4.6. PHẨM TU VIỆN

  1. Điều học thứ nhất
  2. Điều học thứ nhì
  3. Điều học thứ ba
  4. Điều học thứ tư
  5. Điều học thứ năm
  6. Điều học thứ sáu
  7. Điều học thứ bảy
  8. Điều học thứ tám
  9. Điều học thứ chín
  10. Điều học thứ mười

4.6.1. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu ở trú xứ là thôn làng chỉ mặc có một y đang làm công việc may y. Các tỳ khưu ni khi chưa hỏi ý đã đi vào tu viện rồi đi đến gặp các tỳ khưu ấy. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni khi chưa hỏi ý lại đi vào tu viện?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni khi chưa hỏi ý lại đi vào tu viện, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni khi chưa hỏi ý lại đi vào tu viện vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào khi chưa hỏi ý mà đi vào tu viện thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

2. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ấy đã rời khỏi trú xứ ấy. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi khỏi” nên đã không đi đến tu viện. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi đến” nên đã hỏi ý rồi đi vào tu viện và đã đi đến gặp các tỳ khưu ấy, sau khi đến đã đảnh lễ các tỳ khưu ấy rồi đứng ở một bên. Các vị tỳ khưu ấy đã nói với các tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này: - “Này các sư tỷ, tại sao các vị lại không quét tu viện cũng không đem lại nước uống nước rửa?” - “Thưa các ngài đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Khi chưa hỏi ý không được đi vào tu viện;’ vì thế chúng tôi đã không đến.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép đi vào tu viện sau khi hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào khi chưa hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện mà đi vào tu viện thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

3. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ấy sau khi đi khỏi trú xứ ấy đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi đến” nên đã đi vào tu viện khi chưa hỏi ý. Sự ngần ngại đã khởi lên cho các vị ni ấy: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Khi chưa hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện không được đi vào tu viện;’ và chúng ta khi chưa hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện mà đã đi vào tu viện, phải chăng chúng ta đã phạm tội pācittiya?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào trong khi biết tu viện có tỳ khưu, chưa hỏi ý lại đi vào thì phạm tội pācittiya.”

4. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ni ấy, hoặc các vị (tỳ khưu) ấy thông báo.

Tu viện có tỳ khưu nghĩa là nơi nào có các tỳ khưu cư ngụ cho dù ở gốc cây.

Chưa hỏi ý lại đi vào tu viện: khi chưa hỏi ý vị tỳ khưu hoặc vị Sa-di hoặc người phụ việc chùa, trong khi vượt qua hàng rào của tu viện được rào lại vị ni phạm tội pācittiya. Trong khi đi vào vùng phụ cận của tu viện không được rào lại vị ni phạm tội pācittiya.

Nơi có tỳ khưu, nhận biết là có tỳ khưu, vị ni đi vào tu viện khi chưa hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội pācittiya. Nơi có tỳ khưu, có sự hoài nghi, vị ni đi vào tu viện khi chưa hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện thì phạm tội dukkaṭa. Nơi có tỳ khưu, (lầm) tưởng không có tỳ khưu, vị ni đi vào tu viện khi chưa hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện thì vô tội.

Nơi không có tỳ khưu, (lầm) tưởng là có tỳ khưu, phạm tội dukkaṭa. Nơi không có tỳ khưu, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Nơi không có tỳ khưu, nhận biết là không có tỳ khưu thì vô tội.

Vị ni đi vào khi đã hỏi ý vị tỳ khưu hiện diện, khi không có vị tỳ khưu hiện diện vị ni đi vào không hỏi ý, vị ni đi nhìn theo đầu (các vị ni đi vào trước), vị ni đi vào nơi các tỳ khưu ni đang tụ hội, con đường băng ngang qua tu viện, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ nhất.

