng làm bẩn răng, biến thành nước miếng, đờm v.v... làm bẩn lưỡi, lưỡi trong, v.v... và nó biến thành ghèn, ráy tai, nước mũi, phân tiểu, làm bẩn mắt, tai, mũi, và các đường đại tiểu tiện. Và khi những cái cửa này bị nó làm cho dơ dáy, thì mặc dù tắm rửa hằng ngày, chúng cũng không trở nên sạch sẽ hay đáng ưa chút nào. Lại có vài chỗ trong số ấy, sau khi rửa nó xong, người ta phải rửa lại bàn tay, mà cũng không hết tính chất ghê tởm, dù có rửa hai, ba lần với đất sét, phân bò và bột trầm hương. Ðây là cách quán tính bất tịnh về khía cạnh vấy bẩn.

25. Khi hành giả quán sát tính chất bất tịnh ở mười khía cạnh như trên, đánh mạnh vào nó với tầm và tứ, thì đoàn thực hiện rõ tính chất đáng tởm đối với vị ấy. Hành giả tu tập tướng ấy nhiều lần, phát triển, làm cho nó sung mãn. Khi hành giả làm như thế, những triền cái được áp đảo, và tâm hành giả tập trung ở cận hành định, nhưng không đắc định an chỉ do bởi tính chất sâu xa của đoàn thực kể như một pháp có tự tánh riêng biệt. Nhưng tưởng được rõ rệt ở đây trong lúc quán khía cạnh bất tịnh, đó là lý do đề mục thiền này có tên gọi là “tưởng về bất tịnh trong thức ăn”.

26. Khi một Tỷ-kheo tu tập tưởng về bất tịnh trong đồ ăn đoàn thực này, thì tâm vị ấy lùi lại, dội ngược trước lòng tham vị ngon. Vị ấy tự nuôi sống bằng thức ăn mà không kiêu xa, chỉ vì mục đích vượt qua biển khổ, ăn với tư thái của người phải ăn thịt con để đi qua sa mạc (S II 98). Khi ấy lòng tham đối với ngũ dục được vị ấy hiểu một cách hoàn toàn, không khó khăn, nhờ đã hiểu thấu đoàn thực. Vị ấy hoàn toàn hiễu rõ sắc uẩn nhờ đã hiểu hoàn toàn năm dục công đức (năm dục lạc). Sự tu tập về thân hành niệm đưa đến viên mãn nơi vị ấy nhờ quán bất tịnh trong thức ăn. Vị ấy đã đi vào đạo lộ phù hợp với Tưởng về Bất tịnh. Và cứ đi trên đường ấy, thì dù hành giả chưa chứng được mục tiêu Bất tử ngay trong đời này, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một thiện thú tốt đẹp.

Ðây là giải thích chi tiết về tu tập tưởng bất tịnh nơi thức ăn.

Phân Tích Bốn Ðại

Ðịnh Nghĩa Danh Từ

27. Bây giờ, đến sự trình bày về tu tập Phân tích bốn đại, được liệt kê là “Một phân tích” kế tiếp bất tịnh tưởng về thức ăn.

Ở đây, phân tích (vavatthāna) là xác định bằng cách nói rõ tính chất cá biệt của nó. “Sự tác ý đến bốn đại”, “đề mục thiền về bốn đại” hay “phân tích bốn đại” tất cả đều nói cùng một chuyện.

Sự phân tích này được trình bày theo hai cách: lược và chi tiết. Nó được trình bày lược thuyết theo kinh Mahāsatipaṭṭhāna (Ðại Niệm xứ) (D II 294), và trình bày chi tiết trong ba kinh Mahāhatthipadopama (Tượng tích dụ đại) (M I 185), kinh Rāhulovāda (Giáo giới La Hầu La) (M I 421) và kinh Dhātuvibhaṅga (Giới phân biệt) (M III 240).

Kinh văn và lược giải

28. Nó được trình bày vắn tắt trong kinh Ðại Niệm xứ, cho một người lợi tuệ (mau hiểu) có đề tài thiền quán là bốn đại chủng như sau: “Này các Tỷ-kheo, như một đồ tể thiện xảo hay đệ tử của người đồ tể, sau khi đã giết một con bò, và ngồi ở ngã tư đường, xẻ nó ra thành từng miếng, cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một vị Tỷ-kheo quán sát thân này, dù đặt như thế nào, sử dụng thế nào cũng chỉ gồm có bốn đại: Trong thân này, đây là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại” (D II 294).

29. Ý nghĩa như sau: (lược). Ðặt để như thế nào, sử dụng như thế nào: là dù ở trong uy nghi nào bất cứ đi, đứng, nằm hay ngồi.

30. Cũng như người đồ tể cho bò ăn xong, đem nó tới lò thịt, trói nó lại, làm thịt nó. Khi thấy nó đã bị giết, đã chết, người ấy vẫn không mất cái tưởng “bò” cho đến khi nó bị phanh ra chia thành từng phần. Khi người ấy đã chia con bò ra, khi ngồi đấy, nó mất cái tưởng “bò” và cái tưởng “thịt” phát sinh. Nó không nghĩ: “Ta đang bán bò” hoặc “Họ đang đem bò đi” mà nó nghĩ: “Ta đang bán thịt” hoặc “Họ đang mang thịt đi”. Cũng vậy, Tỷ-kheo này khi còn là phàm phu ngu si — dù đang làm cư sĩ hay đã xuất gia — không mất cái tưởng “chúng sinh”, hay “người”, hay “ngã tính”, bao lâu chưa quán sát thân này, bằng lối phân tích thành bốn đại chủng, dù ở trong tư thế nào, được sử dụng cách nào, đều chỉ gồm có tứ đại. Nhưng khi Tỷ-kheo ấy đã phân tích thân này là gồm tứ đại, thì vị ấy mất đi cái tưởng “chúng sanh”, và tâm vị ấy an trú trên bốn đại chủng. Bởi thế mà Đức Thế Tôn dạy: “Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo ... cũng thế, một Tỷ-kheo quán sát thân này ... gồm có địa đại, thủy đại, hỏa đại, và phong đại”.

Chi tiết

31. Trong kinh Mahāhatthipadopama (Tượng tích dụ đại) sự phân tích tứ đại được trình bày chi tiết, dành cho một người tuệ không bén nhạy lắm, và đề mục thiền của vị ấy là bốn đại chủng — và trong các kinh Rāhulovāda (Giáo giới La Hầu La) và Dhātuvibhaṅga (Giới phân biệt) cũng vậy — như sau:

“Và này chư hiền, thế nào là địa đại ở bên trong? bất cứ gì ở nội thân thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù kiên cứng, bị chấp thủ — đây gọi là nội địa giới” (M I 185).

“Và chư hiền, thế nào là Thủy giới ở trong? cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ như mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu, và bất cứ gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ — đây gọi là nội thủy giới” (M I 187).

“Và chư hiền, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ, nghĩa là, cái gì khiến cho thân thể nóng lên, biến hoại, thiêu đốt, cái gì khiến cho những vật được ăn, uống, nhai nếm, có thể khéo tiêu hoá, hay tất cả những vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ — đây gọi là nội hỏa giới” (M I 188).

“Và này chư hiền, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc về động tánh, bị chấp thủ, nghĩa là gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong bụng, gió trong ruột, gió thổi qua các chân tay, hơi thở vô, hơi thở ra, hay bất cứ gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ — đây gọi là nội phong giới” (M I 188).

32. Ðây là một giải thích về những danh từ không rõ. Thuộc nội thân, thuộc cá nhân: cả hai đều chỉ cái gì thuộc chính bản thân, vì cái gì thuộc bản thân được phát sinh ngay trong tự ngã (attani jātaṃ). Nghĩa là được bao gồm trong dòng tương tục của một người. Ðược gọi là “nội” vì nó phát sinh trong tự ngã, cũng như trong thế gian câu chuyện giữa phụ nữ với nhau được gọi là “chuyện đàn bà”. (lược)

33. Kiên cứng: cứng đơ. Thô phù: nhám. Bị chấp thủ: bị tóm bắt một cách chặt chẽ (bởi nghiệp). Nghĩa là bị chấp chặt, ôm chặt, liên kết chặt chẽ xem như “tôi” và của “tôi”.

34. (lược) Ở đây não cần được thêm vào, vì địa giới cần được hiểu là gồm có hai mươi phần tử.

35. Nước (āpo) là cái chảy (appoti), chảy liên tục (pappoti) đến một chỗ nào để thành một tình trạng là dòng nước. Chất lỏng (āpo-gata) là cái gì đi (gata) trong các loại nước (āpo) như nước do nghiệp sinh v.v... Ðó là cái có tính chất “dính liền” của thủy đại.

36. Lửa là hâm nóng. Chất nóng là cái gì đi trong các loại lửa, là cái có đặc tính của hơi nóng. Cái gì khiến cho cơ thể nóng lên: nghĩa là khi bị kích động, nó nóng như bởi lên cơn sốt một ngày v.v... biến hoại: là già đi, đạt đến sự tàn tạ của các căn, mất sức khỏe, da nhăn, tóc trở màu tiêu muối v.v... Thiêu đốt: là làm cho thân thể nóng lên, khiến người ta phải kêu: “nóng quá, nóng quá” muốn tắm rửa cả trăm dạo, muốn bôi dầu hương gosīsa v.v... và muốn làn gió mát của một cây quạt. Cái gì được ăn uống nhai nếm, được hoàn toàn tiêu hóa: nhờ hỏa giới bên trong, mà những gì ta ăn uống vào được tiêu, nghĩa là được ép ra nước. Và ở đây, ba loại đầu của hỏa giới, nghĩa là “được hâm nóng”, “biến hoại”, “thiêu đốt” thuộc cả bốn nguồn gốc (xem Ch.XX, 27) còn cái cuối cùng “được tiêu hóa” là do nghiệp sanh.

37. Gió được định nghĩa là thổi. Ðộng tánh là cái gì đi vào trong các loại gió, có đặc tính của gió, như gió thổi lên: những luồng gió (năng lực) đưa lên phía trên gây ra sự mửa, ợ v.v... Gió thổi xuống: những năng lực đi xuống tống ra ngoài phân và tiểu. Gió trong bụng: những năng lực phía ngoài ruột. Gió trong ruột: những năng lực ở bên trong ruột. Gió đi qua tay chân: những năng lực phát sinh sự co duỗi, và được phân phối qua tứ chi và toàn thân bởi hệ thần kinh. Hơi thở vô: Gió từ mũi đi vào. Hơi thở ra: Gió từ mũi thoát ra. Và ở đây, năm thứ gió đầu thuộc cả bốn nguồn gốc. Hơi thở vô ra là do tâm sinh.

Trong mỗi trường hợp, câu “và bất cứ cái gì khác”, là bao gồm thủy, hỏa, hay phong giới có ở trong ba phần kia (ví dụ: địa giới cũng ở trong thủy hỏa và phong giới. Các giới kia cũng vậy).

38. Bởi vậy, cả bốn giới đã được kể chi tiết thành 42 khía cạnh, địa giới có 20, thủy 11, hỏa 4 và phong 6.

Phương Pháp Tu Tập Vắn Tắt

39. Về phương pháp tu tập ở đây, sự phân biệt bốn đại một cách chi tiết như “Tóc là địa đại, lông là địa đại” (hay địa giới) có vẻ nhàm đối với một Tỷ-kheo mau hiểu (lợi tuệ). Ðề mục thiền trở nên sáng tỏ đối với vị này nếu tác ý đến nó như sau: “Cái gì có đặc tính cứng là địa đại, có đặc tính dính là thủy đại, có đặc tính làm chín mùi là hỏa đại, có đặc tính duy trì là phong đại”. Nhưng khi một người không quá mau hiểu (chậm lụt) mà tác ý đề mục theo cách này, thì nó mờ mịt và không hiện rõ cho vị ấy. Nó chỉ trở nên rõ rệt với vị ấy nếu ông tác ý đến nó theo cách trước. Tại sao?

40. Ví dụ có hai Tỷ-kheo cùng đọc một bản kinh có nhiều chỗ trùng lập bị bỏ... thì vị mau hiểu sẽ lấp vào các chỗ trống (chỗ trùng lập đã bỏ) một hay hai lần, sau đó vị ấy cứ tiếp tục đọc bản kinh, chỉ nói lại hai chỗ trùng lập ở đầu và cuối, còn người chậm lụt thì phải lập lại tất cả những chỗ trùng lập đã bỏ trống. Người chậm hiểu thì nói “Cái anh này đọc kiểu gì kỳ vậy? Không để cho người ta có thì giờ máy môi? Nếu tụng đọc kiểu này, làm sao ta có thể quen thuộc với bản kinh được?” Người mau hiểu thì bảo: “Cái anh này, tụng kiểu gì kỳ vậy? Không để cho người ta đi tới hết bản kinh? Nếu tụng đọc kiểu đó, thì đến bao giờ người ta mới đọc hết bản kinh này?” Bởi vậy, sự phân tích chi tiết bốn đại bằng tóc, lông v.v... đối với người mau hiểu có vẻ thừa, nhưng đề mục thiền trở nên rõ rệt đối với vị ấy nếu tác ý đến nó một cách vắn tắt như “Cái gì cứng thuộc về địa giới” v.v... Nhưng khi người chậm hiểu, tác ý theo cách ấy, thì đề mục trở nên tối nghĩa, không rõ rệt, và nó chỉ rõ rệt với vị ấy nếu tác ý đến đề mục một cách chi tiết như tóc, lông v.v...

41. Bởi vậy, trước tiên, người lợi tuệ (mau hiểu) muốn tu tập đề mục thiền này, nên đi vào độc cư. Rồi vị ấy nên chú ý đến thân xác vật chất của mình, và phân biệt các đại một cách vắn tắt như sau: “Trong thân này, cái gì thuộc chất cứng, thô là địa đại (giới), cái gì dính và chảy là thủy đại, cái gì làm cho chín hay nóng là hỏa đại, cái gì duy trì hay động chuyển là phong đại.” Và hành giả nên chú ý, hay tác ý đến nó, quán sát nhiều lần, là “địa đại, thủy đại”, nghĩa là quán thân này như là tứ đại mà thôi, không phải là một chúng sanh, không có tự ngã.

42. Khi hành giả nỗ lực cách đó, thì không bao lâu định sanh khởi nơi vị ấy, được tăng cường bởi tuệ soi sáng sự phân loại các đại chủng, và định này chỉ là cận hành định, không đạt đến định an chỉ vì nó có đối tượng là những đặc tính cá biệt.

43. Hoặc, có bốn thân phần này do bậc Tướng quân Chánh pháp (Sāriputta) nói đến với mục đích chứng minh không có ngã trong bốn đại chủng như sau: “Khi có một khoảng trống được vây phủ bằng xương, gân, thịt và da thì có ra danh từ sắc” (M I 190). Và hành giả nên phân tích mỗi thứ này thành một thực thể biệt lập, tách rời chúng ra với bàn tay của tri kiến, rồi phân biệt theo cách đã nói như: “Trong những thứ này, cái gì cứng, thô là địa đại.” Và hành giả nên tác ý đến nó nhiều lần, chú ý, quán sát nó là chỉ có địa đại, không phải là một chúng sinh, không có tự ngã.

44. Khi hành giả nỗ lực theo cách ấy, chẳng bao lâu định khởi lên nơi vị ấy, được tăng cường bằng tuệ soi sáng sự phân loại bốn đại chủng, và định này chỉ là cận hành định, không đạt đến định an chỉ, vì nó có những đặc tính cá biệt làm đối tượng.

Ðây là phương pháp tu tập khi sự phân tích đại chủng được trình bày vắn tắt.

Phương Pháp Chi Tiết

45. Phương pháp trình bày chi tiết cần được hiểu như sau. Một thiền giả không quá nhạy về tuệ (chậm lụt) mà muốn tu tập đề mục thiền này, thì học các đại một cách chi tiết dưới 42 khía cạnh, từ một bậc thầy, và sống tại một trú xứ... thích hợp thuộc loại đã mô tả. Rồi khi đã xong các phận sự, vị ấy nên đi vào độc cư và tu tập đề mục thiền theo 4 cách như: (i) với các thành phần lược thuyết, (ii) với các thành phần quảng thuyết, (iii) với các đặc tính lược thuyết, (iv) với các đặc tính quảng thuyết.

(i) Với các thành phần lược thuyết

46. Ở đây, thế nào hành giả tu tập đề mục này với các thành phần lược thuyết. Ðó là khi vị ấy phân tích như sau: “Trong 20 phần, cái gì có hình thái kiên cứng là địa giới”, vị ấy phân tích như sau: “Trong 12 phần, chất lỏng gọi là nước, với hình thái dính liền, là thủy giới”, và vị ấy phân tích như sau: “Trong 4 phần, cái gì làm chín là hỏa giới”, và vị ấy định rõ như sau: “Trong 6 phần, cái gì có hình thái duy trì là phong giới.” Khi hành giả phân tích chúng như vậy, chúng trở nên rõ rệt đối với vị ấy. Khi vị ấy chú ý, tác ý chúng nhiều lần, quan sát chúng, định sẽ khởi lên nơi hành giả, và chỉ là cận hành định.

(ii) Với các thành phần quảng thuyết

47. Tuy nhiên, nếu đề mục thiền của vị ấy không đi đến thành công khi tu tập cách trên, thì hành giả nên tu tập nó với các thành phần bằng cách quảng thuyết. Như thế nào? Trước hết vị Tỷ-kheo cần phải thực thi những điều chỉ dẫn đã nói trong phần quán ba mươi hai vật dưới mục trình bày về Thân hành niệm kể như một đề mục thiền (Ch. VIII, 48-78), nghĩa là bảy thiện xảo trong sự học, mười thiện xảo về việc chú ý. Và vị ấy cần khởi sự bằng cách học thuộc lòng, theo thứ tự xuôi và ngược, những nhóm năm món “tóc, lông, móng, răng, da” không bỏ một món nào. Sự khác biệt duy nhất là ở pháp thân hành niệm, sau khi tác ý đến tóc v.v... về màu sắc, hình dáng, phương hướng, trú xứ và giới hạn, tâm được định nhờ quán bất tịnh, còn ở đây, tâm được định do quán bốn đại chủng. Bởi thế ở cuối mỗi phần, sau khi tác ý đến tóc v.v... theo năm cách khởi từ màu sắc, sự chú ý cần được làm như sau.

48. Những thứ này gọi là tóc mọc trên lớp da trong bọc lấy cái sọ. Ở đây, cũng như cỏ kuṇtha mọc trên một tổ kiến, cái chóp tổ kiến không biết rằng “Cỏ kuṇtha đang mọc trên ta”, mà cỏ kuṇtha cũng không biết “Ta đang mọc trên tổ kiến”. Cũng thế, da trong không biết “Tóc mọc trên ta”, tóc cũng không biết “Tóc mọc trên lớp da trong bọc lấy cái sọ.” Những vật ấy không có sự bận tâm đến nhau hay quán sát nhau. Bởi vậy, cái được gọi là tóc chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

49. Lông mọc trên làn da trong bao bọc thân thể. Ở đây cũng như khi cỏ dabba mọc trên công viên trong một khu làng trống, công viên không thể biết “Cỏ dabba mọc trên ta”, mà cỏ dabba cũng không biết “Ta mọc trên một công viên trong khu làng trống”. Cũng thế, da trong của thân thể không biết “Lông mọc trên ta”, lông cũng không biết “Ta mọc trên làn da trong bọc lấy thân thể”. Những vật ấy không bận tâm đến nhau. Bởi vậy, cái được gọi là lông chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

50. Móng mọc trên đầu các ngón tay ngón chân. Ở đây, cũng như khi những đứa trẻ chơi trò chơi đâm thủng những hột của trái madhuka bằng cây nhọn, những cây nhọn ấy không biết “Những hột trái madhuka đang được để trên ta” mà những hột madhuka cũng không biết “Ta được đâm với cây nhọn”. Cũng thế, những ngón tay ngón chân không biết “Móng mọc trên đầu ta” móng cũng không biết “Chúng ta đang mọc trên đầu các ngón tay ngón chân”. Những vật ấy không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là móng chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

51. Răng mọc trong xương hàm. Ở đây, cũng như khi những cột trụ được đặt trong những lỗ đá và được làm cho dính chặt bằng xi măng, những lỗ đá không biết rằng “Cột được đặt trong chúng ta”, cái cột cũng không biết “Ta đang được đặt trong lỗ đá”. Cũng thế, xương hàm không biết “Răng mọc trong ta”, răng không biết “Ta mọc trong xương hàm”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát nhau. Bởi vậy, cái được gọi là răng chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

52. Da được tìm thấy bao bọc thân thể. Ở đây, cũng như một cái đàn bầu được bọc bằng một lớp da bò còn ướt, cái đàn bầu không biết “Ta được bọc với da bò ướt”, mà da bò cũng không biết “Một cái đàn bầu được ta bọc”. Cũng thế, thân thể không biết “Ta được bọc bằng da”, da cũng không biết “Một thân thể được ta bọc”. Những vật này không bận tâm đến nhau không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là da chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

53. Thịt được tìm thấy trét đầy khắp cả bộ xương. Ở đây, cũng như khi một bức tường được trét bằng đất sét đặc, tường không biết “Ta được trét bằng đất sét đặc”, mà đất sét cũng không biết “Ta được trét trên tường”. Cũng thế, bộ xương không biết “Ta được trét bằng thịt” (gồm chín trăm mảnh), mà thịt cũng không biết “Một bộ xương được trét bằng ta”. Những vật này không bận tâm, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là thịt chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

54. Gân được tìm thấy ở trong thân thể nối liền các xương lại với nhau. Ở đây, cũng như khi những cây mây và củi được bó lại với nhau bằng giây leo, mây và củi không biết “Chúng ta được bó lại với nhau bằng dây leo”, giây leo cũng không biết “Cây mây và củi được bó lại với nhau bằng chúng ta”. Cũng thế, xương không biết “Ta được bó với nhau bằng gân”, gân cũng không biết “Xương được bó nhau lại bằng ta”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là gân chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

55. Xương thì xương gót chân được tìm thấy nâng đỡ xương mắc cá, xương mắc cá đỡ xương ống chân, xương ống chân đỡ xương đùi, xương đùi đỡ xương hông, xương hông đỡ xương sống lưng, xương sống lưng đỡ xương cổ, xương cổ được tìm thấy nâng đỡ xương sọ. Xương sọ nằm trên xương cổ, xương cổ nằm trên xương sống lưng, xương sống lưng nằm trên xương hông, xương hông nằm trên xương đùi, xương đùi nằm trên xương ống chân, xương ống chân nằm trên xương mắc cá, xương mắc cá nằm trên xương gót chân.

56. Ở đây, cũng như khi những cục gạch, gỗ hay phân bò khô được dựng lên, chất chồng lên nhau, những cái ở dưới không biết “Mỗi đứa chúng ta đỡ đứa ở trên”, mà những cái ở trên cũng không biết “Mỗi đứa chúng ta nằm trên đứa ở dưới”. Cũng thế, xương gót chân không biết “Ta đang đỡ xương mắc cá”, xương mắc cá không biết “Ta đang đỡ xương ống chân”, xương ống chân không biết “Ta đang đỡ xương đùi”, xương đùi không biết “Ta đang đỡ xương hông”, xương hông không biết “Ta đang đỡ xương sống lưng”, xương sống lưng không biết “Ta đang đỡ xương cổ”, xương cổ không biết “Ta đang đỡ xương sọ”, xương sọ không biết “Ta ở trên xương cổ”, xương cổ không biết “Ta ở trên xương sống lưng”, xương sống lưng không biết “Ta ở trên xương hông”, xương hông không biết “Ta ở trên xương đùi”, xương đùi không biết “Ta ở trên xương ống chân”, xương ống chân không biết “Ta ở trên xương mắc cá”, xương mắc cá không biết “Ta ở trên xương gót chân”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là xương chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

57. Tủy được tìm thấy trong những ống xương đủ các loại. Ở đây, cũng như khi những chồi măng luộc được đặt trong những đốt tre v.v... những đốt tre không biết “Những chồi măng được đặt trong ta” mà măng cũng không biết “Chúng ta ở trong những đốt tre”. Cũng thế, xương không biết “Tủy ở trong ta”, tủy không biết “Ta ở trong xương”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là tủy chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

58. Thận được tìm thấy nằm hai bên quả tim, được buộc bằng sợi gân lớn nhất phát xuất từ nơi gáy với một cái góc duy nhất, nhưng rẽ hai sau khi chạy một đường ngắn. Ở đây, cũng giống như, khi hai trái xoài được buộc lại với nhau bằng cái cuống của chúng, thì cái cuống không biết “Một cặp trái xoài được buộc lại với nhau bởi ta”, cặp trái xoài cũng không biết “Chúng ta được buộc lại với nhau bằng cái cuống”. Cũng thế, sợi gân lớn không biết “Hai quả thận được buộc liền nhau bởi ta”, thận cũng không biết “Ta được buộc bằng sợi gân lớn”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát nhau. Bởi vậy, cái được gọi là thận chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

59. Tim được tìm thấy bên trong thân thể, gần giữa khung xương sườn. Ở đây, cũng như khi một miếng thịt được đặt gần một cái khung xe cũ, xe không biết “Một miếng thịt được đặt gần khoảng giữa của ta”, và miếng thịt cũng không biết “Ta ở gần khoảng giữa của phía bên trong một cái khung xe cũ”. Cũng thế, bên trong bộ xương sườn không biết “Một trái tim ở gần khoảng giữa của ta”, quả tim cũng không biết “Ta ở gần khoảng giữa của bên trong khung xương sườn”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là tim chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

60. Gan được tìm thấy ở trong thân, gần phía hông phải giữa hai vú. Ở đây, cũng như khi hai cục thịt sinh đôi được gắn bên hông một cái nồi, hông nồi không biết “Một cục thịt sinh đôi được gắn trên ta”, cục thịt đôi cũng không biết “Ta được gắn trên hông nồi”. Cũng thế, hông phải ở giữa hai vú không biết “Gan ở cạnh ta”, gan cũng không biết “Ta ở cạnh hông phải khoảng giữa hai vú”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái gọi là gan chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

61. Về hoành cách mô thì hoành cách mô kín được tìm thấy bao bọc tim và thận, trong khi hoành cách mô không kín được tìm thấy bao bọc thịt dưới da khắp cơ thể. Ở đây, cũng như khi thịt được gói trong giẻ rách, thịt không biết “Ta đang được gói trong một miếng giẻ”, miếng giẻ cũng không biết “Thịt được bọc ở trong ta”. Cũng thế, tim và thận, và thịt khắp thân thể không ý thức rằng “Ta được bọc bởi hoành cách mô”, hoành cách mô cũng không biết “Tim, thận và thịt trong toàn thân được ta bao bọc”. Những vật ấy không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là hoành cách mô chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

62. Lá lách được tìm thấy gần phía bụng trên, bên trái quả tim. Ở đây, cũng như khi một cục phân bò nằm gần phía trên một cái vựa thóc, thì phía trên vựa thóc không biết “Một cục phân bò ở cạnh ta”, cục phân bò cũng không biết “Ta ở phía trên của một cái vựa”. Cũng thế, phía bụng trên không biết “Lá lách ở cạnh ta”, lá lách cũng không biết “Ta ở cạnh phía bụng trên”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là lá lách chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

63. Phổi được tìm thấy bên trong thân giữa ngực, treo trên tim và gan và che khuất chúng. Ở đây, cũng như khi một cái tổ chim treo lơ lửng trong một vựa thóc cũ, bên trong vựa thóc cũ ấy không biết “Một cái tổ chim treo trong ta”, tổ chim cũng không biết “Ta đang treo ở trong một vựa thóc cũ”. Cũng thế, bên trong thân không biết “Phổi đang treo trong ta”, phổi cũng không biết “Ta đang treo bên trong một cơ thể”. Những vật ấy không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là phổi chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

64. Ruột non được tìm thấy bên trong cơ thể nằm dài từ cuống cổ đến ống dẫn phân. Ở đây, cũng như khi cái thây của một con rắn lớn đứt đầu cuộn lại đặt vào một cái máng đầy máu, cái máng đó không biết “Một con rắn đã được đặt trong ta”, cái thây con rắn cũng không biết “Ta ở trong một cái máng đỏ”. Cũng thế, bên trong thân thể không biết “Một cái ruột ở trong ta”, ruột cũng không biết “Ta ở trong một thân thể”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là ruột non chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

65. Ruột già được tìm thấy trong những khoảng giữa của hai mươi mốt cuộn của ruột non, nối liền chúng lại với nhau. Ở đây, giống như khi những sợi dây may lại với nhau thành một cái vòng bằng dây để chùi chân, cái vòng bằng dây ấy không biết “Những sợi dây kết lại với nhau thành tôi”, những sợi dây không biết “Ta đang khâu lại với nhau thành một cái vòng bằng dây”. Cũng thế, ruột non không biết “Ruột già bó ta lại với nhau”, ruột già cũng không biết “Chúng ta bó ruột non lại với nhau”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là ruột già chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

66. Bao tử là những gì đã được ăn, uống, nhai, nếm, nằm trong bụng. Ở đây, cũng như đồ chó mửa nằm trong một cái máng chó ăn, máng chó ăn không biết “đồ chó mửa ở trong ta”, đồ chó mửa cũng không biết “Ta đang ở trong một cái máng chó ăn”. Cũng thế, bao tử không biết “đồ ăn nằm trong tôi”, đồ ăn cũng không biết “tôi nằm trong bao tử”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là bao tử chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

67. Phân được tìm thấy ở cuối ruột, giống như đốt tre dài tám ngón và được gọi là chỗ chứa đồ ăn đã tiêu hóa. Ở đây, cũng như khi đất sét mềm nâu được độn vào một đốt tre, đốt không biết “đất sét nâu ở bên trong ta”, đất sét nâu cũng không biết “Ta đang ở trong ống tre”. Cũng thế, chỗ chứa phân không biết “phân đang ở trong ta”, phân cũng không biết “ta đang ở trong chỗ chứa phân”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là phân chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

68. Não được tìm thấy bên trong xương sọ. Ở đây cũng như khi một cục bột nhồi được đặt trong một cái vỏ bầu khô, vỏ bầu không biết “một cục bột nhồi đang ở trong ta”, bột nhồi không biết “ta ở trong vỏ bầu khô”. Cũng vậy, bên trong xương sọ không biết “não đương ở trong ta”, não không biết “ta ở trong xương sọ”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái gọi là não chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là địa đại kiên cứng.

