PHẦN XVII - TIỂU TÔNG PHÂN TÍCH
(Khuddadavatthu vibhaṅga)

A. TIỂU TÔNG PHÂN TÍCH PHẦN ĐẦU ĐỀ

Đầu đề phần một điều (ekakamātikā)

849.

Sự mê đắm trong kiếp sống, sự mê đắm trong dòng giống, sự mê đắm trong cách vô định, sự say mê trong lúc thanh niên, sự say mê trong tuổi thọ, sự say mê trong lợi lộc, sự say mê trong lễ lộc, sự say mê trong đặng cung kỉnh, sự say mê theo cách trưởng thượng, sự mê say theo tùy tùng, sự mê say trong tài sản nhân phẩm, sự mê say trong nhan sắc của thân thể và ân đức tốt, sự mê say trong phần học vấn, sự mê say trong phần cấp trí, sự mê say trong bực cao niên thông hiểu, sự mê say trong cách chấp hằng đi bát, sự mê say trong lối không ai coi rẻ, sự mê say trong cách oai nghi, sự mê say trong thần thông, sự mê say trong quyền tước, sự mê say trong giới, sự mê say trong thiền, sự mê say trong nghề hay, sự mê say do có tài nghệ cao, sự mê say do có tài nghệ tinh nhàn, sự mê say do có tài nghệ tốt đẹp, sự mê say do có thân thế đầy đủ, sự say mê hay sự dể duôi, sự cứng đầu, sự tranh tốt, sự hy vọng quá chừng, sự quá ham muốn, sự mong mỏi đê hèn, tánh lưỡng thiệt, cách nói phúng tiếu, cách nói trở nạo, cách ưa chưng diện, cách hành động không thích hợp, cách không hoan hỷ, sự thái quá bất cập của tâm, cách gạt gẩm, cách nói hùa, cách trình bày ấn chứng, cách nói chê bai, cách đổi chác lợi lộc, sự ỷ mình cho là hơn họ, sự ỷ mình cho là bằng họ, sự ỷ mình cho là thua họ, người hơn họ ỷ mình hơn họ, người hơn họ ỷ mình bằng họ, người hơn họ ỷ mình thua họ, người bằng họ ỷ mình hơn họ, người bằng họ ỷ mình bằng họ, người bằng họ ỷ mình thua họ, người thua họ ỷ mình hơn họ, người thua họ ỷ mình bằng họ, người thua họ ỷ mình thua họ. Sự chấp ngã, sự coi rẻ người khác, sự phách lối, sự tự coi rẻ mình, sự nhận rằng đặng chứng pháp đặc biệt, sự nhận rằng ta có cái ngã, sự chấp sai, sự nhớ bà con, sự nhớ dân chúng, sự nhớ tưởng không quyết định, sự nhớ tưởng không liên hệ với sự chiếu cố người khác, sự nhớ liên hệ với lợi lộc và danh vọng, sự nhớ liên hệ với sự không có ai coi rẻ.

Đầu đề phần hai điều

850.

Cũng là sân, cũng là cột sân, cũng là vong ân, cũng là sánh mình bằng họ, cũng có đố kỵ, cũng là lẫn sắt, cũng là người đa nguỵ kế, cũng là người khoe khoang, cũng là vô minh, cũng là hữu ái, cũng là hữu kiến, cũng là ly hữu kiến, cũng là thường kiến, cũng là đoạn kiến, cũng là chấp hữu, cũng là hữu cùng kiến, cũng là vô cùng kiến, cũng là tùy tiền kiến, cũng là tùng hậu kiến, cũng là vô tàm, cũng là vô úy, cũng là thành người nan giáo, cũng là thành người có bạn ác, cũng là bất chơn chánh, cũng là không nhu mì, cũng là không nhẫn nại, cũng là không nghiêm tịnh, cũng là không cam ngôn, cũng là thiếu tiếp đãi, cũng thành người không thu thúc lục môn quyền, cũng thành người bất tri độ thực, cũng thành người vô chánh niệm, cũng thành người vô lương tri, cũng là tri kiến điêu tàn, cũng là nội triền, cũng là ngoại triền.

Đầu đề phần ba điều

851.

Tam bất thiện căn, tam bất thiện tầm, tam bất thiện tưởng, tam bất thiện giới, tam ác, tam lậu, tam triền, tam ái, tam ái (nữa), tam ái (khác nữa), tam trảo, tam tỷ, tam nạn, tam thờ nghi, tam lý thuyết, tam quái niệm, tam tràng, tam xả khí, tam ký khu, tam hỏa, ba thứ nước chát, thân kiến, ngã kiến, tà kiến, bất hỷ, ép uổng, hành phi pháp, người nan giáo, người có bạn ác, tưởng dị kỳ, phóng dật, giải đãi, khinh thị, bất tri túc, vô lương tri, đại tham, vô tàm, vô úy, khinh thị, vô quảng đại, thành người nan giáo, thành người có ác hữu bất tín, thành người không biết nghe lời nói do mảnh lực bỏn xẻn, giải đãi, phóng dật, bất thu thúc, phá giới, không muốn thấy bực Thánh, không chịu nghe pháp, thành người có tâm tánh tranh hơn, thành người vô chánh niệm, thành người vô lương tri, tâm hữu phóng dật, tác ý không khéo, sử dụng xấu xa, tâm lui sụt.

Đầu đề phần bốn điều

852.

Tứ lậu, tứ phược, tứ bộc, tứ phối, tứ thủ, tứ ái thủ, tứ thiên vị, tứ biến chuyển, tứ bất tri độ thực (nữa), tứ bất tri độ thực, tứ ác, tứ ác (nữa), tứ nạn, tứ nạn (nữa), tứ nạn (nữa), tứ kiến.

Đầu đề phần năm điều

853.

Ngũ triền thô, ngũ triền tế, ngũ tẩn sắt, ngũ tiên quan, ngũ tiển, ngũ bất tín, ngũ bất ly vọng dục, ngũ cái, ngũ nghiệp vô gián, ngũ cừu, ngũ điêu tàn, ngũ quá bất nhẫn, ngũ nạn, ngũ Níp-bàn hiện tại kiến.

Đầu đề phần sáu điều

854.

Lục căn tranh chấp, lục pháp lục dục, lục diệt tông, lục ái thân, lục bất kỉnh, lục pháp thối hóa, lục pháp thối hóa (nữa), lục hỷ cận tứ, lục ưu cận tứ, lục xả cận tứ, lục liên quan hỷ, lục liên quan ưu, lục liên quan xả, lục tà kiến.

Đầu đề phần bảy điều

855.

Thất tùy miên, thất phối, thất triền, thất phi pháp, thất ác, thất ngã mạn, thất tà kiến.

Đầu đề phần tám điều

856.

Bát phiền não tông, bát giải đãi tông, bát thế pháp, bát sát tâm, bát phi ngữ ngôn, bát tà, bát phủ quả, bát vô tưởng kiến, bát phi tưởng phi phi tưởng kiến.

Đầu đề phần chín điều

857.

Cửu sát hại tông (ākhātavatthu), cửu ô uế (purisamāla), cửu tăng thượng mạn (vidhāmāla), cửu ái căn pháp (taṅhāmūlakā dhammā), cửu biến chuyển (iñjita), cửu quan trọng (naññita), cửu chuyển động (phanditā), cửu ám ảnh (papañcita), cửu hữu vi (saṅkhata).

Đầu đề phần mười điều

858.

Thập phiền não tông, thập hiệp cừu (sát hại), thập ác, thập triền, thập tà, thập tà kiến tông, thập hữu cùng kiến tông.

859.

* Ái chia theo 18 xứ bên trong, ái chia theo 18 xứ bên ngoài cộng lại thành 36 ái.

* Ái kể theo quá khứ có 36, ái kể theo vị lai có 36, ái kể theo hiện tại có 36, cộng lại thành 108 ái.

62 tà kiến Đức Phật ngài đã thuyết trong Phạm Võng Kinh (Brahmajālasutta).

Dứt Phần đầu đề

---

B. TIỂU TÔNG PHÂN TÍCH PHẦN XIỂN MINH

Xiển minh phần một điều

860.

Trong những đầu đề một phần đó mà sự say mê trong sanh đó ra sao? Như là sự say mê, cách say mê, thái độ say mê, sự ngã mạn, cách ngã mạn, thái độ ngã mạn, sự nâng mình, đỡ mình, cất mình lên như cờ, sự cống cao, cách mà tâm phải thành như cờ do sanh ra. Như thế gọi là say mê trong sanh.

861.

* Sự say mê trong thân tộc đó ra sao? Sự say mê… sự mà tâm như cờ bởi do bà con. Như thế gọi là say mê trong bà con.

* Sự say mê trong sự không bệnh hoạn đó ra sao? Sự say mê… sự mà tâm phải thành như cờ bởi do sự không bệnh hoạn. Như thế gọi là sự say mê trong sự không bệnh hoạn.

* Sự say mê trong cách thanh niên đó ra sao? Sự say mê… sự mà tâm phải thành như cờ bởi do sự thưở thanh niên. Như thế gọi là sự say mê trong thưở thanh niên.

* Sự say mê trong tuổi thọ đó ra sao? Sự say mê… sự mà tâm phải thành như cờ do hưởng thọ. Thế đó gọi là sự say mê trong hưởng thọ.

* Sự say mê trong lợi lộc đó ra sao? Sự say mê… sự mà tâm phải như cờ, bởi do lợi lộc đó. Như thế gọi là sự say mê trong lợi lộc.

* Sự say mê trong lễ lộc đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải như cờ bởi do lễ lộc. Thế gọi là sự say mê trong lễ lộc.

* Sự say mê trong lối cung kỉnh đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do lối cung kỉnh. Như thế gọi là sự say mê trong cách cung kỉnh.

* Sự say mê trong cách trưởng thượng đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do sự trưởng thượng. Như thế gọi là sự say mê trong lối trưởng thượng.

* Sự say mê trong tùy tùng đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do tùy tùng. Như thế gọi là sự say mê trong tùy tùng.

* Sự say mê trong tài sản phẩm vật đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do tài sản phẩm vật. Như thế gọi là sự say mê trong tài sản phẩm vật.

* Sự say mê trong nhan sắc của thân thể và công đức tốt đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do nhan sắc của thân thể và ân đức tốt. Như thế gọi là sự say mê trong nhan sắc của thân thể và ân đức tốt.

* Sự say mê trong phần học vấn đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải như cờ bởi do phần học vấn. Như thế gọi là sự say mê trong phần học vấn.

* Sự say mê trong cấp trí đó ra sao? Sự say mê… cách mà làm cho tâm cần phải như cờ bởi do cấp trí. Như thế gọi là sự say mê trong cấp trí.

* Sự say mê trong địa vị cao niên thông hiểu đó ra sao? Sự say mê trong cách mà tâm cần phải như cờ bởi do sự thành bực cao niên thông hiểu. Như thế gọi là sự say mê trong địa vị cao niên thông hiểu.

* Sự say mê theo lối đi bát đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm cần phải như cờ bởi do người chấp thường đi bát. Như thế gọi là sự say mê trong phần chấp theo thường đi bát (piṇdapāta).

* Sự say mê trong lúc không ai coi rẻ đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm cần phải thành như cờ bởi do sự không ai coi rẻ. Như thế gọi là sự say mê trong khi không ai coi rẻ.

* Sự say mê trong oai nghi đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm cần phải thành như cờ bởi do oai nghi thấy hành động. Như thế gọi là sự say mê trong cách oai nghi.

* Sự say mê trong thần thông đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm cần phải thành như cờ bởi do thần thông. Như thế gọi là sự say mê trong thần thông.

* Sự say mê trong chức phận đó ra sao?

Sự say mê… cách mà tâm cần phải thành như cờ bởi do chức phận. Như thế gọi là sự say mê trong chức phận.

* Sự say mê trong giới đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm cần phải thành như cờ bởi do giới. Như thế gọi là say mê trong giới.

* Sự say mê trong thiền đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm cần phải thành như cờ bởi do thiền. Như thế gọi là sự say mê trong thiền.

* Sự say mê trong nghề hay đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do nghề hay. Như thế gọi là sự say mê trong nghề hay.

* Sự say mê trong tài nghề cao đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do sự tài nghề cao. Như thế gọi là sự say mê trong tài nghề cao.

* Sự say mê trong tài nghề tinh nhàn đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do tài nghề tinh nhàn. Như thế gọi là sự say mê trong tài nghề tinh nhàn.

* Sự say mê trong tài nghề đẹp đó ra sao? Sự say mê… cách mà tâm phải thành như cờ bởi do sự có tài nghề đẹp. Như thế gọi là sự say mê trong tài nghề đẹp.

* Sự say mê trong thân thể đầy đủ đó ra sao? Sự say mê… thái độ say mê, tư cách say mê, sự ngã chấp, thái độ ngã chấp, tư cách ngã chấp, cách nâng mình, cách cống cao, cất mình lên như cờ, cách lên hương, sự mà tâm phải thành như cờ bởi do thân thể đầy đủ. Như thế gọi là sự say mê trong thân thể đầy đủ.

862.

Sự say mê là chi? Sự say mê mẩn, thái độ say sưa, tư cách say sưa, sự ngã chấp, thái độ ngã chấp, tư cách ngã chấp, cách nâng mình, cách cống cao, cách cất mình lên như cờ, cách lên hương, sự mà tâm phải thành như cờ. Thế gọi là say mê (nado).

863.

Sự dể duôi đó ra sao? Như là tâm buông lung, sự tán trợ cho cách tâm buông lung trong phần thân ác, khẩu ác, ý ác, hoặc hữu dục lạc, hoặc sự không cung kỉnh, sự làm cho không liên lạc, sự làm cho không chặt chẽ, phẩm hạnh hục hạc, bỏ sự vừa thích, bỏ phận sự, không sử dụng cho nhiều, không làm cho tiến hóa, không làm cho đặng nhiều, sự tâm không vững, không thường hòa hợp, dể duôi với sự tiến hóa tất cả pháp thiện, đó là sự dể duôi, thái độ dể duôi, tư cách dể duôi. Nếu có trạng thái như thế gọi là sự dể duôi (pamādo).

864.

Sự cứng đầu đó ra sao? Như là sự cứng đầu, thái độ cứng đầu, cách cứng đầu, cách sần sượng, sự thô bỉ, sự thiêu chốc, sự không mềm mỏng. Như thế gọi là sự cứng đầu (thambho).

865.

Sự tranh hơn đó ra sao? Như là dành sự tốt, dành sự trên trước, thái độ tranh tốt, thái độ tranh trên trước, tư cách tranh trên trước. Như thế gọi là tranh tốt (sārambho).

866.

Sự ham muốn thái quá đó ra sao? Như là Phíc-khú không tri túc ham muốn cho đặng nhiều y, nhiều bát, nhiều chỗ ở, nhiều lợi lộc, nhiều tùy tùng. Hoặc đối với ngũ dục lạc rất mong mỏi ham muốn nhiều, đa dục vọng… sự rất dục vọng của tâm. Nếu có trạng thái như thế gọi là sự ham muốn thái quá (aticchatā).

867.

Sự đa ham muốn đó ra sao? Như là Phíc-khú không tri túc ham muốn đặng nhiều y, nhiều bát, nhiều chỗ ở, nhiều lễ lộc và nhiều tùy tùng. Hoặc đối với ngũ dục lạc có sự mong mỏi, cách hy vọng, đa tham, sự vọng dục, sự rất vọng dục… sự vọng dục nặng nề của tâm. Nếu có trạng thái như thế gọi là đa tham (mahicchatā).

868.

Sự mong mỏi đê hèn đó ra sao? Như là trong đời nầy có người thành kẻ bất tín mới hy vọng muốn cho người ta biết mình là người có đức tin. Có người phá giới mà muốn cho người ta nhận mình là người có giới. Cũng có người học vấn ít mà hy vọng muốn cho người ta biết mình là bực đa học vấn. Cũng có người vui vầy ưa thích với trong nhóm mà muốn cho người ta biết mình là người thích vắng lặng. Hoặc có người lười biếng mà hy vọng cho kẻ khác biết mình là người siêng năng tinh tấn. Hoặc có người chánh niệm yếu hay quên mà hy vọng muốn cho người khác biết ta là người có chánh niệm vững vàng. Hoặc có kẻ tâm không vững vàng mà hy vọng muốn làm cho người khác biết ta là bực có tâm vững vàng. Cũng có người trí cạn cợt mà hy vọng muốn cho kẻ khác biết ta là người có tuệ cao siêu. Hoặc có người chưa hết lậu mà hy vọng muốn cho người khác biết rằng ta là bực đã hết lậu. Sự hy vọng, cách mong mỏi, lối hy vọng đê hèn, sự vọng dục, sự rất vọng dục… sự quá mong mỏi của tâm. Khi có trạng thái như thế mới gọi là sự mong mỏi đê hèn (pāpicchatā).