--ooOoo--

4.6.2. ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Upāli là đại đức Kappitaka ngụ ở mộ địa. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni trưởng thượng của các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư qua đời. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã đưa (thi thể) vị tỳ khưu ni ấy đi, thiêu xác ấy, và đã làm bảo tháp ở nơi không xa trú xá của đại đức Kappitaka, rồi thường đi đến nơi bảo tháp ấy khóc lóc. Khi ấy, đại đức Kappitaka bị quấy rầy bởi tiếng khóc ấy nên đã đập vỡ bảo tháp ấy rồi phân tán. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã hội ý rằng: - “Kappitaka này đã phá vỡ bảo tháp của ni sư chúng ta, chúng ta hãy giết lão đi.” Có vị tỳ khưu ni nọ đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Upāli. Đại đức Upāli đã đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Kappitaka. Khi ấy, đại đức Kappitaka đã rời khỏi trú xá rồi ẩn nấp chờ đợi. Sau đó, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã đi đến trú xá của đại đức Kappitaka, sau khi đến đã làm cho trú xá của đại đức Kappitaka bị bao trùm bởi những hòn đá và đất cục rồi bỏ đi (nghĩ rằng): “Kappitaka đã chết!”

2. Sau đó khi trải qua đêm ấy, vào buổi sáng đại đức Kappitaka đã mặc y cầm y bát đi vào thành Vesālī để khất thực. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã nhìn thấy đại đức Kappitaka đang đi khất thực, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy: - “Kappitaka này còn sống. Vậy ai đã tiết lộ kế hoạch của chúng ta?” Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã nghe được rằng: “Nghe nói kế hoạch của chúng ta đã bị tiết lộ bởi ngài đại đức Upāli.” Các vị ni ấy đã sỉ vả đại đức Upāli rằng: - “Tại sao gã thợ cạo lau chùi bụi bặm và dòng dõi hạ tiện này lại tiết lộ kế hoạch của chúng tôi?”

3. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại sỉ vả ngài đại đức Upāli?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sỉ vả Upāli, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại sỉ vả Upāli vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào sỉ vả hoặc chửi rủa tỳ khưu thì phạm tội pācittiya.”

4. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Tỳ khưu: là người nam đã tu lên bậc trên.

(Hoặc) sỉ vả: vị sỉ vả theo mười nền tảng của sự sỉ vả[2] hoặc với bất cứ điều nào của những điều này thì phạm tội pācittiya.

Hoặc chửi rủa: vị gây ra sự sợ hãi thì phạm tội pācittiya.

Người nam đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni sỉ vả hoặc chửi rủa thì phạm tội pācittiya. Người nam đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sỉ vả hoặc chửi rủa thì phạm tội pācittiya. Người nam đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sỉ vả hoặc chửi rủa thì phạm tội pācittiya.

Vị sỉ vả hoặc chửi rủa người nam chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa. Người nam chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nam chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nam chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ nhì.

--ooOoo--

4.6.3. ĐIỀU HỌC THỨ BA

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī là người tạo ra các sự xung đột, là người tạo ra các sự cãi cọ, là người tạo ra các sự tranh luận, là người tạo ra các cuộc nói chuyện nhảm nhí, và là người tạo ra các sự tranh tụng trong hội chúng. Trong khi hành sự đang được thực thi đối với vị ni ấy, tỳ khưu ni Thullanandā phản đối. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vào làng vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vắng” nên đã phạt án treo tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī trong việc không nhìn nhận tội. Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong làng đã trở về lại thành Sāvatthī. Trong khi tỳ khưu ni Thullanandā đi về, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī đã không sắp xếp chỗ ngồi, không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī điều này:

- “Này cô ni, vì sao trong khi tôi đi về, cô lại không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống vậy?” - “Thưa ni sư, bởi vì sự việc này là như vậy, giống như là việc đối với kẻ không người bảo hộ.” - “Này cô ni, vì sao cô lại là không người bảo hộ?” - “Thưa ni sư, các tỳ khưu ni này (nói rằng): ‘Cô này là không người bảo hộ lại ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối’ rồi đã phạt án treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.'” Tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động đã chửi rủa nhóm rằng: “Những cô ấy ngu dốt! Những cô ấy không kinh nghiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự.”

2. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao ni sư Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào bị kích động rồi chửi rủa nhóm thì phạm tội pācittiya.”

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Bị kích động nghĩa là sự giận dữ được đề cập đến.

Nhóm nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.

Chửi rủa: vị ni chửi rủa rằng: “Những cô ấy ngu dốt! Những cô ấy không kinh nghiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự” thì phạm tội pācittiya. Vị ni chửi rủa nhiều vị tỳ khưu ni hoặc một vị tỳ khưu ni hoặc người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa.

Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ ba.