69. Về Mật, mật lưu thông, gắn liền với mạng căn thì thấm nhuần cơ thể, trong khi mật cố định được tìm thấy trong túi mật. Ở đây, cũng như khi dầu thấm vào một cái bánh, bánh không biết “Dầu thấm ta”, mà dầu cũng không biết “Ta thấm vào cái bánh”. Cũng vậy, thân thể không biết “Mật lưu thông thấm trong ta”, mật lưu thông cũng không biết “Ta thấm khắp một thân thể”. Và cũng như, một bong bóng của dây leo không biết “Nước mưa ở trong ta”, nước mưa cũng không biết “Ta đang ở trong bong bóng dây leo”. Cũng thế, túi mật không biết “Mật ở trong ta”, mật cũng không biết “Ta đang ở trong túi mật”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là mật chỉ là một thành phần của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không có tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

70. Ðàm được tìm thấy trên mặt bao tử và lượng chừng một chén đầy. Ở đây, giống như khi một hố phân có bọt sủi trên mặt, hố phân không biết “Trên ta có một lớp mặt đầy bọt sủi”, lớp mặt sủi bọt cũng không biết “Ta ở trên hố phân”. Cũng thế, lớp mặt của bao tử không biết “Ðàm ở trên ta”, đàm cũng không biết “Ta ở trên mặt bao tử”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là đàm chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

71. Mủ không có trú xứ cố định. Nó được tìm thấy bất cứ chỗ nào máu đọng lại, bị hỏng, tại một thân phần bị thương do miếng nhọn ném, gai đâm, bỏng lửa hoặc tại chỗ mụn nhọt xuất hiện. Ở đây, cũng như khi một thân cây bị rìu búa chặt, sẽ chảy mủ, thì những chỗ bị chặt không biết “Mủ ở trong ta”, nhựa cây cũng không biết “Ta ở trong một chỗ bị chặt”. Cũng thế, những thân phần bị thương không biết “Mủ ở trong ta”, mủ cũng không biết “Ta ở những nơi ấy”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái gọi là mủ chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

72. Về Máu thì máu lưu chuyển được tìm thấy thấm khắp thân thể như mật. Máu trữ được tìm thấy làm đầy phần dưới chỗ có lá gan lượng chừng một chén đầy, thấm ướt thận, tim, gan, phổi. Ở đây, máu lưu chuyển cũng như mật lưu chuyển. Nhưng máu trữ thì giống như khi nước mưa lọt vào một cái ghè cũ làm ướt những cục đất, khúc cây dưới đáy, thì những cục đất khúc cây này không biết “Ta đang bị ngấm nước mưa”, nước mưa cũng không biết “Ta thấm ướt những cục đất và khúc cây”. Cũng thế, phần bên dưới lá gan hay thận v.v... không biết “Máu đang ở trong ta”, hoặc “Ta đang bị thấm ướt”, máu cũng không biết “Ta làm đầy phần dưới lá gan, ngấm ướt thận v.v...” Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là máu chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

73. Mồ hôi được tìm thấy làm đầy những lỗ chân lông, chân tóc khi có hơi nóng do lửa v.v... và nó rỉ ra từ những lỗ ấy. Ở đây, cũng như khi những bó cọng sen, cọng hoa súng được kéo ra khỏi nước thì những lỗ hổng trong cọng sen v.v... không biết “Nước rỉ ra từ nơi ta”, và nước rỉ ra cũng không biết “Ta rỉ ra từ các cọng hoa sen, hoa súng”. Cũng thế, những lỗ chân tóc, chân lông không biết “Mồ hôi rỉ ra từ ta”, mồ hôi cũng không biết “Ta rỉ ra từ chân lông chân tóc”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là mồ hôi chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

74. Mỡ là chất dầu đặc được tìm thấy ngấm khắp cơ thể của một người béo mập, và trên trái chân v.v... của một người gầy. Ở đây giống như khi một đống thịt được bọc bằng một giẻ màu vàng, đống thịt không biết “Miếng giẻ vàng ở cạnh ta”, miếng giẻ vàng không biết “Ta ở cạnh một đống thịt”. Cũng thế, thịt trên toàn thân hay trên trái chân v.v... không biết “Mỡ ở cạnh ta”, mỡ cũng không biết “Ta ở cạnh thịt trên toàn thân hay ở trên bắp chân v.v...” Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là mỡ chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

75. Nước mắt khi phát sinh, thì được thấy tràn hai lỗ mắt hay chảy xuống. Ở đây, cũng như khi những lõm trái cau non được làm đầy nước, thì lõm cau không biết “Nước ở trong ta”, nước trong lõm cau không biết “Ta ở trong lõm cau non”. Cũng thế, lỗ mắt không biết “Nước mắt ở trong ta”, nước mắt cũng không biết “Ta ở trong lỗ con mắt”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là nước mắt chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

76. Mỡ nước là chất dầu tan được tìm thấy trên lưng bàn tay và lòng bàn tay, ở gót và lưng bàn chân, trên sống mũi và trán và trên những đỉnh vai nhô lên, khi bị nóng vì lửa v.v... Ở đây, cũng như khi chảo có dầu đổ lên, thì chảo không biết “Dầu lan trên ta”, dầu không biết “Ta được rải lên trên chảo”. Cũng thế, những nơi lòng bàn tay v.v... không biết “Mỡ nước đang lan trên ta”, mỡ nước cũng không biết “Ta đang lan trên lòng bàn tay” v.v... Những vật này không bận tâm đến nhau. Bởi vậy, cái được gọi là mỡ nước chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

77. Nước dãi được tìm thấy ở trên mặt lưỡi sau khi xuống từ bên trong hai bên má, khi có điều kiện để phát sinh nước bọt. Ở đây giống như khi một cái hố bên bờ sông thường xuyên chảy nước, mặt hố không biết “nước ở trên ta”, nước không biết “Ta ở trên mặt hố”. Cũng thế, mặt lưỡi không biết “Nước bọt từ hai bên má đang nằm trên ta”, nước bọt cũng không biết “Ta xuống từ hai bên má đang nằm trên mặt lưỡi”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là nước dãi chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

78. Nước mũi được tìm thấy làm đầy hai lỗ mũi hoặc chảy xuống. Ở đây, cũng như khi một cái bị (cái túi, cái bịch) chứa đầy sữa thối, thì cái bị không biết “Ta chứa đầy sữa thối”, sữa thối không biết “Ta ở trong một cái bị”. Cũng thế, lỗ mũi không biết “Nước mũi ở trong ta” và nước mũi cũng không biết “Ta ở trong lỗ mũi”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi thế, cái được gọi là nước mũi chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

79. Nước khớp xương được tìm thấy trong một trăm tám mươi khớp xương làm nhiệm vụ bôi dầu mỡ cho chúng. Ở đây, cũng như khi một cái trục được bỏ dầu, cái trục không biết “dầu đánh bóng ta” dầu không biết “Ta đánh bóng một cái trục”. Cũng thế, một trăm tám mươi đốt xương không biết “Nước ở khớp xương làm cho ta láng bóng”, nước khớp xương không biết “Ta làm láng bóng một trăm tám mươi khớp xương”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là nước khớp xương chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

80. Nước tiểu được tìm thấy trong bàng quang (bong bóng). Ở đây, cũng như khi một cái ghè nhiều lỗ chúc ngược đầu trong một hố phân, ghè nhiều lỗ ấy không nghĩ “Hố phân thấm nước vào trong ta”, nước thấm từ hố phân vào ghè không nghĩ “Ta đang ở trong ghè”. Cũng thế, bong bóng không biết “Nước tiểu ở trong ta”, nước tiểu không biết “Ta ở trong bong bóng”. Những vật này không bận tâm đến nhau, không quan sát lẫn nhau. Bởi vậy, cái được gọi là nước tiểu chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là thủy đại dưới hình thái dính đặc.

81. Khi hành giả đã tác ý theo cách trên đến lông v.v... vị ấy cần phải tác ý bốn thành phần về hỏa đại như sau: Cái gì bởi đó người ta được làm cho nóng — đây chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là hỏa đại dưới hình thức làm chín.

Cái gì bởi đó người ta biến đổi (già) ...

Cái gì bởi đó người ta nóng lên ...

Cái gì bởi đó những gì được ăn, uống, nhai, nếm, trở nên hoàn toàn được tiêu hóa — đây chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là hỏa đại dưới hình thức làm chín.

82. Kế tiếp, sau khi tìm thấy những gió đi lên (gió ở đây có nghĩa là năng lực) là đi lên, gió đi xuống là đi xuống, gió trong bụng là trong bụng, gió trong ruột là trong ruột, gió đi qua khắp tứ chi là gió đi khắp tứ chi, và hơi thở vô thở ra là hơi thở vô, thở ra, hành giả nên tác ý đến sáu thành phần về phong đại này như sau: Cái được gọi là gió (năng lực) đi lên chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là phong đại dưới hình thái bành trướng.

Cái gì được gọi là gió đi xuống ...

Cái gì được gọi là gió trong bụng ...

Cái gì được gọi là gió trong ruột ...

Cái gì được gọi là gió đi ngang qua tứ chi ...

Cái gì được gọi là hơi thở vô hơi thở ra chỉ là một thành phần đặc biệt của thân này, không có tư tưởng, bất định, trống rỗng, không phải tự ngã, chỉ là phong đại dưới hình thái bành trướng.

83. Khi hành giả chú ý theo cách trên, bốn đại chủng trở nên rõ rệt với hành giả. Khi vị ấy tác ý, chú ý đến chúng nhiều lần, cận hành định khởi lên nơi vị ấy theo cách đã nói.

(iii) Với các đặc tính lược thuyết

84. Nhưng nếu đề mục thiền của hành giả vẫn không đi đến thành công khi hành giả tác ý theo cách trên, thì nên tác ý đến đề mục ấy với chi tiết lược thuyết. Như thế nào? Trong hai mươi thành phần tính chất cứng, nên được phân biệt là địa đại, tính chất dính liền là thủy đại, tính chất làm chín là hỏa đại, tính chất bành trướng là phong đại. Trong mười hai thành phần, tính chất dính liền cần được định nghĩa là thủy đại, tính chất làm chín cũng ở trong đó, là hỏa đại, tính chất bành trướng, cũng ở trong đó, là phong đại, tính chất kiên cứng là địa đại, tính dính liền là thủy đại. Trong sáu thành phần (6 loại gió), tính bành trướng cần được định nghĩa là phong đại, tính cứng cũng ở trong đó, là địa đại, tính dính liền là thủy đại, và tính làm chín là hỏa đại.

Khi hành giả định rõ chúng là như vậy, bốn đại chủng trở nên rõ rệt với vị ấy. Khi vị ấy chú ý đến chúng và tác ý nhiều lần, cận hành định khởi lên nơi vị ấy theo cách đã nói.

(iv) Với các đặc tính rộng thuyết

85. Nhưng nếu đề mục thiền của vị ấy không đi đến thành công khi tác ý đến nó như cách trên, thì hành giả nên tu tập bằng những đặc tính do phân tích. Như thế nào? Sau khi phân biệt tóc v.v... theo cách đã tả, tính chất cứng của tóc cần được định rõ là địa đại, tính chất dính liền của nó là thủy đại, tính chất làm chín là hỏa đại, và tính chất bành trướng là phong đại. Cả bốn đại cần được định rõ theo cách ấy với mỗi phần. (32 phần)

Khi định rõ chúng theo cách trên, các đại chủng trở nên rõ rệt đối với hành giả. Khi vị ấy tác ý đến chúng nhiều lần, cận hành định khởi lên nơi hành giả như cách đã nói.

Những phương pháp tác ý khác

86. Thêm nữa, sự chú ý đến bốn đại chủng cần được làm theo những cách sau đây: (1) Về ý nghĩa danh từ, (2) Theo từng nhóm, (3) Bằng những vi thể, (4) Về đặc tính, v.v..., (5) Về nguồn gốc phát sinh, (6) Về sự sai biệt và đồng nhất, (7) Về tính chất khả phân và bất khả phân, (8) Về phương diện giống và khác, (9) Về sự phân biệt trong ngoài, (10) Về sự bao gồm, (11) Về phương diện điều kiện, (12) Về sự thiếu phản ứng ý thức, (13) Về sự phân tích các duyên (điều kiện).

87. (1) Ở đây, một người tác ý bốn đại chủng về phương diện ý nghĩa theo hai cách: nói về biệt tướng thì gọi là đất (paṭhavī) vì nó trải ra (patthaṭa); gọi là nước (āpo) vì nó chảy (appoti), lướt (āpiyati) làm thỏa mãn (appāyati); gọi là lửa (tejo) vì nó làm nóng (tejati); gọi là gió (vāyo) vì nó thổi (vāyati). Nhưng nói về tổng tướng, thì chúng đều là giới (dhātu) vì mang (dhāraṇa) tính chất riêng, vì nắm lấy (ādāna) đau khổ, vì lựa ra (ādhāna) đau khổ (xem Chương XV, 19).

88. (2) Theo từng nhóm: có địa đại được trình bày dưới hai mươi khía cạnh khởi đầu bằng tóc, lông, và thủy đại, dưới mười hai khía cạnh khởi đầu bằng mật đàm. Bây giờ, về những thứ này:

Màu sắc, mùi, vị,
Dưỡng chất và bốn đại —
Phối hợp tám thứ ấy
Có tên gọi là tóc
Tách riêng tám thứ này
Không còn tên là tóc.

Do đó, tóc chỉ là một nhóm tám pháp, lông và những thứ còn lại cũng thế. Cộng thêm hai yếu tố nghiệp sinh (kamma-originated) thì có nhóm mười pháp: “mạng căn” và “nam hay nữ căn”. Nhưng tùy theo tính cách trội hơn đặc tính cứng hay dính liền, mà gọi là “địa đại” hay “thủy đại”.

Trên đây là sự tác ý theo từng nhóm.

89. (3) Bằng những vi thể: trong thân này, địa đại kể như tán thành bụi nhỏ và làm thành phấn cỡ như vi trần, thì có thể có lượng trung bình là một dona, địa đại ấy được liên kết với nhau bởi thủy đại với một lượng bằng phân nửa, được duy trì bằng hỏa đại (anurakkhita), nghĩa là duy trì cho địa đại khỏi rơi vào trạng thái ẩm ướt, trơn trượt do thủy đại, mà tánh của nó là nhỏ giọt (Vism-mhṭ 361), và được bành trướng (hay phồng lên) nhờ phong đại làm cho nó không bị phân tán, rã rời. Thay vì rã rời phân tán, nó đi đến những tình trạng khác nhau như nam, nữ v.v... và biểu hiện tướng nhỏ, lớn, dài, ngắn, cứng, rắn chắc v.v...

90. Thủy đại nghĩa là trạng thái dính liền, nhờ được an lập trên địa đại, duy trì bởi hỏa đại, và bành trướng bởi phong đại, nên không rỉ hay chảy đi. Thay vì rỉ chảy, nó đem lại sự đổi mới liên tục “Ðây là nói đến thủy đại kể như một chất nước giúp cho sự tăng trưởng” (Vism-mhṭ 361).

91. Và ở đây, hỏa đại cái làm cho tiêu hóa (nấu) những gì đã được ăn, uống v.v... và là tính chất làm cho ấm với đặc tính là sức nóng, nhờ an lập trên địa đại, được liên kết lại bởi thủy đại, bành trướng nhờ phong đại. Hỏa đại này duy trì cơ thể và bảo đảm cái dáng vẻ của riêng nó. Và thân này, nhờ được hỏa đại duy trì, nó không bay ra mùi hôi thối.

92. Phong đại đi qua khắp tứ chi và có đặc tính là di động và được an lập trên địa đại, làm kết tụ bởi thủy đại, và duy trì bởi hỏa đại, làm thân thể bành trướng, mà không sụp đổ, lại đứng vững và nhờ thứ phong đại di động mà nó dẻo, co duỗi, nhúc nhích tay chân trong bốn uy nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Như vậy, cái cơ chế bốn đại này tiến hành như một trò ảo thuật, lừa dối kẻ ngu bằng nam tánh, nữ tánh v.v...

Trên đây là sự tác ý đến bốn đại chủng xem như những vi thể.

93. (4) Về đặc tính, v.v...: hành giả nên tác ý bốn đại chủng theo cách sau đây: “Ðịa đại — gì là đặc tính, nhiệm vụ, biểu hiện của nó?”: Ðịa đại có đặc tính là cứng. Nhiệm vụ nó là làm nền tảng. Nó được biểu hiện bằng sự đón nhận. Thủy đại có đặc tính rỉ chảy. Nhiệm vụ nó là tăng cường. Nó biểu hiện bằng sự làm dính lại với nhau. Hỏa đại có đặc tính là nóng. Nhiệm vụ nó là làm cho chín. Nó được biểu hiện bằng sự liên tục cung cấp tính cách mềm mại. Phong đại có đặc tính bành trướng. Nhiệm vụ nó là phát sinh chuyển động. Nó biểu hiện bằng sự chuyên chở. Ðây là tác ý theo đặc tính v.v...

94. (5) Về nguồn gốc phát sinh: trong bốn mươi hai thành phần khởi đầu là tóc được trình bày trong phần luận chi tiết về địa đại v.v... thì bốn thứ bao tử, phân, mủ và nước tiểu, là do thời tiết sinh và đồ ăn sinh, bốn thứ nước mắt, mồ hôi, nước miếng và nước mũi, là thời tiết sinh và tâm sinh, hỏa đại làm tiêu hóa thức ăn là nghiệp sinh, hơi thở vô là tâm sinh, còn lại gốc từ cả bốn (thời tiết, đồ ăn, tâm và nghiệp). Ðây là cách tác ý về nguồn gốc phát sinh.

95. (6) Về sự sai biệt và đồng nhất: có sự sai biệt trong những đặc tính riêng của bốn đại, vì đặc tính (hay thể), nhiệm vụ (dụng) và tướng của địa đại là khác với đặc tính v.v... của thủy đại v.v... Nhưng có sự đồng nhất trong bốn đại về tính vật chất (sắc pháp), đại chủng giới, pháp, tính vô thường v.v...

96. Tất cả những đại chủng này đều là sắc pháp (rūpāni) vì chúng không vượt qua đặc tính “bị quấy nhiễu” (ruppana). Chúng là “đại chủng” (mahābhūta) do sự biểu hiện lớn lao v.v... Có nghĩa rằng, chúng được gọi là đại chủng vì những lý do sau đây: (a) biểu hiện lớn; (b) giống như đại huyễn thuật; (c) sự duy trì lớn; (d) thay đổi lớn; (e) vì chúng là đại và vì chúng là hữu.

97. (a) Biểu hiện lớn: chúng được biểu hiện lớn dưới hai hình thức là tương tục không chấp thủ (do nghiệp) và tương tục có chấp thủ. Biểu hiện lớn của tứ đại trong một tương tục không bị chấp được trình bày trong phần Mô tả về niệm Phật như sau:

Hai lần một trăm ngàn lý
Và bốn na do tha (nahutas) nữa:
Trái đất này, “Kẻ mang tất cả tài sản,”
Có bề dầy chừng ấy, như người ta nói (Ch. IV, 41).

Và đại chủng được biểu hiện có tầm vóc vĩ đại trong một tương tục bị chấp thủ, như trong thân thể những con cá, rùa, chư thiên, quỷ Dānava, v.v... Vì kinh nói: “Này các Tỷ-kheo, có những sinh vật lớn hằng trăm lý ở trong biển lớn” (A IV 207) v.v...

98. (b) Giống như đại huyễn thuật: một đại chủng (mahābhūta) như một huyễn sư biến nước thành pha lê, biến đất thành ra vàng, và trình bày chúng ra, hoặc tự biến mình thành ma hay thành chim, cũng vậy, tự chúng không phải xanh đen, đại chủng biến ra đại chủng sở tạo màu xanh đen, tự chúng không phải vàng ... không phải đỏ ... không phải trắng, đại chủng biến ra đại chủng sở tạo màu trắng và trình bày ra. Do vậy, chúng là đại chủng (mahābhūta) vì giống như huyễn thuật của phù thủy.

99. Và cũng như người nào bị những chúng sinh lớn như Dạ xoa ám, những chúng sinh này không ở trong cũng không ở ngoài người ấy, mà cũng không biệt lập với người ấy. Cũng vậy, những đại chủng này không ở trong nhau cũng không ở ngoài nhau, mà cũng không biệt lập nhau. Bởi thế chúng là đại chủng vì giống như những chúng sinh lớn (mahābhūta) Dạ xoa v.v... ở chỗ chúng không có chỗ đứng (tương đối với nhau) mà người ta có thể tư nghì (nghĩ bàn).

100. Và cũng như những Dạ xoa nữ dấu vẻ đáng sợ của chúng dưới màu sắc, hình dáng để lừa dối chúng sinh, cũng vậy, những đại chủng này mỗi thứ giấu diếm đặc tính và nhiệm vụ chúng như cứng thô v.v... bằng một màu da dễ ưa của thân thể đàn ông và đàn bà v.v... những hình dáng dễ ưa của tay chân và dáng điệu khả ái của ngón tay ngón chân, mày mắt, chúng lừa dối người ngu bằng cách che dấu đặc tính và nhiệm vụ chúng là thô cứng v.v... và không để cho tự tánh của chúng hay thực chất chúng xuất đầu lộ diện. Do đó, chúng là đại chủng vì ngang hàng với chúng sinh lớn tức quỷ Dạ xoa cái, ở chỗ chúng là những kẻ đại bịp.

101. (c) Duy trì lớn: vì bốn đại chủng này phải được duy trì bởi những nhu yếu lớn. Chúng đã trở thành (bhūta), sinh ra, nhờ các phương tiện thực phẩm, y phục v.v... có tầm quan trọng lớn, vì chúng cần phải được kiếm ra hằng ngày.

102. (d) Thay đổi lớn: những đại chủng không bị chấp thủ và có bị chấp thủ đều là nền tảng cho những cuộc đổi thay lớn lao. Ở đây sự biến chuyển lớn của đại chủng không bị chấp thủ là kiếp tai nổi lên (xem Ch. XIII, 34), và thay đổi của đại chủng có bị chấp thủ là xáo trộn tứ đại trong thân. Vì có câu:

Trận cháy lớn nổi lên
Từ lòng đất vọt cao
Cho đến Phạm Thiên giới
Khi thế giới thiêu hủy.

Toàn thể thế giới hệ
Một trăm ngàn triệu lý
Bị một cơn hồng thủy
Làm chìm đắm tiêu tan.

Một trăm ngàn triệu lý
Toàn thể đều tan rã
Khi thế giới hệ này
Sụp đổ vì phong đại.

Rắn miệng gỗ cắn
Làm thân thể cứng đơ
địa đại bị kích thích
nó có thể bị tóm
bởi con rắn như vậy.

Rắn miệng thối có thể
làm cho thân thối rửa
thủy đại bị kích thích
nó có thể bị tóm
bởi con rắn như vậy.

Rắn miệng lửa cắn
làm thân thể bùng cháy
hỏa đại bị kích thích
nó có thể bị tóm
bởi con rắn như vậy.

Rắn miệng kiếm cắn
làm thân thể bung ra
phong đại bị kích thích
nó có thể bị tóm
bởi con rắn như vậy.

Bởi vậy, chúng là đại chủng vì chúng đã thành căn cứ địa cho những cuộc dâu bể đa đoan.

103. (e) Vì chúng là đại và vì chúng là hữu: “đại” là vì cần đại tinh tấn lực mới phân biệt chúng nổi và “hữu” (bhūta: trở thành hiện hữu) vì chúng hiện hữu.

Trên đây là nói thế nào bốn đại được gọi là đại chủng do bởi biểu hiện (tướng) lớn, v.v...

104. Lại nữa, chúng là giới (dhātu) vì mang, chở (dhāraṇa) những đặc tính riêng của chúng, vì nắm lấy, chấp thủ (ādāna) đau khổ và bị lựa ra (ādhāna) đau khổ (xem Ch. XV, 19) và vì không cái nào thoát khỏi tính chất của giới. Chúng là pháp (dhamma) do mang giữ (dhāraṇa) tính chất riêng chúng, và do sự mang giữ như vậy trong khoảng thời gian thuộc về chúng [Ðiều này ám chỉ thời khoảng một sát-na trong đó sắc pháp hiện hữu, được nói là bằng mười bảy lần thời khoảng hiện hữu của tâm pháp (Vibh-a 25f)]. Chúng là vô thường trong nghĩa đã bị hoại, chúng là khổ theo nghĩa gây ra khủng bố, chúng vô ngã trong nghĩa không có trung tâm điểm (của thường v.v...). Do vậy, có đồng nhất trong chúng vì tất cả đều là sắc pháp, đều là đại chủng, đều là giới, đều là pháp, đều vô thường, v.v...

Ðây là cách chúng cần được tác ý về tính sai biệt và đồng nhất.

105. (7) Về tính chất khả phân và bất khả phân: bốn đại là bất khả phân vì chúng luôn luôn cùng khởi trong mỗi một nhóm sắc pháp rất nhỏ chỉ gồm tám pháp (màu, mùi, vị, dưỡng chất, bốn đại) và những thứ khác, nhưng chúng là khả phân vì có thể tách rời do đặc tính. Ðây là cách tác ý bốn đại chủng về phương diện khả phân và bất khả phân.

106. (8) Về phương diện giống và khác: và mặc dù chúng không thể phân tích (bất khả phân) như thế, nhưng hai thứ đều giống nhau về tính nặng, cũng như hai thứ sau giống nhau ở tính nhẹ. Và bởi lẽ ấy mà hai đại đầu khác hai đại sau, hai đại sau khác hai đại đầu. Ðây là cách tác ý bốn đại về phương diện giống và khác.

107. (9) Về sự phân biệt trong ngoài: nội giới (đại) là chỗ tựa vật chất cho những căn cứ vật lý của thức, cho các loại “biểu” (intimation), và cho các căn cứ vật chất. Chúng được liên kết với bốn uy nghi, và thuộc bốn nguồn gốc sinh ra. Nhưng ngoại giới (đại) thì thuộc loại ngược lại. Ðây là cách chú ý đến chúng về phương diện phân biệt nội ngoại.

108. (10) Về sự bao gồm: địa giới do nghiệp sinh được gồm chung với những giới do nghiệp sinh khác, vì không có gì khác biệt trong sự sinh ra chúng. Cũng vậy, những giới do thức sinh được gồm chung nhau. Ðấy là cách tác ý chúng về phương diện bao gồm.

109. (11) Về phương diện điều kiện: địa đại được giữ lại nhờ nước, duy trì bởi lửa và bành trướng nhờ phong, là một điều kiện cho ba đại chủng kia bằng cách làm nền tảng cho chúng. Thủy đại, được an lập trên đất, duy trì bởi lửa và bành trướng bởi gió, là một điều kiện cho ba đại kia bằng cách tác động như cách làm chúng dính liền. Hỏa đại được lập trên đất, giữ lại với nhau nhờ nước và bành trướng nhờ gió, là một điều kiện cho ba đại kia bằng cách tác động như cái duy trì chúng. Phong đại được an lập trên đất, giữ lại với nhau nhờ nước duy trì bởi lửa, là một điều kiện cho ba đại kia bằng cách tác động như cái bành trướng chúng. Ðây là cách tác ý bốn đại chủng về phương diện điều kiện.

110. (12) Về sự thiếu phản ứng ý thức: ở đây cũng vậy, địa đại không biết “ta là địa giới” hoặc “ta là một cái duyên bằng cách tác động như là nền tảng cho ba đại kia”. Và ba đại kia cũng không biết “địa đại là một điều kiện cho chúng ta bằng cách làm nền tảng cho ta”. Tương tự trong mỗi trường hợp. Ðây là cách tác ý đến bốn đại về phương diện không có phản ứng ý thức.

111. (13) Về sự phân tích các duyên (điều kiện): có bốn duyên cho bốn đại chủng là nghiệp, thức, dưỡng chất và nhiệt độ (thời tiết).

Ở đây một mình nghiệp (kamma) là duyên cho cái gì do nghiệp sanh, không phải thức (consciousness, citta) hay cái gì còn lại. Và một mình thức v.v... là duyên cho cái gì do thức v.v... sanh, không phải những cái khác. Và nghiệp là sanh duyên [1] cho cái gì do nghiệp sanh, nó là thân y duyên cho những cái còn lại [2]. Thức là sanh duyên cho những gì do thức sanh, nó là hậu sanh duyên (post-nascence condition), hữu duyên (presence condition), bất ly khứ duyên (non-disappearance condition) của những thứ còn lại. Dưỡng chất là sanh duyên cho những gì do dưỡng chất sanh, nó là thực duyên (nutriment condition), hữu duyên, bất ly khứ duyên của những thứ còn lại. Nhiệt độ là sanh duyên cho những gì do nhiệt độ sanh, là hữu duyên, bất ly khứ duyên của những cái còn lại.

[1] Danh từ “sanh duyên” (the producing condition) chỉ cho nhân sinh khởi, mặc dù nó thực sự đã là điều kiện cho nghiệp với tư cách là một duyên. Vì điều kiện này được nói “thiện và bất thiện” hành (formation - tạo tác) của tâm là một điều kiện, kể như điều kiện nghiệp, cho những uẩn dị thục (báo) và cho sắc do nghiệp sanh (Vism-mhṭ 368).

[2] “Với những thứ còn lại” là do thức sanh v.v... Ðó là thân y duyên (the indirectly decisive-support condition) vì trong Paṭṭhāna thân y duyên chỉ được nói đối với vô sắc pháp bởi thế không có thân y duyên đối với sắc pháp. Tuy nhiên vì những câu “Với một người kể như thân y duyên” và “Với một khu rừng” kể như thân y duyên trong các kinh, “thân y duyên” có thể hiểu một cách gián tiếp theo kinh là có nghĩa “vắng mặt nếu không có”.

Một đại chủng do nghiệp sanh là một duyên cho một đại chủng nghiệp sinh, và cũng cho những thứ do thức sinh v.v... Cũng tương tự với đại chủng do thức sanh và do dưỡng chất sanh. Một đại chủng do nhiệt độ sanh là duyên cho một đại chủng nhiệt độ sinh, và cũng cho những cái do nghiệp sinh v.v... (xem Ch. XX, 27).

112. Ở đây, địa đại chủng do nghiệp sanh là một điều kiện (duyên) cho những đại chủng do nghiệp sanh khác vừa kể như là những câu sanh, hỗ tương, y chỉ, hữu (presence) và bất ly khứ duyên (non-disappearance condition) và vừa là nền tảng duyên (foundation), nhưng không được kể như sanh duyên (cho những đại chủng do nghiệp sanh ấy). Nó là một điều kiện cho ba đại kia trong ba tương tục (triple continuity) (xem Ch. XX, 22) vừa kể như những y chỉ, hữu và bất ly khứ duyên, nhưng không được kể như nền tảng duyên hay sanh duyên.  Và ở đây, thủy đại là một điều kiện cho ba đại kia vừa kể như là những câu sanh v.v... và vừa là tương ưng duyên (cohesion), nhưng không được kể như sanh duyên. Và đối với những đại khác trong ba tương tục, nó là một y chỉ, hữu và bất ly khứ duyên, nhưng không phải tương ưng duyên hay sanh duyên.  Và ở đây, hỏa đại là một điều kiện cho ba đại kia vừa kể như là những câu sanh v.v... và vừa là duy trì duyên (maintaining), nhưng không được kể như sanh duyên. Và đối với những đại khác trong ba tương tục, nó là một duyên y chỉ, hữu và bất ly khứ duyên, nhưng không phải duy trì duyên hay sanh duyên. Và ở đây, phong đại là một điều kiện cho ba đại kia vừa kể như là những câu sanh v.v... và vừa là bành trướng duyên (distension), nhưng không được kể như sanh duyên. Và đối với những đại khác trong ba tương tục, nó là một y chỉ, hữu và bất ly khứ duyên, nhưng không phải bành trướng duyên hay sanh duyên.

Cùng một phương pháp ấy cũng áp dụng cho địa đại do thức sanh, dưỡng chất sanh và nhiệt độ sanh, và các thứ còn lại.

113. Và khi những đại chủng này đã được phát sinh do ảnh hưởng của các duyên câu sanh v.v...

Với ba đại tùy thuộc một theo bốn cách,
Cũng thế với một đại tùy thuộc ba;
Với hai đại tùy thuộc hai theo sáu cách—
Như vậy bốn đại được sinh khởi.

114. Lấy ra một đại, khởi đầu là địa đại, có ba đại khác mà sự sanh khởi của chúng là do đại này, như vậy với ba đại tùy thuộc một đại, thì sự sinh khởi của chúng xảy ra theo bốn cách. Cũng vậy mỗi đại, khởi từ địa đại, sinh khởi tùy thuộc ba đại kia, như thế, với một tùy thuộc ba thì sự sinh khởi của chúng xảy ra theo bốn cách. Nhưng với hai đại cuối tùy thuộc hai đại đầu, với hai đại đầu tùy thuộc hai đại cuối, với đại thứ hai thứ bốn tùy thuộc thứ một thứ ba, thứ một thứ ba tùy thuộc thứ hai thứ bốn, với hai ba tùy thuộc một bốn, và với một bốn tùy thuộc hai ba, chúng xảy ra theo sáu cách, với hai đại này tùy thuộc vào hai đại khác.

115. Vào lúc chuyển động đi tới (M I 57), địa đại trong bốn đại là một điều kiện cho sự ép. Ðại này được trợ lực bởi thủy đại là một điều kiện cho sự an lập trên một nền tảng. Nhưng thủy đại trợ lực bởi địa đại là một điều kiện cho sự hạ xuống thấp. Hỏa đại trợ lực bởi phong đại là một điều kiện cho sự nâng lên. Phong đại trợ lực bởi hỏa đại là một điều kiện để nhích tới trước và nhích sang hai bên (Ch. XX, 62; M-a I 160).

Trên đây là tác ý bốn đại về phương diện phân tích các duyên.

116. Khi hành giả tác ý đến chúng về phương diện ý nghĩa, danh từ v.v... theo cách nói trên, các đại chủng trở nên rõ rệt đối với vị ấy dưới mỗi mục. Khi vị ấy tác ý nhiều lần, chú ý đến chúng, thì cận hành định khởi lên theo cách đã nói. Và định này cũng thế, được gọi là “định rõ bốn đại chủng” vì nó khởi lên nơi một người phân tích bốn đại chủng do ảnh hưởng của tri kiến.

117. Vị Tỷ-kheo chuyên vào việc phân tích bốn đại thì đắm mình trong Không và bỏ cái tưởng về chúng sinh. Vì vị ấy không nuôi những tưởng tượng sai lạc (vọng tưởng) về thú dữ, ma quỉ v.v... do đã từ bỏ chúng sinh tưởng, vị ấy nhiếp phục được sợ hãi khiếp đảm, nhiếp phục ưa và chán, vị ấy không vui mừng hay tiu nghỉu (ugghāta - vui mừng, nigghāta - tiu nghỉu, cả hai đều không tìm thấy trong PTS) trước những chuyện đáng ưa hay khó chịu, và như một người có trí tuệ lớn, vị ấy hoặc được Niết Bàn bất tử ngay hiện tại, hoặc được hướng đến một thiện thú.

Phân tích bốn đại chủng (phân biệt giới)
Luôn luôn là sở hành của người trí;
Bậc thiền giả Thánh sư tử
Sẽ lấy đề mục vĩ đại này làm trò chơi.

Trên đây là mô tả về sự tu tập phân tích tứ đại (còn gọi là giới phân biệt).

Ðịnh Tu Tập - Kết Luận

118. Ðến đây là hoàn tất trong mọi chi tiết luận giải về ý nghĩa câu “Làm thế nào định cần phải được tu tập” trong loạt vấn đề khởi đầu “Thế nào là định”, được đặt ra để chỉ rõ phương pháp tu tập định với đầy đủ chi tiết (xem Ch. III, 1).

119. Ðịnh muốn nói ở đây có hai thứ là cận hành và an chỉ. Ở đây, sự nhất tâm trong trường hợp mười đề mục thiền và trong tâm đi trước định (consciousness preceding absorption) (trong trường hợp các đề mục còn lại, như ở Ch. VII, 66) gọi là cận hành định. Sự nhất tâm trong các đề mục thiền còn lại gọi là định an chỉ. Bởi thế, định được tu tập dưới hai hình thức, với sự tu tập các đề mục thiền này. Do vậy ở trên kia nói “hoàn tất trong mọi chi tiết” v.v...

Những Lợi Lạc Của Ðịnh Tu Tập

120. Có năm lợi ích là hiện tại lạc trú v.v... Vì sự tu tập định đem lại hiện tại lạc thú cho những vị A-la-hán đã phá hủy các lậu hoặc khi tu định, nghĩ rằng “Ta sẽ chứng và an trú nhất tâm trọn một ngày”. Do đó, Đức Thế Tôn dạy: “Nhưng này Cunda, đấy không phải cái gọi là viễn ly trong giới luật bậc Thánh, đấy gọi là Hiện tại lạc trú trong Giới luật bậc Thánh” (M I 40).