869.

Cách nói lưỡng thiệt đó ra sao? Như là sự nói đòn xóc, tư cách nói thóc mách, nói khía cạnh mánh lới, thái độ nói mánh lới khía cạnh, thái độ nói góc, tư cách nói góc khía. Dù thế nào đây gọi là nói lưỡng thiệt (siṅga).

870.

Cách nói dèm siểm đó ra sao? Như là cách nói dèm siểm, thái độ nói dèm siểm, tư cách nói dèm siểm, sự tham lam, thái độ tham lam, tư cách tham lam, sự hạ mình hầu sẽ đặng đồ cần dùng tinh vi. Như thế gọi là cách nói dèm siểm (tintiṇa).

871.

Cách ưa thích chưng diện đó ra sao? Như là Phíc-khú sửa sang y cho tốt, bát tốt, chỗ ở tốt đẹp, trau dồi cách thân hôi thúi nầy, hoặc trang trí đồ phụ thuộc bên ngoài, hoặc làm cách hớn hở vui tươi, sự ham muốn vui mừng, thái độ ham muốn vui mừng, sự chưng diện, thái độ chưng diện. Như thế gọi là cách ưa chưng diện (cāpalya).

872.

Cách hành động không thích hợp ra sao? Như là sự không hành động theo, cách hành động trở ngại, sự không rộng rãi, tư cách không rộng rãi, sự không cung kỉnh, sự không nghe theo những người đáng cung kỉnh như là cha, mẹ, anh, chị, giáo sư, bổn sư, cho đến Đức Phật hoặc Thinh văn đệ tử của Đức Phật. Như thế gọi là cách hành động không thích hợp (asabhāgavutti).

873.

Sự không hoan hỷ đó ra sao? Như là sự không hỷ xả, cách không hỷ xả, thái độ rất không hỷ xả, sự không trọn hỷ xả, sự bực bội, tâm bối rối, chỗ ở không yên tịnh, hoặc trong pháp thiện tức là chỉ và quán trong một thứ nào. Như thế gọi là sự không hoan hỷ (arati).

874.

Cách chuân thụy (ngủ gục) đó ra sao? Như là sự buồn ngủ, cách buồn ngủ, thái độ buồn ngủ, tư cách tâm buồn ngủ, sự lười biếng, cách lười biếng, thái độ lười biếng. Như thế gọi là chuân thụy (ngủ gục)(tandi).

875.

Sự bực mình đó ra sao? Như là cách bực bội thân, sự bực bội thân, sự chuyển mình đi tới, sự chuyển mình đi lui, sự sửa mình cho ngay thẳng, thân không thong thả. Như thế gọi là bực mình (vijambhikā).

876.

Sự say vật thực đó ra sao? Như là sự bần thần, do vật thực, sự óc ách do vật thực, sự nóng nảy quơ hớp do vật thực, nặng nề thân thể cũng do vật thực. Người độ vật thực rồi như thế gọi là say vật thực (bhattasammado).

877.

Sự sụt sè của tâm đó ra sao? Như là sự không thích hợp của tâm, cách không thích việc làm của tâm, sự sụt sè, sự dùng dằng, cách lui sụt, thái độ lui sụt, tư cách lui sụt, cách bần thần, thái độ bần thần, tư cách bần thần của tâm. Như thế gọi là sự sụt sè của tâm (cetaso līnattaṃ).

878.

Cách xảo trá của tâm đó ra sao? Như là xảo trá với tứ vật dụng, xảo trá với lời nói trớ trêu, hoặc cách trì oai nghi, thái độ trì oai nghi, sự trì oai nghi lối tốt, hoặc sự gục mặt, tư cách gục mặt, cách xảo quyệt, thái độ xảo quyệt, trạng thái xảo quyệt của Phíc-khú mong đặng lợi lộc và danh tiếng, người mà có sự mong mỏi đê hèn bị sự ham muốn che lấp. Như thế gọi là sự xảo trá (kuhanā).

879.

Sự nói nịnh đó ra sao? Như là cách bợ người khác, cách tự trình, sự nói ngụy tạo, cách nói bưng bợ, cách nói bợ đở, cách nói chìu uốn, cách nói khen tặng, sự nói khen tặng, cách nói khen ngợi, luôn cách nói đắc nhân tâm, cách nói bợ đở đặng cho họ thương, cách nói hẳn như canh đậu, cách làm người lãnh nuôi con nít của Phíc-khú mong mỏi lợi lộc, danh vọng, người có sự hy vọng bẩn thỉu bị sự ham muốn bao trùm. Như thế gọi là cách nói nịnh (lapanā).

880.

Cách khoe ấn chứng đó ra sao? Như là cách làm ấn chứng hiện bày hay sự rành trong cách làm ra ấn chứng, cách nói liên quan với vật dụng, cách nói thành chỗ ở, cách nói gần gần, cách nói khía cạnh của Phíc-khú đối với người khác để hy vọng lễ lộc và danh vọng, người có hy vọng bẩn thỉu, bị sự ham muốn che lấp. Đó gọi là cách khoe ấn chứng (nemittikatā).

881.

Cách nói chê bai đó ra sao? Như là mắng, nhiếc, chê bai, chỉ trích lỗi, cách nhắc lỗi, cách nói chê bai, cách nói thô lỗ, cách nói hư hại danh dự nặng nề, đem sự dạo đi chê bai, cách khen trước mặt chê sau lưng của Phíc-khú với người khác mong đặng lợi lộc danh vọng mới có sự mong mỏi đê hèn, bị sự ham muốn che đậy. Như thế gọi là cách nói chê bai (nippesikatā).

882.

Cách đổi chác lợi lộc đó ra sao? Như là Phíc-khú mong mỏi lợi lộc và danh vọng là người có sự hy vọng bẩn thỉu bị sự ham muốn che đậy nên đem đồ từ chỗ nầy đến chỗ kia, đem đồ từ chỗ kia đến chỗ nầy, cách mong mỏi, cách tìm tòi cách tìm kiếm, thái độ tìm kiếm, thái độ tìm tòi bằng vật chất đối với vật chất. Nếu có trạng thái như thế gọi là cách đổi chác lợi lộc (jīgimsaṅatā).

883.

Sự so sánh ỷ mình hơn họ đó ra sao? Cũng có người trong đời nầy vẫn chấp mình do một nhân nào như là do sanh ra theo cách sanh, theo cách dòng giống; hay ỷ đặng làm con người có sân sát, có danh vọng gia tộc, với sự có sắc đẹp, ỷ với của cải, ỷ với cách làm lớn, ỷ có nghề nghiệp, ỷ có nghề giỏi, ỷ có tài cán, ỷ có học vấn hay ỷ với sự cấp trí, sự ngã mạn, cách ngã mạn, thái độ ngã mạn, cách nưng cao, cách mà tâm phải thành như cờ. Nếu có thái độ như thế gọi là sự so sánh ỷ mình (seyyohamasmīti māno).

884.

Sự so sánh ỷ mình bằng họ đó ra sao? Như là cũng có người trong đời nầy vẫn chấp mình bằng một nhân nào như là do ỷ sanh, ỷ dòng giống, ỷ làm con nhà danh gia vọng tộc, ỷ bằng sự thành người có sắc đẹp, ỷ với của cải, ỷ với lớn chức, ỷ với chủ, sự ỷ với nghề giỏi, ỷ với tài hay, ỷ với sự học vấn, ỷ với cấp trí, sự tự thị tự cách, tư cách thái độ tự thị, cách nâng mình, cách tự cao cất mình lên như cờ, sự nâng mình lên cao, cách mà tâm phải như cờ. Nếu có trạng thái như thế gọi là sự so sánh ỷ mình cho là bằng họ (sadisohamasmīti māno).

885.

Sự cho rằng ta thua họ ra sao? Trong đời nầy cũng có người tự coi rẻ mình do một nhân nào như là coi rẻ do sự sanh ra do dòng giống, do sự làm con của người có rân rát do có sắc đẹp, do tài sản, do chức lớn, do chủ sự, do nghề giỏi, do tài hay, do sự học vấn hoặc do cấp trí. Đó là sự do đó mà coi ta rẻ, tư cách coi ta rẻ, thái độ coi rẻ ta, sự ghét mình, sự rất ghét mình, tư cách rất ghét mình, ta coi rẻ ta, sự coi rẻ ta cho rằng hèn hạ xấu xa, cách coi mình kém thiếu. Nếu có trạng thái như thế gọi là sự cho rằng ta thua họ (hīnohamasmīti māno).

886.

Hơn ỷ hơn đó ra sao? Như là cũng có người trong đời nầy đặng bực hơn kẻ khác mà chấp rằng ta hơn kẻ khác bằng trong một nhân nào như là do nhân sanh, do dòng giống, do đặng làm con bực danh gia vọng tộc, do có sắc đẹp, do có của cải, do chức lớn, do làm lớn trong công việc, do nghề khéo, do tài hay, do học vấn, hoặc do cấp trí mới chấp rằng ta hơn những người khác. Như thế gọi là tự cao, cách tự cao, sự tự cao, thái độ tự cao, cách nưng mình, cách trọng mình, cách tự nâng cao mình như cờ mà có tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế gọi là hơn ỷ hơn (seyyohamasmīti māno).

887.

Hơn ỷ bằng đó ra sao? Như là cũng có người trong đời nầy thật là bực hơn họ mà cho là ta do một nhân nào như là do sanh, do dòng giống, do làm con nhà danh giá, do đặng sắc đẹp, do có của cải, do chức trưởng thượng, do làm lớn trong ngành, do tài năng, do sự học vấn, hoặc do cấp trí họ nương cách ỷ mình bằng với người khác. Những thế đó đã là tự chấp, sự tự chấp, thái độ tự chấp, tư cách tự chấp, cách nưng mình, cách đưa mình lên, cách cất mình lên như cờ, sự tự nưng cao, cách mà tâm phải như cờ. Nếu có trạng thái như thế gọi là hơn ỷ bằng (seyyassa sadisohamasmīti māno).

888.

Hơn ỷ thua đó ra sao? Như là có người trong đời nầy thành người đặc biệt hơn họ mà chấp rằng mình bằng với những kẻ khác do với trong một nhân nào như là do với sanh ra, ỷ với dòng giống, ỷ làm con nhà danh giá, ỷ là người có sắc đẹp, ỷ với của cải, ỷ sự trượng thượng, ỷ làm lớn trong công việc, ỷ nghề hay, ỷ với tài năng, ỷ với học vấn hoặc ỷ với cấp trí, họ nương sự chấp mình cho rằng thua các người khác, đã coi rẻ mình; như thế là sự tự khinh, cách tự khinh, sự ghét chê mình, thái độ rất ghét chê mình, tư cách rất ghét chê mình, sự tự coi rẻ, tự nhận mình thấp thỏi, sự coi mình hèn hạ. Nếu có trạng thái như thế gọi là hơn ỷ thua (seyyassa hīnohamasmītimāno).

889.

Bằng ỷ hơn đó ra sao? Như là có người trong đời nầy là kẻ bằng với họ mà chấp cho rằng mình hơn những kẻ khác do trong một nhân nào như là do lối sanh ra hay ỷ với dòng giống, ỷ làm con nhà danh giá… họ nương cách ngã mạn ỷ hơn các người khác. Như thế đó là sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tư cách ngã mạn, cách nưng mình, cách đưa mình lên, cách cất mình lên như cờ, sự đưa mình lên cao, sự mà có tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế gọi là bằng ỷ hơn (sadisassa seyyohamasmītimāno).

890.

Bằng ỷ bằng đó ra sao? Như là có kẻ trong đời nầy thành bực bằng họ nhưng mà chấp rằng ta bằng với các người khác do trong một nhân nào như là ỷ với sanh ra, ỷ với dòng giống, ỷ làm con nhà danh giá… hoặc đã nương cách ngã mạn chấp bằng người khác là sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, tư cách ngã mạn, cách đưa mình lên, cách cất mình lên như cờ, cách nưng mình lên cao, sự mà tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế gọi là người bằng ỷ bằng (sadisassa sadisohamasmīti māno).

891.

Bằng ỷ thua đó ra sao? Như là có người trong đời nầy thành người bằng với họ mà ngã mạn cho rằng thua cả người khác do một nhân nào như là do sanh ra do dòng giống, do làm con nhà danh giá… họ đã nương cách ngã mạn ỷ thua, đã coi mình rẻ như thế đó là tự khinh, tư cách tự khinh, sự tự khinh, thái độ tự khinh, tự ghét ghớm, thái độ ghét ghớm, tư cách tự coi rẻ, sự coi mình quá thấp hèn, sự tự nhận mình. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là người bằng ỷ thua (sadisassa hīnohamasmītimāno).

892.

Thua ỷ hơn đó ra sao? Như là có kẻ trong đời nầy thành người thua người khác mà chấp rằng ta hơn những người khác phải do một nhân nào như là ỷ với sanh ra, ỷ với dòng giống, ỷ với làm con nhà danh gia vọng tộc… họ đã nương sự chấp hơn người khác rồi ngã mạn, cách ngã mạn, thái độ ngã mạn, tư cách ngã mạn, cách nâng mình, cách đưa mình lên, cách cử mình lên như cờ, sự đưa mình lên, cách mà tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế gọi là thua ỷ hơn (hīnassa seyyohamasmīti māno).

893.

Thua ỷ bằng đó ra sao? Như là có kẻ trong đời nầy thành người thua người khác mà cố chấp rằng ta bằng người khác do một nhân nào như là ỷ sanh ra, ỷ với dòng giống, ỷ với làm con nhà danh giá… họ đã nương cách ngã mạn ỷ bằng, đã tự coi rẻ mình, như thế là tự khinh, sự tự khinh, tư cách tự khinh của người khác rồi ngã mạn, thái độ ngã mạn, tư cách ngã mạn, cách nâng mình lên như cờ, cách đưa mình lên, cách cử mình lên như cờ; Nếu có trạng thái như thế mới gọi là người thua ỷ bằng (hīnassa sadisohamasmīti māno).

894.

Thua ỷ thua đó ra sao? Như là có kẻ trong đời nầy chấp rằng ta thua những người khác do một trong những nguyên nhân nào như là ỷ với sanh, ỷ với dòng giống, ỷ làm con nhà sơ sát… họ đã nương cách ỷ thua người khác như thế đó, tự coi rẻ, cách tự coi rẻ, thái độ tự coi rẻ, tư cách tự coi rẻ, sự tự chê ghét, thái độ tự chê ghét, tư cách rất tự chê ghét, sự tự khinh, coi mình thấp thỏi, sự coi mình hèn. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là người thua ỷ thua (hīnassa hīnohamasmīti māno).

895.

Sự ngã mạn trong khi có ra sao? Sự ngã mạn như là ỷ mình, cách ỷ mình, thái độ ỷ mình, cách nâng mình, cách cống cao, sự mà tâm phải thành như cờ, cách cất mình lên như cờ, cách nâng cao mình lên, sự mà tâm phải thành như cờ. Thế gọi là ngã mạn (māno).

896.

Sự khi người trong khi có ra sao? Như là có người trong đời nầy coi rẻ các người khác bằng một cách nào như là ỷ với sự sanh ra, ỷ với dòng giống, ỷ làm con nhà danh gia vọng tộc… sự ngã mạn, cách ngã mạn, thái độ ngã mạn, cách nâng mình, cách đỡ mình, cách cất mình lên như cờ, sự cống cao, cách mà tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là sự khi người (atimāno).

897.

Sự quá phách đó ra sao? Như là có người trong đời nầy ban đầu chấp mình bằng kẻ khác, về sau chấp mình hơn kẻ khác, không chịu hạ mình thấp hơn kẻ khác do một nhân nào như là con nhà danh gia vọng tộc… sự ngã mạn, cách ngã mạn, thái độ ngã mạn, cách nâng mình, cách đỡ mình lên, cách cất mình lên như cờ, cách nâng cao mình, sự mà tâm phải thành như cờ. Nếu có thái độ như thế mới gọi là sự quá phách (mānātimāno).

898.

Sự tự khinh đó ra sao? Như là có kẻ trong đời nầy tự coi rẻ mình bằng một nhân nào như là coi rẻ với sanh ra, tự khinh do dòng giống, tự khinh bởi làm con nhà hèn, hoặc tự khinh do sắc đẹp, tự khinh do tài sản, tự khinh do trưởng thượng, tự khinh do chủ sự, tự khinh do nghề giỏi, tự khinh do tài năng, tự khinh do học vấn, hoặc tự khinh do cấp trí, sự tự khinh, cách tự khinh, thái độ tự khinh, tự chê bai, tự coi rẻ mình là thấp hèn, coi rẻ mình. Nếu có thái độ như thế mới gọi là sự tự khinh (omāno).

899.