--ooOoo--

4.6.4. ĐIỀU HỌC THỨ TƯ

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời và dâng bữa ăn đến các tỳ khưu ni. Khi thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm), các tỳ khưu ni đã đi đến các gia đình thân quyến rồi một số vị ni đã thọ thực, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi. Sau đó, người Bà-la-môn ấy đã nói với hàng xóm điều này: - “Này quý ông, các tỳ khưu ni đã được tôi làm hài lòng. Hãy đến, tôi cũng sẽ làm hài lòng quý ông.” Những người ấy đã nói như vầy: - “Này ông, có phải ông sẽ làm hài lòng chúng tôi không? Ngay cả những vị ni đã được ông thỉnh mời lại còn đi đến các nhà của chúng tôi, một số vị ni đã thọ thực, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi.”

2. Khi ấy, người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni sau khi thọ thực ở nhà của chúng tôi lại còn thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?” Các tỳ khưu ni đã nghe được người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào đã được thỉnh mời hoặc đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.”

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Đã được thỉnh mời nghĩa là được thỉnh mời với loại vật thực nào đó của năm loại vật thực.

Đã từ chối (vật thực dâng thêm) nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên và sự khước từ được ghi nhận.

Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.

Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt.

(Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya.[3]

Vị ni nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa.

Vị ni đã được thỉnh mời nhưng chưa từ chối (vật thực dâng thêm), vị ni uống cháo, vị ni hỏi trước các chủ nhân rồi thọ thực, vị ni thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ tư.

--ooOoo--

4.6.5. ĐIỀU HỌC THỨ NĂM

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ trong lúc đi khất thực ở con đường nọ trong thành Sāvatthī đã đi đến gia đình nọ, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, những người ấy sau khi dâng bữa ăn đến vị tỳ khưu ni ấy rồi đã nói điều này: - “Thưa ni sư, luôn cả các tỳ khưu ni khác hãy đi đến.” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỳ khưu ni khác không đi đến?” nên khi đi đến gặp các tỳ khưu ni đã nói điều này: - “Này các ni sư, ở chỗ đàng kia chó thì dữ tợn, bò thì hung bạo, là khu vực đầm lầy, chớ có đi đến chỗ ấy.” Có vị tỳ khưu ni khác trong khi đi khất thực ở con đường ấy cũng đã đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, những người ấy sau khi dâng bữa ăn đến vị tỳ khưu ni ấy rồi đã nói điều này: - “Thưa ni sư, tại sao các tỳ khưu ni khác không đi đến?”

2. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho những người ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao vị tỳ khưu ni lại bỏn xẻn về gia đình?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni bỏn xẻn về gia đình, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại bỏn xẻn về gia đình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào bỏn xẻn về gia đình thì phạm tội pācittiya.”

3. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình Sát-đế-lỵ, gia đình Bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.

Là bỏn xẻn: vị ni (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỳ khưu ni khác không đi đến?” rồi nói xấu về gia đình trong sự hiện diện của các tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya. Vị ni nói xấu về các tỳ khưu ni trong sự hiện diện của gia đình thì phạm tội pācittiya.

Trong khi không bỏn xẻn về gia đình vị ni giải thích về điều bất tiện đang hiện hữu, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ năm.

--ooOoo--

4.6.6. ĐIỀU HỌC THỨ SÁU

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành Sāvatthī. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: - “Các ni sư đã trải qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn sự giáo giới đã có hiệu quả?” - “Này các ni sư, ở nơi ấy không có tỳ khưu, do đâu mà sự giáo giới sẽ có hiệu quả?” Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni lại sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỳ khưu thì phạm tội pācittiya.”

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Trú xứ không có tỳ khưu nghĩa là không thể đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ sống mùa (an cư) mưa” rồi sắp xếp chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng thì phạm tội dukkaṭa. Với sự mọc lên của mặt trời thì phạm tội pācittiya.

Các vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa bỏ đi hoặc hoàn tục hoặc qua đời hoặc chuyển sang phe phái khác, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ sáu.

--ooOoo--

4.6.7. ĐIỀU HỌC THỨ BẢY

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành Sāvatthī. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này: - “Các ni sư đã trải qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn đã thỉnh cầu[4] nơi hội chúng tỳ khưu?” - “Này các ni sư, chúng tôi không có thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu.” Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa lại không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni khi trải qua mùa (an cư) mưa lại không thỉnh cầu nơi hội chúng tỳ khưu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào khi trải qua mùa (an cư) mưa không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ thì phạm tội pācittiya.”