121. Khi phàm phu và hữu học tu tập định, nghĩ rằng: “Sau khi xuất định, chúng ta sẽ tu tập Tuệ với tâm đã định tĩnh”, sự tu tập định an chỉ (absorption concentration) đem lại cho chúng lợi ích của tuệ bằng cách làm nhân gần cho tuệ, và cũng vậy định cận hành (access concentration) đem lại lợi ích là một phương pháp đạt đến những cảnh giới rộng mở trong những hoàn cảnh chật chội [1].

[1] Xem M I 179 v.v... ”Quá trình hiện hữu trong vòng tái sinh luân hồi, một chỗ rất chật chội, là đầy chật bởi những cấu uế của tham v.v...” (Vism-mhṭ 371).

Bởi vậy Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập định, vì một Tỷ-kheo định tĩnh thì biết đúng” (S III 13).

122. Nhưng khi họ đã làm phát sinh được tám thắng xứ và mong muốn được các loại thần thông được mô tả như: “Vị ấy làm một thân hóa ra nhiều thân” (Ch. XII, 2), họ làm phát sinh những loại thần thông ấy bằng cách nhập thiền kể như căn cứ địa cho thần thông, rồi xuất khỏi thiền ấy, như vậy sự tu tập định an chỉ đem lại cho hành giả lợi ích của các loại thần thông, vì nó trở thành nhân gần cho các thần thông khi có dịp. Do đó Ðức Thế Tôn dạy: “Vị ấy đạt đến khả năng chứng ngộ, do sự chứng ngộ với thắng trí (*), mà tâm vị ấy hướng đến, khi có một cơ hội” (M II 96).

[(*) Thắng trí là tên khác của thần thông]

123. Khi phàm phu chưa mất thiền định của chúng, mà muốn tái sinh vào Phạm thiên giới như sau: “Ta hãy tái sinh vào Phạm thiên giới” hay dù cho vị ấy không thực sự bày tỏ khát vọng ấy, thì sự tu tập định an chỉ cũng đem lại cho vị ấy những lợi lạc của một thiện thú, vì định an chỉ bảo đảm việc ấy. Vì vậy Đức Thế Tôn dạy: “Chúng tái sinh ở đâu sau khi đã tu tập sơ thiền một cách giới hạn? Chúng tái sinh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Ðại Phạm” (Vibh 424) v.v... Và ngay cả sự tu tập định cận hành cũng bảo đảm một hình thức tái sinh tốt đẹp hơn trong những thiện thú thuộc dục giới.

124. Nhưng khi những bậc Thánh đã chứng đắc tám Giải thoát tu tập định với ý nghĩ: “Ta sẽ nhập diệt định, và không tâm (without consciousness) trong bảy ngày, ta sẽ được hiện tại lạc trú, bằng cách đạt đến diệt thọ tưởng, nghĩa là Niết Bàn”. Và khi ấy sự tu tập định an chỉ đem lại cho những vị ấy lợi lạc của diệt. Do đó Paṭisambhidā nói: “Trí tuệ kể như sự làm chủ, do ... mười sáu loại tri kiến (behaviour of knowledge) và chín loại định (behaviour of concentration) là trí thuộc diệt định” (Paṭis I 97; Ch. XXIII đoạn 18 và kế tiếp).

125. Ðấy là lợi lạc của định tu tập gồm năm thứ, là hiện tại lạc trú v.v...

Bởi vậy, người trí không quên tận tâm theo đuổi sự tu tập định:

Nó thanh lọc ô nhiễm của phiền não cấu
Và đem lại quả báo không thể tính lường

126. Và đến đây, trong Thanh tịnh Đạo, được dạy dưới những đề mục giới, định và tuệ, trong bài kệ “Người trú giới có trí, tu tập tâm và tuệ ...”, định đã được giải thích đầy đủ.

Chương mười một này kết thúc phần “Mô tả về Ðịnh” trong Thanh tịnh Đạo, được biên soạn vì mục đích làm cho những người hiền thiện hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương XII
Thắng Trí - Các Năng Lực Thần Thông

(Iddhividha-niddesa)

----

Lợi Lạc Của Ðịnh (tiếp theo)

1. Trước đã nói về các loại thắng trí thuộc thế gian rằng sự tu tập định này “đem lại lợi ích là các loại thần thông” (XI, 122). Bây giờ muốn viên mãn những loại thắng trí ấy, thì trước đó thiền giả cần phải đắc tứ thiền về biến xứ đất, v.v... và trong khi làm việc này, không những sự tu tập định đã đem lại lợi ích như thế, mà định còn được tăng tiến. Và khi hành giả có được định đã phát triển đến độ vừa đem lại lợi ích vừa trở nên tăng tiến, thì vị ấy sẽ làm viên mãn sự tu tập tuệ một cách dễ dàng hơn. Bởi vậy chúng ta sẽ giải thích về các loại Thắng Trí.

Năm Loại Thắng Trí

2. Ðể trình bày những lợi ích của sự tu tập định cho một thiện nam tử đã đắc định tứ thiền, và để tuần tự dạy diệu pháp, Ðức Thế Tôn đã mô tả 5 loại thắng trí thế gian. Ðó là (1) những năng lực thần biến được mô tả như “Khi tâm đã được định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu uế, đã trở thành nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc và đạt đến bất động, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến các loại thần thông như một thân biến thành nhiều thân...” (D I 77), (2) thiên nhĩ thông, (3) tha tâm thông, (4) túc mạng thông, (5) sanh tử trí (trí biết về sự sống và chết của chúng sanh).

1. Các loại năng lực thần thông

Nếu một thiền giả muốn khởi sự biến hóa nhờ năng lực thần thông như “một thân biến thành nhiều thân” v.v... vị ấy phải hoàn tất tám thiền chứng trong mỗi một kasiṇa trong tám kasiṇa, khởi từ kasiṇa đất và cuối là kasiṇa trắng. Hành giả cũng cần hoàn tất sự điều phục tâm theo mười bốn cách:

  1. Theo thứ tự của các biến xứ chiều thuận
  2. Theo thứ tự của các biến xứ ngược chiều
  3. Thuận chiều và ngược chiều
  4. Theo thứ tự thiền chiều thuận
  5. Theo thứ tự thiền ngược chiều
  6. Thuận chiều và ngược chiều thiền
  7. Bỏ băng các thiền
  8. Bỏ băng kasiṇa
  9. Bỏ băng thiền và kasiṇa
  10. Chuyển vị trí thiền chi
  11. Chuyển vị trí đối tượng
  12. Chuyển vị trí thiền chi và đối tượng
  13. Phân biệt thiền chi
  14. Phân biệt đối tượng.

3. Gì là “theo thứ tự của các biến xứ chiều thuận” (thuận thứ các kasiṇa) ... Gì là “phân biệt đối tượng”?

(i) Ở đây một Tỷ-kheo đắc thiền về kasiṇa đất rồi kasiṇa nước, tuần tự cho đến tám kasiṇa, làm như vậy cả trăm lần, thậm chí cả ngàn lần trong mỗi thứ kasiṇa. (ii) Làm như vậy nhưng khởi từ kasiṇa màu trắng, là kasiṇa ngược chiều. (iii) Đắc thiền nhiều lần, theo chiều thuận rồi nghịch, từ kasiṇa đất đến kasiṇa trắng rồi từ kasiṇa trắng trở lại kasiṇa đất, gọi là thuận chiều và ngược chiều các kasiṇa.

4. (iv) Nhập xuất nhiều lần từ sơ thiền đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, gọi là thuận thứ thiền. (v) Nhập xuất từ phi tưởng phi phi tưởng xứ trở lại sơ thiền nhiều lần gọi là ngược chiều thiền. (vi) Chứng theo thứ tự thuận, nghịch từ sơ thiền lên đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, và từ phi phi tưởng xứ trở lui về sơ thiền, ấy là thuận và nghịch các thiền.

5. (vii) Vị ấy bỏ băng thiền mà không bỏ băng biến xứ như sau: trước hết nhập sơ thiền ở biến xứ đất, rồi nhập tam thiền cùng ở biến xứ ấy. Rồi sau khi bỏ biến xứ (Ch. X, 6) chứng không vô biên xứ, sau đó chứng vô sở hữu xứ. Ðây là bỏ băng thiền. Cũng vậy với biến xứ nước v.v... (viii) Khi vị ấy bỏ những biến xứ cách khoảng mà không bỏ băng thiền theo cách sau: đắc thiền ở kasiṇa đất, vị ấy lại nhập sơ thiền về biến xứ lửa, rồi biến xứ xanh, biến xứ đỏ, đây gọi là bỏ băng biến xứ. (ix) Khi vị ấy vừa bỏ băng biến xứ vừa bỏ băng thiền như sau: đắc sơ thiền biến xứ đất rồi tam thiền biến xứ lửa, rồi không vô biên xứ sau khi đã dời bỏ biến xứ xanh, kế tiếp, vô sở hữu xứ đạt đến từ biến xứ đỏ, đây gọi là vừa bỏ băng thiền vừa bỏ băng biến xứ.

6. (x) Ðắc sơ thiền ở biến xứ đất rồi cùng biến xứ ấy đắc các thiền khác, thì gọi là đổi thiền chi. (xi) Nhập sơ thiền ở biến xứ đất, rồi cũng sơ thiền ở biến xứ nước ... biến xứ trắng thì gọi là đổi đối tượng. (xii) Sự đổi đối tượng và thiền chi xảy ra theo cách như sau: Vị ấy nhập sơ thiền ở biến xứ đất, nhị thiền ở biến xứ nước, tam thiền ở biến xứ lửa, tứ thiền ở biến xứ hư không, không vô biên xứ bằng cách dời kasiṇa xanh, thức vô biên xứ đạt được từ kasiṇa vàng, vô sở hữu xứ từ kasiṇa đỏ, phi tưởng phi phi tưởng xứ từ kasiṇa trắng. Ðây gọi là vừa chuyển thiền chi vừa chuyển đối tượng.

7. (xiii) Sự phân biệt các thiền chi mà thôi bằng cách định rõ sơ thiền là năm thiền chi; nhị thiền là ba thiền chi, tam thiền là hai thiền chi, cũng vậy tứ thiền, không vô biên xứ ... và phi tưởng phi phi tưởng xứ, gọi là phân biệt thiền chi. (xiv) Cũng vậy, sự phân biệt chỉ đối tượng mà thôi, như: “đây là kasiṇa đất”, “đây là kasiṇa nước” ... “đây là kasiṇa trắng”, gọi là phân biệt đối tượng. Có người còn nói thêm “phân biệt thiền chi và đối tượng”, nhưng vì điều này không được nói trong Luận, nên không thành một đề mục trong việc tu tập.

8. Thiền giả không thể nào thực hiện biến hóa bằng thần thông nếu chưa hoàn tất sự tu tập điều phục tâm theo 14 cách ấy. Công việc tiên quyết về kasiṇa đối với người sơ cơ rất khó và chỉ một người trong số một trăm hay một ngàn người có thể làm được. Sự làm khởi lên sơ tướng là khó khăn cho một người trong việc tiên quyết về kasiṇa và chỉ một người trong số một trăm hay một ngàn người có thể làm được. Mở rộng sơ tướng khi nó đã khởi lên và đắc định an chỉ là khó và chỉ một người trong số một trăm hay một ngàn người có thể làm. Ðiều phục tâm theo mười bốn cách sau khi đắc định an chỉ là khó và chỉ một người trong số một trăm hay một ngàn người có thể làm được. Sự biến hóa bằng lực thần thông sau khi luyện tâm theo mười bốn cách là khó và chỉ một người trong số một trăm hay một ngàn người có thể làm được. Phản ứng mau lẹ sau khi đã biến hóa là điều khó và chỉ một người trong số một trăm hay một ngàn người có thể làm.

9. Như trưởng lão Rakkhita sau tám năm thọ cụ túc giới, một hôm đang ở giữa ba mươi ngàn Tỷ-kheo đắc thần thông đến thăm bệnh trưởng lão Mahā-Rohaṇa-Gutta ở Therambatthala. Thần thông của trưởng lão đã tả ở đoạn nói về kasiṇa đất (Ch. IV, 135). Thấy vậy, một vị trưởng lão nói: “Chư hiền, nếu Rakkhita không có ở đấy, thì chúng ta đã bị thảm bại. (Người ta sẽ bảo) ‘Những vị này không bảo vệ được bậc Long tượng’. Bởi thế chúng ta nên đi du hành với các khả năng đã được làm cho viên mãn, cũng như binh sĩ khi đi ra với binh khí đã được lau sạch hết những vết dơ”. Ba mươi ngàn Tỷ-kheo nghe lời khuyên của trưởng lão, và đạt đến phản ứng mau lẹ.

10. Và giúp người khác sau khi đạt phản ứng mau lẹ là khó và chỉ một người trong trăm, ngàn làm được. Như vị trưởng lão che chở chống lại trận mưa tàn lửa bằng cách biến đất ở giữa trời, khi trận mưa lửa tro được Ma vương biến hóa trong buổi tế lễ lớn trên đảo.

11. Chỉ có ở chư Phật, Ðộc giác và Thanh Văn đại đệ tử ... đã tinh tấn nhiều kiếp, mà biến hóa thần thông này cùng những đức tính đặc biệt khác, như Biện tài mới viên mãn được nhờ đắc A-la-hán quả, và không cần tiến trình tuần tự như đã mô tả.

12. Bởi vậy, cũng như khi một người thợ vàng muốn làm một thứ đồ trang sức nào đó. Ông ta chỉ làm được sau khi đã luyện vàng cho nhu nhuyễn, dễ sử dụng do nấu tan nó v.v... và cũng như khi một người thợ gốm muốn làm một thứ đồ chứa nào đó, ông ta chỉ làm được nó sau khi đã làm cho đất sét trở nên dẻo, dễ sử dụng, một người tập sự cũng thế, phải chuẩn bị cho các loại thần thông bằng cách chế ngự tâm theo mười bốn cách nói trên, và phải làm cho tâm nhu nhuyễn dễ sử dụng vừa bằng cách đạt đến viên mãn dưới những đề mục dục, nhất tâm, tinh tấn và trạch pháp, và bằng cách làm chủ trong sự tác ý v.v... Nhưng một người đã có điều kiện cần thiết cho việc ấy nhờ tập luyện đời trước, thì chỉ cần chuẩn bị để đắc tứ thiền trong những kasiṇa.

13. Ðức phật chỉ cách chuẩn bị như sau: “Khi tâm đã định tĩnh” v.v... đây là lời giải, tiếp theo kinh văn (xem đoạn 2). Ở đây, vị ấy chỉ cho Tỷ-kheo đã đắc tứ thiền. Như vậy chỉ thứ tự chứng tứ thiền, có nghĩa là sau khi chứng tứ thiền bắt đầu từ sơ thiền. Ðịnh tĩnh: định tĩnh nhờ phương tiện tứ thiền. Tâm: là tâm sắc giới.

14. Nhưng về những danh từ “thuần tịnh” v.v... nó thuần tịnh, nhờ trạng thái niệm được làm cho thuần tịnh bằng xả. Nó sáng chính vì thuần tịnh, đây nghĩa là trong sáng. Nó không lỗi lầm, vì những lỗi lầm là tham v.v... đã bị loại bởi lạc v.v... Nó được tẩy trừ cấu uế vì nó không lỗi lầm, vì chính lỗi lầm làm cho tâm uế nhiễm. Nó trở thành nhu nhuyễn, vì nó đã được khéo tu tập, có nghĩa nó chịu sự làm chủ, bởi vì một tâm được làm chủ gọi là tâm nhu nhuyễn. Nó dễ sử dụng, chính vì nó nhu nhuyễn, nó chịu sự sử dụng, nó đáng được sử dụng, đó là ý nghĩa.

15. Vì một tâm nhu nhuyễn thì dễ sử dụng, giống như vàng đã khéo nấu chảy; và nó vừa nhu nhuyễn vừa dễ sử dụng là vì nó đã được khéo tu tập, như kinh nói: “Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một pháp nào, khi được tu tập được đào luyện, trở thành nhu nhuyễn dễ sử dụng như tâm” (A I 9).

16. Nó vững chắc bởi vì vững chắc trong sự thuần tịnh và các đức tính khác. Nó đạt đến bất động chính vì nó vững chắc có nghĩa là nó không cử động, không lay chuyển. Một cách giải thích khác là, nó vững chắc vì vững chắc trong tính cách có thể làm chủ của riêng nó, nhờ tính nhu nhuyễn và dễ sử dụng; và nó đạt đến bất động vì nó được tăng thịnh bởi tín v.v...

17. Vì Tâm có Tín tăng cường thì không bị dao động bởi thiếu đức tin, khi được tăng cường bởi Tấn, thì nó không bị dao động bởi giải đãi; khi được tăng cường bởi Niệm, thì nó không bị dao động bởi thất niệm (lơ đễnh); khi được tăng cường bởi Ðịnh, thì nó không bị dao động bởi trạo cử; khi được tăng cường bởi Tuệ, thì nó không bị dao động bởi ngu si; và khi được chiếu sáng thì nó không bị dao động bởi bóng tối của cấu uế (phiền não). Bởi vậy khi tâm được tăng cường bởi sáu pháp này, thì nó đạt đến bất động.

18. Tâm có được tám yếu tố theo cách ấy thì có thể được hướng đến sự chứng đắc bằng thắng trí những pháp cần được chứng đắc với thắng trí.

19. Một phương pháp khác: Nó được định tĩnh nhờ định tứ thiền. Nó được thuần tịnh nhờ tách rời các triền cái. Nó trong sáng nhờ vượt qua tầm v.v... Nó không lỗi lầm nhờ không có những ác dục có căn đế từ sự đắc thiền (tỉ như người muốn cho kẻ khác biết rằng vị ấy có thể thực hành thiền định). Nó được tẩy trừ cấu uế vì biến mất các cấu uế của tâm gồm tham v.v... cả hai điều này cần được hiểu theo kinh Vô uế (MN 5) và Bố dụ (MN 7). Nó trở nên nhu nhuyễn do sự làm chủ. Nó dễ sử dụng do đạt tình trạng của con đường đưa đến Thần thông (đoạn 50). Nó vững chắc và đạt đến bất động bằng cách đạt đến sự tinh tế của sự tu tập đã viên mãn, có nghĩa rằng vì nó đạt đến bất động nên nó vững chắc. Và tâm có được tám yếu tố theo cách trên, thì có thể hướng đến sự chứng đắc bằng thắng trí những pháp cần phải được chứng ngộ nhờ thắng trí, vì nó là nền tảng, là nhân gần cho chúng.

20. Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến các loại thần thông (iddhi-vidha: các loại thành công), ở đây thành công iddhi, có nghĩa là làm sinh ra hay đạt được. Vì cái gì được phát sinh, được thủ đắc, thì gọi là thành công: “như một con người ước ao, nếu ước ao của nó được thành tựu” (Sn 766), hoặc nói: “Sự xuất gia thành công (ijjhana), nên đó là một thần thông (iddhi) ... Nó đánh bạt tham dục, nên nó là một biến hóa ... A-la-hán đạt thành công, nên đó là một sự thành công ... Nó chuyển hóa tất cả cấu uế, nên đó là một biến hóa” (Paṭis II 229).

21. Một phương pháp khác: Thành công (iddhi) theo nghĩa tiếp sau đó là một danh từ chỉ hiệu lực của các phương tiện; vì hiệu quả đến tiếp theo với sự phát sinh kết quả mong muốn. Như kinh nói: Gia chủ Citta có giới đức, nếu ông nguyện “mong rằng đời sau tôi làm chuyển luân vương” thì ước nguyện của ông sẽ thành công, vì đó là một ước nguyện trong sạch (S IV 303).

22. Một cách hiểu khác: chúng sinh nhờ phương tiện của nó mà thành công, nên gọi là thành công.

Năng lực thành công ấy có mười loại: gì là mười? “Thành công do quyết định, thành công bằng biến hóa, thành công bằng thân ý sanh, thành công bằng sự can thiệp của trí, thành công bằng sự can thiệp của định, thành công của các Thánh giả, thành công do hậu quả nghiệp, thành công của người có công đức, thành công do hiểu biết, thành công do nỗ lực đúng” (Paṭis II 205).

23. (i) Ở đây, thành công do quyết định nghĩa là như “Bình thường chỉ một thân, vị ấy tác ý biến thành trăm, ngàn, một trăm ngàn thân, sau khi tác ý, vị ấy quyết định với trí như sau. Ta hãy biến thành nhiều” (Paṭis II 207).

24. (ii) Thành công bằng biến hóa như: “Sau khi từ bỏ hình dáng thông thường, vị ấy hiện thành hình một cậu bé hay một con rắn ... hay biến ra một cuộc bày binh bố trận“ (Paṭis II 210) đây là do từ bỏ và thay đổi hình dạng thông thường.

25. (iii) Câu được nói như sau: “Ở đây một Tỷ-kheo tạo ra từ thân xác vị ấy một thân xác có sắc, do ý sanh” (Paṭis II 20) thì gọi là thần thông làm ra thân ý sanh, vì nó xảy ra kể như sự phát minh một thân khác do ý sanh ở trong thân này.

26. (iv) Một tình trạng đặc biệt phát sinh do ảnh hưởng của trí trước khi trí sinh khởi, hoặc sau khi trí sinh khởi, hoặc trong khi trí sinh khởi, thì gọi là thành công do sự can thiệp của trí; vì điều này được nói: “Mục đích từ bỏ thường tưởng thành công, nhờ quán vô thường, đó gọi là thành công do sự can thiệp của trí ... Mục đích từ bỏ mọi cấu uế thành công nhờ A-la-hán đạo, như vậy là thành công bằng can thiệp của trí. Có sự thành công nhờ can thiệp của trí trong trường hợp đại đức Bakkula. Có thành công nhờ can thiệp của trí trong đại đức Saṅkicca. Có thành công do can thiệp của trí nơi đại đức Bhūtapāla” (Paṭis II 211).

27. Ở đây, khi đại đức Bakkula còn là một hài nhi, được mang đi tắm trong sông vào ngày lành, vị ấy rơi vào dòng nước do sự bất cẩn của người vú. Một con cá nuốt đại đức vào bụng và cuối cùng lội tới chỗ tắm ở Benares. Ở đấy con cá được một người chài bắt và bán cho người vợ của một trưởng giả. Bà thích con cá muốn tự tay nấu lấy, và xẻ nó ra. Khi làm thế bà thấy đứa trẻ như một pho tượng vàng trong bụng cá. Bà mừng rỡ nghĩ: “Cuối cùng ta đã được một đứa con trai”. Vậy sự sống sót của đại đức Bakkula trong bụng cá vào kiếp chót của Ngài, được gọi là: “Thành công do can thiệp của trí”, vì nó được phát sinh do ảnh hưởng của trí thuộc đạo lộ A-la-hán mà vị ấy sẽ đạt được trong đời sống ấy. (Câu chuyện được kể chi tiết trong MA IV 190)

28. Mẹ của đại đức Saṅkicca chết khi đại đức còn ở trong bào thai. Vào lúc hỏa thiêu bà, bà bị đâm bằng một cọc nhọn, để đặt lên giàn hỏa. Hài nhi bị thương tích ở góc con mắt vì cọc nhọn ấy, và thốt lên tiếng. Khi ấy nghĩ rằng đứa trẻ còn sống, người ta lấy tử thi xuống mổ bụng ra, và đem hài nhi giao cho bà ngoại nó. Dưới sự săn sóc của bà hài nhi lớn lên, và cuối cùng xuất gia đắc quả A-la-hán. Vậy, sự sống sót của đại đức Saṅkicca trên giàn hỏa gọi là “Thành công do can thiệp của trí.”

29. Thân phụ của cậu bé Bhūtapāla là một người nghèo ở thành Vương xá. Ông đi vào rừng với một chiếc xe để kiếm củi về. Một hôm khi trở về cổng thành thì trời đã tối. Những con bò kéo xe tuột khỏi cái ách và thoát vào đô thị. Ông để đứa bé ngồi bên chiếc xe và đi vào thành để tìm cặp bò. Ông chưa kịp trở ra thì cổng thành đã đóng. Sự sống sót của hài nhi qua một đêm ở ngoài cổng thành đầy thú dữ và ma quỉ được gọi là thành công nhờ can thiệp của trí.

30. (v) Một tình trạng đặc biệt phát sinh do ảnh hưởng của tịnh chỉ trước khi đắc định hoặc sau khi đắc định, hoặc trong khi đắc định, thì gọi là “Thành công do can thiệp của Ðịnh”, như nói: “Mục đích từ bỏ những triền cái thành công nhờ sơ thiền, nên đấy là thành công nhờ can thiệp của định... Mục đích từ bỏ vô sở hữu xứ thành công nhờ chứng phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên gọi đó là thành công nhờ can thiệp của định. Có thành công nhờ can thiệp của định ở tôn giả Sāriputta... tôn giả Sañjīva... tôn giả Khāṇu- Kondañña... tín nữ Uttarā... tín nữ Sāmāvatī” (Paṭis II 211-12).

31. Ở đây, trong khi tôn giả Xá Lợi Phất đang ở với tôn giả Mục Kiền Liên tại Kapotakandarā, ngài đang ngồi giữa khoảng trống ngoài trời vào một đêm trăng với cái đầu mới cạo tóc. Khi ấy một con ác quỷ, mặc dù đã được bạn nó cảnh cáo, đến đánh một cú vào đầu tôn giả vang tiếng như sấm. Vào lúc bị giáng cú đấm, tôn giả đang nhập định, nhờ vậy ngài không bị thương tổn. Ðây là thành công do can thiệp của định nơi tôn giả, câu chuyện còn được kể trong Udāna 39.

32. Khi trưởng lão Sañjīva đang ở trong Ðịnh diệt thọ tưởng, những kẻ mục tử v.v... trông thấy tưởng là ngài đã chết. Chúng đem cỏ, củi khô, phân bò và đốt lên. Không một chéo y (even a corner of the elder’s rob) của tôn giả bị cháy. Ðây là sự thành công nhờ can thiệp của định ở tôn giả, ảnh hưởng của định chỉ xảy đến trong khi ngài nhập và xuất liên tiếp tám thiền trước khi vào định Diệt thọ tưởng. Câu chuyện được kể trong kinh M I 333.

33. Trưởng lão Khāṇu-Kondañña có biệt tài chứng đắc các thiền chứng. Một đêm kia Ngài ngồi nhập định trong một khu rừng. Có năm trăm tên cướp đi qua với những đồ vật đã trộm được. Vì nghĩ không ai theo đuổi, và cần nghỉ ngơi, chúng đặt các vật kia xuống, và vì tưởng vị trưởng lão là một khúc cây (khāṇuka), chúng chồng đồ đạc lên trên ngài. Ngài xuất định vào lúc đã tính trước, đúng vào lúc những tên cướp nghỉ ngơi xong sắp sửa lên đường, ngay lúc ấy tên cướp đầu tiên đã bỏ đồ vật trộm lên người ngài và bây giờ đang lấy để ra đi. Khi chúng thấy ngài cử động thì hoảng sợ hét lên. Vị trưởng lão nói: “Ðừng sợ cư sĩ. Ta là một Tỷ-kheo.” Bọn cướp đến đảnh lễ ngài, và xin xuất gia, cuối cùng đều đắc A-la-hán quả cùng với các vô ngại biện. Ở đây vị trưởng lão không bị hại bởi năm trăm gói hàng chất lên người ngài, là sự thành công nhờ can thiệp của định.

34. Tín nữ Uttarā là con gái của một trưởng giả, tên là Puṇṇaka. Một dâm nữ tên Sirimā ganh tị với nàng, nên đổ một thùng dầu sôi lên đầu nàng. Vào lúc ấy Uttarā đã đắc thiền về Từ tâm, nên dầu chảy khỏi người tín nữ như nước đổ lá sen. Ðấy là thành công nhờ can thiệp của Ðịnh lực nơi bà (Câu chuyện được kể chi tiết trong Dhp-a III 310; A-a I 451).

35. Hoàng hậu của vua Udena tên là Sāmāvatī. Bà-la-môn Māgaṇḍiya, vì mong cho con gái mình trở thành hoàng hậu nên bỏ một con rắn độc trong cây đàn tỳ bà của Sāmāvatī rồi tâu vua: “Tâu bệ hạ, Sāmāvatī muốn ám hại bệ hạ đó. Bà ấy mang theo một con rắn độc trong cây đàn của bà.” Khi vua tìm thấy con rắn, ông nổi trận lôi đình, toan giết bà với một mũi tên tẩm độc. Sāmāvatī cùng với tùy tùng biến mãn tâm từ lan đến ông vua. Ông đứng run rẩy không bắn được mũi tên ra mà cũng không dẹp nó đi được. Khi ấy hoàng hậu hỏi: “Hoàng thượng có chuyện gì thế? Mệt trong người?” — “Phải, ta mệt.” — “Vậy, hãy bỏ xuống cây cung.” Cây cung rơi xuống chân nhà vua. Khi ấy hoàng hậu bảo: “Người ta không nên oán thù một người không oán thù.” Như vậy, sự kiện nhà vua không dám bắn ra mũi tên chính là một thành công nhờ can thiệp của định lực nơi tín nữ Sāmāvatī (xem Dhp-a I 216; A-a I 443).

36. (vi) Cái làm cho hành giả an trú không cảm thấy ghê tởm đối với những gì đáng ghê tởm ... thì gọi là thành công của Thánh giả, như kinh nói: “Gì là thành công của bậc Thánh? Ở đây nếu một Tỷ-kheo ước nguyện: ‘Mong rằng ta an trú không ghê tởm những gì đáng ghê tởm,’ vị ấy không ghê tởm với nó ... vị ấy an trú với xả đối với vật ấy, chánh niệm và hoàn toàn tỉnh giác” (Paṭis II 212). Ðây gọi là “thành công của những bậc Thánh”, vì nó chỉ được phát sinh nơi những bậc Thánh đã đạt đến sự làm chủ tâm.

37. Vì nếu một Tỷ-kheo với lậu hoặc đã bị phá hủy mà có được sự thành công này, thì khi gặp một đối tượng khả ố, vị ấy thực hành biến mãn tâm từ đến nó, hoặc là tác ý đến nó như chỉ là tứ đại, vị ấy an trú biến mãn với tâm không gớm ghiếc (hay chán ghét đối tượng ấy), và khi gặp một đối tượng khả ái, vị ấy an trú biến mãn tính cách bất tịnh, hoặc tác ý đến nó như là vô thường, thì an trú với tưởng đáng ghê tởm (đáng chán). Cũng vậy trong trường hợp gặp cái đáng chán, vừa gặp cái không đáng chán, vị ấy thực hành sự biến mãn như trên với tâm từ hay tác ý đến nó như là tứ đại, vị ấy an trú với tưởng không đáng chán. Và trong trường hợp gặp cái không ghê tởm và cái ghê tởm, vị ấy thực hành biến mãn như trên với tưởng bất tịnh hay tác ý đến nó như là vô thường, vị ấy an trú tưởng đáng tởm. Nhưng khi vị ấy tập luyện xả gồm sáu chi phần như sau: “Khi thấy một sắc pháp với con mắt, vị ấy không vui thú, cũng không...” (Paṭis II 213) v.v... thì khi ấy, từ bỏ cả hai tưởng đáng chán và không đáng chán, hành giả an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác hoàn toàn.

38. Vì ý nghĩa này được trình bày như sau trong Paṭisambhidā: “Thế nào là vị ấy an trú tưởng không đáng chán trong cái đáng chán? Ðối với một vật không thích ý, vị ấy biến mãn nó với tâm từ, hoặc kể nó như là tứ đại” (Paṭis II 212). Như thế gọi là “Thành công của Thánh giả”, vì nó đã được phát sinh nơi bậc Thánh đã đạt đến tâm tự chủ.

39. (vii) Thần thông gồm trong việc du hành giữa hư không như chim bay v.v... gọi là thành công do quả báo của nghiệp như kinh nói: “Gì là thành công do quả báo của nghiệp? Thành công trong tất cả những loài chim có cánh, trong tất cả chư thiên, trong vài người, trong số chúng sanh ở đọa xứ, gọi là thành công do quả báo của nghiệp” (Paṭis II 213). Vì ở đây, khả năng bay lượn trên không của mọi loại chim có cánh, không cần thiền định hay tuệ giác gì ráo, gọi là thành công do quả báo của nghiệp; cũng vậy, trong tất cả loài chư thiên, và một số loài người vào khởi thủy của một thời kiếp; cũng vậy thành công (bay được) trong một vài chúng sanh ở đọa xứ, như con quỷ cái mẹ của Piyaṅkara (xem S-a II 509), và mẹ của Uttara (Pv 140) v.v...

40. (viii) Thành công gồm trong việc du hành trong không gian v.v... Trong trường hợp những vị chuyển luân vương v.v... gọi là thành công của những người có công đức, như kinh nói: “Gì là thành công của những người có công đức? Vua Chuyển Luân du hành trên không với bốn đạo quân, còn có cả quân hầu và quân giữ cừu (mục tử). Gia chủ Jokita có thành công của người có công đức. Những gia chủ Jaṭilaka, Ghosita, Meṇḍaka có thành công của những người có công đức. Sự thành công của năm vị đại công đức gọi là thành công của những người có công đức v.v...” (Paṭis II 213). Nói tóm lại, điều đặc biệt của sự thành công khi những công đức tích lũy đã chín mùi, thì gọi là thành công của những người có công đức.

41. Một lâu đài bằng pha lê cùng với 64 cây ước đã tách đôi mặt đất mà vọt lên trước mặt gia chủ Jotika. Ðó là thành công do công đức, trong trường hợp của gia chủ này (Dhp-a IV 207). Một núi vàng cao tám mươi cubits được xuất hiện cho Jaṭilaka (Dhp-a IV 216). Sự sống sót an ổn của Ghosita khi có những năng lực để giết ông ta ở bảy chỗ, là thành công của những người có công đức (Dhp-a I 174). Sự xuất hiện những con cừu đực làm bằng bảy thứ quý báu tại một nơi rộng một tầm cày cho gia chủ Meṇḍaka, gọi là thành công của những người có phước đức (Dhp-a III 364).