Tăng thượng mạn đó ra sao? Như là sự công nhận ta đã đắc chứng mà trong pháp ta chưa đắc chứng, công nhận rằng ta đã làm mà trong sự ta chưa làm, nhận định rằng đã đắc chứng trong pháp mà ta chưa đắc chứng, nhận định rằng đã làm đặng tỏ ngộ trong pháp ta chưa đặng tỏ ngộ, cũng gọi ngã mạn, sự ngã mạn, cách ngã mạn, tự nâng mình lên cao, tự cống cao, cách nâng mình lên như cờ, cách tự đưa mình lên, sự mà tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là tăng thượng mạn (adhimāno).

900.

Sự công nhận rằng ta có cái ngã ra sao? Như là sự công nhận trong sắc cho là ta có sự vừa lòng trong sắc, cho là ta có sự hiểu rõ trong sắc, cho là ta công nhận trong thọ, cho là ta công nhận trong tưởng… cho là ta công nhận trong hành… cho là ta công nhận trong thức. Sự vừa lòng trong thức cho là ta… sự trong thức cho là ta… cách ngã mạn, sự ngã mạn, thái độ ngã mạn, cách nâng mình, cách cống cao, cách nâng mình lên như cờ, cách đỡ mình lên cao, sự mà tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là sự công nhận cho rằng ta có cái ngã (asmimāno).

901.

Sự tà mạng trong khi có ra sao? Như là có người trong đời nầy chấp ta bằng một nhân nào như là chấp với phận sự công việc, ô uế với nghề nghiệp, ô uế với tài năng, ô uế với học vấn, ô uế với cấp trí, ô uế với trì giới, ô uế với tu hành, ô uế với trì giới và tu hành, ô uế hoặc với tri kiến, ô uế với sự ngã mạn, cách ngã mạn, tư cách ngã mạn, cách tự cao, cách hãnh diện, cách nâng mình lên như cờ, cách tự nâng mình, sự mà tâm phải thành như cờ. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là tà mạng (micchāmāno).

902.

Sự nhớ thân tộc đó ra sao? Như là sự nghĩ đến, sự rất nhớ tưởng… sự tà tưởng mà nương theo dục lạc, nhớ đến bà con. Như thế gọi là sự nhớ đến thân tộc (ñātivitakko).

903.

Nhớ đến dân chúng đó ra sao? Như là sự nghĩ ngợi, sự rất nghĩ ngợi… sự tà tưởng do theo dục lạc mong mỏi đến dân chúng. Như thế gọi là sự nhớ đến dân chúng (janapadavitakko).

904.

Sự suy nghĩ không quyết định đó ra sao? Như là cách suy xét, sự quá nghĩ ngợi… tư tưởng sai nương theo dục lạc ăn khớp với khổ hạnh, hoặc ăn với tà kiến. Như thế gọi là suy xét không nhứt định (amaravitakko).

905.

Cách nhớ nghĩ với sự chiếu cố người khác ra sao? Như là Sa-môn hoặc Bà-la-môn trong đời nầy hằng lân cận cư sĩ, có sự đồng khổ đồng lạc gặp khi vui thì vui với nhau, gặp khi khổ thì khổ với nhau, khi có việc sẽ phát sanh thì thôi cố gắng tự làm giúp cho nhau, sự suy nghĩ, sự rất nghĩ ngợi… cách suy xét nương theo dục lạc trong khi chung chạ với những cư sĩ đó. Như thế gọi là cách nhớ nghĩ với chiếu cố người khác (parānudayatāpaṭisaṃyutto).

906.

Sự suy xét liên quan với lễ lộc và danh vọng ra sao? Như là sự suy nghĩ, sự rất nghĩ ngợi… nghĩ tưởng sai nương với dục lạc, hy vọng lợi lộc và danh dự. Như thế gọi sự suy xét liên quan với lễ lộc và danh vọng (lābhasakkārasilokapaṭisaṃyuttovitakko).

907.

Sự suy xét liên quan với cách không muốn cho ai coi rẻ đó ra sao? Như là có người trong đời nầy nghĩ tưởng rằng những người khác đừng có ai coi rẻ ta bằng một nhân nào như là bằng cách sanh ra, bằng dòng giống, bằng con nhà gia tộc, bằng sự nhan sắc, bằng lối của cải, bằng cách trưởng thượng với những công việc, với nghề nghiệp, với tài năng, với học vấn, với cấp trí, sự nghĩ lo, sự rất nghĩ ngợi… sự nghĩ tưởng sai nương theo dục lạc, trong sự không muốn cho người khác coi rẻ. Như thế gọi là sự suy xét liên quan với cách không muốn cho ai coi rẻ (anavaññaṭti-paṭisaṃyuttovitakko).

Xiển minh phần hai điều

908.

* Trong những đề thứ hai mà sân đó ra sao? Như là sự giận hờn, cách giận hờn, thái độ giận hờn, sự sân độc, cách sân độc, thái độ sân độc, sự tính ác, cách tính ác, thái độ tính ác, sự buồn rầu, rất buồn rầu, sự hung dữ, miệng ác, cách không vừa hợp của tâm. Như thế gọi là sân (kodho).

* Kiết hận trong khi có ra sao? Như là trước kia căm giận để lại thời kỳ sau là kiết hận như là sự kết oán, nào là sự kết oán thù, cột oan trái, sân chất chứa dành để lưu tồn tích tựu buộc ràng chấp cứng, dành để sự sân. Nếu có thái độ như thế mới gọi là kiết hận (upanāho).

909.

* Sự vong ân đó ra sao? Như là sự quên ơn, cách quên ơn, thái độ quên ơn, sự khi dễ, cách khi dễ ơn nghĩa của người khác. Nếu có thái độ như thế mới gọi là sự vong ân (makko).

* Sự sánh mình bằng với người khác ra sao? Như là chấp so sánh cho là bằng, sự so sánh bằng, tư cách so sánh bằng, thái độ so sánh bằng với cách đem sự phần hơn của mình mà dẫn chứng là nhân của sự tranh chấp, kình hơn không lui sụt. Như thế gọi là sự so sánh bằng (palāso).

910.

* Tật đố trong khi có ra sao? Như là sự ganh ghét, cách ganh ghét, thái độ ganh ghét, đố kỵ nhau, cách đố kỵ, sự đố kỵ trong lợi lộc hay lễ lộc, hoặc sự cung kỉnh hoặc cách kỉnh trọng hay lối lễ bái và cúng dường của người khác. Như thế gọi là tật đố (issā).

* Lận sắt trong khi có ra sao? Như là sự bỏn xẻn, cách bỏn xẻn, có năm như là bỏn xẻn chỗ ở (āvāsamacchariya), bỏn xẻn dòng giống (kulamacchariya), bỏn xẻn lợi lộc (lābhamacchariya), bỏn xẻn sắc đẹp (vaṇṇamacchariya), bỏn xẻn pháp (dhammamacchariya). Sự bỏn xẻn, cách bỏn xẻn, thái độ bỏn xẻn, sự tiếc, sự xan lẫn, sự che đậy của tâm. Nếu có thái độ như thế mới gọi là lận sắt (macchariya).

911.

* Người đa ngụy kế đó ra sao? Như là có kẻ trong đời nầy hành động ác bằng thân khẩu ý rồi quyết mong mỏi ô uế, bởi có nhân cần dùng che đậy ác như là hy vọng rằng đừng ai biết kịp mưu ta, nói cho rằng đừng ai biết kịp mưu ta, nghĩ muốn rằng đừng ai biết kịp mưu ta, cố gắng bằng thân đừng làm cho người biết kịp mưu ta; sự ngụy kế, thành người nguỵ kế, làm cho mê mờ sự xảo trá, sự che đậy, sự lách tránh, sự che ngăn, sự che khuất, cách che đậy không bày ra, không làm cho rõ rệt sự che kín mít, cách làm xấu xa. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là người đa ngụy kế (māyā).

* Khoe khoang trong khi có ra sao? Như là có người trong đời nầy là kẻ khoe khoang, người rất khoe khoang, cách khoe khoang, sự khoe khoang, thái độ khoe khoang, sự kiên ngạnh, cách kiên ngạnh, cách nói xéo thành khe, sự nói lách thành khe của người nói đó. Như thế gọi là sự khoe khoang (sātheyya).

912.

* Vô minh đó ra sao? Như là sự không biết, không thấy… vô minh như cây chốt, si là vô minh. Như thế gọi là vô minh.

* Hữu ái đó ra sao? Như là sự vừa lòng trong đời sống, ưa thích trong đời sống, hớn hở trong đời sống, sự mong mỏi trong đời sống, sự dính dấp trong đời sống, sự bực bội trong đời sống, sự ẩn núp trong hữu (bhāva), sự vùi lấp trong hậu hữu. Như thế gọi là hữu ái.

913.

* Hữu kiến đó ra sao? Như là sự nhận thấy rằng ta và đời sẽ có như thế là hữu kiến hay nhận thấy bằng cách thiên kiến… cách chấp cứng theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là hữu kiến (bhāvadiṭṭhi).

* Ly hữu kiến đó ra sao? Như là nhận thấy rằng ta sẽ không có và đời sẽ không có, cũng là tà kiến, cũng là thiên kiến… cách chấp cứng theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là ly hữu kiến (vibhavadiṭṭhi).

914.

* Thường kiến đó ra sao? Như là sự nhận thấy ta trường tồn và đời cũng trường tồn, cũng là tà kiến, cũng là thường kiến, cách chấp cứng theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là thường kiến (sassatadiṭṭhi).

* Đoạn kiến trong khi có ra sao? Như là sự nhận thấy rằng ta sẽ tiêu mất và đời cũng sẽ tiêu mất. Như thế cũng gọi là tà kiến, thiên kiến… cách chấp cứng theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi).

915.

* Hữu cùn kiến đó ra sao? Như là sự nhận thấy rằng ta có chỗ tột và đời cũng có chỗ tột cũng là tà kiến, thiên kiến… cách chấp cứng theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là hữu cùn kiến (antavādiṭṭhi).

* Vô cùn kiến đó ra sao? Như là nhận thấy rằng ta không có chỗ cùn tột và đời cũng không có chỗ cùn tột. Như thế cũng là tà kiến, thiên kiến… cách chấp cứng theo dị đoan. Nếu có thái độ như thế mới gọi là vô cùn kiến (anantavādiṭṭhi).

916.

* Tùng tiền kiến đó ra sao? Như là móng chi trước kia phát sanh, nhận thức chấp trước tri kiến lý tưởng… cách chấp theo dị đoan. Như thế gọi là tùng tiền kiến (pubbantānudiṭṭhi).

* Tùng hậu kiến đó ra sao? Như là móng đến chi sau này đặng phát sanh, chấp trước với sự lý tưởng nhận thức ấy, chấp theo dị đoan. Như thế gọi là tùng hậu kiến (aparantānudiṭṭhi).

917.

* Vô tàm đó ra sao? Như là sự không hổ thẹn với cách làm ác bằng cách đáng hổ thẹn, sự không thẹn thùa đi chung với những pháp thiện. Như thế gọi là vô tàm (ahirika).

* Vô úy trong khi có ra sao? Như là sự không ghê sợ với cách làm ác đáng ghê sợ hay sự không ghê sợ đi chung với tất cả pháp bất thiện tội lỗi. Như thế gọi là vô úy.

918.

* Thành người nan giáo đó ra sao? Như là cách người khó dạy, thái độ người khó dạy, thành người khó dạy, chấp cứng can cường, ưa thích chống báng sự không cởi rộng lòng, cách không rộng lòng, không cung kỉnh, không nghe theo với khi đặng nhắc bằng cách đúng pháp lý. Như thế gọi là nan giáo (dovacassatā).

* Thành người có ác hữu đó ra sao? Như là những người chống đối, với kẻ không đức tin, không giới hạnh, ít học vấn, có sự bỏn xẻn, trí cạn cợt, mà lại cần dùng, thường sử dụng hay gặp gỡ, hằng gặp gỡ lại càng sùng tín ưa thích trọng kỉnh những người như thế đó để làm bực dẫn dắt hay giúp đỡ. Như thế gọi là ác hữu (pāpamittatā).

919.

* Không chân chính đó ra sao? Như là có sự không ngay thật, cách không chân thật, sự vạy vọ, sự cong quẹo. Như thế gọi là không chân chánh (anājjavo).

* Không nhu mì đó ra sao? Như là sự không mềm mại, sự sần sượng, cách sần sượng, sự thô thiển, cứng cỏi, nghing ngang, sự chấp ngang không mềm mại. Như thế gọi là không nhu mì (amaddavo).

920.

* Không nhẫn nại đó ra sao? Như là không có sự nhịn nhục, tư cách không nhịn nhục, thái độ không nhịn nhục, sự dữ dằn, cách phách lối là tâm không tươi tốt. Như thế gọi là không nhẫn nại (akkhanti).

* Không nghiêm tịnh đó ra sao? Như là thân thô tháo, ngữ thô tháo hay thân và khẩu đều thô tháo. Như thế gọi là không nghiêm tịnh (asoracca).

Tất cả người phá giới đều gọi là người không nghiêm tịnh.

921.

* Người không cam ngôn đó ra sao? Như là người nói lời chi cũng gúc mắc, thô lỗ, bực tức đến người khác, đụng chạm đến người khác, chọc cho giận hờn, không đặng yên tịnh. Những người nói như thế đó là người nói không ngọt dịu, nói không suông sẻ, những người có thái độ ngôn ngữ thô như đã nói đó mới gọi là người không cam ngôn (asākhalya).

* Thiếu sự tiếp đãi đó ra sao? Sự tiếp đãi có 2: Một là tiếp đãi vật chất, hai là tiếp đãi pháp, mà có người trong đời nầy không có làm sự tiếp đãi bằng vật chất hoặc bằng pháp. Như thế gọi là thiếu sự tiếp đãi (appaṭisanthāro).

922.

* Người không thu thúc lục (môn) quyền đó ra sao?

- Như là có người trong đời nầy mắt đã thấy sắc phát sanh chấp tướng, chấp theo phụ thuộc cho nên tất cả tội ác nào là tham, sân che trùm người ấy, nên mới thành người không thu thúc nhãn quyền. Do không thu thúc nhãn quyền làm nhân mới không tiến hành cho đặng thu thúc nhãn quyền đó vì không gìn giữ nhãn quyền nên không thành tựu sự thu thúc nhãn quyền.

- Nhĩ đã nghe tiếng… mũi đã hửi hơi… lưỡi đã nếm vị… thân đã đụng chạm… tâm đã biết cảnh pháp mới thành người chấp tướng phiêu phưởng cho đến những tội ác như là tham, sân nó che trùm người ấy mới không đặng thu thúc lục (môn) quyền. Do nhân không thu thúc quyền nào mới không tiến hành cho đặng thu thúc quyền khác, không gìn giữ quyền ấy, chẳng thành tựu trong sự thu thúc các (môn) quyền. Vì cách không chiếu cố, sự không chiếu cố, không gìn giữ, không thu thúc những quyền đó nên mới gọi là người không thu thúc lục (môn) quyền (indriyesu aguttadvātatā).

* Người bất tri độ thực đó ra sao? Như là có người trong đời nầy không khéo suy xét nên cho rằng ăn đây để chơi, để say mê, để cho nhan sắc tốt đẹp, để cho mập mạp mà không biết tri túc, không biết vừa chừng, không khéo suy xét trong khi ăn nên mới gọi là người bất tri độ thực (bhojane amattaññutā).

923.

* Người không có chánh niệm đó ra sao? Như là người không hay nhớ, nhớ theo không đặng, nhớ lại không đặng, sự không nhớ, cách không nhớ, thái độ không nhớ, thiếu sự nhớ đặng nên hay quên. Như thế là người không có chánh niệm (muṭṭhasacca).

* Người thiếu sự lương tri đó ra sao? Như là thiếu sự hiểu, thiếu sự thấy… vô minh như cây chốt (gài), si chính là vô minh. Như thế gọi là người không có sự lương tri (asampajañña).

924.

* Người giới điêu tàn ra sao?

- Như là thân phá giới, khẩu phá giới hay cả thân và khẩu phá giới. Như thế gọi là giới điêu tàn (sīlavipatti).

- Sự điêu tàn của tất cả giới cũng gọi là giới điêu tàn.

* Tri kiến điêu tàn đó ra sao?

- Như là sự nhận thấy rằng bố thí cho người không có quả phúc. Cúng dường cũng không có quả phước… Sa-môn hoặc Bà-la-môn cũng không có ai tu hành chơn chánh đúng đắn đặng biết rõ đời nầy và đời khác tự đặng trí cao siêu rồi tuyên bố cho những người khác biết trong đời nầy đều không có sự nhận thấy. Như thế cũng là tà kiến… thiên kiến, cách chấp theo lối dị đoan. Nếu có thái độ như thế gọi là tri kiến điêu tàn (diṭṭhivipatti).