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Khi trải qua mùa (an cư) mưa nghĩa là đã sống (an cư mùa mưa) ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya.

Khi có nguy hiểm, sau khi tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ bảy.

--ooOoo--

4.6.8. ĐIỀU HỌC THỨ TÁM

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sakya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến chỗ ngụ của các tỳ khưu ni rồi giáo giới các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư. Các tỳ khưu ni đã nói với các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư điều này: - “Này các ni sư, hãy đi. Chúng ta sẽ đi (nghe) giáo giới.” - “Này các ni sư, chúng tôi cũng nên đi vì lý do giáo giới, tuy nhiên các ngài đại đức nhóm Lục Sư giáo giới cho chúng tôi ngay tại đây.” Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại không đi giáo giới?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư không đi giáo giới, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại không đi giáo giới vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú thì phạm tội pācittiya.”

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp.

Việc đồng cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya.

Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị tỳ khưu ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ tám.

--ooOoo--

4.6.9. ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni vào mỗi nửa tháng nên mong mỏi hai việc từ hội chúng tỳ khưu: việc hỏi ngày lễ Uposatha và việc đi đến (để nghe) giáo giới; nếu vượt quá hạn ấy thì phạm tội pācittiya.”

2. Vào mỗi nửa tháng: vào mỗi kỳ Uposatha.

Ngày lễ Uposatha nghĩa là có hai ngày lễ Uposatha: ngày mười bốn và ngày mười lăm.

Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội pācittiya.

Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị tỳ khưu ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ chín.

--ooOoo--

4.6.10. ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI

1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ cùng người nam một nữ với một nam xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân. Khi ấy, người nam ấy đã gắng sức để làm ô uế vị tỳ khưu ni. Vị tỳ khưu ni ấy đã kêu thét lên. Các tỳ khưu ni đã chạy lại và đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, vì sao cô đã kêu thét lên?” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nữ với một nam xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nữ với một nam xẻ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào khi chưa xin phép hội chúng hoặc nhóm lại cùng người nam một nữ với một nam làm cho vỡ ra hoặc xẻ ra hoặc rửa ráy hoặc bôi thuốc hoặc băng lại hoặc tháo băng mụt nhọt hoặc vết loét phát sanh ở phần dưới thân thì phạm tội pācittiya.”

2. Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Ở phần dưới thân nghĩa là từ lỗ rún trở xuống từ đầu gối trở lên.

Phát sanh: được sanh lên tại nơi ấy.

Mụt nhọt nghĩa là bất cứ loại mụt nhọt nào.

Vết loét nghĩa là bất cứ loại vết thương nào.

Khi chưa xin phép: khi chưa hỏi ý.

Hội chúng nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến.

Nhóm nghĩa là nhiều vị tỳ khưu ni được đề cập đến.

Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng làm ô uế.

Cùng: cùng với.

Một nữ với một nam: là chỉ có người nam và vị tỳ khưu ni.

Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy làm vỡ ra” thì phạm tội dukkaṭa; khi đã bị vỡ thì phạm tội pācittiya. Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy xẻ ra” thì phạm tội dukkaṭa; khi đã được xẻ thì phạm tội pācittiya. Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy rửa” thì phạm tội dukkaṭa; khi đã được rửa thì phạm tội pācittiya. Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy bôi thuốc” thì phạm tội dukkaṭa; khi đã được bôi thuốc thì phạm tội pācittiya. Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy băng lại” thì phạm tội dukkaṭa; khi đã được băng lại thì phạm tội pācittiya. Vị ni ra lệnh rằng: “Hãy tháo băng” thì phạm tội dukkaṭa; khi đã được tháo băng thì phạm tội pācittiya.

Vị ni bảo làm cho vỡ ra hoặc bảo xẻ ra hoặc bảo rửa hoặc bảo bôi thuốc hoặc bảo băng lại hoặc bảo tháo băng sau khi đã xin phép, có người nữ nào đó có trí suy xét là người nữ thứ nhì, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ mười.

Phẩm Tu Viện là thứ sáu.

--ooOoo--

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Tu viện, sự sỉ vả, và có sự giận dữ, thọ thực, bỏn xẻn về gia đình, (an cư) mùa mưa, lễ Pavāraṇā, sự giáo giới, hai việc, và với phần dưới thân.”

--ooOoo--