42. Năm người rất công đức là trưởng giả Meṇḍaka, vợ ông tên Candapadumasiri, con trai ông Dhanañjaya (người giàu có), con dâu ông Sumanadevī, và nô tỳ ông là Puṇṇa. Khi trưởng giả Meṇḍaka gội tóc và ngước nhìn lên trời, có mười hai ngàn năm trăm đấu thóc rơi xuống cho ông toàn một thứ gạo đỏ. Khi vợ ông lấy một nàli cơm ra, thì cơm ấy đem cho cả nước dùng cũng không hết và con trai họ lấy ra một túi tiền chứa một ngàn đồng ducats (kahāpaṇa), thì những đồng tiền ấy đem cho tất cả cư dân đảo Diêm phù đề (Jambudīpa) cũng vẫn còn. Khi con dâu ông ta lấy ra một tumba (kaṭāha) lúa để bố thí tất cả cư dân Diêm phù đề, thóc ấy vẫn không hết. Khi người nô tỳ cày với chỉ một lát cày, thì có đến mười bốn luống cày, mỗi bên bảy luống (Vin I 240; Dhp-a I 384). Ðây là thành công của những người có công đức.

43. (ix) Thành công khởi đầu bằng sự du hành qua hư không trong trường hợp những bậc thầy về các học thuật, thì gọi là thành công nhờ học thuật. Ví dụ trong Paṭisambhidā nói: “Gì là thành công nhờ học thuật. Những bậc thầy về học thuật sau khi đã thốt lên những bùa chú có thể bay được qua hư không, cho thấy một con voi giữa trời... và chúng có thể bày binh bố trận giữa hư không” (Paṭis II 213).

44. (x) Nhưng sự thành công trong việc này việc nọ, nhờ một nỗ lực đúng, gọi là thành công do áp dụng nỗ lực đúng, như điều này được nói: “Mục đích từ bỏ dục tham thành công nhờ sự xuất ly, đấy là thành công với nghĩa thành công do áp dụng nỗ lực đúng... Mục đích từ bỏ tất cả ô nhiễm thành công nhờ A-la-hán đạo, đó là thành công trong nghĩa thành công do áp dụng nỗ lực đúng” (Paṭis II 213). Và văn đây cũng tương tự văn trước trong sự làm sáng tỏ nỗ lực đúng, nói cách khác, đạo lộ. Nhưng trong luận giải thì nói như sau: “Bất cứ công việc gì thuộc về sự hành nghề như làm một chiếc xe v.v... bất cứ công việc gì thuộc về y học, sự học hỏi ba tập Vệ đà, Ba tạng giáo điển, cả đến công việc liên hệ đến cày, gieo lúa, v.v... sự đặc biệt, xuất sắc phát sinh do làm những công việc ấy đều gọi là thành công do áp dụng nỗ lực đúng trong trường hợp này hay khác.“

45. Bởi thế, trong mười loại thành công nói trên, (i) chỉ có thành công do quyết định, (ii) do biến hóa và (iii) thân ý sanh là thực sự được ám chỉ trong câu “các loại thần thông”.

46. (i) Ðến các loại thần thông (xem đoạn 20): là đến những thành phần, những nghành thần thông. Vị ấy hướng tâm, dẫn tâm: khi tâm của vị Tỷ-kheo ấy đã trở thành cơ bản cho thắng trí theo cách đã nói, vị ấy hướng tâm đã làm những công việc tiên quyết với mục đích chứng các thần thông, vị ấy để tâm hướng về các loại thần thông, dẫn tâm ra khỏi kasiṇa làm đối tượng của nó trước đấy. Hướng về: làm cho tâm hướng đến, thiên về cái mà thần thông phải chứng.

47. Vị ấy: là Tỷ-kheo đã làm sự hướng tâm theo cách trên. Những loại thần thông khác nhau: là những thần thông đủ loại đủ nghành. (lược)

48. Bây giờ, để trình bày tính cách khác nhau đủ loại trên đây, kinh nói: “Vị ấy một thân hóa thành nhiều thân, nhiều thân trở thành một thân. Vị ấy hiện ra rồi biến mất. Vị ấy đi ngang qua tường vách núi, qua những chỗ bưng bít không bị trở ngại như qua hư không. Vị ấy độn thổ rồi trồi lên mặt đất như thể là ở trong nước. Vị ấy đi trên nước (mà nước không bị vỡ ra) như đi trên đất. Vị ấy ngồi kiết già mà đi trên hư không như con chim. Với bàn tay, vị ấy sờ chạm mặt trăng, mặt trời, những vật có đại oai lực như thế. Vị ấy thực hiện sự làm chủ thân xác cho đến tận Phạm thiên giới” (D I 77).

Ở đây, một thân là bình thường vị ấy chỉ là một trước khi thực hiện thần thông. Biến thành nhiều: vì muốn cùng đi, cùng đọc tụng, cùng luận đàm với nhiều người, vị ấy biến thành một trăm hay một ngàn. Nhưng làm thế nào vị ấy làm việc đó? Vị ấy hoàn tất (1) bốn cõi (four planes), (2) bốn căn bản (con đường) (four bases/roads), (3) tám bước (eight steps) và (4) mười sáu căn đế của thần thông (sixteen roots of supernormal power), rồi (5) quyết định với trí (resolves with knowledge).

49. 1. Ở đây, bốn cõi cần được hiểu có nghĩa là bốn thiền; vì điều này đã được bậc tướng quân chánh pháp Sāriputta nói: “Gì là bốn cõi (bình diện) của thần thông? Ðó là sơ thiền cõi phát sinh do viễn ly, nhị thiền cõi của hỷ và lạc, tam thiền cõi của xả và lạc, tứ thiền cõi của không lạc không khổ. Bốn cõi này của thắng trí đưa đến sự chứng đắc thần thông, đến sự có được thần thông, đến sự biến hóa của thần thông, đến uy lực của thần thông, đến sự làm chủ được thần thông, đến sự vô úy trong thần thông” (Paṭis II 205). Và vị ấy đạt đến thần thông bằng cách trở nên nhẹ bổng, nhu nhuyễn dễ sử dụng về thân sau khi nhúng mình trong cái tưởng lạc và tưởng “nhẹ” do thấm nhuần, biến mãn hỷ và lạc. Ðó là lý do ba thiền đầu cần được hiểu là bình diện cận hành, vì chúng đưa đến sự chứng đắc thần thông bằng cách ấy. Nhưng tứ thiền là bình diện tự nhiên cho việc chứng đắc thần thông.

50. 2. Bốn căn bản cần được hiểu là bốn nền tảng cho thành công (đạo lộ đưa đến uy lực (thần thông) — iddhi-pāda — roads to power), vì điều này được nói: “Gì là bốn căn bản (pāda - con đường) cho thành công (iddhi - uy lực)? Ở đây, một Tỷ-kheo tu tập căn bản (đạo lộ) đưa đến thành công vừa có định do dục (zeal) (chanda) và phát cần giới (endeavour) (padhāna); vị ấy tu tập đạo lộ đưa đến thành công vừa có định do tinh tấn (energy) (viriya) và phát cần giới; vị ấy tu tập đạo lộ đưa đến thành công vừa có định do [sự thanh tịnh tự nhiên của] tâm ([natural purity of] consciousness) và phát cần giới; vị ấy tu tập đạo lộ đưa đến thành công vừa có định do trạch pháp (inquiry) (vīmaṃsā) và phát cần giới. Bốn đạo lộ thành công này đưa đến sự chứng đắc thần thông ... đến sự vô úy nhờ thần thông” (Paṭis II 205).

51. Và ở đây, Ðịnh có Dục làm nhân cho nó, hoặc có dục kể như yếu tố nổi bật, thì gọi là định do dục, đây là danh từ chỉ Ðịnh đạt được bằng cách dành ưu tiên cho dục với nghĩa mong muốn hành động. Ý chí (hành): kể như nỗ lực thì được gọi là phát cần giới; đây là danh từ chỉ nghiệp lực chánh tinh tấn hoàn thành bốn nhiệm vụ của nó (xem đ.53). Có được: được trang bị bằng định do dục và (bốn) trường hợp nỗ lực (phát cần giới).

52. Đạo lộ đưa đến uy lực (nền tảng cho thành công): có nghĩa là toàn thể Tâm và Tâm sở còn lại (trừ định và dục), làm thành con đường (căn bản cho) đưa đến định do dục và phát cần giới liên hệ đến thắng trí, những cái sau này chính chúng được gọi là “thành công” theo nghĩa “làm phát sinh” (đ.20) hoặc “kế tiếp” (đ.21) hoặc theo nghĩa “chúng sinh thành công nhờ phương tiện của nó” (đ.22) vì điều này được nói: “Căn bản để thành công (Con đường đưa đến thần thông): đó là thọ uẩn, [tưởng uẩn, hành uẩn và] thức uẩn nơi một con người” (Vibh 217).

53. Hoặc có nghĩa: nó được đạt tới nhờ phương tiện ấy, nên gọi là con đường (pāda - căn bản), nghĩa là nó được với tới. “Iddhipāda” (thần túc) là một danh từ chỉ cho dục v.v..., như kinh nói: “Này các Tỷ-kheo, nếu một Tỷ-kheo có định, có nhất tâm, được hỗ trợ bởi dục, đó gọi là định do dục. Vị ấy làm khởi dậy dục đối với sự không sanh khởi những ác pháp đã sinh, nỗ lực, cố gắng, tinh cần, phấn đấu. Vị ấy làm khởi dậy dục đối với sự phát sinh những thiện pháp chưa sinh... Vị ấy khởi dậy dục đối với sự duy trì, sự không biến mất, sự tăng trưởng, lớn mạnh, phát triển và viên mãn những thiện pháp đã sinh, nỗ lực, cố gắng, tinh cần, phấn đấu. Ðây là bốn trường hợp của phát cần giới. Bởi vậy dục này và định do dục này và bốn phát cần giới này gọi là con đường đưa đến năng lực (căn bản thành công) con đường có định do dục và tinh tấn” (S V 268). Và ý nghĩa cần được hiểu theo cách này trong trường hợp những căn bản thành công khác.

54. 3. Tám bước cần được hiểu là tám khởi đầu từ dục; vì điều này được nói: “Gì là tám bước? Nếu một Tỷ-kheo có định, có nhất tâm, được hỗ trợ bởi dục, khi ấy dục không là định, định không là dục, dục khác, định khác. Nếu một Tỷ-kheo ... hỗ trợ bởi tinh tấn ... hỗ trợ bởi [sự thanh tịnh tự nhiên của] tâm ([natural purity of] consciousness), hỗ trợ bởi trạch pháp (inquiry)... thì trạch pháp không phải định; định không phải trạch pháp; Trạch pháp khác, định khác. Tám bước đưa đến năng lực này dẫn đến sự chứng đắc thần thông ... đến vô úy nhờ thần thông (thành công)” (Paṭis II 205). Vì ở đây nó là dục gồm trong ước muốn khởi lên thần thông (thành công), dục ấy được phối hợp với định và ước muốn ấy đưa đến sự chứng đắc thần thông. Tương tự với trường hợp tinh tấn v.v... Ðiều này nên hiểu là lý do chúng được gọi là “tám bước”.

55. 4. Mười sáu căn đế: sự bất động của tâm cần được hiểu theo mười sáu kiểu: “Gì là mười sáu căn đế của thành công? Tâm không chán chường thì không bị lay động bởi giải đãi nhác nhớm, nên nó bất động. Tâm không mừng rỡ thì không bị lay động bởi trạo cử, bởi vậy nó bất động. Tâm không bị lôi cuốn thì không lay động bởi tham dục, do vậy nó bất động. Tâm không chán ghét thì không bị lay động bởi ác ý, do vậy nó bất động. Tâm độc lập thì không bị lay động bởi tà kiến, do vậy nó bất động. Tâm không vướng mắc thì không lay động vì dục tham, do vậy nó bất động. Tâm giải thoát thì không lay động vì năm dục, do vậy nó bất động. Tâm không liên hệ (đến cấu uế) thì không lay động vì cấu uế, do vậy nó bất động. Tâm không còn rào ngăn thì không lay động bởi cái rào ngăn cấu uế, do vậy nó bất động. Tâm chuyên nhất thì không bị lay động bởi cấu uế của sai biệt, do vậy nó bất động. Tâm tăng cường với tín thì không bị lay động bởi bất tín, do vậy nó bất động. Tâm tăng cường bởi tấn thì không lay động vì giải đãi, do vậy nó bất động. Tâm tăng cường bởi niệm thì không lay động vì thất niệm (lơ đễnh), do vậy nó bất động. Tâm tăng cường với định thì không lay động vì trạo cử, do vậy nó bất động. Tâm tăng cường bởi tuệ thì không lay động vì ngu si, do vậy nó bất động. Tâm được chiếu sáng thì không lay động vì bóng tối vô minh, do vậy nó bất động. Mười sáu cội rễ của thành công này đưa đến sự chứng đắc thần thông (thành công)... đến vô úy nhờ thần thông“ (Paṭis II 206).

56. Dĩ nhiên ý nghĩa này cũng đã được an lập bởi lời nói: “Khi tâm định tĩnh của vị ấy” v.v... Nhưng nó được nói lại với mục đích nêu rõ rằng sơ thiền v.v... là ba cõi (bình diện) (plane), căn bản (base, road) (con đường), bước (step), căn đế (root) của các năng lực thần thông. Và phương pháp được nói đầu tiên, là phương pháp trình bày trong các kinh, còn đây là cách nó được trình bày trong Paṭisambhidā. Bởi vậy nó đã được nói lại vì muốn tránh lẫn lộn trong mỗi trường hợp của hai trường hợp.

57. 5. Vị ấy quyết định với trí (đoạn 48): Khi vị ấy đã hoàn tất những việc gồm những bình diện, căn bản, (con đường) những bước, những gốc rễ của thành công rồi, hành giả nhập thiền kể như căn bản cho thắng trí và xuất thiền. Rồi nếu vị ấy muốn biến thành một trăm, vị ấy làm công việc tiên quyết như sau: “Ta hãy biến ra một trăm, ta hãy biến ra một trăm” sau đó lại nhập thiền, kể như căn bản cho thắng trí, lại xuất, và làm quyết định. Vị ấy biến thành trăm người cùng lúc với tâm quyết định. Cùng phương pháp đó cũng áp dụng cho trường hợp một ngàn v.v... Nếu không thành công cách ấy, thì nên làm công việc tiên quyết lần thứ hai, nhập thiền, xuất và quyết định một lần nữa. Vì Luận Tương ưng nói rằng có thể làm một hay hai lần.

58. Ở đây, định ở trong thiền căn bản có sơ tướng làm đối tượng cho nó, nhưng các tâm trong công việc tiên quyết thì có một trăm hay một ngàn làm đối tượng cho chúng. Và những đối tượng sau này là những tướng thật, chứ không phải là những khái niệm. Tâm quyết định cũng thế, có một trăm hay một ngàn làm đối tượng cho nó. Tâm ấy chỉ khởi lên một lần, kế tiếp Tâm chuyển tánh (gotrabhū), như trong trường hợp định an chỉ đã mô tả (Ch. IV, 78), và nó thuộc tâm sắc giới ở tứ thiền.

59. Trong Paṭisambhidā có nói: “Bình thường một, vị ấy tác ý biến mình thành nhiều, hay một trăm, một ngàn, một trăm ngàn; sau khi tác ý vị ấy quyết định với trí, ‘Ta hãy biến thành nhiều’ và vị ấy biến ra nhiều, như trường hợp đại đức Cūḷa-Panthaka“ (Paṭis II 207). Ở đây vị ấy tác ý, chỉ cho công việc tiên quyết mà thôi. Sau khi tác ý, vị ấy quyết định với trí là nói đến trí của thắng trí. Do đó, vị ấy tác ý đến nhiều. Sau đó vị ấy đắc định với tâm cuối cùng của công việc tiên quyết. Sau khi xuất khỏi thiền, vị ấy lại tác ý: “Ta hãy biến thành nhiều”, sau đó vị ấy quyết định bằng cái tâm duy nhất thuộc về trí của thần thông, tâm này đã khởi lên kế tiếp ba hay bốn tâm chuẩn bị đã khởi, và nó có tên “quyết định” do vì nó làm quyết định. Ðây là ý nghĩa cần được hiểu ở đây.

60. Giống như đại đức Cūḷa-Panthaka được nói để nêu lên một trường hợp thân chứng của trạng thái nhiều này. Câu chuyện như sau: Có hai anh em tên là Panthaka (con đường) vì họ được sinh ra giữa đường. Người anh tên là Mahā-Panthaka, xuất gia đắc A-la-hán quả cùng với bốn vô ngại giải. Khi đã đắc A-la-hán quả, Ngài làm cho người em cũng xuất gia, và giao cho em một bài kệ:

Như hoa sen Kokanada thơm ngát
Nở ra buổi sáng với hương ngào ngạt
Hãy nhìn Ðấng có tay chân sáng chói
Rực rỡ như vừng mặt trời rạng chiếu nền trời (A III 239)

Bốn tháng đã trôi qua mà người em cũng không thuộc bài kệ. Khi ấy vị trưởng lão nói: “Ngươi thật là vô ích ở trong giáo pháp này”. Và ngài đuổi em ra khỏi chùa.

61. *Vào lúc ấy vị trưởng lão phụ trách phân phối chúng tăng thọ thực tại nhà đàn việt (Phật tử tại gia). Jīvaka đi đến vị trưởng lão bạch: “Bạch đại đức con xin thỉnh Đức Thế Tôn cùng với năm trăm vị Tỷ-kheo thọ thực tại nhà con.” Vị đại đức nhận lời, bảo: “Tôi nhận lời để cho tất cả đều đi, chỉ trừ Cūḷa-Panthaka”. Cūḷa-Panthaka đứng khóc ở cổng tu viện. Ðức Thế Tôn với thiên nhãn trông thấy bèn đi đến ông ta: “Tại sao con khóc?” Ngài hỏi và được nghe những gì đã xảy ra.

(*At that time the elder had charge of the allocation of meal [invitations])

62. Ðức Thế Tôn dạy: “Không người nào ở trong giáo pháp của ta lại bị coi là vô dụng chỉ vì không thuộc một bài kệ. Ðừng sầu não, hỡi Tỷ-kheo.” Rồi ngài dắt tay ông đi vào tinh xá. Ngài dùng thần lực biến ra một miếng vải trao cho ông, bảo “Này Tỷ-kheo, hãy chà xát cái này và tiếp tục nói nhiều lần giẻ lau bụi, giẻ lau bụi”. Khi làm theo lời dạy, miếng giẻ trở màu đen. Vị Tỷ-kheo đi đến nhận thức như sau: “Mảnh vải vốn sạch, không có gì quấy nơi nó. Chỉ có chấp ngã là sai lầm”. Vị ấy dùng trí này để quán năm uẩn, và nhờ tăng tuệ giác, vị ấy đạt đến trí thuận thứ và trí chuyển tánh.

63. Khi ấy Thế Tôn thốt lên bài kệ soi sáng như sau:

Chính tham dục, không phải bụi, ta gọi cấu uế
Cấu uế chính là một danh từ chỉ cho tham
Tham này bậc trí từ bỏ, và an trú
Chấp trì pháp của bậc vô tham.
Chính là sân nhuế, không phải bụi, gọi là cấu uế

   ... ... ...

Cũng vậy chính si, không phải bụi, gọi là cấu uế
Và cấu uế chính là một danh từ chỉ cho si
Si bậc trí từ bỏ và an trú
Chấp trì pháp của bậc vô si (Nidd I 505)

Khi bài kệ chấm dứt đại đức Cūḷa-panthaka đạt được chín thiền siêu thế (supramundane states) cùng với bốn vô ngại biện và sáu loại thắng trí.

64. Hôm sau Ðấng đạo sư đi đến nhà Jīvaka cùng với tăng đoàn. Rồi sau lễ tục dâng nước (để rửa tay trước khi cúng dường thức ăn), khi cháo được phân phối, Đức Thế Tôn đậy bát. Jīvaka hỏi: “Bạch Ngài, có chuyện gì thế?” — “Còn một Tỷ-kheo trong tu viện.” Gia chủ liền phái một người nhà bảo: “Ði nhanh lên và trở lại với vị đại đức”.

65. Khi Ðức Thế Tôn đã rời khỏi tinh xá,

“Bấy giờ, sau khi biến mình
Thành một ngàn người, Panthaka
Ngồi trong rừng xoài mát mẻ
Cho đến khi thời tiết được thông báo” (Thag. 563)

66. Khi người kia đi đến và thấy tu viện rực rỡ toàn một màu vàng y, anh ta trở về bảo: “Bạch Ðại đức, tu viện đầy cả Tỷ-kheo, con không biết thỉnh ông nào.” Khi ấy Đức Thế Tôn bảo: “Hãy đi đến nắm lấy chéo y của người đầu tiên ngươi trông thấy, bảo ông ta: ‘Bậc Ðạo sư cho gọi Ngài’ và đưa ông ấy đến đây.” Anh ta liền đi và nắm lấy chéo y đại đức. Bỗng chốc những người hóa hiện đều tan biến. Vị đại đức bảo người kia: “Ngươi đi về trước đi”. Và sau khi rửa mặt súc miệng xong, ông ta đi đến trước người kia và ngồi vào chỗ đã dành sẵn.

67. Số nhiều người được tạo ra ở đây giống hệt như người có thần thông, bởi vì chúng được tạo ra không có sự khác biệt nào. Khi ấy bất cứ gì người có thần thông làm, đứng, ngồi, nói, im v.v... chúng cũng làm giống hệt. Nhưng nếu vị ấy muốn tạo chúng ra khác nhau về hình tướng, một số còn trẻ, một số trung niên, một số đã già hoặc một số tóc dài, một số cạo nửa chừng, một số cạo hết tóc, một số tóc hoa râm, một số với y nhuộm phớt, một số với y nhuộm màu thẩm, đang giảng pháp, đang tụng kinh, đang hỏi, đáp, đang nhuộm y, may y, giặt y v.v... hay hành giả muốn tạo những hạng người khác nữa thì vị ấy phải xuất khỏi thiền căn bản, làm công việc tiên quyết theo cách khởi đầu là: ‘Hãy hiện ra bao nhiêu vị Tỷ-kheo còn trẻ’, v.v... và vị ấy còn phải nhập thiền, xuất thiền một lần nữa rồi quyết định. Chúng sẽ biến hóa ra loại như ý muốn, đồng thời với tâm quyết định.

68. Cùng một cách giải thích ấy cũng áp dụng cho câu: “Nhiều, vị ấy làm thành một”; nhưng có sự khác biệt này. Sau khi vị Tỷ-kheo ấy đã tạo ra tình trạng nhiều như vậy, rồi vị ấy nghĩ: “Ta chỉ kinh hành như là một người mà thôi, như là một, ta sẽ đọc kinh, đặt câu hỏi”, hoặc do thiểu dục, vị ấy nghĩ: “Tu viện này ít Tỷ-kheo. Nếu có người nào đến, họ sẽ ngạc nhiên, ‘Tất cả những vị Tỷ-kheo giống nhau như khuôn đúc này từ đâu đến vậy? chắc hẳn đây là phép lạ của một đại đức nào đây.’ Và do đó người ấy sẽ muốn biết về ta.” Trong khi đó, với mong ước: “Ta hãy trở lại một mà thôi”. Vị ấy phải nhập thiền căn bản và xuất. Rồi sau khi làm công việc tiên quyết như sau: “Ta hãy là một”, vị ấy trở lại một đồng thời với tâm quyết định. Nhưng nếu không làm như vậy, thì vị ấy vẫn đương nhiên trở lại một, khi thời gian ấn định đã trôi qua.

69. Vị ấy xuất hiện và biến mất: nghĩa là làm phát sinh sự hiện tướng, và làm cho tan biến. Về điểm này Paṭisambhidā nói: “Vị ấy xuất hiện: có nghĩa là vị ấy không bị cái gì che khuất, không bị giấu khuất, vị ấy hiển hiện rõ rệt. “Tan biến” là vị ấy bị che khuất bởi một cái gì, bị dấu đi, bị đóng kín, bị khuất lấp (Paṭis II 207).

Khi người có thần thông muốn biến hiện, vị ấy chuyển bóng tối thành ánh sáng, hoặc làm hiện rõ cái bị khuất, hoặc làm cho cái không hiện ra trong tầm mắt có thể hiện ra trong tầm mắt. Bằng cách nào?

70. Nếu vị ấy muốn làm cho tự mình hay một người khác, dù đang ở chỗ che khuất hoặc ở cách xa, có thể được người ta trông thấy, thì vị ấy xuất khỏi thiền căn bản và tác ý như sau: “Cái này đang là bóng tối, hãy chuyển thành ánh sáng” hoặc “Cái này đang bị che khuất hãy hiện ra” hoặc “Cái này không hiện ở nhãn giới, hãy hiện ra ở nhãn giới.” Rồi vị ấy làm công việc tiên quyết, và quyết định như đã mô tả. Và nó trở thành như quyết định, đồng thời với tâm quyết định. Khi ấy những người khác thấy hành giả mặc dù ở xa và chính ông ta cũng thấy, nếu muốn.

71. Nhưng do ai, thần thông này được thực hiện ngày xưa? Chính do Ðức Thế Tôn. Vì khi Đức Thế Tôn được Cūḷa-Subhaddā thỉnh và đang du hành một cuộc hành trình dài bảy dặm giữa Sāvatthī và Sāketa với năm trăm cái cáng. Ðế Thích sai Vissakamma kiến trúc sư của ông ta làm ra. Ngài quyết định làm cho dân chúng Sāketa thấy được dân ở thành Xá-Vệ, và dân thành Xá-Vệ thấy được dân ở Sāketa. Khi Ngài đã đậu xuống trung tâm đô thị, Ngài làm đất nứt ra làm hai và hiển bày địa ngục A tỳ, rồi làm cho trời rẽ đôi để bày cõi Phạm thiên.

72. Và ý nghĩa này cũng cần được giải thích bằng cuộc Giáng hạ của chư thiên (devorohaṇa). Khi Ðức Thế Tôn đã làm hai thần biến và đã giải thoát tám vạn bốn ngàn chúng sinh ra khỏi trói buộc. Ngài tự hỏi: “Ở đâu những vị Chánh Đẳng Giác trong quá khứ đã đi đến, sau khi làm hai phép thần biến? Ngài thấy rằng chư Phật quá khứ đã lên cõi tam thập tam thiên. Khi ấy Ngài bèn đứng một chân trên mặt đất, và đặt chân thứ hai lên trên chót núi Yugandhara. Rồi Ngài nhấc chân trước đặt trên đỉnh núi Tu di. Ngài an cư ba tháng mưa ở đấy trên khoảng sân đá đỏ, và bắt đầu giảng Tạng A-tỳ-đàm, khởi từ đầu, cho chư thiên ở mười ngàn thế giới hệ nghe. Vào lúc cần đi khất thực, Ngài tạo ra một đức Hóa Phật để giảng pháp.

73. Trong khi đó, chính Ðức Thế Tôn thì đang xỉa răng, với cây tăm bằng gỗ nāgalatā, và rửa miệng ở hồ Anotatta. Rồi sau khi khất thực giữa dân chúng Uttarakurus, Ngài ngồi dùng bữa trên bờ hồ ấy. Mỗi ngày, tôm giả Xá-Lợi-Phất đi đến đảnh lễ Ngài. Ngài dạy tôn giả: “Hôm nay ta giảng pháp bấy nhiêu đó”, và dạy cho tôn giả phương pháp giảng. Với kiểu đó, Ngài dạy Luận tạng không gián đoạn trong ba tháng. Tám mươi triệu chư thiên thâm nhập pháp sau khi nghe.

74. Vào thời gian hai thần biến xảy ra, một chúng hội tụ tập rộng mười hai lý. Chúng nói: “Chúng ta sẽ giải tán khi nào trông thấy được Ðức Thế Tôn”. Và họ cắm trại đợi ở đấy. Vị Cấp-Cô-Ðộc em (em trai của trưởng giả) cung cấp tất cả nhu yếu phẩm cho họ. Mọi người xin trưởng lão A-Na-Luật tìm xem Ðức Thế Tôn đang ở đâu.

Vị trưởng lão khai triển ánh sáng, và với thiên nhãn, Ngài trông thấy nơi Ðức Thế Tôn đang an cư ba tháng mùa mưa, và thông báo việc ấy cho quần chúng.

75. Chúng yêu cầu tôn giả Mục Kiền Liên đi viếng thăm Ðức Thế Tôn. Ở giữa chúng hội, tôn giả biến mất xuống dưới mặt đất. R?i làm nẻ đôi núi Tu di, Tôn giả trồi lên, đến dưới chân Ðức Thế Tôn, đảnh lễ chân Thế Tôn. Ngài bạch Ðức Thế Tôn như sau: “Bạch Thế Tôn, dân chúng Diêm phù đến để đảnh lễ chân Đức Thế Tôn, và chúng nói: ‘Chúng ta sẽ giải tán khi nào thấy được Ðức Thế Tôn’”. Ðức Thế Tôn hỏi: “Nhưng này Moggallāna, sư huynh ngươi ở đâu, vị tướng quân Chánh pháp đó?” — “Bạch Thế Tôn ở đô thị Saṅkassa” — “Này Moggallāna, những ai muốn trông thấy ta thì ngày mai, hãy đi đến đô thị Saṅkassa. Mai là Bố tát ngày rằm, ta sẽ xuống đô thị Saṅkassa để làm lễ Tự-tứ”.

76. Tôn giả: “Thưa vâng, bạch thế tôn”, đảnh lễ Ðấng Thập lực, rồi đi xuống theo con đường Ngài đã lên, đến chỗ lân cận với loài người. Vào lúc Ngài đi và về, tôn giả quyết định rằng mọi người phải thấy điều đó. Ðây là thần thông hiện rõ mà tôn giả đã làm. Sau khi trở về, tôn giả kể lại những gì xảy ra và nói: “Hãy đến sau khi điểm tâm, và đừng ngại đường xá xa xôi gì cả “(và Ngài hứa rằng, dù xa cách mấy, họ cũng có thể trông thấy Ðức Thế Tôn).

77. Ðức Thế Tôn thông báo cho Ðế Thích, vua các cõi trời rằng: “Ngày mai ta sẽ về Nhân giới”. Trời Ðế Thích ra lệnh cho Vissakamma: “Hiền giả, Ðức Thế Tôn muốn về Nhân giới ngày mai. Hãy xây cất ba cầu thang một bằng vàng, một bằng bạc và một bằng thủy tinh”. Ông ta làm theo lời.

78. Ngày hôm sau Ðức Thế Tôn đứng trên đỉnh núi Tu-di và quan sát thế giới phương Ðông. Nhiều ngàn thế giới hệ hiện rõ dưới mắt Ngài như chỉ một đồng bằng. Cũng như vậy, Ngài quan sát khắp thế giới phương tây, phương bắc, phương nam, tất cả đều hiện rõ. Và Ngài nhìn suốt đến địa ngục A-Tỳ, lên đến những tầng trời cao nhất. Ngày đó được gọi là ngày hiển lộ các thế giới hệ. Người trông thấy chư thiên và chư thiên trông thấy loài người. Và trong khi thấy như vậy, người không cần phải ngước lên, mà chư thiên cũng khỏi cần ngó xuống. Tất cả đều trông thấy nhau, mặt đối mặt.

79. Ðức Thế Tôn giáng hạ bằng cầu thang bậc trung, làm bằng pha lê, chư thiên thuộc sáu cõi trời Dục giới thì xuống cầu thang bên trái làm bằng vàng; chư thiên trời Tịnh cư, Ðại phạm xuống cầu thang bên phải làm bằng bạc. Trời Ðế Thích cầm y và bát (của Phật). Vị trời Ðại Phạm thì cầm một cái lọng trắng rộng ba lý, Suyāma (Dạ ma thiên vương) cầm một cái quạt bằng lông đuôi ngưu vương. Con trai của nhạc thần Gandhabba, có năm cái mồng (Pañcasikha), xuống trần cử nhạc tán thán Ðức Thế Tôn với cây đàn bằng gỗ bilva (bael-wood lute) rộng ba phần tư lý. Vào ngày hôm ấy, không một chúng sinh nào hiện diện trông thấy Ðức Thế Tôn mà không khát khao giác ngộ. Ðây là thần thông bằng “hiện rõ” do Ðức Phật đã làm.

80. Lại nữa, tại đảo Tambapaṇṇi (Tích Lan) trong khi trưởng lão Dhammadinna, người ở Taḷaṅgara, đang ngồi giữa sân chánh điện của ngôi đại tự Tissa (Tissamahāvihāra) giảng kinh Apāṇaka: “Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo có ba pháp này, vị ấy đi vào đạo lộ vô uế” (A I 113), Ngài bỗng lật úp mặt cái quạt xuống đất và một cái cửa mở thẳng xuống địa ngục A-tỳ xuất hiện. Ngài ngửa cái quạt lên thì hiện ra cửa vào cõi Phạm thiên. Sau khi đã khơi dậy nỗi khủng khiếp địa ngục, và khao khát phúc lạc cõi trời, vị trưởng lão bắt đầu giảng pháp, một số chứng quả Dự Lưu, một số chứng Nhất Lai, một số chứng Bất Hoàn, một số chứng quả A-la-hán.

