1. Kinh Vekhanassa (Vekhanassasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Này Kaccāna, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm? Các sắc có mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này Kaccāna, những pháp này là năm dục trưởng dưỡng.
  2. Kinh Ghaṭīkāra (Ghaṭīkārasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Thế Tôn đi du hành giữa dân chúng Kosalā với đại chúng Tỷ-kheo. Rồi Thế Tôn bước xuống bên lề đường, đến tại một địa điểm rồi mỉm cười. Tôn giả Ānanda suy nghĩ: “Do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn lại mỉm cười. Không phải không lý do, Như Lai lại mỉm cười”.
  3. Kinh Raṭṭhapāla (Raṭṭhapālasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Thưa Ðại vương, có bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế nào là bốn?
  4. Kinh Makhādeva (Makhādevasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Thuở xưa, này Ānanda, vị vua chính nước Mithilā này tên là Makhadeva, là vị pháp vương như pháp, kiên trì trên pháp, vị Ðại vương thực hành Chánh pháp, giữa các Bà-la-môn, gia chủ, giữa thị dân và thôn dân, hành trì lễ Uposatha (Bố-tát) vào các ngày 14, ngày 15 và ngày mồng 8
  5. Kinh Madhurā (Madhurasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Tôn giả Mahā-Kaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) trú ở Madhura, tại rừng Gunda. Vua Madhura Avantīputta được nghe như sau: “Sa-môn Mahā-Kaccāna trú ở Madhura, tại rừng Gunda. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được khởi lên về Tôn giả Kaccāna: “Tôn giả là bậc Hiền giả, bậc Trí giả, thông minh, đa văn, nói năng lưu loát, nhà biện tài lão luyện, bậc trưởng thượng, bậc A-la-hán. Thật tốt lành thay được yết kiến một vị A-la-hán như vậy”.
  6. Kinh Vương Tử Bồ-đề (Bodhirājakumārasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Này Vương tử, vị Tỷ-kheo thành tựu năm tinh cần chi này, chấp nhận Như Lai là bậc lãnh đạo, sau khi đã tự chứng tri với thượng trí ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này các Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, và vị ấy có thể chứng ngộ, chứng đạt và an trú trong bảy năm.
  7. Kinh Angulimāla (Aṅgulimālasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Lúc bấy giờ, trong lãnh thổ của quốc vương Pasenadi (Ba-tư-nặc), nước Kosalā, có tên cướp Angulimāla một thợ săn, tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có lòng từ mẫn đối với chúng sanh. Vì nó, các làng trở thành không làng, các thị trấn trở thành không thị trấn, quốc độ trở thành không quốc độ. Do nó luôn luôn giết người, nó mang một vòng hoa làm bằng ngón tay người. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Sāvatthi để khất thực. Sau khi khất thực ở Sāvatthi, ăn xong, dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, Ngài quay trở về và đi trên con đường dẫn đến tên cướp Angulimāla
  8. Kinh Ái sanh (Piyajātikasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Thưa Tôn giả Gotama, hoàng hậu Mallikā cúi đầu đảnh lễ chân Sa-môn Gotama, hỏi thăm có ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú và thưa như sau: “Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn đã nói như sau: “Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái"? Thật sự là như vậy, này Bà-la-môn. Thật sự là như vậy, này Bà-la-môn. Này Bà-la-môn, sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.
  9. Kinh Bāhitika (Bāhitikasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosalā cưỡi trên con voi Ekapundarika và đi ra khỏi thành Sāvatthi trong buổi sáng sớm. Vua Pasenadi nước Kosalā thấy Tôn giả Ānanda từ xa đi đến, thấy vậy liền nói với vị đại thần Sirivaḍḍha: Vị Tôn giả ấy, này Sirivaḍḍha, có phải là Ānanda không?
  10. Kinh Pháp trang nghiêm (Dhammacetiyasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka (Thích-ca). Medalumpa là một thị trấn của dân chúng Sakka. Lúc bấy giờ, vua Pasenadi nước Kosalā đi đến Nangaraka vì có một vài công việc. Rồi vua Pasenadi nước Kosalā nói với Digha Karayana: Này Karayana, hãy sửa soạn các cỗ xe thù thắng, ta muốn đi đến các thượng uyển để ngắm phong cảnh.
  11. Kinh Kaṇṇakatthala (Kaṇṇakatthalasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Bạch Thế Tôn, con có nghe như sau: “Sa-môn Gotama có nói: “Không có một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào toàn tri, toàn kiến, có thể tự cho là chứng được tri kiến viên mãn; sự tình như vậy không thể xảy ra”. Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: “Sa-môn Gotama có nói: “Không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào toàn tri, toàn kiến có thể cho là chứng được tri kiến viên mãn; sự tình như vậy không thể xảy ra”, bạch Thế Tôn, có phải những vị ấy nói lời Thế Tôn nói, họ không xuyên tạc Thế Tôn, không đúng như thật; họ giải thích pháp đúng pháp và những ai nói hợp pháp, đúng pháp sẽ không có cơ hội để chỉ trích hay không?
  12. Kinh Brahmāyu (Brahmāyusuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Brahmayu trú tại Mithilā (Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng. Bà-la-môn Brahmayu có nghe: “Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya (Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị”.
  13. Kinh Sela (Selasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Rồi Bà-la-môn Sela đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sela tìm xem ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn, Bà-la-môn Sela thấy phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn, trừ hai tướng.
  14. Kinh Assalāyana (Assalāyanasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”. Ở đây, Tôn giả Gotama nói thế nào?
  15. Kinh Ghoṭamukha (Ghoṭamukhasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Lúc bấy giờ Tôn giả Udena đang đi kinh hành ở giữa trời. Rồi Bà-la-môn Ghoṭamukha đi đến Tôn giả Udena, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Tôn giả Udena, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền nói với Tôn giả Udena đang đi kinh hành: Thưa Tôn giả Sa-môn, không có một sự xuất gia đúng pháp. Hình như đối với con: vì không thấy một Tôn giả như Ngài, hay ở đây pháp ấy là gì?
  16. Kinh Cankī (Caṅkīsuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Lúc bấy giờ, có khoảng năm trăm Bà-la-môn, từ nhiều địa phương khác nhau, đến tại Opasada vì một vài công vụ. Những Bà-la-môn nghe: “Bà-la-môn Canki sẽ đi yết kiến Sa-môn Gotama”. Những Bà-la-môn ấy đến Bà-la-môn Canki, khi đến xong, liền thưa với Bà-la-môn Canki: Có phải Tôn giả Canki sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama?
  17. Kinh Esukārī (Phasukārīsuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn chủ trương bốn loại phụng sự: chủ trương phụng sự cho Bà-la-môn, chủ trương phụng sự cho Sát-đế-lỵ (Khattiya), chủ trương phụng sự cho Phệ-xá (Vessa: người buôn bán), chủ trương phụng sự cho Thủ-đà (Sudda: lao công)
  18. Kinh Dhanañjāni (Dhanañjānisuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi nói: “Tôi vì cha mẹ đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục"?
  19. Kinh Vāseṭṭha (Vāseṭṭhasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasāti, Bà-la-môn Jāṇussoṇi, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: “Thế nào là một vị Bà-la-môn?”
  20. Kinh Subha (Subhasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn đã nói như sau: “Người tại gia thành tựu chánh đạo thiện pháp. Người xuất gia không thành tựu chánh đạo thiện pháp”. Ở đây, Tôn giả Gotama có nói gì?