- Sự điêu tàn của kiến thức và tất cả tà kiến cũng gọi là tri kiến điêu tàn.

925.

Nội triền đó ra sao? Như là ngũ triền thấp (pañcorambhāgiyāmi saññohanāni) sắp thành nội triền (ajjhatta saññojana). Ngũ triền cao (pañcuddhabhāgiyāni saññojanāni) sắp thành ngoại triền (bahiddhā saññojana).

Xiển minh phần ba điều

926.

Trong những phần ba điều mà tam bất thiện căn ra sao? Tức là tham, sân và si.

- Tam bất thiện căn mà tham ra sao? Như là sự dục vọng, cách rất dục vọng, cách trôi theo cảnh, sự vui thích, cách vui vẻ, sự dục vọng bằng mãnh lực vui vẻ, sự rất dục vọng của tâm, sự muốn, sự vùi lấp, sự mê mờ, sự thương, cách yêu mến, hằng bận bịu, vẫn chìm đắm, lẽ thường của người lôi cuốn, lẽ thường của người gạt gẫm, dĩ nhiên là người làm cho chúng sanh sanh ra, dĩ nhiên là người làm cho chúng sanh đầy đủ, dĩ nhiên ràng buộc, dĩ nhiên như chài lưới, vẫn đượm nhuần tâm, càng đượm nhuần, tợ nhợ dây, vẫn phúng ra, cũng là người gom lại, vẫn thành bạn tâm nguyên, dĩ nhiên người dẫn đường đến hữu (bhāva), há như rừng như rú, sự liên quan, sự dính líu, sự bận bịu, sự dục vọng, cách dục vọng, thái độ dục vọng, mong mỏi sắc, mong mỏi thinh, mong mỏi khí, mong mỏi vị, mong mỏi xúc, mong mỏi lợi lộc, mong mỏi của cải, mong mỏi con cái, ước mong trường thọ, thật người nói nhỏ, phụ nhỉ luôn, rất nói nhỏ, cách phụ nhỉ, sự nói nhỏ, thái độ phụ nhỉ, cách tham lam, thái độ tham lam, vẫn thành nhân mê mờ, sự thích trong những cảnh tốt, hy vọng trong cơ sở không đáng, sự tham quá chừng, cách nhiễm, sự nhiễm, sự hy vọng, quá hy vọng, tâm hoan lạc với những nhục dục, hữu dục, ly hữu dục, dục Sắc giới với những dục ái, hữu ái, ly hữu ái, ái trong Dục giới, ái trong Sắc giới, ái trong Vô sắc giới, ái lối tiêu diệt (tức là ái sanh chung với đoạn kiến), sắc ái, thinh ái, khí ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Hay là bộc, phối, phược, thủ, quái niệm, cái, máy che ngăn, đồ buộc trói, cận phiền não, tùy miên, xảo quyệt, ái như sợi mây, sự mong mỏi đủ thứ vật chất là gốc của khổ, nhân của khổ, nên sanh của khổ, chuồng của Ma vương, lưỡi câu của Ma vương, nền tảng Ma vương, ái như sông rạch, ái như chày lưới, ái như dây buộc trói, ái tợ biển, tham là căn bất thiện, cũng gọi tham ác. Như thế gọi là tham.

- Sân trong khi có ra sao?

- Như là sự sát hại phát sanh do nghĩ rằng: Người ấy đã làm cho ta suy sụp; hay sự sát hại phát sanh do suy nghĩ rằng người ấy đang làm cho ta suy đồi; hay sự cừu oán do nghĩ rằng người ấy sẽ làm cho ta hư hại hay sự thù oán phát sanh do nghĩ rằng người ấy đã làm hư hại người thương mến của ta; sự thù oán phát sanh do nghĩ rằng người ấy đang làm hư hại người của ta thương mến; hay sự thù oán phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm hư hại người mà ta thương mến; hay thù oán phát sanh do người ấy nghĩ rằng người ấy đã làm tiến hóa người mà ta ghét; hay thù oán phát sanh do nghĩ rằng người ấy đang giúp cho kẻ thù ta tiến hóa; hay thù oán phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm cho kẻ thù của ta thêm tiến hóa; hay là sự thù oán phát sanh trong nền tảng dùng nhân thù hiềm của tâm.

- Sự náo động, cách náo động, sự buồn bã, sự bực tức, cách tức giận, thái độ tức giận, đa tức giận, sự kín ác, mong tưởng ác, cách móng tưởng ác, sự sân độc của tâm, sự tính ác trong tâm, cách sân ra ngoài, thái độ sân, tư cách sân, sự tính ác độc, cách tính ác độc, thái độ tính ác độc, sự hung dữ, cách hung dữ, thái độ hung dữ, sự buồn, cách buồn, thái độ buồn, miệng ác xấu, tâm không hoan hỷ. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là sân.

- Si trong khi có ra sao? Như là sự không biết khổ, không biết khổ diệt, không biết đường lối tiến hành khổ diệt, không biết phần quá khứ, không biết phần vị lai, không biết cả phần quá khức và vị lai, không biết trong pháp mà làm duyên cho nhau và nương với nhau sanh ra, bất kiến, bất tri, không biết cái đáng biết, không biết theo chân thật, không thấu suốt, không duy trì theo cách đúng đắn, không quyết theo cách chu đáo, không nghiên cứu, không thẩm xét, không làm cho minh hiển, sự trí cạn, cách suy không biết rõ sự mê mờ, cách mê man, sự lẫn, cũng gọi vô minh, vô minh bộc, vô minh phối, vô minh tùy miên, vô minh xảo quyệt, chính là vô minh, si là căn bất thiện. Nếu có trạng thái như thế gọi là si.

Những như thế gọi là tam bất thiện căn.

927.

Tam bất thiện tầm đó ra sao? Như là dục tầm, sân độc tầm và thương hại tầm.

- Trong ba thứ tầm ấy mà dục tầm ra sao? Như là sự nghĩ ngợi, cách rất nghĩ ngợi… sự tà tưởng hay tưởng liên hệ với dục. Như thế gọi là dục tầm (kamavitakko).

- Sân độc tầm đó ra sao? Như là sự nghĩ ngợi, sự rất nghĩ ngợi, sự nghĩ ngợi sai và suy xét theo lối thù sân độc. Như thế gọi là sân độc tầm (byāpādavitakko).

- Thương hại tầm trong khi có ra sao? Như là sự suy xét, cách quá suy xét… sự suy nghĩ lầm liên quan với cách ép uổng. Như thế gọi là thương hại tầm (vihimsāvitakko).

Những như thế gọi là tam ác tầm (tayo akusalavitakkā).

928.

Tam bất thiện tưởng đó ra sao?Như là dục tưởng, sân độc tưởng và thương hại tưởng.

- Trong ba tưởng ấy mà dục tưởng đó ra sao? Như là sự nhớ, cách nhớ, thái độ nhớ liên quan với dục. Thế gọi là dục tưởng (kāmasañña).

- Sân độc tưởng đó ra sao? Như là cách nhớ, sự nhớ, thái độ nhớ liên quan với sân độc. Như thế gọi là sân độc tưởng (byāpadasaññā).

- Thương hại tưởng đó ra sao? Như là sự nhớ, cách nhớ, thái độ nhớ liên quan với lối ép uổng. Như thế gọi là thương hại tưởng (vihimsāsaññā).

Những thế gọi là tam bất thiện tưởng.

929.

Tam bất thiện giới đó ra sao? Như là dục giới, sân độc giới, thương hại giới.

- Trong tam bất thiện giới (dhātu) đó mà dục giới ra sao? Như là dục tầm sắp thành dục giới (kāmadhātu), sân độc tầm sắp thành sân độc giới (byāpādadhātu) và thương hại tầm sắp thành thương hại giới (vihimsādhātu).

- Trong tam tầm ấy mà dục tầm đó ra sao? Như là sự nghĩ ngợi, sự rất nghĩ ngợi,… nghĩ ngợi sai ngoa liên quan với dục. Như thế gọi là dục tầm (kāmavitakko).

- Sân độc tầm trong khi có ra sao? Như là sự nghĩ ngợi, sự rất nghĩ ngợi,… nghĩ ngợi sai chạy liên hệ với sự sân độc. Như thế gọi là sân độc tầm (byāpādavitakko).

- Thương hại tầm trong khi có ra sao? Như là sự nghĩ ngợi, sự rất nghĩ ngợi, cách nghĩ ngợi sai chạy liên hệ với sự ép uổng. Như thế gọi là thương hại tầm (vihimsāvitakko).

Những đó gọi là bất thiện giới (akusaladhātu).

930.

Tam ác đó ra sao? Như là thân ác, khẩu ác và ý ác.

- Trong tam ác ấy mà thân ác đó ra sao? Như là sự sát sanh, sự trộm cướp, sự tà dâm. Như thế gọi là thân ác (kāyaduccarita).

- Khẩu ác trong khi có ra sao? Như là vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu (vacīduccarita).

- Ý ác trong khi có ra sao? Như là tham ác, sân độc và tà kiến ác. Như thế gọi là ý ác (nanoduccarita).

- Thân ác trong khi có ra sao? Như là thân nghiệp phần bất thiện gọi là thân ác. Khẩu nghiệp phần bất thiện gọi là khẩu ác. Ý nghiệp phần bất thiện gọi là ý ác.

- Trong tam ác ấy mà thân nghiệp phía bất thiện ra sao? Thân tư tưởng phía bất thiện gọi là thân nghiệp phía bất thiện. Khẩu theo tư tưởng phía bất thiện gọi là khẩu nghiệp phía bất thiện. Ý theo tư tưởng phía bất thiện gọi là ý nghiệp phía bất thiện.

Những thế gọi là tam bất thiện.

931.

Tam lậu trong khi có ra sao? Như là dục lậu, hữu lậu và tà kiến lậu.

- Trong ba lậu ấy mà dục lậu ra sao? Như là sự vừa lòng trong dục… sự mê mẩn trong dục. Như thế gọi là dục lậu (kāmāsava).

- Hữu lậu trong khi có ra sao? Như là sự vừa lòng trong hữu (bhāva), sự mê mẩn trong hữu. Như thế gọi là hữu lậu (bhavāsava).

- Vô minh lậu đó ra sao? Như là sự không biết khổ… vô minh như cây chốt (gài), si là căn bất thiện. Như thế gọi là vô minh lậu (avijjāsava).

Những thế gọi là tam lậu.

932.

Tam triền đó ra sao? Như là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.

- Trong ba triền ấy mà thân kiến đó ra sao? Như là phàm phu trong đời nầy thiếu học vấn không gặp Thánh nhân, không rành trong pháp Thánh nhân, không đặng thụ huấn theo pháp của Thánh nhân. Không gặp trí thức, không rành trong pháp của trí thức, không đặng thụ huấn trong pháp của trí thức, nên vẫn thấy sắc là ta hay thấy ta có sắc. Hoặc thấy sắc trong ta, hoặc thấy ta trong sắc. Vẫn thấy thọ là ta… vẫn thấy tưởng là ta… vẫn thấy hành là ta… vẫn thấy thức là ta hay là thấy ta có thức, hoặc thấy thức trong ta, hoặc thấy ta trong thức. Nhận thấy theo thiên kiến… cách chấp theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là thân kiến (sakkāyadiṭṭhi).

- Hoài nghi trong khi có ra sao? Như là phàm phu do dự, nghi nan trong Phật giáo; do dự hoài nghi trong Pháp bảo; do dự hoài nghi trong Tăng bảo; do dự hoài nghi trong điều học; do dự hoài nghi trong phần quá khứ; do dự hoài nghi trong phần vị lai; do dự hoài nghi trong phần quá khứ vị lai; do dự hoài nghi trong pháp duyên khởi nương trợ nhau phát sanh. Cách do dự, sự do dự, thái độ do dự… cách sượng sần của tâm, sự tâm dùng dằng. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là hoài nghi (vicikicchā).

- Giới cấm thủ trong khi có ra sao? Như là Sa-môn, Bà-la-môn thuộc ngoại giáo mà nhận thấy hiện tượng như thế nầy: Giới thanh tịnh, tập quán thanh tịnh, giới cấm thủ thanh tịnh. Đó là thiên kiến… cách chấp theo dị đoan. Như thế ấy mới gọi là giới cấm thủ (sīlab-bataparāmāsa).

Những thế gọi là tam triền.

933.

Tam ái trong khi có ra sao? Như là dục ái, hữu ái, ly hữu ái.

- Trong tam ái ấy mà hữu ái đó ra sao? Như là sự mong mỏi, sự rất mong mỏi… sự mong mỏi quá nặng của tâm đồng sanh với hữu kiến. Như thế gọi là hữu ái (bhavataṅhā).

- Ly hữu ái đó ra sao? Như là mong mỏi, sự rất mong mỏi… sự quá mong mỏi của tâm mà đồng sanh với đoạn kiến. Như thế gọi là ly hữu ái (vibhavataṅhā). Còn những ái ngoài ra gọi là dục ái (kāmataṅhā).

- Trong ba ái ấy mà dục ái ra sao? Như là sự mong mỏi, sự rất mong mỏi… sự mong mỏi nặng nề của tâm mà hiệp với Dục giới (kāmadhātu). Như thế gọi là dục ái. Nếu sự hy vọng, sự rất hy vọng của tâm… mà hiệp với Sắc giới (rupādhātu) và Vô sắc giới (arūpadhātu) thì gọi là hữu ái. Còn sự hy vọng, sự rất hy vọng… hay sự hy vọng nặng nề của tâm mà hiệp với đoạn kiến thì mới gọi là ly hữu ái.

Những thế đó gọi là tam ái.

934.

Tam ái (nữa) đó ra sao? Như là dục (giới) ái, sắc (giới) ái, vô sắc (giới) ái.

- Trong tam ái ấy mà dục ái đó ra sao? Như là sự vọng dục, sự rất vọng dục, cách quá mong mỏi của tâm hiệp với Dục giới (kāmadhātu) nên mới gọi là dục ái (kāmataṅhā).

- Sắc (giới) ái đó ra sao? Như là sự hy vọng, sự rất hy vọng… hay sự quá hy vọng của tâm mà hiệp với Sắc giới (rūpadhātu). Như thế gọi là sắc (giới) ái (rūpataṅhā).

- Vô sắc (giới) ái đó ra sao? Như là sự mong mỏi, sự rất mong mỏi… cách quá mong mỏi của tâm hiệp với Vô sắc giới (arūpadhātu). Như thế mới gọi là vô sắc (giới) ái (arūpataṅhā).

Những như thế đó mới gọi là tam ái.

935.

Tam ái (khác nữa) đó ra sao? Như là sắc ái (rūpataṅhā), vô sắc ái (arūpataṅhā) và diệt ái (nirodhataṅhā).

- Trong tam ái ấy mà sắc ái đó ra sao? Như là sự mong mỏi, rất mong mỏi… cách rất mong mỏi của tâm mà hiệp với Sắc giới (rūpadhātu). Như thế mới gọi là sắc ái (rūpataṅhā).

- Vô sắc ái trong khi có ra sao? Như là sự hy vọng, sự rất hy vọng… hy vọng của tâm mà hiệp với Vô sắc giới (arūpadhātu). Như thế gọi là vô sắc ái (arūpataṅhā).

- Diệt ái trong khi có ra sao? Như là sự hy vọng hay rất hy vọng… cách quá mong mỏi của tâm mà đồng sanh với đoạn kiến. Như thế gọi là diệt ái (nirodhataṅhā).

Những thế đó mới gọi là tam ái.

936.

Tam tầm mích (tìm kiếm) đó ra sao? Như là dục tầm mích (kāmesanā), hữu tầm mích (bhavesanā) và phạm hạnh tầm mích (brahmacariyesanā).

- Trong tam tầm mích đó mà dục tầm mích ra sao? Như là sự vừa lòng trong dục… cách mê mẩn trong dục. Như thế gọi là dục tầm mích (kāmesanā).

- Hữu tầm mích đó ra sao? Như là sự vừa lòng trong hữu (bhāva)… sự mê mẩn trong hữu. Như thế gọi là hữu tầm mích (bhavesanā).

- Phạm hạnh tầm mích đó ra sao? Như là sự thấy rằng đời trường tồn, hoặc nhận thấy đời không trường tồn… chúng sanh sau khi chết sẽ sanh nữa cũng chẳng phải, sẽ không sanh nữa cũng chẳng phải, kiến thức như thế đó là thiên kiến… cách chấp theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là phạm hạnh tầm mích (brahmacariyesanā).

- Những trong tam tầm mích ấy mà dục tầm mích ra sao? Như là sự mong mỏi trong dục bằng thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp mà thuộc bất thiện trụ trong một cơ sở với cách mong mỏi dục. Như thế gọi là dục tầm mích (tìm kiếm) (kāmesanā).