81. Nhưng một người muốn gây ra một sự biến mất, thì khiến cho ánh sáng trở thành bóng tối, hoặc giấu mất cái đang hiện rõ, hoặc làm cho cái đang ở trong nhãn giới không còn ở trong nhãn giới. Bằng cách nào? Nếu vị ấy muốn làm cho tự mình hay một người khác trở thành không ai thấy được mặc dù vẫn ở đấy, thì vị ấy chỉ việc xuất khỏi thiền căn bản và tác ý như sau: “Ánh sáng này hãy trở thành bóng tối” hoặc “vật này không bị che khuất hãy bị che khuất” hoặc “cái này đã đi vào nhãn giới hãy hết đi vào nhãn giới”. Rồi vị ấy làm công việc chuẩn bị và quyết định theo cách đã mô tả. Sự việc trở thành như vị ấy đã quyết định, đồng thời với sự quyết định, những người khác không trông thấy dù đứng gần, mà chính vị ấy cũng không thấy, nếu không muốn thấy.

82. Nhưng do ai mà thần thông này được thực hiện ngày xưa? Do Ðức Thế Tôn đã làm cho thiện nam tử Yasa đang ngồi bên cạnh ngài mà thân phụ của Yasa không thấy (Vin I 16). Cũng vậy sau khi du hành hai ngàn lý để gặp vua Màha-Cappina và an lập ông vào quả Bất Hoàn, một ngàn đình thần chứng quả Dự Lưu. Ngài làm cho hoàng hậu Anojā, người đi theo vua cùng một ngàn tùy tùng thể nữ mặc dầu ngồi gần, cũng không thấy được vua và đình thần. Hoàng hậu hỏi: “Bạch Thế Tôn, Ngài có thấy vua đâu không?” Phật dạy: “Ngươi nên tìm vua, hay tìm chính ngươi” (Vin I 23) bà đáp: “Bạch, tìm chính con”. Rồi Phật giảng pháp cho bà trong lúc bà ngồi đó, khiến cho bà cùng với tùy tùng đều chứng quả Dự Lưu, còn đình thần chứng Bất Hoàn, vua chứng A-la-hán quả (A-a I 322; Dhp-a II 124)

83. Lại nữa thần thông này được thực hiện bởi đại đức Mahinda lúc Ngài mới đến đảo Tích Lan, làm cho vua không trông thấy những người đi theo Ngài.

84. Lại nữa, tất cả thần thông làm cho hiện rõ thì gọi là hiện, làm cho không rõ thì gọi là biến. Ở đây trong “thần thông hiện”, thì người có thần thông và thần thông đều được bày rõ. Ðiều này có thể được chứng minh bằng hai phép lạ; vì trong đó cả hai (người và phép lạ của người) đều được trình bày, như sau: “Ở đây, Ðức Thế Tôn làm hai phép lạ, mà chư Thánh đệ tử không làm được. Ngài phát sinh một đống lửa trên phần trên thân và phun nước ở phần dưới thân...” (Paṭis I 125). Trong thần thông làm cho biến mất, thì chỉ có thần thông được bày ra, không thấy người làm phép thần thông. Ðiều này có thể được dẫn chứng bằng Kinh Mahaka (S IV 200) và Kinh Brahmanimantanika (M I 330). Vì ở trong đó chỉ có thần thông (của đại đức Mahaka và của Đức Thế Tôn) được hiển bày, không thấy người làm thần thông, như kinh nói:

85. “Ngồi xuống một bên, gia chủ Citta bạch đại đức Mahaka ‘Bạch đại đức, lành thay nếu đại đức cho con trông thấy một thần thông thuộc thượng nhân pháp.‘ — ‘Vậy này gia chủ hãy trải thượng y của ngươi trên sân, và rắc lên đấy một bó cỏ khô.’ — ‘Thưa vâng, tôn giả,’ Gia chủ vâng đáp tôn giả Mahaka, và trải thượng y trên sân và rải cỏ lên đấy. Khi ấy tôn giả đi vào trú xứ của ông, cài then lại, và thực hiện một phép thần thông làm cho lửa tuôn ra từ lỗ khóa và các khe hở nơi then cửa, đốt cháy cỏ khô mà không cháy thượng y” (S IV 290).

86. Lại nói, khi ấy này các Tỷ-kheo, ta hiện thần biến làm cho phạm thiên, tùy tùng cùng quyến thuộc có thể nghe tiếng Ta mà không trông thấy Ta, và sau khi biến mất như vậy Ta nói bài kệ này:

Ta thấy sự khủng khiếp trong tất cả loại hữu,
Kể cả loại hữu đang tìm đến phi hữu;
Ta không tán thán một loại hữu nào;
Ta không chấp thủ một lạc thú nào trong đó (M I 330).

87. Vị ấy đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, không bị trở ngại như đi qua hư không: còn có nghĩa là vượt qua khỏi bên kia bức tường, vách v.v... và vách chỉ cái vách của một cái nhà, tường (thành) chỉ cái tường bao quanh cái nhà, tu viện, khu làng v.v... Núi là một núi đất hay núi đá. Không chướng ngại là không mắc dính. Như trong hư không là như thể vị ấy đang ở chỗ trống.

88. Một người muốn đi kiểu đó cần phải đắc thiền về biến xứ hư không và xuất thiền, rồi làm công việc chuẩn bị bằng cách tác ý đến bức vách hay tường hay một ngọn núi nào đó như Tu di và vị ấy nên quyết định: “Hãy hiện ra hư không”. Nó trở thành hư không: nó rỗng ra cho vị ấy nếu muốn đi xuống hay đi lên, nó nứt ra nếu vị ấy muốn đi vào trong đó. Vị ấy đi qua nó và không bị trở ngại.

89. Nhưng ở đây, trưởng lão Cūḷa-Abhaya nói: “Chư hiền, cần gì phải đắt kasiṇa hư không? Một người muốn tạo ra voi, ngựa v.v... có đắc thiền về voi hay ngựa không? Ðương nhiên tiêu chuẩn duy nhất là nắm vững tám thiền chứng, và sau khi làm công việc chuẩn bị với bất kỳ kasiṇa nào, vị ấy có thể biến ra bất cứ gì vị ấy muốn.” Các Tỷ-kheo bạch: “Bạch đại đức trong kinh chỉ nói đến biến xứ hư không, bởi vậy cần phải nói biến xứ hư không.”

90. Bản kinh như sau: “Vị ấy thông thường là một người đã đạt thiền về biến xứ hư không. Vị ấy tác ý: ‘qua vách, qua tường, qua núi.’ Sau khi tác ý vị ấy quyết định với trí: ‘Hãy có hư không.’ Rồi bỗng có khoảng không. Vị ấy đi không chướng ngại qua vách, qua tường, qua núi. Giống như người không có thần thông đi không chướng ngại tại nơi nào không có vật chướng ngại hay tường vách. Cũng vậy, người có thần thông này do đạt được tâm tự tại, đi không bị trở ngại qua vách, qua tường, qua núi như đi giữa khoảng không” (Paṭis II 208).

91. Nhưng nếu sau khi quyết định, vị ấy đang đi giữa khoảng trống như vậy mà gặp phải một ngọn núi hay cây dựng lên chắn đường thì làm sao? Vị ấy có cần phải nhập thiền và làm quyết định trở lại chăng? — Không có hại gì trong việc ấy. Vì nhập thiền và quyết định trở lại thì cũng giống như nhận sự hầu hạ trước mặt y chỉ sư (Vin I 58; Vin II 274). Và bởi vì vị Tỷ-kheo này đã làm quyết định: “Hãy có khoảng trống” nên chỉ có khoảng trống tại đấy, và do năng lực của quyết định đầu tiên của ông ta, không thể nào có núi hay cây vọt lên, do thời tiết, trong lúc ấy. Tuy nhiên nếu núi hay cây đó đã do một vị có thần thông tạo ra, mà tạo trước, thì thần thông này sẽ được ưu thế, người tạo thần thông sau phải đi phía trên hay phía dưới cái núi ấy.

92. Vị ấy độn thổ rồi trồi lên khỏi mặt đất:

Một người muốn làm phép này thì phải đắc thiền về biến xứ nước và xuất khỏi thiền ấy, rồi vị ấy nên làm công việc chuẩn bị, quyết định rằng: “Ðất tại vùng này hãy biến thành nước,” và vị ấy nên quyết định theo cách đã nói. Ðồng thời với quyết định, bao nhiêu diện tích đất như đã định đều hóa thành nước, và chính tại chỗ ấy mà vị ấy lặn xuống và trồi lên.

93. Sau đây là bản kinh văn: “Vị ấy bình thường đã đắc thiền về biến xứ nước. Vị ấy tác ý đến đất. Sau khi tác ý vị ấy quyết định với trí: ‘Hãy có nước.’ Rồi có nước. Vị ấy lặn xuống trồi lên trên mặt đất. Cũng như người thường không có thần thông lặn xuống trồi lên trên nước, vị có thần thông này cũng vậy, nhờ đạt được tâm tự tại, có thể lặn xuống trồi lên khỏi mặt đất như ở trong nước” (Paṭis II 208).

94. Và vị ấy không những lặn xuống trồi lên, mà còn làm bất cứ gì tùy thích, như tắm, uống nước, rửa miệng, rửa dụng cụ tùy thân v.v... Và không những nước mà bất cứ gì vị ấy muốn thuộc về chất lỏng như bơ, dầu, mật hay nước ngọt v.v... đều có thể biến ra được. Khi vị ấy làm công việc chuẩn bị, sau khi tác ý, “Hãy có bao nhiêu thứ này, thứ này”, và quyết định nó liền có ra như vị ấy đã định. Nếu vị ấy lấy những thứ ấy bỏ đầy dĩa, thì bơ chỉ là bơ, dầu v.v... chỉ là dầu, v.v..., nước chỉ là nước. Nếu vị ấy muốn bị thấm ướt bởi thứ nước ấy, thì vị ấy bị ướt, nếu không muốn, thì không bị ướt. Và chỉ đối với vị ấy mà đất biến thành nước, không phải với người nào khác. Mọi người khác vẫn đi bộ và chạy honda (vehicles - xe cộ) v.v... trên đó v.v... và người ta cày bừa trên đó. Nhưng nếu vị ấy muốn: “Hãy là nước đối với chúng luôn đi”. Nó liền biến thành nước đối với mọi người nữa. Khi thời gian ấn định đã qua, thì tất cả chỗ đất đã biến, ngoại trừ những vũng nước, ao v.v... có sẵn, đều trở lại thành đất như cũ.

95. Trên nước không bị vỡ ra: chỗ nước người ta lặn xuống bây giờ bị dẫm lên mà không lún thì gọi là không vỡ ra. Một người muốn đi trên nước kiểu đó thì phải đắc thiền về biến xứ đất và xuất thiền. Rồi, vị ấy hãy làm công việc chuẩn bị, quyết định “Nước ở trong các chỗ ấy hãy biến thành đất”, và vị ấy phải làm quyết định theo cách mô tả. Ðồng thời với quyết định, nước biến thành đất. Vị ấy đi lên trên đó.

96. Kinh văn như sau: “Vị ấy bình thường là người đã đắc thiền về biến xứ đất. Vị ấy tác ý nước, sau khi tác ý, vị ấy quyết định với trí: ‘Hãy có đất.’ Thế là liền có đất. Vị ấy đi trên nước không bị vỡ ra. Giống như người thường không có thần thông đi trên đất không bị vỡ ra, người có thần thông này cũng vậy, do đạt đến tâm tự tại, có thể đi trên nước không bị vỡ ra như ở trên đất” (Paṭis II 208).

97. Và vị ấy không những chỉ đi mà thôi, còn làm bất cứ uy nghi nào vị ấy muốn. Và không chỉ đất mà thôi, vị ấy có thể biến ra bất cứ chất cứng nào vị ấy muốn, như ngọc, vàng, đá, cây v.v... vị ấy tác ý đến nó và quyết định, tức thì nó trở nên như vị ấy muốn. Và nước ấy biến thành đất duy chỉ cho một mình vị ấy; nó vẫn là nước đối với người khác. Và cá, rùa, le le, cứ việc bơi lội ở đó tha hồ. Nhưng nếu vị ấy muốn làm cho nó biến thành đất đối với người khác nữa, thì vị ấy có thể làm như vậy. Khi thời gian ấn định đã trôi qua, thì nó trở lại thành nước như cũ.

98. Ngồi kiết già vị ấy du hành: Vị ấy đi bằng cách ngồi kiết già. Như con chim có cánh: như con chim được trang bị đôi cánh. Một người muốn làm phép này thì phải đắc thiền về biến xứ đất và xuất thiền. Rồi nếu vị ấy muốn đi bằng cách ngồi xếp bằng, vị ấy phải làm công việc chuẩn bị và quyết định một khoảnh diện tích bằng một chỗ ngồi, để ngồi xếp bằng lên đó, và vị ấy phải làm quyết định như đã mô tả. Nếu vị ấy muốn đi bằng cách nằm, thì hãy định một vùng đất cỡ bằng cái giường. Nếu muốn đi bộ thì vị ấy định một khoảnh đất vừa một con đường và quyết định theo cách đã mô tả: “Hãy có đất.” Ðồng thời với quyết định, nó biến thành đất.

99. Sau đây là kinh văn: “‘Ngồi kiết già, vị ấy du hành trong hư không như con chim’: bình thường, vị ấy là người đắc thiền về biến xứ đất. Vị ấy tác ý hư không. Sau khi tác ý vị ấy quyết định với trí: ‘Hãy có đất.’ Bèn là có đất. Vị ấy du hành (đi bộ), đứng, ngồi, nằm trong hư không, giữa trời. Cũng như kẻ bình thường không có thần thông đi đứng, ngồi, nằm ở trên đất, người có thần thông này cũng vậy, nhờ đạt được tâm tự tại, đi đứng, ngồi, nằm, giữa hư không, giữa trời” (Paṭis II 208).

100. Và một Tỷ-kheo muốn du hành trong không, phải là người đã đắc thiên nhãn. Tại sao? Tại vì trên đường có thể có núi, cây v.v... do thời tiết sinh, hoặc do các loài rồng, Supaṇṇas v.v... ganh ghét tạo ra. Vị ấy cần phải thấy được những vật này. Nhưng khi thấy chúng thì phải làm sao? Vị ấy phải nhập thiền căn bản và xuất, và làm việc chuẩn bị như “Hãy có hư không,” rồi quyết định.

101. Nhưng trưởng lão Cūḷa-Abhaya nói: “Chư hiền, có cần gì phải đắc thiền? Há tâm vị ấy không định tĩnh sẵn hay sao? Do đó, bất cứ khoảnh nào vị ấy đã quyết định ‘Hãy có khoảng trống’ thì bèn có khoảng trống.” Mặc dù trưởng lão nói vậy, vấn đề này vẫn phải được đề cập như đã mô tả dưới thần thông đi không trở ngại xuyên qua vách, qua tường. Hơn nữa vị ấy còn phải là một người đã đắc thiên nhãn vì mục đích đáp xuống tại một chỗ vắng. Vì nếu vị ấy đáp xuống một chỗ công cộng, như ở hồ tắm hay một cổng làng, thì vị ấy bị một đám đông trông thấy. Bởi vậy khi nhìn thấy bằng thiên nhãn, vị ấy nên tránh một nơi không có khoảng trống, nên đáp xuống một khoảng trống.

102. Với bàn tay, vị ấy sờ chạm mặt trăng, mặt trời, những vật có đại uy lực, đại uy thần như thế: ở đây “uy lực” của mặt trăng, mặt trời cần được hiểu là ở sự kiện chúng du hành trên một độ cao bốn mươi hai ngàn dặm, và “uy thần” của chúng là đồng thời chiếu sáng ba (trong bốn) lục địa. Hoặc chúng có uy lực uy thần là vì du hành trên đầu và chiếu sáng như chúng thường làm. Vị ấy chạm: nắm lấy hay đụng phải, tại một chỗ. Sờ: là vuốt khắp mặt, như với một cái gương soi.

103. Thần thông này chỉ thành công nhờ thiền làm căn bản cho thắng trí; ở đây không có sự đắc thiền với một biến xứ nào đặc biệt. Vì Paṭisambhidā nói: “‘Với bàn tay... có đại uy thần.’ Ở đây người đắc thần thông này đã đạt đến tâm tự tại: tác ý đến mặt trời, mặt trăng. Sau khi tác ý, vị ấy quyết định với trí: ‘Nó hãy ở trong tầm tay ta.’ Và nó ở trong tầm tay. Hoặc đang ngồi hay nằm, vị ấy ấy lấy tay chạm sờ mặt trăng, mặt trời. Như người không có thần thông chạm, sờ một vật gì ở trong tầm tay, người có thần thông này cũng vậy, nhờ đạt đến tâm tự chủ, khi ngồi hay nằm, với bàn tay vị ấy chạm, sờ mặt trời mặt trăng” (Paṭis II 208).

104. Nếu vị ấy muốn đi mà sờ chúng, vị ấy có thể đi và sờ. Nhưng nếu vị ấy muốn sờ chúng trong khi ngồi hay nằm, vị ấy quyết định: “Chúng hãy ở trong tầm tay.” Rồi hoặc vị ấy sờ chúng khi chúng rụng trong tầm tay sau khi đã đến do mãnh lực của sự quyết định, như những trái dừa rơi khỏi cuống, hoặc vị ấy sờ bằng cách nới rộng tay ra. Nhưng khi vị ấy nới rộng tay, thì nới rộng cái bị chấp thủ hay cái không bị chấp thủ? Vị ấy nới rộng cái không bị chấp thủ được hỗ trợ bởi cái bị chấp thủ.

105. Ở đây trưởng lão Tam Tạng Cūḷa-Nāga nói: “Này chư hiền, nhưng tại sao cái bị chấp thủ không trở nên nhỏ lại, hoặc lớn ra được? Khi một Tỷ-kheo đi ra qua một lỗ khóa, thì có phải cái bị chấp thủ biến thành nhỏ lại không? Và khi vị ấy biến hình lớn ra, thì có phải nó lớn ra như trong trường hợp trưởng lão Mahā-Moggallāna?”

106. Vào thời ấy khi gia chủ Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) đã nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, ông ta thỉnh Ngài: “Bạch Thế Tôn, xin mời Thế Tôn đến dùng cơm tại nhà con cùng với 500 Tỷ-kheo.” Rồi ra về. Ðức Thế Tôn nhận lời. Khi đêm đã gần mãn, Ngài quán sát mười phương thế giới vào lúc bình minh. Khi ấy Long vương Nandopananda hiện ra trong tầm trí giác của Ngài.

107. Ðức Thế Tôn quán sát Long vương, nghĩ: “Long vương này đã hiện đến trong tầm trí giác của ta, y có khả năng tu tập không nhỉ?” Rồi Ngài thấy rằng Long vương ấy có tà kiến, không tin tam bảo. Ngài quán sát thêm: “Ai có thể chữa trị cho y thoát ra khỏi tà kiến.” Và thấy rằng trưởng lão Mục Kiền Liên có thể làm việc ấy. Rồi sau khi đêm đã gần sáng, sau khi làm vệ sinh, Ngài bảo tôn giả A Nan: “Này A Nan, hãy báo cho 500 Tỷ-kheo biết ta sắp đi thăm chư thiên.”

108. Vào hôm ấy chư thiên có một cuộc tiệc tùng dành cho Long vương Nandopananda. Long vương đang ngồi trên một thiên tòa được che lọng trắng, được vây quanh bởi ba loại nhạc công và một đoàn long tùy tùng hầu tiếp Long vương đủ thứ ẩm thực đựng trong chén bát chư thiên. Khi ấy, Đức Thế Tôn làm cho Long vương trông thấy Ngài, trong lúc Ngài du hành ngay phía trên cái tàng lọng của Long vương để tiến về cõi trời thứ 33, có 500 Tỷ-kheo theo hầu.

109. Lúc ấy tà kiến này khởi lên nơi Long vương: “A cái bọn thầy tu trọc đầu kia đang đi vào đi ra cung điện cõi trời 33 ngay trên đầu chúng ta. Ta nhất định không để cho chúng tung bụi bặm từ chân chúng lên đầu chúng ta.” Nói rồi Long vương đứng dậy đi đến chân núi Tu di, biến mình nằm khoanh bảy vòng quanh núi. Y dương cái mồng ra che trên cõi trời Tam thập tam thiên và làm cho mọi sự ở đây trở thành không trông thấy được.

110. Ðại đức Raṭṭhapāla bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, khi đứng chỗ này, trước đây con thường trông thấy núi Sineru và những thành lũy bao quanh, và cõi trời 33, và lâu đài Vejayanta, và cái cờ trên lâu đài ấy. Bây giờ, bạch Đức Thế Tôn, vì nhân gì, duyên gì, con lại không thấy núi Sineru, cũng không thấy... cái cờ trên lâu đài ấy?” — “Long vương tên Nandopananda đang tức giận chúng ta đấy, Raṭṭhapāla. Nó đã cuộn mình quanh núi Sineru bảy vòng với thân hình của nó, và đứng đấy che khuất chúng ta với cái mồng của nó, làm cho mọi sự tối đen.” — “Bạch Thế Tôn, con sẽ trị nó.” Nhưng Đức Thế Tôn không cho phép.

111. Cuối cùng, tôn giả Moggallāna nói: “Bạch Thế Tôn, con sẽ trị nó.” Ðức Thế Tôn cho phép, dạy: “Ðược, trị nó đi Moggallāna.” Tôn giả bỏ hình ấy và biến thành một Long vương khổng lồ, vây quanh núi Tu di 14 vòng và đưa cái mồng lên trên cái mồng của Long vương kia, ép sát Long vương ấy vào núi Tu di. Long vương tung khói, trưởng lão nói: “Không chỉ có thân ngươi mới có khói, mà thân ta cũng có,” và Tôn giả phun khói. Khói Long vương phun ra, không làm cho tôn giả phiền hà nhưng khói của tôn giả làm cho Long vương rất bực. Rồi Long vương phun lửa. Lửa của Long vương không làm phiền tôn giả, nhưng lửa tôn giả làm cho Long vương buồn bực.

112. Long vương nghĩ: “Hắn đã ép sát ta vào núi Sineru và phun cả khói lẫn lửa.” Rồi ông ta hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” — “Ta là Moggallāna, hỡi Nanda.” — “Bạch Ðại đức, xin Ngài hãy trở lại hình dạng Tỷ-kheo của Ngài như cũ đi.” Tôn giả bỏ hình dạng ấy, đi vào lỗ tai phải của Long vương và đi ra lỗ tai trái, rồi vào lỗ tai trái, ra lỗ tai phải; cũng vậy tôn giả đi vào lỗ mũi phải của Long vương rồi đi ra lỗ mũi trái, vào lỗ mũi trái ra lỗ mũi phải. Rồi khi Long vương mở miệng, tôn giả chui vào trong miệng ấy, và đi bách bộ lên xuống, qua lại trong bụng nó.

113. Ðức Thế Tôn dạy: “Moggallāna, Moggallāna, hãy coi chừng, con độc long này ghê gớm lắm.” Trưởng lão nói: “Bạch Thế Tôn, bốn đạo lộ đưa đến thần thông đã được con tu tập, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, được an lập, được củng cố, khéo hành trì. Con có thể trị không những một Nandopananda, bạch Thế Tôn, mà một trăm, một ngàn, một trăm ngàn Long vương như Nandopananda.“

114. Long vương nghĩ: “Khi hắn vào chỗ đầu tiên, ta không trông thấy. Nhưng bây giờ chờ lúc hắn ra, ta sẽ tóm hắn giữa mấy cái răng nanh của ta mà nhai tuốt.” Rồi y nói: “Ðại đức ơi, nào đi ra đi. Ðừng có tiếp tục quấy nhiễu tôi bằng cái cuộc đi lên đi xuống kinh hành trong bụng tôi như vậy.” Vị trưởng lão đi ra và đứng ngoài. Long vương nhận ra ngài, và thổi một trận cuồng phong từ lỗ mũi phà ra. Vị trưởng lão bèn nhập tứ thiền, và trận cuồng phong không thể làm lay động dù chỉ một sợi lông trong thân ngài. Các Tỷ-kheo khác cũng có thể làm các thần thông từ trước cho đến lúc bấy giờ, nhưng ở điểm này, họ không thể nào nhập định với một phản ứng quá mau lẹ như thế, do đó mà Đức Thế Tôn đã không cho phép họ trị Long vương.

115. Long vương nghĩ: “Ta đã không thể lay động dù chỉ một sợi lông trên thân vị Tỷ-kheo này, với trận cuồng phong từ lỗ mũi ta. Vị ấy là một Tỷ-kheo có uy lực lớn.” Vị trưởng lão từ bỏ hình dạng ấy, và sau khi cải dạng thành một Supaṇṇa, Ngài đuổi theo Long vương, biểu diễn ngọn cuồng phong của Supaṇṇa. Long vương biến hình thành một Bà-la-môn trẻ, nói: “Bạch Ðại đức, con xin quy y Ngài,” và đảnh lễ dưới chân tôn giả. Tôn giả nói: “Này Nanda, đức đạo sư đã đến, chúng ta hãy đến nơi Ngài.” Như vậy, sau khi hàng phục được Long vương và tước hết nọc độc của nó, tôn giả đưa nó đến trước mặt Ðức Thế Tôn.

116. Long vương đảnh lễ Ðức Thế Tôn và nói: “Bạch Thế Tôn con xin quy y Ngài.” Ðức Thế Tôn dạy: “Mong ngươi được an lạc hỡi Long vương.” Rồi Ngài đi với chúng Tỷ-kheo tùy tùng, đến nhà Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc) hỏi: “Bạch Thế Tôn, sao Ngài đến muộn thế.” — “Có một trận đấu giữa Moggallāna và Nandopananda” — “Bạch Thế Tôn, ai thắng, ai bại?” — “Moggallāna thắng, Nanda bị bại.” Cấp Cô Ðộc nói: “Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn chấp thuận cho con được cúng dường bảy ngày liên tiếp, cho con được mừng trưởng lão suốt bảy ngày.” Rồi trong bảy ngày liên tiếp, trưởng giả tiếp đãi trọng thể năm trăm Tỷ-kheo với Thế Tôn dẫn đầu.

117. Vậy, chính ám chỉ đến chuyện này (nới rộng hình dạng) trong lúc hàng phục Long vương mà trên kia có nói “Khi vị ấy làm cho thân lớn, thì có phải nó liền lớn ra như trường hợp trưởng lão Mục Kiền Liên?” Mặc dù điều này được nói đến, các Tỷ-kheo vẫn nhận xét: “Vị ấy chỉ nới rộng cái không bị chấp thủ.” Và chỉ có điều này là đúng ở đây.

118. Và khi vị ấy đã làm điều này, thì không những vị ấy chỉ có chạm sờ mặt trăng, mặt trời, mà nếu muốn vị ấy có thể biến chúng thành cái để chân, và gác chân lên chúng, hay làm thành cái ghế để ngồi lên, làm thành cái giường để nằm lên, làm thành tấm ván để tựa người lên đấy. Và như một người làm những người khác cũng làm như thế. Vì dù cho có nhiều trăm ngàn Tỷ-kheo làm như vậy và đều thành công cả, thì những vận hành của vừng nhựt nguyệt vẫn như cũ, cùng với ánh sáng của chúng. Vì cũng như khi một ngàn cái chảo đầy nước, và mặt trăng hiện ra trên cả ngàn cái chảo, thì vận hành của mặt trăng vẫn bình thường, và ánh sáng của nó cũng vậy. Thần thông này cũng thế.

119. Xa cho đến tận Phạm thiên giới: lấy Phạm thiên giới làm giới hạn. Vị ấy thực hiện sự làm chủ thân xác: ở đây, vị ấy tự chủ trong Phạm thiên giới với phương tiện thân xác. Ý nghĩa điều này cần được hiểu theo kinh văn như sau:

“Vị ấy làm chủ thân xác xa cho đến Phạm thiên giới, nếu người có thần thông này, sau khi đã đạt đến tâm tự tại (làm chủ tâm), muốn đi đến Phạm thiên giới, mặc dù xa, vị ấy quyết định về tính cách gần, ‘Nó hãy gần,’ và nó gần thật. Mặc dù gần, vị ấy quyết định là xa, ‘Nó hãy xa’. Mặc dù nhiều, vị ấy quyết định là ít, ‘Hãy có ít,’ bèn có ít. Mặc dù ít, vị ấy quyết định là nhiều, ‘Hãy có nhiều.’ Và bèn có nhiều. Với thiên nhãn, vị ấy trông thấy hình dáng (thuộc sắc giới) của Phạm thiên. Với thiên nhĩ, vị ấy nghe tiếng nói của Phạm thiên ấy. Với tha tâm trí, vị ấy biết tâm của Phạm thiên ấy. Nếu người có thần thông này, sau khi đã đạt đến tâm tự tại, muốn đi đến Phạm thiên giới với một cái thân có thể thấy được, vị ấy đạt đến tưởng lạc tưởng nhẹ (dễ và mau) và đi đến Phạm thiên giới với một thân thấy được. Nếu người có thần thông ấy, sau khi đã đạt được tâm tự tại, muốn đi đến Phạm thiên giới với một thân vô hình (không thấy được) thì vị ấy chuyển thân cho phù hợp với ý mình. Sau khi đã chuyển thân cho phù hợp với ý, vị ấy đạt đến tưởng lạc và tưởng nhẹ, và đi đến Phạm thiên giới với một thân vô hình. Vị ấy tạo ra một sắc thể thuộc sắc giới ở trước vị Phạm thiên ấy, do ý sanh, với tất cả chân tay, không thiếu một căn nào. Nếu người có thần thông ấy đứng ... ngồi ... nằm, hóa nhân cũng đứng, ngồi, nằm. Nếu người có thần thông ấy phun khói lửa, giảng nói pháp, nêu một câu hỏi, được hỏi một câu hỏi, trả lời ... thì hóa thân cũng phun khói ... trả lời câu hỏi. Nếu người có thần thông đứng với Phạm thiên ấy, nói chuyện đàm thoại với Phạm thiên ấy, hóa thân cũng đứng nói chuyện, đàm thoại với Phạm thiên. Bất cứ gì người có thần thông làm, hóa nhân ấy cũng làm y hệt” (Paṭis II 209).

120. Ở đây, “Mặc dù xa, vị ấy quyết định lại gần”, sau khi xuất khỏi thiền căn bản, vị ấy tác ý đến một cõi Phạm thiên hay cõi chư thiên rất xa, và nghĩ “Nó hãy gần.” Sau khi tác ý và làm việc chuẩn bị, vị ấy lại nhập định và quyết định bằng trí “Nó hãy gần lại.” Nó trở nên gần. Cũng một phương pháp giải thích ấy áp dụng cho những mệnh đề khác nữa.

121. Ở đây, ai đã làm cho một cái gì xa trở thành gần? Chính Đức Thế Tôn. Vì khi Đức Thế Tôn đi đến thế giới chư thiên sau khi làm hai phép lạ, Ngài đã làm cho Yugandhara và Sineru gần lại, và từ mặt đất Ngài đặt một chân lên Yugandhara và chân kia lên Sineru.

122. Và còn ai khác nữa đã làm được việc ấy? Tôn giả Mục Kiền Liên. Vì khi tôn giả đang rời Xá vệ sau khi dùng ngọ xong Ngài đã rút ngắn đám đông dài 12 lý và con đường ba mươi lý dẫn đến đô thị Saṅkassa, và Ngài đến nơi cùng lúc ấy.

123. Lại nữa Trưởng lão Cūḷa-Samudda cũng làm như vậy trên đảo Tích Lan, vào một thời đói kém, một buổi sáng nọ có 700 Tỷ-kheo đến viếng Trưởng lão. Trưởng lão suy nghĩ như sau: “Ở đâu một đoàn Tỷ-kheo đông nhiều có thể đi khất thực?” Ngài thấy không một nơi nào trên đảo Tích-lan có thể khất thực nhưng có thể có một nơi ở bên kia bờ, tại Pāṭalīputta (Patna) Ngài bảo các Tỷ-kheo lấy y bát và nói: “Lại đây, chư hiền, chúng ta hãy đi khất thực”. Rồi Ngài rút ngắn đất lại và đi đến Pāṭalīputta. Các Tỷ-kheo hỏi: “Ðô thị này tên là gì, bạch đại đức?” — “Chư hiền, nó tên Pāṭalīputta.” — “Pāṭalīputta thì xa lắm, bạch đại đức?” — “Chư hiền, các vị trưởng lão kinh nghiệm làm cho cái gì xa thành gần.” — “Vậy thì biển ở đâu đại đức?” — “Chư hiền, há các ngươi đã không đi qua một dòng nước xanh hay sao?” — “Bạch đại đức, có, nhưng biển thì rộng lớn chứ?” — “Chư hiền, những vị trưởng lão có kinh nghiệm có thể làm cho cái gì rộng lớn trở thành nhỏ hẹp.”

124. Và trưởng lão Tissadatta cũng làm như vậy, khi ông đã đắp thượng y sau khi tắm rửa vào buổi chiều và ý nghĩ đi chiêm bái cây Giác ngộ khởi lên nơi ông.

125. Ai đã làm cho cái gì gần trở thành xa? Ðức Thế Tôn. Vì mặc dù Aṅgulimāla đang gần bên cạnh Thế Tôn, Ngài làm cho ông ta cách rất xa (xem M II 99).

126. Ai đã làm cho nhiều thành ít? Trưởng lão Mahā-Kassapa. Vào ngày lễ ở Vương xá, có 500 thiếu nữ đang trên đường đi dự hội, và đem theo bánh “mặt trăng” (bánh đa). Chúng trông thấy Đức Thế Tôn mà không cho Ngài gì cả. Nhưng trên đường về, chúng gặp trưởng lão. Nghĩ rằng “Ngài là vị trưởng lão của chúng ta” chúng mỗi người lấy một cái bánh đem biếu trưởng lão. Trưởng lão mở bát ra và hóa phép làm cho chúng vào tất cả ở trong đó. Ðức Thế Tôn đã ngồi xuống trước và đang đợi trưởng lão. Trưởng lão đem chúng đến trước mặt Thế Tôn.

