Tâm giải thoát, (cetovimutti) và tuệ giải thoát (paññāvimutti): theo Mp, “‘tâm giải thoát’ là chỉ cho ‘tâm sở định’ trong tâm Thánh quả [của bậc A-la-hán], ‘tuệ giải thoát’ là chỉ cho ‘tâm sở trí’ trong tâm Thánh quả.”
Lưu ý: ở nhiều kinh khác thì ‘tâm giải thoát’ là chỉ cho đạo quả (Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, A-la-hán) của người thực chứng thiền (sơ, nhị, tam, tứ thiền), ‘tuệ giải thoát’ là chỉ cho đạo quả của người chưa từng chứng thiền (chỉ tu thiền minh sát, càng tuệ).
Xem thêm về Tâm giải thoát ở MN 43, SN 41.7.
Tinh tấn (paggaho) và nhất tâm (avikkhepo): tinh tấn là chỉ cho tinh cần, chánh tinh tần; nhất tâm là chỉ cho định (khả năng tập trung tư tưởng).
Danh (nāmaṃ) và sắc (rūpaṃ): danh là ba uẩn thọ, tưởng và hành; sắc là bốn đại chủng (đất, nước, gió, lửa) và 24 thứ vật chất được tạo từ chúng (sắc sở tạo). Xem chi tiết ở Vism XIV, Vism XVII.
Minh (vijjā) và giải thoát (vimutti): ‘minh’ ở đây là chỉ cho tâm sở trí trong tâm Thánh quả, ‘giải thoát’ ở đây là chỉ cho các tâm sở đi cùng.
Lưu ý: ở nhiều kinh khác thì ‘minh’ là chỉ cho tâm Thánh đạo, ‘giải thoát’ là chỉ cho tâm Thánh quả.
Hữu kiến (bhavadiṭṭhi) và vô hữu kiến (vibhavadiṭṭhi): hữu kiến ở đây là chỉ cho thường kiến, vô hữu kiến ở đây là chỉ cho đoạn kiến.
Thường kiến và đoạn kiến được gọi chung là tà kiến, xem chi tiết ở DN 1, MN 60.
- Thường kiến:
- Tin vào sự hiện hữu của một cái tôi, một linh hồn trường tồn, bất biến thay vì phải hiểu rằng mọi vật ở đời chỉ là từng khối tổng hợp của nhiều thứ điều kiện (duyên);
- Tin vào sự có mặt của một cõi thiên đường, địa ngục vĩnh cửu để thưởng phạt muôn loài;
- Tin vào sự hiện hữu của một đấng tối cao sáng tạo muôn loài hoặc nắm quyền cai quản tất cả vũ trụ.
- Đoạn kiến:
- Vô hành kiến: cho rằng thiện ác chỉ là tên gọi, muốn làm gì thì làm, không có nhân quả báo ứng;
- Vô nhân kiến: cho rằng mọi sự ngẫu nhiên mà có và mất đi, không có nhân duyên hay điều kiện tạo tác gì;
- Vô hữu kiến: phủ nhận tất cả những gì mình không thấy, không hiểu, không tin, không chứng minh được.
Tàm (hiri) và quý (ottappañca): tàm là biết hổ thẹn với tam nghiệp (AN 5:2), quý là biết sợ hãi với tam nghiệp.
Khó nói (dovacassatā) và ác hữu (pāpamittatā): trích Vibh 918:
* Thành người nan giáo [{khó nói}] đó ra sao? Như là cách người khó dạy, thái độ người khó dạy, thành người khó dạy, chấp cứng can cường, ưa thích chống báng sự không cởi rộng lòng, cách không rộng lòng, không cung kỉnh, không nghe theo với khi đặng nhắc bằng cách đúng pháp lý. Như thế gọi là nan giáo (dovacassatā).
* Thành người có ác hữu đó ra sao? Như là những người chống đối, với kẻ không đức tin, không giới hạnh, ít học vấn, có sự bỏn xẻn, trí cạn cợt, mà lại cần dùng, thường sử dụng hay gặp gỡ, hằng gặp gỡ lại càng sùng tín ưa thích trọng kỉnh những người như thế đó để làm bực dẫn dắt hay giúp đỡ. Như thế gọi là ác hữu (pāpamittatā).
Phạm thiện xảo (āpattikusalatā) và xuất Phạm thiện xảo (āpattiuṭṭhānakusalatā): biết rõ thế nào là phạm tội và thế nào là cách giải tội. Với Người xuất gia thì gồm 227 điều của Tỳ-khưu, 311 điều của Tỳ-khưu Ni; với Sa-di thì 105 giới; với cư sĩ thì có thể là 10 giới hoặc 8 giới...