- Hữu tầm mích (tìm kiếm) đó ra sao? Như là sự mong mỏi trong hữu (bhāva) bằng thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp thuộc bất thiện đồng trụ một sở với sự mong mỏi trong hữu (bhāva) đó. Như thế gọi là hữu tầm mích (bhavesanā).

Còn sự nhận thấy trong đời có chỗ cùn tột bằng thân nghiệp, khẩu nghiệp hay ý nghiệp thuộc bất thiện đồng trụ chung một sở với sự nhận thấy trong đời có chỗ cùn tột đó. Như thế gọi là phạm hạnh trảo (brahmacariyesanā).

Những như thế đó gọi là tam tầm mích (tìm kiếm) (esana).

937.

Tam tỷ (so sánh) đó ra sao? Như là sự so sánh ta hơn người khác, so sánh ta bằng người khác, so sánh ta thua người khác. Những thế gọi là tam tỷ (vidhā).

938.

Tam nạn đó ra sao? Như là sự sanh nạn (jātibhaya), lão nạn (jarābhaya) và tử nạn (maraṇabhaya).

- Trong ba nạn ấy mà sanh nạn ra sao? Như là cách sợ, sự khiếp, sự úy, sự sợ rởn óc và sự sợ sệt của tâm vì bởi sự sanh. Như thế gọi là sanh nạn (jātibhaya).

- Lão nạn đó ra sao? Như là sự sợ khiếp, sự úy, sự sợ rởn óc, sự sợ sệt của tâm bởi vì già. Như thế gọi là lão nạn (jarābhaya).

- Tử nạn đó ra sao? Như là sự sợ, sự khiếp, sự úy, sự sợ rởn óc, sự sợ sệt của tâm vì do sự chết. Như thế gọi là tử nạn (maraṇabhaya).

Những thế đó gọi là tam nạn (bhaya).

939.

Tam thời hoài nghi đó ra sao? Như người vẫn do dự hoài nghi không quyết tâm tín ngưỡng dịp thuở quá khứ; vẫn do dự hoài nghi không quyết tâm tín ngưỡng dịp vị lai; vẫn do dự hoài nghi không quyết tâm tín ngưỡng dịp khi hiện tại. Những thế đó gọi là tam thời hoài nghi (tama).

940.

Tam lý thuyết đó ra sao?

- Như là Sa-môn hoặc Bà-la-môn trong đời nầy cũng có vị là bực công nhận ý nghĩa như vầy: Chúng ta đây dù hưởng khổ, hoặc vui hay phi khổ phi vui dù trong một cách nào những tất cả hưởng khổ, vui hay phi khổ phi vui do trước đã làm nhân dành để. Hay là cũng có Sa-môn hoặc Bà-la-môn trong đời nầy thành bực có ý nhận thấy rằng: Chúng ta đây dù hưởng vui hoặc khổ hay phi khổ phi lạc dù trong một cách nào thì tất cả những sự hưởng khổ lạc hay phi khổ phi lạc đó cũng do nhân là người chủ trương tạo ra.

- Hay là Sa-môn hoặc Bà-la-môn trong đời nầy cũng có bực nhận thức theo ý nghĩa như vầy: Chúng ta đây dù hưởng khổ hoặc vui hay hưởng phi vui phi khổ dù trong cách nào thì tất cả những sự hưởng khổ, vui hay phi khổ phi vui đó do cách không có nhân chi trợ giúp phát sanh. Những thế gọi là tam lý thuyết (titthāyatana).

941.

Tam diệu tích đó ra sao? Ái là phiền não cơ quan bận bịu. Sân là phiền não cơ quan bận bịu. Si là phiền não cơ quan hoài niệm. Những thế gọi là tam diệu tích (kiñcanā).

942.

Tam tràng địa đó ra sao? Ái là phiền não tràng địa. Sân là phiền não tràng địa. Si là phiền não tràng địa. Những như thế gọi là tam tràng địa (aṅgana).

943.

Tam tú cấu đó ra sao? Như là ái tú cấu, sân tú cấu và si tú cấu. Những như thế gọi là tam tú cấu (mala).

944.

Tam bất bình đó ra sao? Sự bất bình tức là ái, sự bất bình tức là sân, sự bất bình tức là si. Những thế gọi là tam bất bình (visama).

945.

Tam bất bình (nữa) đó ra sao? Như là sự hành động thân không bình chỉnh, như là sự hành động khẩu không bình chỉnh, sự hành động ý không bình chỉnh. Những như thế gọi là tam bất bình (visama).

946.

Tam hỏa đó ra sao? Như là lửa ái, lửa sân và lửa si. Những như thế gọi là tam hỏa (aggī).

947.

Tam thủy sáp đó ra sao? Như là nước chát ái, nước chát sân và nước chát si. Những như thế gọi là tam thủy sáp (kasāvā).

948.

Tam thủy sáp (khác nữa) đó ra sao? Như là thân như nước chát, ngữ như nước chát, ý như nước chát. Những thế gọi là tam thủy sáp (kasāvā).

949.

* Hỷ ý kiến đó ra sao? Như là trong đời nầy có Sa-môn hoặc Bà-la-môn có ý kiến nhận thấy như vầy: Tất cả tình dục không tội lỗi rồi thọ hưởng dục lạc. Như thế gọi là hỷ ý kiến (assādadiṭṭhi).

* Ngã kiến đó ra sao? Như là phàm phu trong đời nầy là người thiếu học không gặp đặng Thánh nhân, không rành trong pháp của Thánh nhân, không đặng thụ huấn trong pháp của Thánh nhân. Không gặp trí thức, không rành trong pháp của trí thức, không đặng thụ huấn trong pháp của trí thức, cho nên nhận thấy sắc là ta hoặc nhận thấy ta có sắc hay thấy sắc trong ta, hoặc nhận thấy ta trong sắc. Cũng tự nhận thấy thọ là ta… Nhận thấy tưởng là ta… nhận thấy hành là ta… hay nhận thấy thức là ta hay nhận thấy ta có thức, hoặc nhận thấy thức trong ta hay nhận thấy ta trong thức. Nhận thấy theo thiên kiến… chấp theo lối dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là ngã kiến (attānudiṭṭhi).

* Tà kiến đó ra sao? Như là sự nhận thấy bố thí cho người rồi không có quả phúc. Cúng dường cho người rồi cũng không có quả phúc… Sa-môn hay Bà-la-môn tự tỏ ngộ hiểu chắc thật dù đời nầy và đời sau rồi tuyên bố cho người khác biết đặng cũng không có. Sự nhận thấy theo thiên kiến… cách chấp theo lối dị đoan. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là tà kiến.

Thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), hỷ ý kiến, thường kiến, ngã kiến và đoạn kiến đều là tà kiến.

950.

* Bất hoan hỷ đó ra sao? Như là sự không hoan hỷ, cách không hoan hỷ, sự rất không hoan hỷ, cách rất không hoan hỷ, sự tư mộ, sự tránh trác trong tịnh cư hoặc một pháp chí thiện nào. Như thế gọi là bất hoan hỷ (arati).

* Sự ép uổng đó ra sao? Như là có người trong đời nầy hoặc áp bức chúng sanh bằng tay, đá, cây hoặc vũ khí. Như thế gọi là sự ép uổng (vihesā).

* Hạnh phi pháp đó ra sao? Như là thân hành động phi pháp tức là thân hành động không bình chỉnh. Khẩu nói lời phi pháp tức là ngôn ngữ không bình chỉnh. Ý nghĩ phi pháp là tâm không bình chỉnh. Như thế gọi là hạnh phi pháp.

951.

* Người nan giáo đó ra sao? Như là người khó dạy, thái độ người khó dạy, tư cách người khó dạy, chấp cứng, can cường, ưa thích tranh luận, sự không quảng đại, cách không quảng đại, sự không cung kỉnh, sự không nghe theo trong khi bị nhắc đúng theo chánh pháp. Như thế là người nan giáo (dovacassatā).

* Hữu ác hữu đó ra sao? Như là những người đối với kẻ nào mà không có đức tin, không có giới hạnh, thiếu sự học vấn, có sự bỏn xẻn, trí tuệ thô sơ mà sử dụng, thường sử dụng hay sử dụng, có gặp gỡ hay gặp gỡ sùng tín, ưa mến ủng hộ với những người đó và bận bịu nương cậy theo những người đó. Như thế gọi là hữu ác hữu (pāpamittatā).

* Tưởng dị trong khi có ra sao? Như là tưởng liên hệ với dục. Tưởng liên hệ với sân độc. Tưởng liên hệ với sự ép uổng. Như thế gọi là tưởng dị, cho đến tưởng tất cả bất thiện cũng gọi là tưởng dị (nānattasaññā).

952.

* Phóng dật trong khi có ra sao? Như là sự lao chao của tâm, sự không yên lặng của tâm, sự dao động của tâm và sự rối loạn của tâm. Như thế gọi là phóng dật (uddhaccca).

* Giải đãi đó ra sao? Như là buông thả tâm, sự rất quá buông thả tâm thân ác, khẩu ác và ý ác hay là ngũ dục; không cung kỉnh, không cố gắng để phẩm hạnh lui sụt, buông bỏ sự vừa thích, bỏ qua phận sự, không sử dụng nhiều, không làm cho tiến hóa thêm, không làm nhiều, không bền vững, chẳng thường hay phối hợp, có sự dể duôi lôi thôi đối với sự tu tiến tất cả pháp thiện. Như thế gọi là giải đãi (kosajja).

* Khinh thị đó ra sao? Như là buông thả tâm, sự rất quá buông thả tâm theo thân ác, khẩu ác và ý ác hay là ngũ dục. Không cung kỉnh, không cố gắng, phẩm hạnh lui sụt, không buông bỏ sự vừa thích, bỏ qua bổn phận, không sử dụng nhiều, không làm cho tiến hóa thêm, không làm nhiều, không bền vững, chẳng thường hay phối hợp, có sự lôi thôi, cách dể duôi, sự dể duôi, thái độ dể duôi đối với sự tu tiến tất cả pháp thiện. Nếu có trạng thái như thế gọi là khinh thị (pamādo).

953.

* Bất tri túc đó ra sao? Như là sự ham muốn, thái độ của những bực không tri túc với y bát, với ngọa cụ cùng y dược và các món phụ tùng theo đặng. Hay là đối với ngũ dục có sự mong mỏi, hy vọng dục vọng, rất dục vọng, không biết vừa chừng… sự rất mong mỏi của tâm. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là bất tri túc (asantuṭṭhitā).

* Vô lương tri đó ra sao? Như là sự không biết, không thấy… vô minh như cây chốt (gài). Si là căn bất thiện. Như thế gọi là vô lương tri (asampajaññatā).

* Đại tham đó ra sao? Như là sự ham muốn thái quá của những bực không tri túc với y, bát, với ngọa cụ cùng y dược và các món phụ tùng tùy theo đặng. Hay là đối với ngũ dục có sự mong mỏi, hy vọng, dục vọng, rất dục vọng, không biết vừa chừng… sự rất mong mỏi của tâm. Nếu có tướng trạng như thế mới gọi là đại tham (mahicchatā).

954.

* Vô tàm đó ra sao? Như là sự hổ thẹn với những cách hành động ác đáng hổ thẹn và không hổ thẹn với tất cả pháp hiệp với tội ác. Như thế gọi là vô tàm.

* Vô úy trong khi có ra sao? Như là không ghê sợ với sự hành động ác đáng ghê sợ và không ghê sợ với những pháp hiệp tội ác. Như thế gọi là vô úy.

* Khinh thị đó ra sao? Như là buông thả tâm, sự rất quá buông thả tâm theo thân ác, khẩu ác và ý ác hay là ngũ dục. Không cung kỉnh, không cố gắng, phẩm hạnh lui sụt, không buông bỏ sự vừa thích, bỏ qua bổn phận, không sử dụng nhiều, không làm cho tiến hóa thêm, không làm nhiều, không bền vững, chẳng thường hay phối hiệp, có sự lôi thôi, cách dể duôi, sự dể duôi, thái độ dể duôi đối với sự tu tiến pháp thiện. Nếu có trạng thái như thế mới gọi là khinh thị (pamādo).

955.

* Vô quảng đại đó ra sao? Như là sự không rộng rãi, cách không rộng rãi, chẳng cung kỉnh, chẳng nghe theo, sự không tin tưởng, cách không tin tưởng, thái độ không tín ngưỡng, không giới đức, không kỉnh quí. Như thế gọi là vô quảng đại (anādariya).

* Người nan giáo đó ra sao? Như là cách người khó dạy, thái độ người khó dạy, tư cách người khó dạy, chấp cứng can cường, ưa thích tranh luận sự không quảng đại, cách không quảng đại, sự không cung kỉnh, sự không nghe theo trong khi bị nhắc đúng theo chánh pháp. Như thế gọi người nan giáo (dovacassatā).

* Hữu ác hữu đó ra sao? Như là những người đối với kẻ nào mà không có đức tin, không có giới hạnh, thiếu sự học vấn, có sự bỏn xẻn, trí tuệ thô sơ mà sử dụng, thường sử dụng hay sử dụng, có gặp gỡ hay gặp gỡ sùng tín, ưa mến ủng hộ với những người đó và bận bịu nương cậy theo những người đó. Như thế gọi là hữu ác hữu (pāpamittatā).

956.

* Vô đức tin đó ra sao? Như là có người trong đời nầy không trí tuệ, không tín ngưỡng với Phật, Pháp, Tăng; cách bất tín, sự bất tín, thái độ bất tín, rất không kỉnh trọng. Nếu có tướng trạng như thế gọi là vô đức tin (assaddhiya).

* Bất thi ân đó ra sao? Do năm điều lẫn sắc như là bỏn xẻn chỗ ở, bỏn xẻn dòng giống, bỏn xẻn lợi lộc, bỏn xẻn sắc đẹp, bỏn xẻn pháp là sự lẫn sắt, cách lẫn sắt, thái độ lẫn sắt, bón rít keo kiệt, giấu giếm và không hài lòng. Nếu có tướng trạng như thế gọi là bất thi ân (avadaññtā).

* Giải đãi đó ra sao? Như là buông thả tâm, sự rất buông thả tâm theo thân ác, khẩu ác và ý ác hay là ngũ dục. Hoặc đối với sự tu tiến tất cả pháp thiện không liên lạc, không cung kỉnh, không cố gắng, hành vi lui sụt, không bỏ sự vừa thích, bỏ qua phận sự, không sử dụng nhiều, không tiến thêm, không làm nhiều, không bền vững, chẳng thường hay phối hợp, có sự dể duôi lôi thôi. Như thế gọi là giải đãi (kosajja).

957.

* Phóng dật trong khi có ra sao? Như là sự lao chao của tâm, sự không yên lặng của tâm, sự diu động của tâm và sự rối loạn của tâm. Như thế gọi là phóng dật.

* Bất thu thúc đó ra sao?

- Như là có người trong đời nầy mắt đã thấy sắc thành người chấp tướng, thành người chấp theo phụ thuộc nên tất cả pháp tội ác như là tham ác và ưu sầu trùm che người ấy nên mới không thu thúc nhãn quyền. Do nhân không thu thúc nhãn quyền mới không thực hành hầu thu thúc nhãn quyền, không gìn giữ nhãn quyền, không thành tựu cách thu thúc nhãn quyền đó.

- Dù tai đã nghe tiếng… mũi đã hửi mùi… lưỡi đã nếm vị… thân đã đụng chạm… tâm đã biết cảnh pháp thì thành người chấp tướng, thành người chấp theo phụ thuộc với tất cả pháp tội ác như là tham ác và ưu sầu nói vùi lấp người ấy. Không đặng thu thúc ý quyền do nhân không thu thúc ý quyền mới không thực hành để thu thúc ý quyền đó, không gìn giữ ý quyền đó mới không thành tựu trong sự thu thúc ý quyền. Như thế gọi là người bất thu thúc (asaṃvaro).

* Phá giới trong khi có ra sao? Như là thân phạm, khẩu phạm hay thân và khẩu đều phạm. Như thế gọi là phạm giới (dussīlya).

958.

* Sự không muốn thấy Thánh nhân đó ra sao? Đây gọi là Thánh nhân mà Thánh nhân đó ra sao? Như là Đức Phật, Thinh văn đệ tử của Đức Phật đều gọi là Thánh, mà không muốn thấy không muốn gần gũi và không muốn hội hiệp với những bực Thánh đã nói. Như thế gọi là sự không muốn thấy Thánh nhân (ariya).

* Không muốn nghe chánh pháp đó ra sao? Thế nào là chánh pháp? Như là tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ quyền, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo. Như thế gọi là chánh pháp; mà không muốn nghe, không muốn dự thính, không muốn học và không muốn nhớ những chánh pháp ấy. Như thế gọi là không muốn nghe chánh pháp.