127. Trong câu chuyện về trưởng giả Illīsa (J-a I 348), thì trưởng lão Mahā-Moggallāna làm cho ít thành nhiều. Và trong câu chuyện Kākavaḷiya Ðức Thế Tôn cũng làm vậy. Trưởng lão Mahā-Kassapa, sau bảy ngày nhập định, đến đứng trước cửa nhà một người nghèo tên Kākavaḷiya để chứng tỏ lòng chiếu cố đến người nghèo. Vợ ông ta trông thấy trưởng lão, và đổ vào bát ngài thức cháo chua không muối mà bà đã làm sẵn dành cho người chồng. Trưởng lão nhận lấy và đặt trong tay Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn quyết định làm cho cháo ấy đủ cho đoàn thể tăng chúng dùng. Những gì được mang đến trong một cái bát trở thành đủ dùng cho tất cả mọi người. Và vào ngày thứ bảy, Kākavaḷiya trở thành một triệu phú.

128. Và không những với trường hợp biến ít thành nhiều, mà bất cứ điều gì người có thần thông mong muốn, như làm cho ngọt thành không ngọt, không ngọt thành ngọt v.v... vị ấy đều có thể thành công. Vì sự việc đã xảy ra như vậy khi trưởng lão Mahā-Anula thấy nhiều Tỷ-kheo ngồi ở bên bờ sông Hằng (ở Tích Lan) đang ăn cơm trắng, vật duy nhất họ đã có được sau khi đi khất thực, Ngài bèn quyết định “Nước sông Hằng hãy trở thành bơ”. Và Ngài ra dấu cho các chú tiểu đến lấy nước sông Hằng để vào bình bát, và đem đến cho chúng Tỷ-kheo. Tất cả chúng Tỷ-kheo ăn cơm ấy với bơ ngọt.

129. Với thiên nhãn: vẫn ở đây mà đuổi ánh sáng ra, vị ấy trông thấy sắc tướng của Phạm thiên. Và vẫn ở đây, vị ấy cũng nghe được âm thanh của Phạm thiên, và hiểu ý ông ta.

130. Vị ấy chuyển tâm mình theo thân mình: vị ấy chuyển tâm cho phù hợp với thân xác; lấy tâm của thiền căn bản, để tâm ấy lên thân xác mình, vị ấy làm cho sự vận hành của nó chậm lại cho phù hợp với vận hành của thân xác, vì cái kiểu của thân xác vận hành, thì chậm chạp.

131. Vị ấy đạt đến tưởng lạc và tưởng nhẹ: vị ấy đi đến, nhập, tiếp xúc với tưởng về lạc và tưởng về nhẹ phù hợp với tâm mà đối tượng là thiền căn bản. Và chính tưởng liên hệ đến xả được gọi là “lạc tưởng”; vì xả được gọi là lạc bởi nó an lạc. Và chính tưởng ấy cần hiểu cũng được gọi là “tưởng nhẹ”, vì nó đã được giải tỏa khỏi những triền cái và các pháp đối lập với nó khởi đầu bằng tham. Nhưng khi vị ấy đạt đến trạng thái này, thì cả đến thân xác vị ấy cũng trở nên nhẹ như bông. Như vậy, vị ấy đi đến Phạm thiên giới với một thân xác hữu hình nhẹ như một nắm bông gòn bay theo gió.

132. Khi đang đi như vậy, nếu muốn, vị ấy sẽ tạo ra một con đường giữa hư không nhờ biến xứ đất, và đi bộ trên đó. Nếu muốn, vị ấy quyết định với biến xứ hư không rằng “có hư không” và vị ấy đi qua hư không như một nắm bông gòn. Hơn nữa, ước muốn đi là thước đo ở đây. Khi có một ước muốn đi, một người đã làm quyết định ấy trong tâm có thể đi hiện hình thấy rõ, được mang đi bởi mãnh lực của quyết tâm giống như một mũi tên do nhà thiện xạ bắn ra.

133. “Vị ấy chuyển thân mình cho phù hợp với tâm của mình” vị ấy đem thân xác đặt trên tâm. Vị ấy làm cho nó đi nhanh cho phù hợp với vận hành của tâm, vì cái kiểu vận hành của tâm là nhanh.

Vị ấy đạt đến tưởng về lạc và tưởng về nhẹ: vị ấy đạt đến tưởng lạc và tưởng nhẹ phù hợp với tâm thần thông mà đối tượng của nó là cái thân xác. Những gì còn lại cần được hiểu theo cách đã mô tả. Nhưng ở đây chỉ có sự đi của tâm.

134. Khi được hỏi: “Khi vị ấy đi với một thân xác vô hình (không thể thấy) như vậy, thì vị ấy đi vào lúc tâm quyết định khởi lên, hay vào lúc nó trú, hay vào lúc nó diệt?” - Một vị trưởng lão đáp: “Vị ấy đi vào cả ba thời” - “Nhưng chính bản thân vị ấy đi, hay gởi một hóa thân do vị ấy tạo?” - “Vị ấy muốn làm thế nào cũng được cả.” Nhưng ở đây, chỉ có sự đi của chính vị ấy là được nói trong bản kinh văn.

135. Do ý sanh: do ý (tâm) sanh, bởi vì nó được tạo bởi tâm ý trong sự quyết định. Không thiếu căn nào: đây là nói đến hình dáng, lỗ mắt, lỗ tai v.v... nhưng không có cảm tính trong một sắc pháp được tạo tác mà thành. “Ðiều này nên hiểu là hàm ý rằng, cũng không có nam nữ căn hay mạng căn nữa” (Vism-mhṭ 398). Nếu người có thần thông đi lui đi tới, hóa nhân do người ấy tạo cũng đi lui đi tới v.v... tất cả điều này chỉ cho những gì một vị đệ tử Phật tạo ra, nhưng những gì Đức Thế Tôn biến hóa, thì làm theo những gì Ngài làm, mà cũng làm những việc khác nữa tùy ý thích của Thế Tôn.

136. Khi người có thần thông này, trong lúc ở đây, thấy được một sắc pháp bằng thiên nhãn, nghe một âm thanh với thiên nhĩ, biết được tâm (người khác) với tha tâm trí, thì vị ấy không vận năng lực thân xác trong khi làm như vậy. Và khi vị ấy trong lúc vẫn ở nguyên chỗ này, đứng với Phạm thiên nói chuyện, đàm thoại với Phạm thiên, thì vị ấy không vận năng lực thân xác trong lúc làm như vậy. Và khi vị ấy làm quyết định được mô tả “mặc dù ở xa vị ấy quyết định lại gần”, thì vị ấy cũng không vận năng lực thân xác trong khi làm như vậy. Và khi đi đến Phạm thiên giới với một cái thân xác có thể thấy được hay không thể thấy được, vị ấy không cần vận năng lực thân xác khi làm như vậy. Nhưng khi vị ấy bước vào quá trình khởi đầu là “Vị ấy tạo ra một sắc thân trước Phạm thiên ấy: do ý sanh”, thì vị ấy vận dụng năng lực thân xác khi làm như vậy. Những gì còn lại được nói ở đây, là với mục đích nêu rõ giai đoạn đi trước giai đoạn vận dụng thân xác. Trước hết đó là (i) thành công do quyết định (đ.45)

137. Sự khác nhau giữa (i) thành công kể như biến hình và (ii) thành công kể như thân do ý sanh là như sau: (xem đ.22 và 45-6).

(i) Một người thực hiện một cuộc biến hình, cần phải quyết định về bất cứ gì vị ấy muốn, trong số những vật khởi đầu là sự xuất hiện (tướng) một đứa bé trai, mô tả như sau: “Vị ấy từ bỏ hình dáng bình thường của mình và hiện hình một cậu bé hay một Long vương (rắn), hay một quỷ Supaṇṇa (loài dạ xoa có cánh), hay một a-tu-la, hay Ðế thích, hay hiện hình một vị thiên thuộc Dục giới, hay hình Phạm thiên, hay hiện hình biển, hình một tảng đá, một con sư tử, một con cọp, một con báo, hay vị ấy bày ra một con voi, một con ngựa, một cỗ xe, hay vị ấy hiện hình một người lính đi bộ, hay hiện ra một cuộc bày binh bố trận” (Paṭis II 210).

138. Và khi vị ấy quyết định, vị ấy nên xuất định từ thiền căn bản của thắng trí và có một trong những vật khởi đầu là biến xứ đất làm đối tượng, và vị ấy nên tác ý đến tướng của mình như là một cậu bé. Sau khi tác ý và làm công việc chuẩn bị xong, vị ấy nên nhập định trở lại rồi xuất định, và nên quyết định rằng: “Ta hãy thành một cậu bé thuộc mẫu người như vậy như vậy”. Ðồng thời với tâm quyết định, vị ấy biến thành cậu bé, như Devadatta đã làm (Vin II 185). Ðây là phương pháp trong tất cả trường hợp. Nhưng “vị ấy bày ra một con voi” v.v... được nói ở đây có nghĩa là bày ra một con voi v.v... ở bên ngoài. Ở đây, thay vì quyết định “Ta hãy biến thành một con voi”, vị ấy quyết định: Hãy có một con voi! Cũng tương tự như thế trong trường hợp con ngựa và những gì còn lại.

Ðây là thành công kể như sự biến hóa.

139. (ii) Một người muốn tạo thân ý sanh cần phải xuất khỏi định căn bản và trước hết tác ý đến thân xác theo cách đã mô tả rồi quyết định “Nó hãy rỗng.“ Nó trở thành rỗng. Rồi vị ấy tác ý đến một thân xác ở bên trong thân ấy, và sau khi làm việc chuẩn bị theo cách đã nói, vị ấy quyết định, “Hãy có một thân khác bên trong thân này.“ Rồi vị ấy kéo cái thân ấy ra như kéo một cây lau ra khỏi vỏ nó, như rút một cây gươm ra khỏi vỏ, như một con rắn lột xác ra khỏi vỏ. Do đó mà nói: “Ở đây, một Tỷ-kheo tạo ra từ thân này một thân khác có hình sắc, do ý sanh, với đầy đủ tứ chi, không thiếu căn nào. Giống như thế một người người kéo một cây lau ra khỏi vỏ nó, và nghĩ như sau: ‘Ðây là cái vỏ, đây là cây lau, cái vỏ khác,cây lau khác; chính từ cái vỏ mà cây lau được rút ra’” (Paṭis II 210) v.v... Và ở đây cũng như cây lau v.v... là giống với cái vỏ, cũng vậy sắc thân do ý sanh cùng giống với người có thần thông, và ví dụ này được nói lên để chứng minh điều ấy. Ðây là thần thông kể như thân ý sanh.

Chương mười hai này, gọi là “Mô tả về thắng trí”, trong Thanh tịnh Ðạo, được soạn thảo vì mục đích làm cho những người lành được hoan hỷ.

-oo0oo-

Chương XIII
Thắng Trí - Kết Luận

(Abhiññā-niddesa)

----

2. Thiên Nhĩ Thông

1. Bây giờ đến lượt mô tả về thiên nhĩ giới. Ở đây và cũng như trường hợp ba loại thắng trí còn lại ý nghĩa của đoạn kinh mở đầu “Với tâm định tĩnh ...” (D I 79) cần được hiểu theo cách đã nói ở Chương XII từ đoạn 13 trở đi; và trong mỗi trường hợp chúng ta chỉ bàn về cái gì khác biệt mà thôi [Ðoạn kinh văn như sau: “vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến thiên nhĩ giới. Với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, vị ấy nghe cả hai loại âm thanh, âm tnanh chư thiên và âm thanh cõi người, xa và gần” (D I 79).]

2. Ở đây, với thiên nhĩ giới, thiên nhĩ có nghĩa giống như tai của chư thiên; vì chư thiên có cái cảm tính nhạy bén dùng làm nhĩ giới thuộc chư thiên, cảm tính ấy do nghiệp sinh, mà đây là nghiệp gồm những thiện hành, cảm tính ấy không bị mật, đàm, máu huyết v.v... làm chướng ngại và có thể nhận biết một đối tượng dù cách rất xa bởi vì nó đã giải thoát khỏi cấu uế. Và nhĩ giới này gồm trong sự hiểu biết (hay trí) phát sinh do năng lực tinh tấn tu hành của vị Tỷ-kheo giống như cảm tính của chư thiên, nên gọi là thiên nhĩ. Lại nữa, nó thuộc chư thiên vì nó có được nhờ tu tập “phạm trú” và vì nó có “phạm trú” làm điểm tựa. Và nó là một “nhĩ giới” (sota-dhātu) theo nghĩa lành (savana) và theo nghĩa vô ngã (giới) (*). Nó cũng là một “nhĩ giới” vì nó giống như lỗ tai trong sự thi hành nhiệm vụ của tai.

[(*) And it is an “ear element” (sota-dhātu) in the sense of hearing (savana) and in the sense of being a soulless [element]]

Thuần tịnh: thiên nhĩ giới ấy hoàn toàn trong sạch, vì không có cấu uế. Siêu nhân: trong việc nghe các âm thanh, nó vượt xa nhĩ giới của loài người vì vượt quá phạm vi con người.

3. Vị ấy nghe cả hai loại âm thanh. Hai loại đó là gì? Tức là âm thanh của chư thiên và của loài người. Điều này được hiểu là bao gồm một phần “Những âm thanh ở xa cũng như âm thanh ở gần”: có nghĩa vị ấy nghe những tiếng ở thật xa, ngay cả trong một thế giới khác, và âm thanh ở gần, ngay cả tiếng của những loài chúng sinh ở ngay trong thân của vị ấy. Ðiều này cần được hiểu là bao quát toàn phần.

4. Nhưng làm thế nào để thiên nhĩ giới này được phát sinh? Vị Tỷ-kheo phải nhập định của thiền căn bản cho thắng trí rồi xuất định. Rồi với tâm thuộc về định của công việc chuẩn bị, vị ấy cần tác ý trước tiên đến các âm thanh thô ở xa thông thường trong tầm tai nghe được: tiếng sư tử gầm trong rừng sâu v.v... hay tiếng chuông, tiếng trống, tiếng còi, tiếng học bài của các chú tiểu và tiếng các Tỷ-kheo trẻ đang cao giọng đọc tụng trong tu viện, tiếng nói chuyện thường của họ, như “Cái gì, đại đức?”, “Cái gì, hiền giả?” v.v... tiếng chim hót, tiếng gió thổi, tiếng chân bước, tiếng nước sôi reo, tiếng lá dừa khô dưới nắng, tiếng của kiến v.v... Khởi sự như vậy bằng những âm thanh hoàn toàn thô, vị ấy tuần tự tác ý đến những âm thanh dần dần vi tế. Vị ấy phải tác ý đến tướng của âm thanh ở phương đông, phương tây, phương bắc, phương nam, phương trên, phương dưới, phương trung gian phía đông, phương trung gian phía tây, phương trung gian phía bắc và phương trung gian phía nam. Vị ấy cần tác ý đến tướng âm thanh thô và tế.

5. Những âm thanh này là rõ rệt ngay cả đối với thức bình thường của vị ấy; nhưng chúng đặc biệt rõ đối với Tâm trong định ở công việc chuẩn bị (Vị ấy được gọi là đắc thiên nhĩ ngay khi tâm an chỉ vừa sinh khởi, không cần phải làm gì thêm). Khi vị ấy tác ý đến tướng âm thanh như vậy, (nghĩ rằng) “Bây giờ thiên nhĩ giới sắp sinh khởi” ý môn (mind door) (mana dvāra) hướng tâm (āvajjanā) sinh khởi, lấy một trong những âm thanh này làm đối tượng cho nó khi tâm ấy đã ngưng thì đến bốn hoặc năm tốc hành tâm xảy ra, ba hoặc bốn tâm dẫn đầu thuộc về dục giới và gọi là chuẩn bị (parakamma), cận hành (access), thuận thứ (anuloma) và chuyển tánh (gotrabhū) trong khi tâm thứ tư hoặc thứ năm là tâm an chỉ (absorption consciousness) (appaṇā) thuộc tứ thiền, sắc giới.

6. Ở đây, chính cái trí khởi lên cùng cái định an chỉ được gọi là thiên nhĩ giới. Sau khi định an chỉ đã được đạt, thì thiên nhĩ giới đã được chan hòa vào trong cái tai (của trí) ấy. Khi củng cố nó hành giả cần nới rộng tâm nó ra dần bằng cách định giới hạn bằng một ngón tay như sau: “Ta sẽ nghe âm thanh trong lãnh vực này”. Rồi hai ngón, bốn ngón, tám ngón, một sải tay, một ratana (bằng 24 độ dài của ngón tay), bên trong của một gian phòng, ra ngoài hành lang tòa nhà, đường đi kinh hành ở xung quanh, vườn của tu viện, khu làng khất thực, cả vùng v.v... cho đến giới hạn của cả thế giới hay xa hơn nữa. Ðây là cách hành giả nới rộng tâm thiên nhĩ từng giai đoạn.

7. Một người đã đạt đến thắng trí theo cách đó còn nghe nhờ thắng trí mà không cần phải tái nhập thiền căn bản, nghe bất cứ âm thanh nào đến trong tầm không gian được chạm bởi đối tượng của thiền căn bản. Và trong khi nghe như vậy, dù cho có một tiếng vang dậy những âm thanh của tù và (còi) trống, xập xỏa v.v... vang cho đến Phạm thiên giới, vị ấy vẫn có thể nếu muốn, định rõ từng tiếng như “đây là tiếng loa, đây là tiếng trống”.

Giải thích về thiên nhĩ giới đến đây là chấm dứt.

3. Tha Tâm Trí

8. Về sự giải thích về Tha tâm trí, kinh văn như sau: “Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm trí. Với tâm của mình vị ấy đi vào tâm của các chúng sinh khác, của người khác và hiểu chúng như sau: Tâm có tham, biết là tâm có tham, tâm vô tham, biết là tâm vô tham, tâm vô sân biết là tâm vô sân; tâm có si biết là tâm có si; tâm vô si biết là tâm vô si; tâm chật hẹp biết là tâm chật hẹp; tâm tán loạn biết là tâm tán loạn; tâm đại hành biết là tâm đại hành; tâm không đại hành biết là tâm không đại hành; tâm hữu thượng, biết là tâm hữu thượng; tâm vô thượng biết là tâm vô thượng; tâm định tĩnh, biết là tâm định tĩnh; tâm không định tĩnh biết là tâm không định tĩnh; tâm giải thoát biết là tâm giải thoát; tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát” (D I 79). Ở đây, “đi vào” có nghĩa là đi khắp (pariyāti); nghĩa là định giới hạn (paricchindati). “Của những người khác” cũng nghĩa như câu trước ”của những chúng sinh khác” thay đổi vì mục đích giáo hóa và tính cách văn vẻ của sự thuyết trình. (lược)

9. Nhưng trí này được sinh khởi bằng cách nào? Nó được thành công nhờ thiên nhãn, làm công việc chuẩn bị cho nó. Bởi thế, vị Tỷ-kheo cần phải nới rộng ánh sáng, và cần phải tìm ra tâm người khác bằng cách quan sát với thiên nhãn màu sắc của máu đang hiện diện với trái tim vật lý làm chỗ tựa cho nó. Vì khi một tâm đang câu hữu với hỷ đang hiện diện, thì máu có màu đỏ như trái sung (chín), khi một tâm câu hữu với ưu hiện diện, thì máu có màu hơi đen; khi một tâm câu hữu với tịnh chỉ hiện hành, thì máu trong như dầu mè. Bởi vậy, vị ấy phải tìm ra tâm hành một người bằng cách quan sát màu máu trong trái tim vật lý như “Chất máu này được phát sinh do hỷ căn, chất này được phát sinh do ưu căn, chất này được phát sinh do xả căn,“ và như thế vị ấy làm cho vững chắc tha tâm trí của mình.

10. Chỉ khi nào tha tâm trí của vị ấy được cũng cố như cách trên, vị ấy mới dần dần biết được tâm mình ở sắc giới và vô sắc giới nữa, bằng cách theo dấu tâm hành này để biết tâm hành khác mà không cần phải xem máu trong tim nữa. Vì luận nói: “Khi vị ấy muốn biết tâm ở vô sắc giới, thì lấy trái tim vật lý của ai mà quan sát? Có sự thay đổi về màu sắc (vật chất) của ai do các căn sinh ra, mà vị ấy có thể quan sát? Không ai cả. Phạm vi của một người có thần thông chỉ là thế này, bất cứ tâm hành nào mà vị ấy tác ý đến thì vị ấy biết ngay tâm hành ấy theo mười sáu hạng nói trên.” Nhưng lối giải thích (bằng cách trái tim vật lý hay nhục đoàn tâm) này là dành cho một người chưa thực hành từ trước.

11. Về tâm có tham v.v... Tám loại tâm câu hữu với tham cần được hiểu là tâm có tham. Những tâm hành thiện và bất định còn lại trong bốn cõi (dục, sắc, vô sắc và siêu thế) là vô tham. Bốn tâm hành nghĩa là hai câu hữu với ưu, một với bất định và một với trạo cử, không được bao gồm ở đây, mặc dù có một số các vị trưởng lão cho rằng có. Chính hai tâm câu hữu với ưu được gọi là “tâm có sân”. Và tất cả tâm thiện và bất định trong bốn cõi đều là vô sân. Mười loại bất thiện tâm còn lại không được bao gồm trong này, mặc dù một vài trưởng lão vẫn kể vào. Có si... không si. Ở đây chỉ có hai, nghĩa là tâm câu hữu với bất định và tâm câu hữu với trạo cử, là có si thuần túy (không câu hữu với hai bất thiện căn kia). Nhưng mười hai loại bất thiện tâm đều có thể được hiểu như là có si, vì si có mặt trong tất cả các loại tâm bất thiện. Những tâm còn lại là vô si.

12. Chật hẹp là tâm có sự cứng đờ và biếng nhác. Tán loạn là tâm trạo cử. Ðại hành là tâm thuộc phạm vi sắc và vô sắc giới. Không đại hành là các tâm còn lại. Có thượng là tâm thuộc về ba cõi. Vô thượng là tâm siêu thế. Có định tĩnh là tâm đạt định cận hành và định an chỉ. Không định tĩnh là không đạt cả hai. Giải thoát là tâm đạt đến một trong năm thứ giải thoát, đó là giải thoát bằng sự thay thế pháp đối lập (nhờ quán tuệ - insight), bằng sự đàn áp (các chướng ngại pháp) (nhờ định), bằng sự cắt đoạn (nhờ đạo lộ), bằng sự an tịnh (nhờ quả), bằng sự từ bỏ (nhờ Niết Bàn, Paṭis I 26). Không giải thoát là tâm chưa đạt đến bất cứ giải thoát nào trong năm loại trên.

Bởi vậy, vị Tỷ-kheo đã đắc tha tâm trí có thể biết tất cả loại tâm này, nghĩa là tâm có tham, biết là tâm có tham... Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát.

4. Túc Mạng Trí

13. Về sự giải thích “Túc mạng trí” kinh văn như sau: “Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến nhiều đời trước của mình, nghĩa là một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp. (Vị ấy nhớ) tại chỗ kia ta có tên như thế, chủng tộc như thế, tướng như thế, ăn đồ ăn như thế, thọ khổ lạc như thế, tuổi thọ như thế. Sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại đây ta có tên như thế, chủng tộc như thế, tướng như thế, ăn uống như thế, tuổi thọ như thế. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây. Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết” (D I 81). Ở đây, “Túc mạng trí”, là cái trí nhớ lại những đời quá khứ. “Ðời quá khứ” có nghĩa là ngũ uẩn sống trong những thời trước trong quá khứ. “Sống” trong trường hợp này nghĩa là được sống trọn, được trải qua, được khởi lên và diệt trong dòng tương tục chủ quan của một người. Hoặc, đời sống trong quá khứ, nghĩa là những tâm pháp được sống trong quá khứ, trong những đời trước của một người, và “sống” trong trường hợp đó có nghĩa là sống trong chỗ trú khách quan được nhận biết và định giới bởi tự tâm, hay bởi tâm người khác. Trong trường hợp nhớ lại các Đấng Giác Ngộ trong quá khứ đã cắt đứt dòng luân hồi, thì chỉ có các đấng Giác ngộ mới làm được (lược).

14. Nhiều: nhiều loại hay xảy ra nhiều cách. (lược)

15. Có sáu hạng người nhớ đời quá khứ, đó là ngoại đạo, đệ tử thường (đệ tử phàm phu) (ordinary disciples), đệ tử xuất sắc (great disciples), đại đệ tử (chief disciples), Ðộc giác (Paccekabuddhas), Phật.

16. Ở đây, ngoại đạo chỉ nhớ bốn mươi kiếp về trước, không xa hơn. Tại sao? Vì trí tuệ chúng yếu ớt do thiếu sự định giới hạn Tâm và Sắc (xem Ch. XVIII). Những đệ tử thường nhớ cho đến một trăm kiếp, một ngàn kiếp, bởi vì trí tuệ họ mãnh liệt. Tám mươi đệ tử xuất sắc cũng vậy. Nhưng các vị đại đệ tử (thượng thủ) nhớ được một vô số kiếp (a-tăng-kỳ) và một trăm ngàn kiếp về trước. Ðộc giác Phật nhớ được hai vô số kiếp (a-tăng-kỳ) và một trăm ngàn kiếp. Còn với chư Phật thì không có giới hạn nào.

17. Lại nữa, ngoại đạo chỉ nhớ sự tiếp nối của các uẩn, họ không thể nhớ sự chết và kiết sanh, xa lìa sự tiếp nối các uẩn. Họ cũng như những người mù ở chỗ họ không thể đáp xuống bất cứ chỗ nào họ muốn, và đi như những người mù đi không buông rời những chiếc gậy của chúng. Cũng vậy, ngoại đạo nhớ (đời trước) mà không buông bỏ sự tiếp nối các uẩn. Những đệ tử phàm phu vừa nhớ sự tiếp nối các uẩn, vừa nhớ sự chết và kiết sanh. Cũng vậy với tám mươi đệ tử xuất sắc. Nhưng chư đại đệ tử thì không dính dự gì đến sự tiếp nối các uẩn. Khi họ thấy cái chết của một người thì họ thấy ngay kiết sanh và khi thấy cái chết của một người khác, cũng thấy ngay kiết sanh. Bởi vậy họ chỉ cần theo dõi sự chết và kiết sanh. Cũng vậy với những vị Ðộc giác.

18. Chư Phật thì trái lại, không cần dính dự đến sự tiếp nối của ngũ uẩn hay theo dõi chết và kiết sanh, vì bất cứ trường hợp nào Ngài chọn lựa trong số nhiều triệu kiếp, hoặc nhiều hơn, hoặc ít hơn, trường hợp ấy liền hiện rõ đối với Ngài. Chư Phật đáp xuống như sư tử bất cứ chỗ nào Ngài muốn, băng qua nhiều triệu kiếp như thể bỏ băng một đoạn văn trong khi đọc và cũng như một mũi tên bắn ra bởi một nhà thiện xạ có tài chẻ tóc, như Sarabhanga (J-a V 129) luôn luôn trúng đích không bị mắc vào cây v.v... trên đường đi, cũng vậy, trí chư Phật không bị kẹt ở những đời trung gian mà nắm ngay lấy bất cứ trường hợp nào cần đến.

19. Trong số những người nhớ được đời quá khứ, thì cái thấy của ngoại đạo như lửa đom đóm, thấy biết của đệ tử phàm phu như ánh sáng đèn cầy, các đệ tử xuất sắc như bó đuốc, của chư đại đệ tử như sao mai, của Ðộc giác như mặt trăng, và của chư Phật như muôn ngàn tia sáng của mặt trời vào mùa thu quang đãng.

20. Ngoại đạo thấy đời quá khứ như người mù vừa đi vừa gõ với cây gậy. Ðệ tử phàm phu thấy kiếp quá khứ như người đi trên cầu một tấm ván, chư đệ tử xuất sắc thấy như người đi trên một cái cầu đi bộ. Ðại đệ tử thấy như người đi trên cầu cho xe đi, Ðộc giác thấy như người đi trên con đường, và chư Phật thấy như người đi trên đại lộ dành cho xe đi.

21. Ở đây, chính muốn nói đến trí túc mạng của các Thanh Văn đệ tử. Do đó trên đây nói: “‘Vị ấy nhớ‘: Vị ấy theo dõi dấu vết của (đời quá khứ) do sự tiếp nối của các uẩn, hoặc do cái chết và kiết sanh” (đoạn 14).

22. Một Tỷ-kheo mới tập sự muốn nhớ lại đời sống quá khứ theo cách trên, cần phải đi vào độc cư. Khi trở về, sau khi khất thực và ăn xong rồi vị ấy phải nhập tuần tự bốn thiền và xuất đệ tứ thiền căn bản của thắng trí (*). Rồi vị ấy hướng tâm đến hành vi gần nhất của mình là ngồi xuống (vì mục đích này), kế tiếp đến sự chuẩn bị chỗ ngồi, đến sự đi vào trú xứ, đến sự thu xếp y bát, đến lúc ăn, đến lúc trở về từ khu làng, đến lúc lang thang trong làng, đến lúc vào làng, đến lúc từ tu viện đi ra, đến lúc đảnh lễ điện thờ và cây giác ngộ, đến lúc rửa bát, đến lúc cầm bát lên, đến những việc làm từ khi cầm bát lên trở về trước cho đến lúc rửa miệng, cho đến những việc làm vào buổi sáng sớm, đến những việc làm ở canh giữa, ở canh đầu, bằng cách ấy, hành giả nên hướng tâm đến tất cả việc làm suốt đêm và ngày theo thứ tự ngược lại.

[(*) Then he should attain the four jhānas in succession and emerge from the fourth jhāna as basis for direct-knowledge]

23. Trong khi chừng ấy là rõ rệt đối với hành giả dù đối với tâm bình thường, nó đặc biệt rõ rệt đối với tâm chuẩn bị. Nhưng nếu có một điều gì không rõ vị ấy phải nhập thiền căn bản, xuất và hướng tâm (tác ý) bằng cách làm ấy, nó trở nên rõ rệt như một cây đèn đã được thắp lên. Và như vậy cũng theo thứ tự ngược lại, hành giả cần hướng tâm đến những việc làm từ ngày thứ hai trở về trước, và ngày thứ ba, thứ tư, thứ năm trong mười ngày, trong nửa tháng và lùi xa cho đến một năm trước.

24. Khi với cách ấy, hành giả hướng tâm cho đến mười năm, hai mươi năm v.v... trở lùi về cho đến ngày kiết sanh của vị ấy trong đời sống hiện tại, vị ấy nên hướng tâm đến danh sắc sinh ra vào lúc chết trong đời trước, vì một vị Tỷ-kheo có trí ngay tức thì có thể bỏ kiết sanh mà lấy đối tượng là danh sắc vào lúc chết.

25. Nhưng danh sắc trong đời trước đã chấm dứt không dư tàn và một danh sắc khác sinh khởi, do đó trường hợp này như thể bị đóng lại trong bóng tối, và thật khó cho một người ít tuệ có thể thấy được nó. Tuy thế vị ấy cũng không nên bỏ dở công việc, nghĩ rằng: “Ta không thể bỏ kiết sanh và lấy danh sắc vào lúc chết làm đối tượng”. Trái lại hành giả hãy nhập thiền căn bản nhiều lần, và mỗi lần xuất định hãy tác ý đến trường hợp ấy.

26. Cũng như khi một người có sức mạnh, đẵn một cây to để làm nóc nhọn cái nhà, nhưng không thể đốn với một cái lưỡi rìu đã cùn nhụt vì chặt cành và lá, vậy mà ông ta vẫn không bỏ dở công việc, trái lại đi đến thợ rèn nhờ mài cái rìu rồi trở lại tiếp tục công việc đẵn cây, khi rìu lụt trở lại, lại đi mài và tiếp tục công việc như cũ. Và khi tiếp tục chặt như vậy, cuối cùng cây ngã, vì mỗi lần không phải chặt lại những gì đã bị chặt rồi và những gì chưa bị chặt mỗi lần đứt thêm một ít. Cũng thế khi hành giả xuất thiền căn bản, thay vì hướng tâm đến những gì đã hướng tâm, vị ấy chỉ nên hướng tâm đến kiết sanh, và cuối cùng bỏ kiết sanh, mà làm cho danh sắc sinh ra lúc chết làm đối tượng cho vị ấy. Và ý nghĩa này cũng cần được sáng tỏ bằng ví dụ người đẵn cây và người chẻ tóc.

27. Ở đây trí phát sinh có đối tượng là khoảng thời gian từ lúc ngồi xuống vừa qua cho mục đích này, trở lui về kiết sanh thì không gọi là trí túc mạng, nhưng nó được gọi là trí chuẩn bị (parikamma), vài người gọi nó là “trí biết quá khứ” (atītaṃsañāṇa), nhưng nó không thích hợp với sắc giới.

Tuy nhiên, khi vị Tỷ-kheo đã đi trở lùi về quá kiết sanh, thì khởi lên nơi vị ấy “Ý môn hướng tâm” có đối tượng là danh sắc đã sinh vào lúc chết. Và khi tâm này đã dừng, tiếp đến có bốn hay năm tốc hành tâm cũng lấy danh sắc kia làm đối tượng. Tốc hành tâm đầu tiên trong đó là tâm chuẩn bị v.v... theo cách đã nói (ở đoạn 5), là thuộc Dục giới. Tốc hành tâm cuối cùng là định an chỉ thuộc tứ thiền, sắc giới. Trí khởi lên nơi vị ấy lúc đó cùng một lượt với tâm này (định này) gọi là Trí nhớ lại đời trước. Chính là bằng niệm liên hệ với trí ấy mà vị ấy “nhớ đến các đời đã qua, như một đời, hai đời,... với đại cương và chi tiết” (D I 81).

28. Ở đây, một đời là sự tương tục của các uẩn gồm trong một hiện hữu duy nhất khởi từ kiết sanh đến chết. Với hai đời v.v... cũng vậy.

Nhưng trong trường hợp nhiều thành kiếp v.v... cần phải hiểu rằng hoại kiếp là kiếp giảm và thành kiếp là kiếp tăng.

29. Ở đây, thời thay thế hoại kiếp được bao gồm trong hoại kiếp, và cũng vậy thời thay thế thành kiếp được kể vào thành kiếp. Bởi vậy, nó bao gồm những gì được nói như: “Này các Tỷ-kheo có bốn vô số kiếp. Ðó là hoại kiếp, thời thay thế hoại kiếp, thành kiếp và thời thay thế thành kiếp” (A II 142 rút gọn).

30. Có ba loại hoại kiếp: Hoại kiếp do nước, do lửa và do gió (MN 28). Lại có ba giới hạn cho cõi Phạm thiên tên Ābhassara (Quang âm), cõi Subhakiṇha (Thiểu tịnh) và cõi Phạm thiên Vehapphala (Quảng quả). Khi kiếp hoại do lửa, tất cả những gì ở dưới cõi trời Quang âm đều bị thiêu hủy. Khi kiếp hoại do nước tất cả những gì ở dưới cõi Thiểu tịnh đều bị nước làm cho tan rã. Khi kiếp hoại bởi gió, tất cả đều bị gió tàn phá cho đến coi trời Quảng quả.

31. Về phạm vi rộng lớn, thì luôn luôn có một trong ba cõi Phật bị tiêu hủy. Vì cõi Phật có ba loại: Phạm vi sanh xứ, phạm vi thẩm quyền và phạm vi trí Ngài biết đến. Ở đây phạm vi sanh xứ được giới hạn bởi mười ngàn thế giới hệ rung động vào ngày Ðấng Toàn giác thọ kiết sanh v.v... Phạm vi thẩm quyền được giới hạn bởi một trăm ngàn triệu thế giới hệ ở đấy những hộ trì (paritta) (safeguards) sau đây có hiệu lực: Ratana Sutta (Sn 39), Khandha Paritta (Vin II 109; A II 72), Dhajagga Paritta (S I 218), Āṭānāṭiya Paritta (D III 194) và Mora Paritta (J-ā II 33). Phạm vi mà trí Ngài biết đến thì vô biên, vô lượng. Kinh nói: “Xa cho đến chừng nào Ngài muốn” (A I 228). Ðấng toàn giác biết bất cứ việc gì bất cứ ở đâu Ngài muốn biết. Vậy một trong ba cõi Phật này, đó là cõi thẩm quyền, bị tiêu hủy. Nhưng khi cõi này bị tiêu hủy, thì cõi sanh xứ cũng tiêu. Và chuyện ấy xảy đến đồng thời, và khi thế giới ấy được tái lập cũng thành lập đồng thời (cf. M-a IV 114).

32. Bây giờ, nên hiểu rằng sự tiêu hủy và tái lập xảy ra như sau: Vào thời kiếp hoại do lửa, trước hết một đám mây lớn báo hiệu kiếp hoại nổi lên, và có một trận mưa lớn nổi lên khắp một trăm triệu thế giới hệ. Người ta thích thú đem ra tất cả hạt giống để gieo. Nhưng khi mầm lên vừa tầm cho bò gặm, thì không còn một hạt mưa nào rơi xuống nữa, và từ đó trở đi mưa bị tắt luôn. Ðây là điều Thế Tôn muốn nói khi Ngài dạy: “Này các Tỷ-kheo, có một thời xảy đến trong nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm trời không có mưa” (A IV 100) những chúng sinh sống nhờ hoa trái cũng vậy.

33. Khi một thời gian dài trải qua như vậy, nước cạn khô, chỗ này, chỗ kia cá rùa chết và được tái sinh ở cõi trời Ðại Phạm, những chúng sinh ở địa ngục cũng vậy. Một số người cho rằng những chúng sinh thường trú ở địa ngục chết ngay ở đấy cùng lúc mặt trời thứ 7 mọc lên.

Bây giờ vấn đề là không có chuyện tái sinh ở cõi Phạm thiên, và một số chúng sanh vì bị ám ảnh bởi sự thiếu ăn nên không thể đắc thiền được, làm sao chúng tái sinh ở đấy? Chính là nhờ phương tiện thiền đã đắc ở Dục giới.

34. Vì khi chư thiên ở Dục giới gọi là thế giới chủ (loka-byūha) biết được rằng vào cuối một trăm ngàn năm sẽ xuất hiện một kiếp tai, thì chư thiên này du hành khắp chốn có người lai vãng, đầu trần tóc tai rũ rượi, mặt mày thê thảm, tay quẹt nước mắt, y phục lôi thôi, đi thông báo như sau: “Thưa bà con cô bác, cuối thời gian một trăm ngàn năm từ đây sẽ sinh khởi một kiếp tai. Thế giới này sẽ bị tiêu hủy. Ngay cả đại dương cũng sẽ khô cạn. Trái đất lớn này, kể cả Tu di sơn vương cũng bị tiêu hủy. Sự tiêu hủy thế giới sẽ lan đến cõi Phạm thiên. Bà con hãy tu tập từ tâm, hãy tu tập bi, hỷ, xả, hỡi quí vị. Hãy săn sóc cha, săn sóc mẹ các người. Hãy kính trọng các bậc tôn trưởng các người.”

35. Khi loài người và tiên trên đất (địa tiên) nghe những lời ấy, phần lớn đều tràn ngập một ý thức khẩn trương. Họ đâm ra tử tế với nhau và làm công đức với từ, bi, hỷ, xả v.v... và nhờ vậy được tái sinh ở thiên giới. Tại đây họ ăn đồ ăn chư thiên, và làm công việc chuẩn bị về Kasiṇa, hư không và đắc thiền. Tuy nhiên lại có những người được tái sinh ở cõi trời Dục giới nhờ nghiệp thọ sanh báo. Vì không có một chúng sinh nào trong vòng luân hồi mà không có nghiệp phải thọ sanh báo (nghiệp phải thọ quả vào đời sau). Những người này cũng đắc thiền theo cách ấy. Tất cả, cuối cùng đều tái sinh ở Phạm thiên giới nhờ đắc thiền trong một cõi dục giới theo cách ấy.

36. Tuy nhiên cuối thời gian dài sau khi cạn hết nước mưa một mặt trời thứ hai xuất hiện. Và điều này được Ðức Thế Tôn mô tả như sau: “Này các Tỷ-kheo, có một thời đến khi mà ...” (A IV 100), và kinh Sattasuriya cần được trích trọn vẹn. Bấy giờ khi sự việc ấy xảy đến, không còn phân biệt được ngày với đêm được nữa. Khi một mặt trời này lặng, thì một mặt trời khác xuất hiện. Thế giới bị thiêu đốt không ngừng bởi những mặt trời. Nhưng không có thần mặt trời trong mặt trời hoại kiếp như trong mặt trời thường. Khi mặt trời thường hiện diện thì những đám mây mang sấm chớp và những luồng hơi có hình đuôi ngựa đi qua bầu trời, còn khi mặt trời kiếp hoại hiện diện, thì bầu trời trắng bạc như cái gương soi, không mây và không hơi. Khởi đầu là những sông nhỏ, nước trong các dòng sông dần dần khô cạn, trừ năm sông lớn (sông Hằng, Yamunā (Jumma), Sarabhu, Sarassatī và Mahī).

37. Sau đó, vào cuối một thời gian dài, một mặt trời thứ ba xuất hiện, và khi nó xuất hiện thì những con sông lớn cũng khô cạn luôn.

38. Vào cuối một thời gian dài sau đó, một mặt trời thứ tư xuất hiện. Khi nó xuất hiện, bảy hồ lớn ở Hy mã lạp sơn (Himalaya), nguồn của những con sông lớn, cạn khô: đó là hồ Sīhapapāta, Haṃsapātana, Kaṇṇamuṇḍaka, Rathakāra, Anotatta, Chaddanta, Kuṇāla.

39. Sau đó, vào cuối một thời gian dài, một mặt trời thứ năm xuất hiện, và khi nó xuất hiện thì cuối cùng trong biển lớn không đủ nước để thấm ướt một đầu ngón tay.

40. Sau đó, vào cuối một thời gian dài, một mặt trời thứ sáu xuất hiện, và khi nó xuất hiện, thì toàn thể thế giới toàn là hơi nóng, tất cả sự ẩm thấp đã bốc hơi. Và một trăm ngàn triệu thế giới hệ đều như thế giới hệ này.

41. Sau đó vào cuối một thời gian dài, một mặt trời thứ bảy xuất hiện, và khi nó xuất hiện, thì thế giới này cùng với một trăm ngàn triệu thế giới hệ khác bốc lửa. Ngay cả núi Tu di cao hơn một trăm lý cũng sụp đổ và biến vào hư không. Hỏa hoạn bốc cao tới cõi trời Tứ thiên vương. Khi nó đã thiêu hủy tất cả cung điện vàng son và pha lê ở đấy, nó lại xâm lăng cõi tam thập tam thiên. Và cứ như thế lửa bốc lên đến cõi sơ thiền. Khi nó đã thiêu hủy tất cả ba cõi trời Phạm thiên ở dưới, lửa dừng lại ở Quang âm thiên. Chừng nào còn có một hữu vi pháp hiện hữu dù chỉ bằng một vi trần, lửa vẫn không tắt, nó chỉ tắt khi tất cả các pháp hữu vi đã thiêu hủy hết. Và cũng như ngọn lửa đốt dầu và bơ, nó không để lại tro tàn.

42. Bây giờ khoảng không ở thượng tầng và hạ tầng đều ở trong một màn đêm u ám bao la. Rồi vào cuối một thời gian dài một đám mây lớn xuất hiện và lúc bầu trời mưa lất phất, rồi dần dần mưa càng lớn, như cọng sen, như cây roi, như cái chày, như những thân dừa, càng ngày càng tăng. Và cứ thế nó trút xuống trên tất cả những vùng đã bị thiêu hủy trong một trăm ngàn triệu thế giới hệ cho đến khi chúng biến mất. Rồi những sức gió ở dưới và xung quanh nước ấy nâng lên, làm cho nước thành một khối, và bao lấy nước, như hạt nước trên lá sen. Làm thế nào gió kết tụ lại từng đống nước khổng lồ như thế? Bằng cách tạo ra khoảng trống, vì gió tạo những khoảng trống chỗ này chỗ kia.

43. Bị ép lại bởi sức gió như vậy, bị kết tụ lại, rút nhỏ lại, nước dần dần hạ xuống. Khi nó xuống thì cõi Phạm thiên thấp nhất tái xuất hiện ở chỗ cũ của nó, những thế giới chư thiên tái xuất hiện như những chỗ bốn cõi ở thượng tầng thuộc Dục giới. Nhưng khi nó đã xuống đến mực đất lúc trước, thì có những sức gió mạnh nổi lên ngăn nước lại và làm cho nó cố định, như nước trong bình khi lỗ thoát nước đã bị bịt lại. Khi nước mát đã được ngấm hết thì đất đầu tiên xuất hiện trên đó. Nó có màu mùi và vị như lớp ván trên mặt nồi cơm vừa cạn.

44. Rồi những chúng sinh được tái sinh đầu tiên trong cõi Phạm thiên thuộc Quang âm thiên, bây giờ rơi từ cõi trời ấy xuống do thọ mạng đã tận, và công đức đã hết, và sinh lại tại chỗ này. Chúng đều tự phát quang và du hành trong hư không. Khi ăn vào chất đất nguyên thủy đó, như được nói trong kinh Aggañña (D III 85), chúng bị tham chinh phục, và lo toan vo đất thành từng miếng để ăn. Rồi ánh sáng của chúng tan biến, và trời tối tăm lại. Chúng hoảng sợ khi thấy bóng tối.

45. Rồi để hết sợ và thêm can đảm cho chúng, mặt trời xuất hiện trọn năm mươi lý bề ngang. Chúng thích thú khi thấy mặt trời, nghĩ: “Mặt trời đã xuất hiện để làm cho chúng ta bớt sợ hãi và đem lại can đảm cho ta (sūrabhāva). Vậy hãy gọi nó là ‘suriya’, mặt trời.” Do đó chúng đặt tên cho nó là mặt trời. Khi mặt trời đã cho ánh sáng như vậy suốt một ngày xong, nó lặn mất. Chúng lại đâm sợ hãi như cũ, vì nghĩ “chúng ta đã mất ánh sáng chúng ta vừa được,” và nghĩ “Thật tốt lành thay nếu chúng ta lại có ánh sáng khác!”

46. Như thể biết được ý nghĩ của chúng, mặt trăng xuất hiện bốn mươi chín lý bề ngang. Khi trông thấy nó chúng càng vui thích hơn, và nói: “Nó đã xuất hiện, dường như biết được ước muốn (chanda) của chúng ta, vậy hãy gọi nó là mặt trăng’ (canda).” Bởi thế chúng đặt cho nó cái tên là canda, mặt trăng.

47. Sau khi mặt trời, mặt trăng xuất hiện như vậy, những tinh tú xuất hiện trong bầu trời. Từ đó ngày và đêm được biết đến, và dần dần, tháng, nửa tháng, mùa và năm.

48. Vào ngày mặt trăng và mặt trời xuất hiện, núi Tu di, núi của quả đất và dãy Himalaya cũng xuất hiện. Và chúng xuất hiện vào đúng ngày rằm tháng Phagguna (tháng ba dương lịch), không trước không sau. Như thế nào? Cũng như, khi ngũ cốc và bọt sủi lên, thì đồng lúa, có chỗ cao, chỗ hổng, chỗ bằng, cũng thế có núi tại những chỗ nhô cao, biển ở những chỗ lõm xuống, và đất liền (đảo) tại những chỗ bằng.

49. Rồi, khi những chúng sinh sử dụng chất đất đầu tiên ấy, dần dần một số trở nên đẹp đẽ, một số xấu xí. Người đẹp khinh bỉ người xấu. Do sự khinh bỉ ấy, đất tinh túy kia tan mất và từ đất thường mọc lên một thứ cỏ. Rồi cỏ ấy cũng biến mất như thế, và cây leo badalatā xuất hiện. Cây này cũng tan biến như thế, và lúa không cám không trấu, chín không cần cày cấy xuất hiện, cho một thứ gạo thơm ngọt sạch sẽ.

50. Rồi những dụng cụ để chứa xuất hiện, chúng để gạo vào những chỗ chứa, đặt trên những tảng đá. Một ngọn lửa nổi lên tự nhiên và nấu gạo ấy. Cơm chín trông như bông lài. Nó không cần nước tương hay cari vào, vì nó có bất cứ vị gì mà chúng thích nếm.

51. Vừa khi chúng ăn thứ đồ ăn thô ấy, nước tiểu và phân xuất hiện trong chúng. Ðoạn những lỗ như vết thương toét ra nơi thân chúng, để cho những thứ này tuôn ra. Nam căn xuất hiện nơi những người đàn ông, và nữ căn xuất hiện nơi những người đàn bà. Rồi đàn bà trầm tư về đàn ông, đàn ông trầm tư về đàn bà trong thời gian dài. Do khoảng thời gian dài trầm tư này cơn sốt nhục dục sinh khởi. Sau đó chúng hành dâm dục.

52. Vì sự làm bậy công khai ấy chúng bị những người có trí chỉ trích và trừng phạt, và bởi thế chúng xây nhà với mục đích che đậy những việc xấu. Khi chúng sống trong nhà, cuối cùng chúng đồng ý với những bọn làm biếng, cất chứa đồ ăn. Vừa khi chúng làm chuyện này thì lúa trở nên bị bao bọc bởi cám đỏ và vỏ trấu, và cũng không tự mọc lên như trước tại những nơi chúng đã được gặt hái. Chúng tụ họp để phàn nàn về sự kiện ấy. “Sự xấu ác chắc chắn đã xuất hiện giữa các chúng sinh, vì ngày xưa chúng ta vốn là do tâm tạo ...” (D III 90) và tất cả điều này cần được trích dẫn đầy đủ theo như mô tả trong kinh Aggañña.

53. Sau đó, chúng dựng lên những ranh giới. Rồi có chúng sinh khởi sự lấy phần đã dành cho người khác. Nó bị chỉ trích hai lần đến lần thứ ba người ta đi đến những cú đấm, nắm tay, cục đất, gậy v.v... Khi sự ăn cắp, chỉ trích, nói láo, cầm đến gậy gộc v.v... đã ra đời theo kiểu ấy, chúng bèn hội nhau lại nghĩ: “Hay chúng ta hãy chọn ra một người để khiển trách kẻ nào đáng khiển trách, chỉ trích kẻ nào đáng chỉ trích, đuổi ra kẻ nào đáng đuổi, và cung cấp cho người ấy một phần gạo?” (D III 92).

54. Khi người ta đã đi đến một thỏa ước theo cách ấy vào thời kiếp này, đầu tiên là chính Đức Thế Tôn, khi đó là một Bồ tát (một chúng sinh chắc chắn sẽ giác ngộ) là người đẹp trai nhất, lịch sự nhất, đáng tôn trọng nhất, một người thông minh và có thể thực hiện nỗ lực của sự tự chế. Chúng đến gần Ngài và hỏi Ngài và tuyển chọn Ngài. Vì Ngài được công nhận (sammata) bởi đa số (mahā - jana: đại chúng) nên Ngài được gọi là Mahā Sammata. Vì Ngài là chủ của điền thổ (khetta). Ngài được gọi là khattiya (Sát-đế-lỵ) tức thuộc giai cấp chiến sĩ cao quý. Vì Ngài đem lại lợi ích cho người (rañjeti) một cách chính trực và công bằng, Ngài được gọi là một vị vua (rājā). Ðây là lý do Ngài được biết đến bằng những tên ấy. Vì chính Bồ tát là người đầu tiên lưu tâm trong bất cứ cuộc canh tân nào tuyệt diệu trên thế giới. Bởi vậy sau khi giai cấp Sát-đế-lỵ đã được thiết lập bằng cách tôn Bồ tát lên đầu theo cách đó, thì những Bà-la-môn và những giai cấp khác được thành lập tuần tự theo sau.

55. Ở đây, thời gian từ khi đám mây lớn báo hiệu kiếp hoại cho đến khi ngưng lửa là một vô số kiếp, và đó là hoại kiếp. Thời gian từ khi ngưng lửa của hoại kiếp, đến khi đám mây lớn của phục sinh đổ mưa xuống trên một trăm ngàn triệu thế giới hệ, là một vô số kiếp thứ hai, và đây gọi là “cái tiếp theo của hoại kiếp”. Thời gian từ khi đám mây lớn phục sinh cho đến khi mặt trời mặt trăng xuất hiện là vô số kiếp thứ ba, và đó gọi là “thành kiếp”. Thời gian khi mặt trời mặt trăng xuất hiện cho đến khi tái xuất đám mây lớn báo hiệu kiếp hoại là vô số kiếp thứ tư, và đó gọi là tiếp theo kiếp thành. Bốn vô số kiếp này làm thành một đại kiếp. Ðây trước hết là nói sự tiêu hủy bởi lửa và sự phục sinh cần được hiểu như thế nào.

56. Thời kiếp hoại do nước cũng cần được giải thích tương tự khởi đầu là “Trước tiên một đám mây lớn xuất hiện báo trước thời kiếp hoại...” (đoạn 32)

57. Tuy nhiên có sự khác nhau này. Trong trường hợp đầu, một mặt trời thứ hai xuất hiện, còn ở trường hợp này một đám mây lớn của nước nâng địa cầu xuất hiện. Lúc đầu trời mưa nhẹ, nhưng cơn mưa tuần tự lớn dần thành thác lũ trúc xuống trăm ngàn triệu thế giới hệ. Vừa khi những cơn mưa này chạm tới nước đỡ quả địa cầu, thì đất, núi v.v... tan ra, và tất cả xung quanh nước đều được nâng lên bởi gió. Nước dâng lên chiếm hữu mọi sự từ mặt đất đến cõi nhị thiền. Khi nước đã làm tan rã cả ba cõi Phạm thiên xong, nước dừng lại ở cõi Biến tịnh thiên... Bao lâu, còn một pháp hữu vi nào tồn tại, dù bằng mảy bụi, thì nước vẫn không hạ xuống, nhưng nó thình lình hạ và biến mất khi tất cả hữu vi pháp đều đã bị nước cuốn đi. Tất cả mọi sự khởi từ “thượng tầng và hạ tầng không gian đều bao bọc trong một màn đêm u ám bao la...” (đ.41) đều giống như đã nói, trừ chỗ ở đây, thế giới khởi đầu tái xuất hiện với Quang âm thiên giới, và những chúng sinh rơi từ cõi Biến tịnh thiên được tái sinh tại những nơi bắt đầu Quang âm thiên giới.

58. Ở đây, thời gian bắt đầu có đám mây lớn báo hiệu kiếp hoại cho đến khi ngưng nước lũ của hoại kiếp, là một vô số kiếp. Thời gian từ khi nước lũ ngưng cho đến lúc có đám mây lớn báo hiệu phục sinh, là một vô số kiếp thứ hai. Thời gian từ khi đám mây phục sinh... Bốn vô số kiếp này làm thành một đại kiếp. Ðây là nói kiếp hoại bởi nước và sự phục sinh cần được hiểu như thế nào.

59. Thời kiếp hoại bởi gió cũng cần được hiểu như cách đã nói, khởi từ “trước hết, một đám mây lớn báo hiệu kiếp hoại...” (đoạn 32)

60. Nhưng có điểm khác nhau này. Trong khi ở trường hợp đầu có một mặt trời thứ hai, ở đây lại có một trận gió nổi lên để phá hoại thời kiếp. Trước tiên nó dỡ hổng lên những ống khói thô, ống khói nhỏ, rồi cát mịn, cát thô, sỏi đá v.v... tuần tự cho đến khi nó dỡ hổng lên những tảng đá to như những cái giá đỡ quan tài, và những cây lớn đứng ngả nghiêng. Chúng bị quét thẳng từ đất tung lên trời và thay vì lại rơi xuống, chúng vỡ ra từng mảnh và chấm dứt hiện hữu.

61. Rồi cuối cùng gió nổi lên từ dưới quả đất lớn và lật ngược quả đất lại, ném nó vào hư không. Ðất vỡ ra từng mảnh hàng trăm lý, hai, ba, bốn, năm trăm lý, và chúng bị tung lên hư không, tại đó chúng tan rã và chấm dứt. Những ngọn núi của quả đất và núi Tu di bị văng tung lên hư không, ở đấy chúng va chạm nhau cho đến khi vỡ tan thành bụi và biến mất. Cứ thế gió phá hủy những cung điện xây trên đất và trên hư không, phá hủy sáu cõi trời ở Dục giới, và một trăm ngàn triệu thế giới hệ. Rồi địa cầu chạm nhau với địa cầu, núi Hy mã chạm nhau với Hy mã, Tu di với Tu di, cho đến khi chúng bị vỡ tan tành và biến mất.

62. Gió chiếm hữu mọi sự từ đất cho đến cõi thiền thứ ba. Tại đấy, sau khi phá hủy ba Phạm giới, nó ngừng lại ở Quảng quả thiên. Khi nó đã phá hủy tất cả pháp hữu vi với cách ấy nó cũng kiệt sức luôn. Rồi mọi sự xảy ra như đã tả ở trên “Thượng tầng cũng như hạ tầng không khí đều bao trùm trong một bóng tối bao la...” (đoạn 41). Nhưng ở đây thế giới bắt đầu xuất hiện ở cõi Biến tịnh thiên. Và chúng sinh sa đọa ở cõi quảng quả thiên được tái sinh tại những nơi khởi đầu bằng cõi Biến tịnh thiên.

63. Ở đây, giai đoạn từ lúc đám mây lớn báo hiệu kiếp hoại cho đến khi ngọn gió thời kiếp hoại chấm dứt là một vô số kiếp. Thời gian từ khi gió ngưng đến khi đám mây lớn báo hiệu phục sinh là một vô số kiếp thứ hai... Bốn vô số kiếp này làm thành một đại kiếp. Ðây là cách kiếp hoại bởi gió và sự phục sinh cần được hiểu.

64. Vì lý do nào có kiếp hoại theo kiểu đó? Ba bất thiện là lý do. Khi bất cứ căn nào trong ba bất thiện căn này nổi bật thì thế giới bị tiêu hủy theo cách đó. Khi tham nổi bật thế giới bị hoại bởi lửa. Khi sân nổi bật thế giới bị hoại bởi nước — mặc dù có người nói rằng thế giới hoại vì lửa khi sân nổi bật, và vì nước khi tham nổi bật. Và khi si nổi bật, thì nó bị hoại bởi gió.

65. Mặc dù nó đã bị tiêu hủy như vậy, nó còn bị tiêu hủy đến bảy lần liên tiếp bằng lửa và tám lần bởi nước, rồi lại bảy lần lửa, tám lần nước khác, và sau khi nó đã bị tiêu hủy bảy lần bởi nước đến vòng thứ tám, nó lại bị bảy lần tiêu hủy vì lửa. Như thế đến sáu mươi ba đại kiếp trôi qua. Và bây giờ gió thừa cơ chiếm đoạt phiên phá hủy của nước, và trong khi tiêu hủy thế giới, nó làm cho cõi Biến tịnh thiên tan tành, nơi mà đời sống thọ đến sáu mươi bốn đại kiếp.

66. Bây giờ, khi một Tỷ-kheo có thể nhớ đến những đại kiếp như nhớ đời trước của mình, thì về những đại kiếp như thế, vị ấy nhớ nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp. Nhớ như thế nào? Như Ở, Tại đấy, ta ...

Tại đấy, ta: trong hoại kiếp đó, ta ở trong loài hữu nào, thời đại nào, sanh thú nào v.v...

67. Tên như vậy: là tên gọi thông thường. Chủng tộc như vậy: là họ của tộc. Nếu vị ấy muốn nhớ tướng mạo của mình vào lúc ấy, hoặc đời sống của mình lúc ấy gian nan hay nhàn nhã, khổ nhiều hay vui nhiều, thọ mạng dài hay ngắn, vị ấy cũng có thể nhớ được. Bởi vậy kinh nói với tướng như vậy ... thọ mạng như vậy.

68. Ở đây, tướng như vậy có nghĩa là trắng hay đen. Ðồ ăn như vậy: ăn cơm trắng với thịt làm thức ăn, hay lấy trái cây do gió làm rụng mà ăn. Thọ khổ lạc như vậy: có đủ kinh nghiệm đủ màu sắc về thân lạc khổ và tâm lạc khổ được kể là thuộc thế gian hay không thuộc thế gian v.v... Thọ mạng như vậy: với thọ mạng là một trăm năm hay thọ mạng tám mươi bốn ngàn đại kiếp.

69. Và sau khi chết tại đây, ta tái sinh ở chỗ khác: sau khi chết từ cõi ấy, thời đại ấy, sanh thú ấy, thức thú ấy (station of consciousness) (viññāṇaṭṭhiti), hữu tình cư (sattāvāsa) ấy hay bộ loại hữu tình ấy.

70. Lại nữa, câu “Tại đấy, ta” có ám chỉ sự nhớ lại của một người có thể nhớ lại một thời điểm lùi xa bao nhiêu cũng được, và câu “Ta chết tại chỗ ấy” là nói đến sự quay trí nhớ trở về như cũ (lược).

71. Với những nét đại cương và chi tiết: chi tiết, là như tên và dòng họ, đại cương như màu da v.v... (lược).

Sự giải thích về Trí túc mạng đến đây là xong.

5. Thiên Nhãn Trí: Biết Về Sống Và Chết Của Hữu Tình

72. Về sự giải thích trí biết sự sống chết của chúng sinh, kinh văn như sau: “Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí biết về sự chết và tái sinh của chúng sinh. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, vị ấy thấy chúng sinh chết và sinh trở lại, chịu số phận hạ liệt hay cao sang, đẹp hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh, vị ấy hiểu biết hữu tình đi theo hạnh nghiệp của chúng: Những chúng sinh này tạo ác nghiệp về thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, có tà kiến, tạo những nghiệp theo tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, đã sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sinh này, tạo những thiện nghiệp về thân, về lời và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, có chánh kiến, tạo những nghiệp theo chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung đã sanh vào một thiện thú, thiên giới. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, vị ấy thấy chúng sanh chết và tái sinh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng” (D I 82). Ở đây “Trí biết về sự chết và tái sinh”: Cutūpapātañāṇaya = cutiyā ca upapāte ca ñāṇaya; nghĩa là, cái loại trí mà nhờ đó sự chết và tái sinh của chúng sinh được biết đến: nghĩa là trí của thiên nhãn. Vị ấy dẫn tâm hương tâm: vừa dẫn tâm chuẩn bị và hướng tâm chuẩn bị (định chuẩn bị). Vị ấy là Tỷ-kheo làm công việc hướng tâm dẫn tâm đó.

73. Thiên nhãn: vì nó giống như chư thiên, vì chư thiên có thiên nhãn là cảm tính bén nhạy được phát sinh do thiện hành và không bị chướng ngại vì đàm, mật, máu huyết v.v... có thể cảm thụ một đối tượng ở rất xa vì không còn cấu uế. Và con mắt này gồm trong trí, được phát sinh bởi năng lực tinh tấn tu hành của vị Tỷ-kheo cũng giống như vậy, cho nên nói là “Thiên nhãn” bởi vì giống với chư thiên. Lại nữa, “Thiên” bởi vì nó đạt được nhờ phạm trú, vì nó có phạm trú làm điểm tựa cho nó. Và nó là “thiên nhãn”, vì nó chiếu ánh sáng lớn lao của sự phân biệt rõ ràng. Và nó thuộc “chư thiên” bởi vì nó có một phạm vi rộng lớn do thấy được các vật sắc đằng sau những bức tường... Nó là con mắt theo nghĩa thấy được. Lại nữa, nó là mắt theo nghĩa nó làm phận sự của con mắt. Nó “thuần tịnh”, vì nó là một nhân cho sự thanh tịnh tri kiến, do thấy được sự chết và tái sinh.

74. Một người chỉ thấy được sự chết mà không thấy tái sinh, thì chấp nhận đoạn kiến, và người chỉ có thấy tái sinh mà không thấy sự chết thì chấp nhận một quan điểm (kiến) cho rằng một chúng sinh mới xuất hiện. Nhưng vì người thấy cả hai việc ấy, thì bỏ được cả hai tà kiến nói trên, cho nên sự thấy của người đó là một cái nhân cho Kiến thanh tịnh. Và chư đệ tử Phật thấy cả hai điều ấy. Vì vậy mà trên nói “nó thuần tịnh” vì nó là nhân cho Kiến thanh tịnh.

75. Nó siêu việt con người (siêu nhân) trong sự thấy những sắc pháp bằng cách vượt phạm vi con người. Hoặc là vì nó vượt con mắt thịt của con người (lược).

76. Chết và tái sinh: Vị ấy không thể thấy chúng với thiên nhãn thật sự đang chết và đang lúc tái sinh. Nhưng ở đây “chết” là muốn nói những người sắp sửa chết và “tái sinh” là những người đã nhận kiết sanh và đã tái sinh.

77. Hạ liệt: bị khinh bỉ, bị rẻ rúng, bị miệt thị do nòi giống, bộ tộc, do tài sản v.v... do quả báo của si. Cao sang: là ngược lại, do gặt quả báo vô si. Ðẹp: có một bề ngoài đáng muốn, khả ái do gặt quả báo vô sân. Xấu: có bề ngoài (tướng) khó ưa, khó chịu, không khả ái vì gặt quả báo của sân; ý nói là có tướng không đẹp mắt, vô phước. May mắn: đi đến một thiện thú, hoặc giàu, rất giàu do gặt quả báo của vô tham. Bất hạnh: đi đến một ác thú, hoặc nghèo, ít đồ ăn uống do gặt quả báo của tham.

78. Ði theo hạnh nghiệp của chúng: tiến tới trước, phù hợp với những nghiệp gì đã được tích lũy. Ở đây, nhiệm vụ của thiên nhãn được mô tả bằng từ ngữ đầu: “Thấy sự chết và tái sinh” còn nhiệm vụ của trí biết đi theo nghiệp thì được mô tả bằng câu cuối cùng này.

79. Thứ tự theo đó trí ấy khởi lên như sau. Ở đây, một Tỷ-kheo trải ánh sáng chếch xuống hướng địa ngục thống khổ lớn. Sự thấy đó chỉ là nhiệm vụ của thiên nhãn. Vị ấy chú ý đến nó như sau: “Sau khi làm những nghiệp gì mà những chúng sinh này chịu khổ thế này?” Rồi trí có những nghiệp ấy là đối tượng khởi lên trong vị ấy như sau: “Chính là sau khi làm nghiệp này.” Cũng vậy, vị ấy trải ánh sáng lên phương trên về hướng cõi trời Dục giới, và thấy chúng sinh trong động Nandana, động missaka, động phārusaka v.v... đang thọ hưởng những hạnh phúc lớn, cảnh tượng đó chỉ là nhiệm vụ của thiên nhãn. Vị ấy chú ý đến nó như sau: “Sau khi làm những nghiệp gì mà những chúng sanh này thọ hưởng may mắn này?” Khi ấy trí có những hành nghiệp ấy làm đối tượng, khởi lên nơi vị ấy. “Chính là sau khi làm nghiệp này.” Ðây gọi là trí biết hành nghiệp của chúng sinh.

80. Không có công việc chuẩn bị đặc biệt nào cho trí này. Và cũng vậy trong trường hợp trí biết về tương lai vì chúng đều có thiên nhãn làm căn cứ, và sự thành công của chúng (trí biết quá khứ tương lai) đều tùy thuộc thành công của thiên nhãn.

81. Làm ác hạnh về thân v.v... do vì nó bị thối tha bởi cấu uế, nên gọi là ác hành. Ác hành phát sanh qua phương tiện thân thể, hoặc ác hành đã phát sinh do thân thì gọi là ác hành về thân. Cũng vậy với khẩu, ý.