* Người có tâm tranh đua đó ra sao? Nói tranh đua đó mà tranh đua ra sao? Như là sự tranh đua, thường tranh đua, tính tranh đua, tính tranh đua hoài, thái độ thường tính tranh đua, sự coi hèn, sự cõi rẻ, sự khinh khi, cách tìm lỗi. Như thế gọi là người có tâm tranh đua (upārambhacittatā).

959.

* Người không có chánh niệm ra sao? Như là sự nhớ không đặng, nhớ theo không đặng, nhớ lại không đặng, cách nhớ không đặng, thái độ nhớ không đặng, sự không đặng nhớ, sự lơ lãng, sự lẫn quên; như thế gọi là người không có chánh niệm (muṭṭhasacca).

* Người vô lương tri đó ra sao? Như là sự không biết, không thấy… vô minh như cây chốt (gài), si là căn bất thiện. Như thế gọi là người vô lương tri (asampajañña).

* Sự tán loạn của tâm đó ra sao? Như là sự lao chao của tâm, sự không yên tịnh của tâm, sự lay động của tâm và sự rối loạn của tâm. Như thế gọi là sự tán loạn của tâm (cetaso vikkhepo).

960.

* Tác ý bất tinh vi đó ra sao? Như là sự vật không trường tồn mà tác ý khéo cho là trường tồn. Sự vật khổ mà tác ý không khéo cho là vui. Sự vật vô ngã lại tác ý không khéo cho là hữu ngã. Sự vật bất mỹ lại tác ý không khéo cho là tốt đẹp. Hay là sự nhớ, sự thường nhớ, sự nghĩ ngợi, cách suy xét, sự tác ý của tâm sai với sự chân thật. Như thế gọi là tác ý bất tinh vi (ayoniso manasikāra).

* Cách sử dụng theo đường lối xấu đó ra sao? Như là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Như thế gọi là sử dụng theo đường lối xấu. Cách thường sử dụng, cách thuần sử dụng, cách gặp gỡ, gặp gỡ nhuần nhã, sự thích tâm, cách tâm thích hợp với đường lối xấu ấy. Những người nương theo đường lối xấu như thế đó gọi là cách sử dụng theo đường lối xấu (kummaggasevanā).

* Sự sụt sè của tâm đó ra sao? Như là sự không thích hợp của tâm, sự không vừa với công việc của tâm. Sự sụt sè, sự lui sụt, sự thối hóa, cách thối hóa, thái độ thối hóa, sự ẩn núp, cách ẩn núp, thái độ ẩn núp của tâm. Như thế gọi là sự sụt sè của tâm (cetaso līnatta).

Xiển minh phần bốn điều

961.

Trong phần bốn điều ấy, mà tứ lậu đó ra sao? Như là dục lậu, hữu lậu, tà kiến lậu và vô minh lậu.

- Trong những tứ lậu ấy, mà dục lậu đó ra sao? Như là sự vừa lòng trong dục lạc, sự chui vùi trong dục lạc. Như thế gọi là dục lậu (kāmāsava).

- Hữu lậu đó ra sao? Như là sự vừa lòng trong hữu (bhava)… sự chui vùi trong hữu… Như thế gọi là hữu lậu (bhavāsava).

- Tà kiến lậu trong khi có ra sao? Như là sự nhận thấy rằng đời trường tồn… nhận thấy chúng sanh sau khi chết sanh nữa cũng chẳng phải, không sanh nữa cũng chẳng phải, kiến thức như thế là thiên kiến… cách chấp theo dị đoan. Nếu có trạng thái như thế gọi là tà kiến lậu.

Tất cả tà kiến đều gọi là tà kiến lậu (diṭṭhāsava).

- Vô minh lậu trong khi có ra sao? Như là sự không biết trong khổ… vô minh như cây chốt (gài), si là căn bất thiện. Như thế gọi là vô minh lậu.

Những kể trên gọi là tứ lậu.

962.

Tứ phược đó ra sao? Như là tham ác thân phược, sân độc thân phược, giới cấm thủ thân phược và ngã kiến thân phược.

- Trong bốn phược đó, mà tham ác thân phược ra sao? Như là sự mong mỏi, rất mong mỏi… sự chăm chú sẽ lấy của cải người khác, tham là căn bất thiện. Những thế gọi là tham ác thân phược (abhijjākāyagantha).

- Sân độc thân phược đó ra sao? Như là sự cừu oán phát sanh do nghĩ rằng người nầy đã làm cho ta hư hại… sự hung dữ, sự ác độc, sự không hoan hỷ của tâm. Như thế gọi là sân độc thân phược (byāpādakāyagantha).

- Giới cấm thủ thân phược đó ra sao? Như là Sa-môn, Bà-la-môn ngoại giáo có kiến thức như vầy sự trong sạch nếu đặng là nhờ giới, nhờ hành tức là thiên kiến chỉ nhận thấy với hành như thế… cách chấp theo dị đoan. Nếu có những tướng trạng như thế mới gọi là giới cấm thủ thân phược (sīlabataparāmāsa kāyagantha).

- Ngã kiến thân phược đó ra sao? Như là sự nhận thấy đời trường tồn như thế là sự thật, còn ngoài ra là không thật. Sự nhận thấy đời không trường tồn như thế là thật, ngoài ra không thật… sự nhận thấy rằng chúng sanh sau khi chết sanh nữa cũng chẳng phải, không sanh nữa cũng chẳng phải chính đó là chắc cứng, còn cách khác không chắc thật. Sự nhận thấy theo thường kiến… cách chấp bằng lối dị đoan. Nếu có trạng thái như thế đó mới gọi là ngã kiến thân phược (idaṃsaccābhinivesa kāyagantha).

Trừ ra giới cấm thủ thân phược, còn tà kiến tất cả cũng đều gọi là ngã kiến thân phược.

Những như thế gọi là tứ phược (gantha).

963.

Tứ bộc… tứ phối… tứ thủ đó ra sao? Như là dục thủ, tà kiến thủ, giới cấm thủ và ngã chấp thủ.

- Trong bốn thủ ấy, mà dục thủ đó ra sao? Như là sự vừa lòng trong dục… sự vùi mài trong dục. Như thế gọi là dục thủ (kāmupādāna).

- Kiến thủ đó ra sao? Như là sự nhận thấy rằng bố thí rồi không có quả phước. Cách cúng dường tam bảo cũng không có quả phước… còn Sa-môn, Bà-la-môn mà bực chuyên tu hành đúng tự mình đắc chứng tỏ ngộ đời nầy và đời khác rồi tuyên bố cho người khác biết, cả thế giới đều không có. Sự nhận thấy theo thiên kiến… cách chấp bằng lối dị đoan. Nếu có những trạng thái như thế mới gọi là kiến thủ (diṭṭhupādāna).

Trừ ra giới cấm thủ và ngã chấp thủ rồi, còn tất cả tà kiến đều gọi là tà kiến thủ.

- Giới cấm thủ đó ra sao? Như là Sa-môn, Bà-la-môn ngoại giáo có sự nhận thấy rằng cách trong sạch có thể đặng là do giới, do hành. Nhận thấy chỉ có giới hành đó là thiên kiến… cách chấp theo lối dị đoan. Nếu có những tướng trạng như thế gọi là giới cấm thủ.

- Ngã chấp thủ đó ra sao? Như là phàm phu trong đời nầy có người thiếu học vấn, không đặng thấy Thánh nhân, không rành trong pháp của Thánh nhân, không đặng thụ huấn trong pháp của Thánh nhân. Không gặp trí thức, không rành trong pháp của trí thức, không đặng thụ huấn trong pháp của trí thức mới nhận thấy sắc là ta hay ta có sắc, hoặc thấy sắc trong ta hay là nhận thấy ta trong sắc. Vẫn nhận thấy thọ là ta… nhận thấy tưởng là ta… nhận thấy hành là ta… nhận thấy thức là ta… hay nhận thấy ta có thức, hoặc nhận thấy thức trong ta hay là nhận thấy ta trong thức. Sự nhận thấy thiên kiến… cách chấp theo dị đoan. Nếu có những tướng trạng như thế mới gọi là ngã chấp thủ (attavādupādāna).

Những cách như thế gọi là tứ thủ (upādāna).

964.

Tứ ái thủ đó ra sao? Như là ái khi sẽ phát sanh ra cho Phíc-khú hoặc sanh nguyên do y. Ái khi sẽ phát sanh cho Phíc-khú hoặc do bát. Ái khi sẽ phát sanh cho Phíc-khú hoặc do nhân nơi chỗ nương ở. Ái khi sẽ phát sanh cho Phíc-khú hoặc nhân do tứ vật dụng như đã nói mà tinh vi và rất tốt đẹp. Những thế gọi là tứ ái thủ (taṅhuppādā).

965.

Tứ thiên vị đó ra sao? Như là thiên vị vì thương, thiên vị vì ghét, thiên vị vì ngu lỗ, thiên vị vì sợ. Những tướng trạng thiên vị dù thiên vị vì ưa hay thiên vị trong phe đảng diêu chuyển như nước chảy. Nếu có những tướng trạng như thế đều thuộc về tứ thiên vị (Agatigama).

966.

Tứ hội ngộ đó ra sao? Như là sự hiểu lầm do tưởng, sự hiểu lầm do tâm, sự hiểu lầm do tà kiến, sự vật vô thường cho là trường tồn, hiểu lầm do tưởng, hiểu lầm do tâm, hiểu lầm do tà kiến, sự vật khổ cho là lạc. Sự hiểu lầm do tưởng, sự hiểu lầm do mãnh lực của tâm, sự hiểu lầm do mãnh lực tà kiến, sự vật vô ngã cho là hữu ngã. Hiểu lầm do tưởng, hiểu lầm do tâm, hiểu lầm do tà kiến, vật bất mỹ cho là tốt đẹp. Những như thế gọi là tứ hội ngộ (vipariyesā).

967.

Tứ phi đặc từ đó ra sao? Như là khi không thấy nói là thấy. Không nghe nói là nghe. Không biết nói là biết. Không hiểu nói là hiểu rõ. Những thế gọi là tứ phi đặc từ (anariyavohārā).

968.

Tứ phi đặc từ (khác nữa) đó ra sao? Khi thấy nói không thấy. Khi nghe nói không nghe. Khi biết nói không biết. Khi hiểu nói không hiểu. Như thế gọi là tứ phi đặc từ (anariyavohārā).

969.

Tứ ác đó ra sao? Như là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ. Những thế gọi là tứ ác (duccarita).

970.

Tứ ác (khác nữa) đó ra sao?

Như là vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ. Những thế gọi là tứ ác (duccarita).

971.

Tứ nạn đó ra sao? Như là sanh nạn, lão nạn, bệnh nạn và tử nạn. Những thế gọi là tứ nạn (bhaya).

972.

Tứ nạn (khác nữa) đó ra sao? Như là vương nạn, cướp nạn, thủy nạn và hỏa nạn. Những thế gọi là tứ nạn (bhaya).

973.

Tứ nạn (khác nữa) đó ra sao? Nạn phát sanh từ sóng nước, nạn phát sanh từ (con) sấu, nạn phát sanh từ tham nguyên (chỗ sâu), nạn phát sanh từ cá dữ. Những thế gọi là tứ nạn (bhaya).

974.

Tứ nạn (khác nữa) đó ra sao? Nạn phát sanh từ tự chê trách, nạn phát sanh từ người khác chê trách, nạn phát sanh từ roi vọt, nạn phát sanh từ khổ thú. Những thế gọi là tứ nạn (bhaya).

975.

Tứ kiến đó ra sao? Như là kiến thức phát sanh bằng lối nhứt định chắc chắn rằng khổ lạc đều tự ta. Kiến thức phát sanh nhận chắc rằng khổ lạc do người khác làm cho. Kiến thức phát sanh bằng lối nhận chắc rằng khổ lạc do cả ta và người khác làm ra. Kiến thức phát sanh nhận chắc rằng khổ lạc không phải ta, không phải người khác làm cho mà chỉ tự nhiên phát sanh. Những thế gọi là tứ kiến (diṭṭhi).

Xiển minh phần năm điều

976.

Trong những phần năm điều, mà ngũ triền thô ra sao? Ngũ triền phần hạ như là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục dục, sân độc. Những thế gọi là ngũ triền thô (orambhāgiyasaṃyohana).

977.

Ngũ triền tế đó ra sao? Ngũ triền phần thượng như là sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng dật, vô minh. Những thế gọi là ngũ triền tế (uddhambhāgiyasaṃyojana).

978.

Ngũ lẫn sắc đó ra sao? Ngũ lẫn sắc như là bỏn xẻn chỗ ở, bỏn xẻn dòng giống, bỏn xẻn lợi lộc, bỏn xẻn sắc đẹp, bỏn xẻn Giáo pháp. Những thế gọi là ngũ lẫn sắc (macchariya).

979.

Ngũ quan hệ đó ra sao? Ngũ quan hệ như là ái quan hệ, sân quan hệ, si quan hệ, ngã mạn quan hệ, tà kiến quan hệ. Những thế gọi là ngũ quan hệ (saṅga).

980.

Ngũ tiển đó ra sao? Ngũ tiển như là ái tiển, sân tiển, si tiển, ngã mạn tiển, tà kiến tiển. Những thế gọi là ngũ tiển (sallā).

981.

Ngũ tâm thối hóa đó ra sao? Ngũ tâm thối hóa như là người vẫn sai kỵ, nghi ngờ, không quyết tin, không tín ngưỡng với Đức Phật; vẫn sai kỵ nghi ngờ không quyết tin, không tín ngưỡng với Giáo pháp. Vẫn sai kỵ nghi ngờ, không quyết tin, không tín ngưỡng với Tăng. Vẫn sai kỵ nghi ngờ, không quyết tín, không tín ngưỡng với điều học. Hay là đối với các bạn phạm hạnh hay hờn giận, không ưa thích, có tâm đã kích, cường ngạnh, cố chấp. Những thế gọi là ngũ tâm thối hóa (cetokhilā).

982.

Ngũ tâm nhiễm đắm đó ra sao? Ngũ tâm nhiễm đắm như là: 1) những người chưa xa lìa sự vọng dục, chưa xa lìa sự ưa thích, chưa xa lìa sự thương yêu, chưa xa lìa sự khao khát, chưa xa lìa sự nóng nảy, chưa xa lìa sự ham muốn trong dục; 2) hay những người chưa xa lìa sự vọng dục, chưa xa lìa sự ưa thích, chưa xa lìa sự thương yêu, chưa xa lìa sự khao khát, chưa xa lìa sự nóng nảy, thì cũng chưa xa lìa tham trong thân; 3) những người chưa xa lìa sự vọng dục, chưa xa lìa sự vừa lòng, chưa xa lìa sự thương mến, chưa xa lìa sự khao khát, chưa xa lìa sự nóng nảy, cũng chưa xa lìa sự tham sắc; 4) độ vật thực đã no nê vừa ý rồi tìm sự an lạc bằng cách nằm, tìm sự vui bằng cách phiên chuyển qua lại và tìm sự an vui trong cách ngủ; 5) hay là hy vọng một vị Chư thiên nào rồi tu phạm hạnh với tâm tưởng rằng ta sẽ thành Chư thiên bực đại thế lực, hoặc một vị Chư thiên thiếu thế lực thành tựu do giới ấy, hoặc do tinh tấn ấy hay là do phạm hạnh ấy. Những thế gọi là ngũ tâm nhiễm (cetaso vinibandhā).

983.

Ngũ cái đó ra sao? Là dục dục cái (kāmacchandanīvaraṇa) là pháp hạn chế thiện không cho sanh ra, tức là dục dục; là sân độc cái (byāpādanīvaraṇa) là pháp hạn chế thiện không cho phát sanh, tức là sân độc; là hôn trầm thùy miên cái (thīnamiddhinīvaraṇa) là pháp hạn chế thiện không cho phát sanh tức là hôn trầm thùy miên; là trạo hối cái (uddhaccacukkuccanīvaraṇa) là pháp hạn chế thiện không cho phát sanh tức là trạo hối; là hoài nghi cái (vicikicchānīvaraṇa) là pháp hạn chế thiện không cho phát sanh tức là hoài nghi. Những thế gọi là ngũ cái (pañca nīvaraṇa).

984.

Ngũ vô gián nghiệp đó ra sao? Như là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, chích huyết thân Phật và phá hòa hiệp Tăng. Những thế gọi là ngũ vô gián nghiệp (kamma ānantarika).

985.

Ngũ kiến thức đó ra sao? Như là có bực Sa-môn hoặc Bà-la-môn có vị trình bày như vầy: Ta có tưởng, sau khi chết không thay đổi. Hay Sa-môn, Bà-la-môn có vị trình bày như vầy: Ta không có tưởng, sau khi chết không thay đổi. Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nào trình bày rằng ta có tưởng cũng không phải, không có tưởng cũng không phải sau khi chết không thay đổi. Hay có bực Sa-môn, Bà-la-môn có vị vẫn chế định sự tiêu diệt, sự tiêu tàn, sự không có của chúng sanh vẫn rõ rệt. Hay có bực Sa-môn, Bà-la-môn có vị trình bày Níp-bàn hiện tại. Những thế gọi là ngũ kiến thức (diṭṭhi).