82. Phỉ báng các bậc Thánh: muốn hại đến những bậc Thánh, gồm Phật, Ðộc giác, và Thanh Văn đệ tử, hoặc những gia chủ đã chứng Dự Lưu. Phỉ báng bằng những lời buộc tội tệ nhất, hoặc bằng cách phủ nhận những đức tính đặc biệt của các vị ấy.

83. Ở đây, cần hiểu rằng khi chúng nói “Chúng không có Sa-môn hạnh, không phải là Sa-môn hạnh, không phải là Sa-môn,” như vậy là phỉ báng bằng những lời buộc tội tệ nhất, và khi nói: “Những vị ấy không có thiền, hay giải thoát, hay giải thoát đạo v.v...” Như vậy là phỉ báng bằng cách phủ nhận những đức tính đặc biệt nơi những vị ấy. Và dù làm cố ý hay vô tình, trong cả hai trường hợp đều là phỉ báng các bậc Thánh, đó là nghiệp nặng giống như nghiệp có quả báo tức thì, và đó là một chướng ngại vừa cho (sự sanh lên) cõi trời, vừa cho đạo lộ. Nhưng nó còn có thể cứu chữa.

84. Câu chuyện sau đây cần được hiểu để làm sáng tỏ điều này. Một vị thượng tọa trưởng lão và một niên thiếu Tỷ-kheo đi khất thực trong một khu làng. Tới nhà đầu tiên họ được cho một muỗng cháo nóng. Vị trưởng lão bị đau bụng gió nghĩ: “Cháo này sẽ tốt cho ta! Ta sẽ uống kẻo nó nguội mất”. Người ta mang ra một chiếc ghế đẩu cho Ngài ngồi ở ngưỡng cửa để uống. Vị kia chán ngấy và bảo ông già này đã để cho cơn đói thắng lướt, và đã làm một điều đáng lẽ ông phải hổ thẹn. Vị trưởng lão đi khất thực tiếp và khi trở về tu viện, ông hỏi niên thiếu Tỷ-kheo: “Hiền giả, hiền giả đã có chân đứng nào trong giáo pháp này chưa?” — “Vâng, bạch Đại Đức, con là một bậc Dự Lưu.” — Vậy, này hiền giả, đừng hòng lên đạo lộ nào cao hơn, vì ông đã phỉ báng một người đã đoạn tận lậu hoặc.” Vị niên thiếu Tỷ-kheo xin lỗi vị trưởng lão, và nhờ vậy được phục hồi tình trạng cũ.

85. Bởi vậy, một người phỉ báng một bậc Thánh, dù vị ấy cũng là một bậc Thánh đi nữa, thì cũng phải đi đến bậc Thánh kia, nếu vị ấy lớn hơn thì nên ngồi sụp xuống mà xin lỗi như sau: “Tôi đã nói những điều như vậy với hiền giả, xin hiền giả tha thứ cho tôi.” Nếu vị ấy nhỏ hơn, thì phải làm lễ, chắp tay mà bạch: “Bạch Ðại Ðức xin tha thứ cho con.” Nếu người kia đã đi xa, thì phải xin lỗi bằng cách thân hành đi đến vị ấy, hoặc nhờ một người đồng trú đi đến.

86. Nếu vị ấy không thể đích thân đi hay nhờ người đi, thì nên đến các Tỷ-kheo ở trong Tu viện, ngồi xuống nếu những vị này nhỏ hơn, đảnh lễ nếu lớn hơn, mà xin lỗi như sau: “Bạch đại đức, Tôi có nói những lời như vậy với một đại đức như vậy, xin đại đức ấy tha thứ cho tôi.” Và điều này cũng nên làm khi không thể xin lỗi trước mặt vị đó.

87. Nếu đó là một Tỷ-kheo lang thang và không thể tìm ra ông ta ở đâu, đi đâu, thì nên đến một vị Tỷ-kheo có trí và nói: “Bạch đại đức tôi đã nói như vậy với một vị đại đức tên ấy. Khi nhớ lại tôi rất hối hận. Tôi phải làm sao?” Vị kia nên bảo: “Ðừng nghĩ đến điều đó nữa. Vị đại đức tha thứ cho ngươi. Hãy an tâm.” Khi ấy người xin lỗi nên chắp tay hướng về phía bậc Thánh kia đã ra đi và nói “Tha lỗi cho tôi.”

88. Nếu bậc Thánh đã nhập Niết Bàn, vị ấy phải đi đến nơi đặt cái gường mà trên ấy bậc Thánh đã chết, và đi cho đến nghĩa địa để xin lỗi. Khi đã làm điều ấy, thì không còn chướng ngại cho cõi trời hay cho đạo lộ nữa. Vị ấy trở thành người như trước (khi chưa phạm lỗi phỉ báng).

89. Có tà kiến: là có trí kiến cong quẹo. Người làm những nghiệp theo tà kiến: tạo những nghiệp đủ loại, do tà kiến mà có, hoặc xúi dục kẻ khác làm các thân nghiệp v.v... do tà kiến làm căn đế. Ở đây, mặc dù phỉ báng các bậc Thánh đã được bao gồm trong tà nghiệp về ngữ, và tà kiến đã gồm trong tà nghiệp về ý. Tuy vậy, có thể hiểu rằng hai nghiệp này được nói lại cốt để nhấn mạnh tính cách chịu quả báo lớn lao của nó.

90. Phỉ báng các bậc Thánh có quả báo lớn, vì nó cũng như nghiệp có quả báo tức thì... Vì kinh nói: “Này Sāriputta như một Tỷ-kheo có giới, định tuệ, thì có thể ngay bây giờ và ở đây đạt được trí rốt ráo, cũng thế, nếu nó không từ bỏ lời nói, ý nghĩ và tà kiến như thế, thì nó sẽ rơi vào địa ngục chắc chắn như được mang đến đấy” (M I 71). Và không gì có quả báo lớn hơn tà kiến, như kinh nói: “Này các Tỷ-kheo, ta không thấy có một pháp nào có quả báo như tà kiến” (A I 33).

91. Khi thân hoại: khi bỏ các uẩn đã được chấp thủ. Khi mạng chung: khi thọ các uẩn sinh ra sau đó. Hoặc thân hoại là gián đoạn mạng căn, mạng chung là vượt ngoài tử tâm.

92. Cõi dữ v.v... đều là những đồng nghĩa của địa ngục. Ðịa ngục là một cõi dữ, đọa xứ vì nó dời khỏi (apeta) cái lý (aya) được gọi là công đức, nhân của sự đạt đến cõi trời và giải thoát, hoặc vì thiếu, vắng mặt (abhāva) của nguồn (āya) lạc thú. Những người phạm tà hạnh bị tách ra, rơi vào đấy gọi là đọa xứ. Hoặc khi chúng bị hủy hoại, thì rơi vào đây, tất cả tay chân gãy hết, gọi là đọa xứ. Không có lý lẽ nào được kể là đáng ưa ở đây, nên gọi là địa ngục (niraya).

93. Hoặc, súc sinh được chỉ bằng cõi dữ (apāya: state of loss) vì nó dời khỏi thiện thú, nhưng nó không phải là ác thú vì nó cũng có hiện hữu của Long vương (rắn lớn) được tôn trọng. Ngạ quỷ được nêu bằng danh từ “ác thú” vì nó vừa là cõi dữ, và ác thú vì nó bị dời khỏi thiện thú mà lại vừa là một cõi đau khổ; nhưng nó không phải là một đọa xứ như quỷ A-tu-la (asura). Loài A-tu-la được nêu bằng danh từ “đọa xứ”, vì nó là cõi dữ vừa là ác thú như đã nói trên, mà nó còn bị “đọa” (hết, không còn) khỏi mọi cơ hội. Ðịa ngục trong mọi khía cạnh của Avīci (A-tỳ) được nêu bằng danh từ địa ngục.

94. Khía cạnh sáng sủa thì cần được hiểu ngược lại với cách nói trên. Nhưng có sự khác biệt này. Ở đây, danh từ “thiện thú” gồm cả loài người, và chỉ có chư thiên được nói trong danh từ “cõi trời” (lược).

95. Một thiện nam tử mới tu và muốn thấy được như thế, thì cần phải nắm vững thiền, có một kasiṇa làm đối tượng, thiền này là căn bản của thắng trí trong mọi mặt. Kế tiếp, một trong ba biến xứ này, đó là lửa, màu trắng và áng sáng, phải được đưa đến tiếp cận với sự sinh khởi thắng trí. Vị ấy phải làm cho cận hành thiền này trở thành sở hành của mình, và ngừng tại đấy để mở rộng biến xứ, điều muốn nói là, ở đây không nên khơi dậy định an chỉ, vì nếu vị ấy khơi dậy định an chỉ thì biến xứ sẽ trở thành chỗ y cứ (căn bản) cho thiền căn bản, chứ không phải cho công việc chuẩn bị thắng trí. Biến xứ ánh sáng là tốt nhất trong ba biến xứ. Vậy, hoặc biến xứ ánh sáng hay một trong hai biến xứ kia, cần phải được tu tập theo cách đã tả trong phần biến xứ, và cần phải dừng lại ở cận hành định và nới rộng tại đấy. Và phương pháp nới rộng sơ tướng cần được hiểu theo cách đã nói ở phần biến xứ (kasiṇa). Chỉ có những gì thấy được ở trong phạm vi biến xứ đã được nới rộng, mới có thể được trông thấy.

96. Tuy nhên, trong khi vị ấy thấy những gì có thể thấy, thì đã hết phiên công việc chuẩn bị. Khi ấy ánh sáng biến mất. Khi ánh sáng biến mất, thì hành giả không còn thấy được những gì có thể thấy (M III 158). Vị ấy nên nhập lại thiền căn bản nhiều lần, xuất thiền và biến mãn với ánh sáng. Bằng cách đó ánh sáng dần được củng cố, cho đến cuối cùng nó ở lại trong bất cứ phạm vi nào hành giả đã ấn định như sau: “Hãy có ánh sáng ở đây.” Dù cho vị ấy ngồi suốt ngày mà nhìn, vẫn có thể trông thấy những vật có thể thấy.

97. Và ở đây, có ví dụ về người du hành ban đêm với một bó đuốc cỏ. Có một người khởi hành ban đêm với một bó đuốc cỏ. Bó đuốc hết cháy. Khi ấy những chỗ bằng phẳng và không bằng phẳng không còn rõ rệt đối với vị ấy nữa, ông ta dụi bó đuốc xuống mặt đất và nó cháy lên trở lại. Làm như thế, nó cho ánh sáng nhiều hơn trước. Khi nó cứ tiếp tục tắt rồi đỏ lên trở lại như vậy, cuối cùng mặt trời đã lên. Khi mặt trời đã lên, vị ấy nghĩ “Bây giờ không cần đuốc nữa,” và người ấy ném bó đuốc tiếp tục đi dưới ánh sáng ngày.

98. Ở đây, ánh sáng của biến xứ vào giai đoạn chuẩn bị, là giống như ánh sáng của bó đuốc. Sự kiện hành giả không thấy nữa những gì đang thấy được, vì ánh sáng đã biến mất, do bởi giai đoạn chuẩn bị đã qua, là dù cho người cầm bó đuốc không thấy những chỗ đường bằng phẳng hay gập ghềnh (mà nó đang thấy) vì bó đuốc hết cháy sáng. Sự nhập thiền trở lại, dù cho người dụi bó đuốc xuống đất. Sự kiện hành giả biến mãn ánh sáng bằng cách lập lại công việc chuẩn bị ví như bó đuốc đem lại ánh sáng nhiều hơn trước. Ánh sáng tồn tại trong khu vực hành giả ấn định, dù cho ánh mặt trời lên. Sự kiện hành giả trông thấy suốt ngày những gì có thể thấy, trong ánh sáng mạnh, sau khi đã ném ánh sáng có giới hạn đi, là dù cho người kia tiếp tục đi dưới ánh sáng ngày sau khi đã vứt bó đuốc.

99. Ở đây, khi những sắc pháp không ở trong tầm mắt thịt của vị Tỷ-kheo đi vào tâm nhãn của vị ấy — nghĩa là những sắc pháp hoặc ở trong bụng của hành giả, thuộc về trái tim (nhục đoàn), thuộc về cái gì ở dưới mặt đất, ở sau những bức tường, núi và hào thành, hoặc ở một thế giới khác — và trở nên rõ như thể trông thấy bằng mắt thịt, thì vị ấy nên hiểu là thiên nhãn đã phát sinh và chỉ có thiên nhãn này mới có thể thấy được những sắc pháp ở đây, không phải những tâm của giai đoạn chuẩn bị có thể thấy.

100. Nhưng đây là một trở ngại cho người thường. Tại sao? Bất cứ ở đâu người ấy quyết định. “Hãy có ánh sáng,” bèn có đầy ánh sáng ở đấy, dù cho sau khi đã vào xuyên qua đất, qua biển, qua núi. Khi ấy sợ hãi khởi lên nơi vị ấy vì trông thấy những hình dạng đáng ghê sợ của ma, quỷ v.v... ở đây do sợ hãi tâm vị ấy tán loạn và bị mất thiền chứng. Bởi thế vị ấy hãy cẩn thận khi trông thấy những gì có thể thấy (xem M III 158).

101. Ðây là thứ tự cho thiên nhãn phát sinh: khi ý môn hướng tâm, cái lấy sắc pháp thuộc loại đã tả làm đối tượng, đã sinh khởi rồi diệt, khi ấy, vẫn lấy sắc pháp làm đối tượng, tất cả cần được hiểu theo cách đã nói, khởi đầu là “có bốn hoặc năm tốc hành tâm khởi lên ...” (đoạn 5). Ở đây cũng thế, ba hay bốn tâm đều thuộc dục giới và còn tầm tứ. Tốc hành tâm cuối cùng hoàn thành mục tiêu, là thuộc thiền thứ tư, sắc giới. Trí liên hệ đến tâm này gọi là “trí biết về sự chết và tái sinh của chúng sinh”, và là “thiên nhãn trí”.

Sự giải thích về trí biết sự chết và tái sinh (sanh tử trí) của chúng sinh đến đây là hết.

Tổng Quát

102.

Ðấng cứu giúp, Ðấng biết năm uẩn,
Có năm thắng trí này để nói;
Khi năm thắng trí đã được biết
Những vấn đề tổng quát liên hệ cũng cần biết.

103. Trong số những thắng trí này thì thiên nhãn, được gọi là trí biết sự chết và tái sinh. Có hai loại tùy thuộc, đó là Trí biết vị lai và Trí biết sở hành tùy theo nghiệp. Bởi vậy, hai trí này, cùng với năm loại thần thông làm thành bảy thứ Thắng trí nói ở đây.

104. Bây giờ để tránh lẫn lộn về sự phân loại các đối tượng của chúng:

Bậc Thánh đã nói bốn Bộ ba đối tượng
Nhờ đó ta có thể suy ra
Thế nào là bảy loại khác nhau
Về Thắng trí được phát sinh.

105. Giải thích như sau. Bốn Bộ ba đối tượng đã được bậc tối thắng trong các bậc Thánh nói ra. Gì là bốn? Ðó là bộ ba có đối tượng giới hạn, bộ ba có đối tượng là Ðạo, bộ ba có đối tượng là quá khứ, bộ ba có đối tượng là vật bên trong (thân thể).

106. (1) Ở đây Thắng trí sinh khởi liên hệ đến bảy thứ đối tượng, nghĩa là có một đối tượng hữu hạn (có giới hạn) hay đại hành (cao cả - mahaggata), quá khứ, vị lai hay hiện tại, và một đối tượng bên trong hay bên ngoài. Nghĩa là thế nào?

Khi hành giả muốn đi với một thân thể vô hình sau khi làm cho thân thể tùy thuộc vào tâm ý, và vị ấy biến đổi thân cho phù hợp với tâm (Ch. XII, 119), đặt nó, để nó lên trên đại hành tâm, thì khi ấy cho rằng danh từ ở đối cách là đối tượng chính, nó có một đối tượng hữu hạn bởi vì đối tượng của nó là thân thể vật lý (sắc thân). Khi hành giả muốn đi với một thân xác hữu hình (thấy được) sau khi làm cho tâm phụ thuộc vào thân, và chuyển tâm cho phù hợp với thân xác mà vị ấy đặt nó, để nó lên trên sắc thân, rồi cho rằng danh từ ở đối cách là đối tượng chính, nó có một đối tượng đại hành bởi vì đối tượng của nó là đại hành tâm.

107. Nhưng cũng tâm ấy lấy cái đã qua, đã chấm dứt làm đối tượng cho nó, thì nó có một đối tượng quá khứ. Với những vị quyết định về vị lai, như trường hợp trưởng lão Ðại Ca Diếp, với việc tàng trữ ngọc Xá lợi, và những vị khác thì nó có một đối tượng vị lai. Khi trưởng lão Ðại Ca Diếp làm chỗ tàng trữ xá lợi, Ngài quyết định như sau: “Suốt hai trăm mười tám năm tới trong tương lai, hương này không được khô cạn, những hoa này không được héo và những đèn này không được tắt.” Và sự việc đã xảy ra như ý. Khi trưởng lão Assagutta trông thấy tăng chúng ăn thức ăn khô ở trú xứ Vattaniya, Ngài quyết định: “Nước ao hãy biến thành đề hồ mỗi ngày trước bữa ăn.” Và khi nước được lấy lên trước bữa ăn, nó là đề hồ, nhưng sau bữa ăn thì nó chỉ là nước thường.

108. Vào lúc đi với một thân thể vô hình sau khi làm cho thân thể phụ thuộc vào tâm ý, nó có một đối tượng hiện tại.

Vào lúc chuyển tâm cho phù hợp với thân, hoặc chuyển thân cho phù hợp với tâm, và vào lúc tạo ra tướng của mình thành một đứa bé trai v.v... nó có một đối tượng bên trong bởi vì có đối tượng là chính thân và tâm mình. Nhưng vào lúc biến ra voi ngựa v.v... tâm có một đối tượng bên ngoài.

Trên đây, trước hết là các loại Thắng trí cần được hiểu là phát sinh theo bảy loại đối tượng.

109. (2) Trí về thiên nhĩ giới phát sinh tương ứng với bốn loại đối tượng, đó là đối tượng hữu hạn, đối tượng hiện tại, đối tượng bên trong và đối tượng bên ngoài. Như thế nào?

Vì nó lấy âm thanh làm đối tượng, và vì âm thanh là có giới hạn, nên nó có một đối tượng hữu hạn (xem Vbh 62, 91). Nhưng vì nó chỉ phát sinh lấy âm thanh hiện hữu làm đối tượng cho nó, nên nó có một đối tượng hiện tại. Vào lúc nghe những âm thanh trong bụng mình, nó có một đối tượng bên trong. Vào lúc nghe những âm thanh của những người khác nó có một đối tượng bên ngoài. Ðây là Thiên nhĩ trí cần được hiểu phát sinh tương ứng bốn loại đối tượng.

110. (3) Tha tâm trí phát sinh tương ứng với tám loại đối tượng, đó là, có một đối tượng hữu hạn, đại hành, hay vô lượng, đối tượng là đạo lộ, đối tượng là quá khứ, hiện tại, hay vị lai và đối tượng bên ngoài. Như thế nào?

Vào lúc biết tâm dục giới của người khác, trí ấy có một đối tượng hữu hạn. Vào lúc biết tâm sắc giới hay vô sắc giới của người khác, nó có một đối tượng đại hành. Vào lúc biết đạo và quả, nó có một đối tượng vô hạn. Và ở đây một người thường (phàm phu) không biết được tâm của một bậc Dự Lưu, một bậc Dự Lưu không biết được tâm của một bậc Nhất Lai, và cứ thế lên đến bậc A-la-hán. Mà A-la-hán thì biết được tâm của tất cả. Và mỗi bậc ở địa vị cao biết những tâm của những bậc ở dưới. Ðây là chỗ khác biệt cần biết. Vào lúc trí có đối tượng của nó là tâm thuộc đạo (path consciousness), nó có một đối tượng là đạo lộ. Nhưng khi một người biết tâm của những người khác trong vòng bảy ngày đã qua, hay trong bảy ngày sắp tới, thì nó có một đối tượng quá khứ, và một đối tượng tương lai.

111. Thế nào là nó có một đối tượng hiện tại? Hiện tại (paccuppanna) có ba loại đó là hiện tại sát-na (present by moment), hiện tại tương tục (present by continuity) và hiện tại do hiện hữu (present by extent). Ở đây cái gì đã đạt đến sinh (uppāda) trú (ṭhiti) và diệt (bhaṅga) thì gọi là hiện tại sát-na. Cái được bao gồm trong một hay hai vòng tương tục gọi là hiện tại tương tục.

112. Ở đây, khi một người đi đến một nơi có ánh đèn sáng sau khi ngồi trong bóng tối, thì lúc đầu một vật không rõ rệt đối với nó, cho đến khi nó hiện rõ, thì phải qua một hay hai vòng tương tục trong lúc đó. Và khi nó đi vào một phòng kín ở bên trong sau khi ở ngoài ánh sáng, lúc đầu một vật (sắc pháp) không hiện rõ đối với người ấy, cho đến khi nó hiện rõ, trong khoảng thời gian ấy, cần hiểu là một hay hai vòng tương tục đã đi qua. Khi nó đứng ở một khoảng cách mặt dù thấy rõ cử động của những bàn tay thợ giặt và cử động của sự đánh chuông trống v.v... nhưng lúc đầu nó không nghe những âm thanh (xem Ch. XIV, 22), cho đến khi nghe được một hay hai vòng tương tục cần được hiểu là đã trôi qua ở giữa. Ðây là theo những vị tụng đọc Majjhima (Trung bộ).

113. Những vị tụng đọc Tương Ưng bộ kinh thì lại cho rằng có hai thứ tương tục, đó là sắc tương tục và vô sắc tương tục: sắc tương tục kéo dài khoảng thời gian đường nước rõ nét khi chạm bờ, nước từ bàn chân của một người dẫm trong nước rồi bước lên bờ. Hoặc là khoảng thời gian hơi nóng ở một thân người vừa đi một đoạn đường, hạ xuống. Hoặc là khoảng thời gian lòa mắt của người ở ngoài nắng bước vào trong phòng. Hoặc khoảng thời gian bị chóa mắt của một kẻ đang ở trong phòng thiền định rồi mở cửa nhìn ra ngoài trời. Và một vô sắc tương tục thì gồm trong hai hay ba tốc hành tâm (rounds of impulsions). Cả hai thứ tương tục này theo họ, được gọi là “hiện tại tương tục.”

114. Cái gì được giới hạn bởi một hiện hữu duy nhất thì gọi là hiện tại do hiện hữu, về điều này, kinh Bhaddekaratta nói: “Chư hiền, tâm và các tâm pháp cả hai đều hiện diện. Tâm bị trói buộc bởi dục và tham đối với những gì hiện hữu, bởi vì tâm bị trói buộc bởi dục và tham, vị ấy thích thú trong đó. Khi vị ấy thích thú trong đó, vị ấy bị thắng lướt bởi các pháp hiện tại” (M III 197).

Và ở đây, “hiện tại tương tục” được dùng trong luận, trong khi “hiện tại do hiện hữu” được dùng trong Kinh.

115. Ở đây, một vài vị nói rằng “hiện tại sát-na” là đối tượng của “tha tâm trí”. Lý do nào? Ðó là, tâm của vị có thần thông (tha tâm trí) và tâm của người kia khởi lên trong một sát-na duy nhất. Ví dụ như sau: như khi một nắm hoa được tung lên hư không, cái cọng của một hoa này có thể chạm cọng một hoa khác, cũng vậy, khi với ý nghĩ “Ta sẽ biết tâm của một người khác,” tâm của một đám đông được tác ý đến kể như một toàn khối, khi ấy tâm của một người có thể được hiểu (đi vào) bởi tâm của người kia hoặc vào lúc tâm sinh, hoặc vào lúc trú hoặc vào lúc diệt.

116. Tuy nhiên, điều ấy bị các Luận bác bỏ, cho là sai lầm, bởi vì dù cho người ta tiếp tục tác ý (hướng tâm) một trăm hay một ngàn năm, thì không bao giờ có sự đồng hiện diện của hai tâm, nghĩa là của cái tâm (dùng để) tác ý (hướng tâm) và tâm tốc hành (với tâm này vị ấy) biết, và bởi vì cái khuyết điểm có nhiều đối tượng sẽ xảy ra nếu sự hiện diện của cùng một đối tượng vào lúc tâm tác ý và tốc hành không đủ làm rõ nét. Ðiều cần hiểu là đối tượng ấy có mặt do tương tục và do hiện hữu.

117. Ở đây, tâm của một người khác trong một thời khoảng hai hay ba tâm lộ trình (citta - vithi - cognitive series) với những tốc hành tâm trước và sau lộ trình tâm này tất cả gọi là “hiện tại tương tục”. Nhưng trong luận về Tương ưng bộ kinh nói “hiện tại do hiện hữu” cần được thuyết minh bằng một tốc hành tâm. Nói như vậy là đúng.

118. Ðây là thuyết minh. Người có thần thông muốn biết tâm của một người khác khởi sự chú ý (hướng tâm). Cái tâm chú ý ấy lấy cái tâm “hiện tại sát-na” của người kia làm đối tượng của nó, và cùng diệt một lần với nhau. Sau đó có bốn hoặc năm tốc hành tâm mà cuối cùng là tâm thần thông, còn những tâm khác đều thuộc về dục giới. Cái tâm ấy của người kia đã diệt, cũng là đối tượng của tất cả những tốc hành tâm này, bởi vậy chúng không có đối tượng khác nhau, vì có cùng đối tượng là “hiện tại do hiện hữu”. Và trong khi chúng có một đối tượng duy nhất, thì chỉ có tâm thần thông là thực sự biết được tâm người khác, không phải những tốc hành tâm trước, cũng như trong nhãn căn môn, chỉ có nhãn thức thực sự thấy sắc pháp không phải những thứ kia.

119. Vậy, tâm này (tâm thần thông) có một đối tượng hiện tại trong những gì hiện tại tương tục và hiện tại do hiện hữu. Hoặc, vì cái gì hiện tại tương tục, thì cũng thuộc vào loại những gì hiện tại do hiện hữu, cho nên có thể hiểu rằng nó có một đối tượng hiện tại ở trong những gì hiện tại do hiện hữu.

Nó có một đối tượng bên ngoài vì nó chỉ có tâm của một người khác làm đối tượng.

Trên đây là giải thích thế nào tha tâm trí cần được hiểu là phát sinh tương ứng với tám loại đối tượng.

120. (4) Trí về đời quá khứ phát sinh tương ứng với tám thứ đối tượng, đó là đối tượng hữu hạn, đại hành hay vô lượng, đối tượng là đạo lộ, đối tượng là quá khứ, đối tượng bên trong, bên ngoài, hoặc không thể phân loại. Như thế nào?

Vào lúc nhớ lại các uẩn ở dục giới, tâm đó có một đối tượng hữu hạn. Vào lúc nhớ lại các uẩn ở sắc giới hay vô sắc giới, nó có một đối tượng đại hành. Vào lúc nhớ lại một đạo lộ đã tu tập, hay một quả đã chứng đắc, trong quá khứ, hoặc do tự mình, hoặc bởi người khác, nó có một đối tượng vô lượng. Vào lúc nhớ lại một đạo lộ đã tu tập, nó có một đối tượng là đạo lộ. Nhưng nó luôn luôn có một đối tượng quá khứ.

121. Ở đây, mặc dù tha tâm trí và Tùy nghiệp thú trí (knowledge of faring) cũng có một đối tượng quá khứ, nhưng trong hai cái này đối tượng của tha tâm trí, chỉ là tâm trong bảy ngày qua. Nó không biết các uẩn khác mà cũng không biết cái được liên kết với các uẩn (nghĩa là tên, họ v.v...). Nói gián tiếp nó có một đạo lộ làm đối tượng, vì nó có tâm liên hệ đến đạo lộ làm đối tượng. Lại nữa, đối tượng theo trí về sở hành theo nghiệp chỉ là ý hành quá khứ. Nhưng không có gì không phải là đối tượng của trí về đời quá khứ, dù uẩn quá khứ hay cái gì liên hệ đến uẩn; bởi vì trí này là ngang hàng với biến trí về các uẩn quá khứ cùng với những trạng thái liên hệ đến các uẩn. Ðây là chỗ khác biệt cần được hiểu.

122. Ðây là phương pháp theo các bộ luận. Nhưng trong Paṭṭhāna nói: “Các thiện uẩn là một duyên kể như sở duyên cho thắng trí, cho tha tâm trí, cho trí biết quá khứ, cho tùy nghiệp thú trí và cho trí biết vị lai” (Paṭṭh I 154), và bởi thế bốn uẩn cũng là những đối tượng của tha tâm trí và của trí tùy nghiệp thú. Và ở đây cũng thế, uẩn thiện và bất thiện là đối tượng của trí tùy nghiệp thú.

123. Vào lúc nhớ lại các uẩn của chính bản thân, thì trí ấy có một đối tượng bên trong. Vào lúc nhớ lại các uẩn của một người khác, nó có một đối tượng bên ngoài. Vào lúc nhớ lại các khái niệm như danh, tánh (tên, họ) như “quá khứ có Ðức Thế Tôn Tỳ-bà-thi (Vipassī). Mẹ ngài là Bhandumatī. Thân phụ là Bhandumant” (D II 6-7) và khái niệm như tướng của đất v.v... trí ấy có một đối tượng không thể phân loại. Và ở đây, tên và họ (dòng dõi) cần được xem không phải như những danh từ thực, mà như ý nghĩa của danh từ được lập ra do quy ước và gắn liền với các uẩn. Vì những danh từ thực thụ là “hữu hạn” bởi chúng được gồm trong thanh xứ, như luận nói: “Sự phân biệt ngôn ngữ có một đối tượng hữu hạn” (Vibh 304). Ở đây chúng ta chọn quan điểm này.

Trên đây là nói trí biết quá khứ cần được hiểu là phát sinh tương ứng với tám loại đối tượng như thế nào.

124. (5) Thiên nhãn trí phát sinh tương ứng với bốn thứ đối tượng, đó là, có đối tượng hữu hạn, đối tượng hiện tại, đối tượng bên trong và đối tượng bên ngoài. Nghĩa thế nào? Vì nó lấy sắc pháp làm đối tượng, và vì sắc là hữu hạn, nên nó có một đối tượng hữu hạn. Vì nó phát sinh đối với sắc hiện tại mà thôi, nên nó có một đối tượng hiện tại. Vào lúc thấy sắc bên trong bụng mình v.v... nó có một đối tượng bên trong. Vào lúc thấy sắc của kẻ khác, nó có một đối tượng bên ngoài. Ðây là nói thiên nhãn trí cần được hiểu là phải sinh tương ứng với bốn đối tượng như thế nào.

125 (6) Trí biết vị lai phát sinh tương ứng với tám thứ đối tượng, đó là đối tượng hữu hạn, đại hành hay vô lượng, đối tượng là đạo lộ, đối tượng vị lai, bên trong, bên ngoài, hoặc không thể phân loại. Nghĩa là thế nào? Vào lúc biết như sau: “Người này sẽ được tái sinh trong tương lai ở cõi dục,” trí ấy có một đối tượng hữu hạn. Vào lúc biết “Vị ấy sẽ tái sinh trong sắc giới hay vô sắc,” nó có một đối tượng đại hành. Vào lúc biết “Vị ấy sẽ tu tập đạo lộ, sẽ chứng quả,” nó có một đối tượng vô lượng. Vào lúc biết “Vị ấy sẽ tu tập đạo,” nó cũng có một đối tượng là đạo lộ nữa. Nhưng nó luôn luôn có một đối tượng vị lai.

126. Ở đây, mặc dù tha tâm trí cũng có một đối tượng vị lai, nhưng đối tượng của nó chỉ là cái tâm vị lai trong vòng bảy ngày, vì nó không biết uẩn nào khác mà cũng không biết những gì liên kết với uẩn. Nhưng không có gì ở trong tương lai như đã nói ở phần trí biết quá khứ (đ.121) mà không phải là đối tượng của trí biết vị lai.

127. Vào lúc biết “Ta sẽ tái sinh ở đấy,” nó có một đối tượng bên trong. Vào lúc biết “Người kia sẽ tái sinh ở chỗ ấy,” nó có một đối tượng bên ngoài. Nhưng vào lúc biết tên và họ như “Trong tương lai Ðức Thế Tôn Di Lặc sẽ sinh. Phụ thân Ngài sẽ là Bà La Môn Subrahmā. Mẫu thân Ngài sẽ là Bà La Môn nữ Brahmavatī” (D III 76), nó có một đối tượng không thể phân loại đã nói dưới đề mục trí quá khứ (đ.123).

Trên đây là trí biết vị lai cần được hiểu như thế nào.

128. (7) Tùy nghiệp thú trí phát sinh tương ứng với năm loại đối tượng, đó là hữu hạn hoặc đại hành, quá khứ, bên trong hoặc bên ngoài. Như thế nào? Vào lúc biết nghiệp dục giới, nó có một đối tượng hữu hạn. Vào lúc biết nghiệp sắc giới hay vô sắc giới, nó có một đối tượng quá khứ. Vào lúc biết nghiệp của chính bản thân nó có một đối tượng bên trong. Vào lúc biết nghiệp của người khác, nó có một đối tượng bên ngoài. Ðây là nói trí biết sở hành theo nghiệp căn được hiểu là phát sinh tương ứng với năm loại đối tượng như thế nào.

129. Và khi trí được nói ở đây vừa có một đối tượng bên trong vừa có một đối tượng bên ngoài, và biết những đối tượng này khi thì bên trong khi thì bên ngoài, ta nói nó có một đối tượng cả bên trong lẫn bên ngoài.

Chương mười ba kết thúc: “Mô tả Thắng Trí” trong Thanh tịnh Đạo được soạn thảo vì mục đích làm cho người lành hoan hỷ.

-oo0oo-