986.

Ngũ oan trái đó ra sao? Như là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, ẩm tửu và dùng cách chất say, ăn men, ăn hèm. Những thế gọi là ngũ oan trái (verā).

987.

Ngũ phiến đó ra sao? Như là thân tộc phiến (ñātibyasana), phẩm thực phiến (bhogabyasana), tật bệnh phiến (rogabyasana), giới hạnh phiến (sīlabyasana), tà kiến phiến (diṭṭhibyasana). Những thế gọi là ngũ phiến (byasana).

988.

Ngũ quá bất nhẫn đó ra sao? Như là nhiều người không thích, có oan trái, có tội lỗi nhiều, chết mê loạn và sau khi chết sa vào đường ác như khổ thú, khổ hình và Địa ngục. Những thế gọi là ngũ quá bất nhẫn (akkhantiyā ādīnavā).

989.

Ngũ nạn đó ra sao? Như là nạn phát sanh do nuôi sống, nạn phát sanh do chê bai, nạn phát sanh do sợ trong khi hội hợp, nạn phát sanh do tử và nạn phát sanh do sa đoạ đường ác. Những thế gọi là ngũ nạn (bhaya).

990.

Ngũ thuyết Níp-bàn hiện tại kiến đó ra sao?

1. Như là Sa-môn hoặc Bà-la-môn trong đời nầy có tà thuyết như vầy: Nầy chư hiền giả khi nào ta đầy đủ tràn trề dồi dào với ngũ dục lạc thì do nhân ấy ta đây mới gọi là đắc Níp-bàn hiện tại kiến cao tột. Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn một đảng nào mà đặt ra Níp-bàn hiện tại cao siêu của chúng sanh hiện bày bằng cách như thế.

2. Có Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác nữa trình bày với Sa-môn hoặc Bà-la-môn đó như vầy: Nầy chư hiền giả, Ngài trình bày cái ngã đâu? Cái ngã ấy chính vẫn có, ta sẽ trình bày như vầy: Cái ta đó không có cũng không lý.

Nầy chư hiền giả, chỉ cái ta ấy, chính cái ta ấy sẽ gọi là chủng Níp-bàn hiện tại cao tột, do nhân bao nhiêu đó phi lý, điều nầy có cho là nhân.

Nầy chư hiền giả, bởi vì tất cả dục không bền thành khổ, phát sanh sầu, khóc, ưu, ai, sự buồn rầu, sự than khóc, sự khổ, sự ưu sầu vì bởi những dục đó biến chuyển thành thứ khác.

Nầy hiền giả, nếu khi nào cái ta ấy tĩnh ly dục, vắng lặng đã lìa pháp thiện, vẫn đắc sơ thiền…

Nầy chư hiền giả, chính do nhân với duyên đó ta đây mới gọi là đắc chứng Níp-bàn hiện tại cao siêu. Có bọn Sa-môn, Bà-la-môn định đặt Níp-bàn hiện tại cao siêu của chúng sanh vẫn có bằng cách như thế.

3. Có bực Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác trình bày với Sa-môn hoặc Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài tường thuật cái ta đâu chi? Chính cái ta ấy vẫn có chúng ta sẽ trình bày như vầy: Cái ta đó không có không lý.

Nầy hiền giả, chỉ cái ta ấy sẽ gọi là đắc chứng Níp-bàn cao thượng với nhân bao nhiêu đó cũng vô lý, điều ấy có chi là thành nhân. Tầm, tứ nào mà có trong sơ thiền ấy, có trong sơ thiền đó, thì sơ thiền ấy vẫn hiện thành đồ thô bởi do tầm và tứ ấy.

Nầy hiền giả, chính khi nào ta đắc nhị thiền thì dĩ nhiên trong sạch do vắng lặng tầm, tứ… với nhân bao nhiêu đó, cái ta ấy mới gọi là đắc chứng Níp-bàn hiện tại cao thượng.

4. Có nhóm Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác tự định đặt Níp-bàn hiện tại cao thượng của chúng sanh vẫn có hiện bày bằng cách như thế đó. Cũng có Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào khác mà nói với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy chư hiền giả, Ngài nói cái ta như thế nào? Chính là cái ta ấy vẫn có chúng ta sẽ trình bày cái ta đó không có cũng không lý.

Nầy hiền giả, chỉ là cái ta ấy sẽ gọi là đắc chứng Níp-bàn hiện tại cao siêu bằng nhân bấy nhiêu đó cũng vô lý, điều đó có chi là nhân vì hỷ mà tâm bồng bột ở trong nhị thiền ấy hiện thành đồ thô, chính do hỷ là sự bồng bột tâm đó.

Nầy hiền giả, nếu khi nào đặng bày trừ hỷ nữa thì cái ngã ấy đắc chứng tam thiền… bằng nhân bao nhiêu đó thì cái ta ấy mới gọi là đắc chứng Níp-bàn hiện tại cao siêu.

5. Có một đám Sa-môn hoặc Bà-la-môn định đặt Níp-bàn hiện tại cao siêu của chúng sanh vẫn có hiện bày bằng cách như thế. Lại có Sa-môn, Bà-la-môn khác nữa trình bày với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài nói cái chi là ta, chính cái ta ấy vẫn có, chúng ta sẽ đặng trình bày như vầy: Cái ta đó không có cũng vô lý.

Nầy hiền giả, cái ta ấy gọi là đắc chứng Níp-bàn hiện tại cao siêu bằng nhân bao nhiêu đó cũng vô lý, điều nầy có chi là nhân có hưởng lạc trong tâm ở trong tam thiền ấy, thế nên tam thiền ấy vẫn hiện bày lối thô, bởi hưởng lạc trong tâm đó. Nếu khi nào mà cái ấy đắc chứng tứ thiền đặng trừ lạc… chỉ do nhân ấy thì cái ta đó mới gọi là đắc chứng Níp-bàn hiện tại cao thượng. Bọn Sa-môn, Bà-la-môn nào mà định đặt Níp-bàn hiện tại cao thượng của chúng sanh vẫn có hiện bày bằng cách như thế.

Những đó gọi là ngũ thuyết Níp-bàn hiện tại (diṭṭhadhammanibbānavāda).

Xiển minh phần sáu điều

991.

Trong phần lục điều, mà lục căn khanh biện ra sao? Như là sự sân, sự vong ân, sự đố kỵ, sự khoe khoang, sự móng ô uế và sự tự chấp theo kiến thức của mình. Những thế gọi là lục căn khanh biện (vivādamūla).

992.

Lục pháp liên quan dục ái đó ra sao? Như là sự vọng dục, rất vọng dục… sự quá vọng dục của tâm, ngoan cố theo dục lạc trong những sắc vừa lòng… thinh vừa lòng… khí vừa lòng… vị vừa lòng… xúc vừa lòng… và cảnh pháp vừa lòng… liên quan với ái hay rất ưa thích… Những sự ái dục lạc của tâm như thế gọi là lục pháp liên quan dục ái (chandarāgāgehasitā dhammā).

993.

Lục ác độc tông đó ra sao? Như là sự cừu thù, sự sôi nổi của tâm… sự hung ác, sự độc hại, sự không hoan hỷ của tâm đối với sắc không thích tâm… tiếng không thích tâm… khí không thích tâm… vị không thích tâm… xúc không thích tâm… và cảnh pháp không thích tâm, cho đến cừu thù oán hận của tâm… Hay là tâm hung dữ độc ác, ý không hoan hỷ. Những thế gọi là ác độc tông (vidhavatthu).

994.

Lục ái thân đó ra sao? Như là sắc ái, thinh ái, khí ái, vị ái, xúc ái và pháp ái. Những thế gọi là lục ái thân (taṅhākāya).

995.

Lục phòng xá đó ra sao? Như là những người không cung kỉnh, không tin theo giáo chủ đang hiện hành… trong Pháp bảo đang hiện hành… trong Tăng bảo đang hiện hành… trong điều học đang hiện hành… trong sự dể duôi đang hiện hành mà người không cung kỉnh và không nghe theo với sự khuyên bảo đang hiện hành. Những như thế gọi là lục phòng xá (agāravā).

996.

Lục pháp thối hóa đó ra sao? Như là sự ưa tạo lập, ưa nói chuyện, ưa ngủ nghỉ, ưa trà trộn với đám đông, ưa cách ở chung và ưa trong pháp hành nhân trễ nải. Những thế gọi là lục pháp thối hóa (parihāniyā dhammā).

997.

* Lục pháp thối hóa (nữa) đó ra sao?

Như là sự ưa tạo lập, ưa nói chuyện, ưa ngủ nghỉ, ưa chung chạ đám đông thành người nan giáo và thành người có bạn ác xấu. Những thế gọi là lục pháp thối hóa (parihāniyā dhammā).

998.

Lục hỷ nhớ tưởng đó ra sao? Như là mắt đã thấy sắc nhớ đến sắc nương căn cứ hỷ. Tai đã nghe tiếng… mũi đã hửi hơi… lưỡi đã nếm vị… thân đã đụng chạm… ý đã biết cảnh pháp đều nhớ tưởng bằng cơ sở hỷ. Những thế gọi là lục hỷ nhớ tưởng (somanassupavicārā).

999.

Lục ưu nhớ tưởng đó ra sao? Như là mắt đã thấy sắc móng tưởng đến sắc bằng cơ sở ưu. Tai đã nghe tiếng… mũi đã hửi hơi… lưỡi đã nếm vị… thân đã đụng chạm… tâm đã biết cảnh pháp mà nhớ đến cảnh pháp bằng cơ sở ưu. Những thế gọi là lục ưu nhớ tưởng (domanassupavicārā).

1000.

Lục xả cận tứ đó ra sao? Như là mắt đã thấy sắc móng nhớ đến sắc bằng cơ sở xả. tai đã nghe tiếng… mũi đã hửi hơi… lưỡi đã nếm vị… thân đã đụng chạm… và tâm đã biết cảnh pháp rồi móng tưởng đến cảnh pháp bằng cơ sở xả. Những thế gọi là lục xả cận tứ (upekkhūvicārā).

1001.

Lục liên quan hỷ đó ra sao? Như là sự vui lòng, sự an tâm, sự hưởng cảnh an vui từ nơi tâm xúc, thái độ hưởng cảnh an vui từ nơi tâm xúc, cố nương với dục lạc đối với trong sắc vừa lòng… thinh thích ý… hơi thích tâm… vị vừa ý… xúc vừa lòng… có sự yên tâm vui lòng hưởng cảnh an vui phát sanh từ ý xúc hay thái độ hưởng cảnh an vui từ ý xúc, cố nương dục lạc trong cảnh pháp vừa lòng. Những thế gọi là lục liên quan hỷ (gehasitasomanassa).

1002.

Lục liên quan ưu đó ra sao? Như là sự không vui lòng, khổ tâm, sự hưởng cảnh không vui và khổ tâm sanh từ nơi ý xúc, thái độ hưởng cảnh chẳng vui khổ tâm sanh từ nơi ý xúc, cố nương dục lạc đối trong sắc chẳng vừa lòng… tiếng chẳng vừa lòng… hơi chẳng vừa ý… vị chẳng vừa tâm… xúc không thích hợp, sự không vui lòng, cách khổ tâm, sự hưởng cảnh không vui thành khổ sanh từ ý xúc, thái độ hưởng cảnh không vui thành khổ sanh từ ý xúc, cố nương dục lạc, đối trong cảnh pháp đều chẳng vừa lòng. Những thế gọi là lục liên quan ưu (gehasitadomanassa).

1003.

Lục liên quan xả đó ra sao? Như là sự làm trong tâm liên quan với phi khổ phi lạc, sự hưởng cảnh phi khổ phi lạc sanh từ ý xúc, thái độ hưởng cảnh phi khổ phi lạc sanh từ ý xúc, cố hưởng dục lạc sắc thuộc cơ sở xả… thinh thuộc cơ sở xả… khí thuộc cơ sở xả… vị thuộc cơ sở xả… xúc thuộc cơ sở xả… sự phi lạc phi phi lạc của tâm, sự hưởng cảnh phi khổ phi lạc cũng sanh từ ý xúc, thái độ hưởng cảnh phi khổ phi lạc cũng sanh từ ý xúc, cố nương dục lạc trong cảnh pháp thuộc cơ sở xả. Những thế gọi là lục liên quan xả (gehasitā upekkhā).

1004.

Lục tà kiến đó ra sao?

- Như là sự nhận thấy phát sanh với người ấy bằng cách chắc chắn như vầy: Cái ngã của ta hoặc cũng có như thế hay sự nhận thức phát sanh của người ấy cố định như vầy: Cái ngã của ta hoặc cũng không có hay sự kiến thức phát sanh cho người ấy bằng cách cương quyết như vầy: Ta biết rõ hoặc cái ta với cái ta như thế. Sự tri kiến phát sanh đến người ấy chấp cứng như vầy: Ta biết rõ hoặc phi ngã với ngã như thế. Sự tri kiến phát sanh cho người ấy chắc chắn như vầy: Ta cũng biết rõ hoặc ngã với phi ngã như thế.

- Sự tri kiến phát sanh cho người ấy bằng cách chắn chắn như vầy: Cái ngã của ta đây là thành người nói, thành người hưởng, vẫn hưởng quả của sự tốt và sự xấu trong những đời ấy tột thời gian lâu xa; cái ngã đó không sanh đã không có ra trong thuở quá khứ và cái ngã đó không sanh sẽ không có ra trong thời vị lai vì cái ngã là đồ trường tồn vững chắc thiêng liêng mãi mãi không thay đổi cũng có lẽ như thế. Những đó là lục tà kiến (diṭṭhi).

Xiển minh phần bảy điều

1005.

Trong những phần bảy điều, mà thất tùy miên ra sao? Như là dục ái tùy miên (kāmarāgānusaya), phẫn nhuế tùy miên (paṭighānusaya), ngã mạn tùy miên (mānānusaya), tà kiến tùy miên (diṭṭhānusaya), hoài nghi tùy miên (vicikicchānusaya), hữu ái tùy miên (bhavarāgānusaya), vô minh tùy miên (avijjānusaya). Những thế gọi là thất tùy miên.

1006.

Thất giá cái đó ra sao? Như là dục ái giá cái (kāmarāgapariyuṭṭhāna), phẫn nhuế giá cái (paṭighapari-yuṭṭhāna), ngã mạn giá cái (mānapariyuṭṭhāna), tà kiến giá cái (diṭṭhipariyuṭṭhāna), hoài nghi giá cái (vicikicchāpariyuṭṭhāna), hữu ái giá cái (bhavarāgapariyuṭṭhāna), vô minh giá cái (avijjāpariyuṭṭhāna). Những thế gọi là thất giá cái.

1007.

Thất triền đó ra sao? Như là dục ái triền, phẫn nhuế triền, ngã mạn triền, tà kiến triền, hoài nghi triền, hữu ái triền, vô minh triền. Những thế gọi là thất triền (saṃhoyana).

1008.

Thất phi chánh pháp đó ra sao? Như là kẻ thành người bất tín (assaddho), vô tàm, vô úy, thiếu học vấn, giải đãi, thất chánh niệm, trí cạn cợt. Những thế gọi là thất phi chánh pháp (asaddhammā).

1009.

Thất ác đó ra sao? Như là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ. Những thế gọi là thất ác (duccarita).

1010.

Thất mạn đó ra sao? Như là ngã mạn (māna), quá mạn (atimāno), mạn quá mạn (mānātimāno), ty ngã mạn (omāno), tăng thượng mạn (adhimāno), cống cao mạn (asmimāno), tà mạn (micchāmāno). Những thế gọi là thất mạn (satta mānā).

1011.

Thất tà kiến đó ra sao?

1. Như là Sa-môn hoặc Bà-la-môn cũng có người trong đời nầy có ý kiến thế nầy, có sự kiến thức như vầy: Nầy hiền giả, bởi vì cái ta đó có sắc thành tựu do sắc tứ đại sung sanh trong khiết bạch[1] của mẹ, sau khi chết vẫn tiêu mất, vẫn điêu tàn, vẫn không có.

Nầy hiền giả, chính do nhân đó, cái ta ấy mới đặng gọi là hoàn toàn tiêu diệt. Sa-môn, Bà-la-môn một nhóm khác định đặt sự tiêu diệt, sự tiêu tàn, sự luống không của chúng sanh kẻ đang hiện có bằng cách như thế.

2. Có Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác trình bày với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài nói cái ngã dù sao nhưng mà chính cái ngã đó vẫn có, chúng ta sẽ phải nói như vầy: “cái ngã đó không có cũng không lý”.

Nầy hiền giả, nhưng cái ngã ấy sẽ đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn chỉ bằng nhân ấy cũng không lý.

Nầy hiền giả, cái ngã khác là tiên có những hình sắc dạo đi trong cõi Dục giới có thực phẩm là vắt cơm thành miếng ăn hẳn đang có mà Ngài không biết không thấy cái ngã ấy, còn tôi đặng biết cái ngã đó.

Nầy hiền giả, chính do cái ngã ấy sau khi chết phải tiêu mất điêu tàn luống không. Nầy hiền giả, chỉ do nhân như thế cái ngã ấy mới đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn. Có một đám Sa-môn, Bà-la-môn định đặt sự tiêu diệt, tiêu tàn, luống không của chúng sanh mà người đang hiện có bằng cách như thế.

3. Có Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác nói với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài nói cái ngã dù sao chính cái ngã đó vẫn có, chúng ta sẽ đặng nói rằng cái ngã đó không có cũng vô lý.

Nầy hiền giả, nhưng cái ngã ấy sẽ đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn bằng bao nhiêu nhân đó cũng vô lý.

Nầy hiền giả, cái ngã khác là tiên có hình sắc đã thành tựu bằng tâm có tứ chi lớn nhỏ đủ mọi bộ phận có quyền (Indrīya) không thiếu sót chắc hẳn là có mà Ngài không biết không thấy cái ngã đó, tôi đây mới đặng biết, đặng thấy cái ngã đó.

Nầy hiền giả, bởi vì chính cái ngã đó sau khi chết thân hoại mạng chung vẫn tiêu mất, tiêu tàn, luống không.

Nầy hiền giả, do những nhân ấy, cái ngã đó mới đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn. Có đám Sa-môn, Bà-la-môn định đặt sự tiêu diệt tiêu mất, luống không của chúng sanh mà người đang hiện có bằng cách như thế.

4. Có Sa-môn, Bà-la-môn khác nói với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài nói cái ngã chi thì chính cái ngã đó vẫn có, chúng ta sẽ đặng trình bày như vầy: Cái ngã đó không có cũng vô lý.

Nầy hiền giả, nhưng cái ngã ấy sẽ đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn bằng nhân bao nhiêu đó cũng vô lý.

Nầy hiền giả, cái ngã khác đến bực thiền Không vô biên xứ, niệm tưởng bằng cách như vầy: hư không không bờ mé, do lướt qua tưởng sắc bằng mọi cách bởi sự diệt mất nơi phẫn tưởng (Paṭgha Saññāna) do không tác ý tưởng dị chính là vẫn có mà ngài không biết không thấy cái ngã đó, nhưng tôi biết tôi thấy cái ngã đó.

Nầy hiền giả, do chính cái ngã đó sau khi chết thân hoại mạng chung vẫn tiêu mất, vẫn điêu tàn, vẫn luống không.

Nầy hiền giả, chỉ do nhân ấy mà cái ngã đó mới đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn. Có đám Sa-môn, Bà-la-môn định đặt sự tiêu diệt, sự tiêu tàn, sự luống không của chúng sanh người đang hiện có bằng cách như thế.

5. Có Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác nói với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài nói cái ngã nào thì chính cái ngã ấy vẫn có, chúng ta sẽ đặng trình bày rằng cái ngã đó không có cũng vô lý.

Nầy hiền giả, chính cái ngã ấy sẽ đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn, chỉ bằng nhân đó cũng là vô lý.

Nầy hiền giả, cái ngã khác mà có thể đến thiền Thức vô biên xứ bằng cách tu niệm rằng: “Cái thức không cùn tột” như vậy do lướt khỏi Không vô biên xứ bằng mọi cách chính vẫn có mà Ngài không biết không thấy cái ngã đó, tôi mới biết thấy cái ngã đó.

Nầy hiền giả, chính do cái ngã đó sau khi chết do thân hư hoại thời tiêu diệt, vẫn tiêu tàn, vẫn luống không.

Nầy hiền giả, chỉ nhân bao nhiêu đây mà cái ngã ấy mới đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn. Một đám Sa-môn, Bà-la-môn định đặt sự tiêu diệt, sự tiêu tàn, sự luống không của chúng sanh mà người đang hiện có bằng cách như thế.

6. Có Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác nói với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài nói cái ngã chi thì chính cái ngã đó vẫn có, chúng ta sẽ đặng trình bày rằng cái ngã đó không có cũng vô lý.

Nầy hiền giả, vốn cái ngã ấy sẽ đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn bằng bao nhiêu nhân đó cũng vô lý.

Nầy hiền giả, cái ngã khác đặng vào đến thiền Vô sở hữu xứ do tu niệm như vầy: “Cái thức không có chi cả” như thế do lướt qua Thức vô biên xứ bằng mọi cách như thế mà Ngài vẫn không biết, không thấy cái ngã đó, tôi vẫn biết vẫn thấy cái ngã đó.

Nầy hiền giả, chính do cái ngã đó mà sau khi chết thân hoại mạng chung vẫn tiêu diệt, vẫn tiêu tàn, vẫn luống không.

Nầy hiền giả, bởi chính cái nhân đó mới đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn.

7. Một đám Sa-môn, Bà-la-môn định đặt sự tiêu diệt, sự tiêu tàn sự không có của chúng sanh mà người đang hiện hữu với cách như thế. Có Sa-môn hoặc Bà-la-môn khác nói với Sa-môn, Bà-la-môn đó như vầy: Nầy hiền giả, Ngài nói cái ngã chi chính là cái ngã đó vẫn có, chúng ta sẽ đặng trình bày rằng cái ngã đó không có cũng là vô lý.

Nầy hiền giả, chính cái ngã ấy sẽ đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn, do bao nhiêu nhân đó cũng vô lý.

Nầy hiền giả, cái ngã khác có thể đến thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ do lướt qua Vô sở hữu xứ bằng mọi cách chắc hẳn có, mà Ngài vẫn không biết không thấy cái ngã ấy, ta đây mới thấy biết cái ngã ấy.

Nầy hiền giả, chính do cái ngã đó mà sau khi chết thân hoại mạng chung thì tiêu diệt, vẫn tiêu hoại, vẫn không có.

Nầy hiền giả, chỉ do những nhân đó mà cái ngã ấy mới đặng gọi là tiêu diệt hoàn toàn. Một đám Sa-môn, Bà-la-môn định đặt sự tiêu diệt, sự tiêu tàn, sự không có của chúng sanh mà người đang hiện hữu bằng cách ấy. Những thế gọi là thất tà kiến (satta diṭṭhiyo).

Xiển minh phần tám điều

1012.

Trong những phần bát điều, mà bát phiền não tông đó ra sao? Như là tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật. Những thế gọi là bát phiền não tông (kilesavatthu).

1013.

Bát giải đãi tông đó ra sao?

1. Như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy có công việc phải làm, y phát ra sự nghĩ rằng ta sẽ cần làm công việc mà khi ta làm công việc ta sẽ khổ thân, thôi ta nên đi ngủ. Thế rồi y ngủ luôn không mong sự tinh tấn để đến công đức chưa đến, để chứng công đức chưa chứng, để làm cho tỏ ngộ phần công đức mà chưa đặng làm cho tỏ ngộ. Đây sắp thành giải đãi tông thứ nhất (pathama kusītavatthu).

2. Còn điều khác nữa như là Phíc-khú đã làm công việc rồi, y mới suy nghĩ bằng cách nầy, ta làm công việc đã xong mà khi ta đang làm công chuyện thì thân khổ sở, vậy thôi thì ta sẽ nghĩ chớ rồi y ngủ luôn, không hy vọng sự tinh tấn để đến công đức mà ta chưa đến, để đắc ân đức mà chưa đắc chứng, để làm cho tỏ ngộ cái công đức mà ta chưa đặng làm cho tỏ ngộ. Như thế sắp thành giải đãi tông thứ hai (dutiya kusītavatthu).

3. Còn có điều khác nữa, như là Phíc-khú cần đi đường thì y lại nghĩ rằng ta sẽ cần đi đường ư? Nhưng khi ta đi đường sẽ khổ thân, thôi đừng ta nên ngủ đi, thế rồi y ngủ luôn, không hy vọng sự tinh tấn để đến ân đức chưa đến, để chứng ân đức mà chưa đắc chứng, để làm cho tỏ ngộ cái ân đức mà chưa mấy gì tỏ ngộ. Những như thế đó sắp thành giải đãi tông thứ ba (tatiya kusītavatthu).

4. Còn có điều khác nữa, như là Phíc-khú sau khi đi đường thì y nghĩ rằng ta hành trình rồi mà khi ta đang đi đường cực khổ thân, thôi đi ta nên ngủ kìa, nói rồi y ngủ luôn, không hy vọng sự tinh tấn hầu đến công đức chỗ chưa đến, hầu đắc chứng công đức chỗ chưa đắc chứng, hầu làm cho tỏ ngộ với công đức mà chưa làm cho tỏ ngộ. Như thế sắp thành giải đãi tông thứ tư (catuttha kusītavatthu).

5. Còn có điều khác nữa, như là Phíc-khú đi dạo trong xóm làng thuộc về đi bát mà không đặng thực phẩm dù cho đồ xấu xa hay tinh vi vừa với sự cần dùng, y mới nghĩ rằng khi ta đi bát trong xóm làng mà không đặng thực phẩm thô sơ hoặc tinh vi cho vừa với sự cần dùng mà khổ thân ta với công việc không đáng, thôi ta nên ngủ cho rồi, y liền đi ngủ luôn, không hy vọng sự tinh tấn hầu đến ân đức chưa đến, hầu đắc chứng ân đức chưa đắc chứng, để làm cho tỏ ngộ bằng ân đức mà chưa đặng làm cho tỏ ngộ. Như thế sắp thành giải đãi tông thứ năm (pañcama kusītavatthu).

6. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú đi vào xóm làng trì bình đặng thực phẩm thô sơ hoặc tinh vi đã thích hợp với sự cần dùng, nhưng y lại nghĩ rằng khi ta đi bát trong xóm làng mà đặng vật thực thô sơ hoặc tinh vi đã vừa với sự cần dùng thân phải nặng nề, công việc không thích hợp sẽ thành như đậu ngăm, thôi đi ta sẽ ngủ, rồi y ngủ luôn, không hy vọng sự tinh tấn để cho đến chỗ công đức chưa đến, để cho chứng công đức chỗ chưa chứng, đặng làm cho tỏ ngộ với công đức mà chưa mấy gì làm cho tỏ ngộ. Như thế sắp thành giải đãi tông điều thứ sáu (chaṭṭa kusītavatthu).

7. Còn có điều nầy nữa, như là Phíc-khú phát sanh chút đỉnh bịnh thì y nghĩ như vầy: Ta phát sanh chút đỉnh bịnh, suy nghĩ để sẽ ngủ mà thôi ta nên ngủ đi, rồi y ngủ luôn không hy vọng sự tinh tấn hầu đến công đức chỗ chưa đắc chứng, để làm cho tỏ ngộ công đức mà chưa mấy gì làm cho tỏ ngộ. Như thế sắp thành giải đãi tông điều thứ bảy (sattama kusītavatthu).

8. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú hết làm cử rồi chưa bao lâu thì y nghĩ rằng ta đã hết làm cử rồi chưa đặng bao lâu, thân của ta yếu ớt không vừa với việc làm, thôi đi ta sẽ ngủ rồi y ngủ luôn không hy vọng sự tinh tấn hầu đến công đức mà chưa đến, để đặng đắc chứng công đức mà chưa đắc chứng, để làm cho tỏ ngộ ân đức chỗ chưa mấy gì làm cho tỏ ngộ. Như thế sắp thành giải đãi tông điều thứ tám (aṭṭhamakusītavatthu).

Những thế gọi là bát giải đãi tông (aṭṭha kusītavatthu).

1014.

Tâm hợp dụng bát thế pháp đó ra sao? Sự mừng trong lợi lộc, sự buồn khi hao lợi lộc; sự mừng trong quyền tước, sự buồn khi mất quyền tước; sự mừng với cách khen ngợi, sự buồn với cách chê bai; sự mừng trong hưởng lạc, sự buồn khi thọ khổ. Những thế gọi là tâm hợp dụng bát thế pháp.

1015.

Bát phi Thánh từ đó ra sao? Như là khi không thấy nói thấy, khi không nghe nói nghe, khi không biết nói biết, khi không hiểu nói hiểu. Hay là khi thấy nói không thấy, khi nghe nói không nghe, khi biết nói không biết, khi hiểu nói không hiểu. Những thế gọi là bát phi Thánh từ (anariyavohāvā).

1016.

Bát tà đó ra sao? Như là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm và tà định. Những thế gọi là bát tà.

1017.

Bát phú quá đó ra sao?

1. Như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy mà bị Phíc-khú bên nguyên cáo phạm giới và vị Phíc-khú bị nguyên cáo phạm giới đó che mình bằng sự thất niệm như vầy: “Tôi nhớ không đặng chi như thế. Như thế sắp thành phú quá điều thứ nhất (pathama purisadosa).

2. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy bị nguyên cáo về phạm giới mà vị nguyên cáo phạm giới đó biện bác với người nguyên cáo như vầy: Lợi ích chi chăng với cách trình thuộc về Ngài là người ngu si, người không khôn lanh, dù Ngài chưa quyết sái chỗ sẽ nói với ta. Như thế đó sắp thành phú quá điều thứ hai (dutiya purisadosa).

3. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy bị nguyên cáo với phạm tội mà Phíc-khú bị nguyên cáo với phạm tội đó bắt tội lại với Phíc-khú nguyên cáo đó như vầy: Chính Phíc-khú nầy bị phạm tội, điều nầy ông nên sám hối tội đó trước đi. Như thế đó sắp thành phú quá điều thứ ba (tatiya purisadosa).

4. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy bị nguyên cáo với phạm tội mà Phíc-khú bị nguyên cáo đó đem những nhân khác lại nói khỏa lấp, nói để kéo cho hiểu lầm ngoài công chuyện, làm cho giận hờn, làm cách không vừa lòng. Như thế sắp thành phú quá điều thứ tư (catuttha purisadosa).

5. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy bị nguyên cáo với tội mà Phíc-khú bị nguyên cáo với tội đó quơ tay bác bỏ trong giữa tăng chúng. Như thế sắp thành phú quá điều thứ năm (pañcama purisadosa).

6. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy bị nguyên cáo phạm tội mà Phíc-khú bị nguyên cáo phạm tội đã nín thinh ép chế làm cho tăng chúng khổ. Như thế sắp thành phú quá điều thứ sáu (chaṭṭa purisadosa).

7. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy bị nguyên cáo tội mà Phíc-khú bị nguyên cáo tôi đó không quảng đại với tăng chúng, không rộng rãi với nguyên cáo lánh mặt bỏ đi tùy ý, luôn cả lúc đang phạm tội. Như thế sắp thành phú quá điều thứ bảy (sattama purisadosa).

8. Còn có điều khác nữa như là Phíc-khú trong Tông giáo nầy bị nguyên cáo phạm tội mà Phíc-khú bị nguyên cáo phạm tội đó lại nói như thế nầy: “Làm sao kìa mà ông lại quá tìm kiếm tôi, hiện nay tôi sẽ hoàn tục thành cư sĩ, ông cũng hoàn tục thành cư sĩ”. Rồi nói như thế nầy: “các ngài trưởng thượng hiện nay đây các ngài nên vui mừng hớn hở”. Cách đó sắp thành phú quá điều thứ tám (aṭṭhama purisadosa).

1018.

Bát lý thuyết vô tưởng đó ra sao?

1. Như là có một đám Sa-môn hoặc Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có hình sắc, sau khi chết biến đổi, nên mới định đặt cái ngã đó như vầy là không có tưởng.

2. Một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp như vầy: Cái ngã không có hình sắc, sau khi chết không biến đổi, nên mới định đặt cái ngã đó là không có tưởng.

3. Một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp như vầy: “Cái ngã có cả hình sắc và không hình sắc, sau khi chết không biến đổi, nên mới định đặt cái ngã đó là không có tưởng.

4. Có một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có hình sắc cũng chẳng phải, không hình sắc cũng chẳng phải, sau khi chết không biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là không có tưởng.

5. Có một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có chỗ cùng tột, sau khi chết không biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là không có tưởng.

6. Có một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã không cùng tột sau khi chết không biến đổi, nên mới định đặt cái ngã đó là không có tưởng.

7. Có một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có cả cùng tột và không cùng tột, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là không có tưởng.

8. Có một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có chỗ cùng tột cũng chẳng phải, không cùng tột cũng chẳng phải, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là không có tưởng.

Những thế gọi là bát thuyết vô tưởng (aṭṭha asaññivādā).

1019.

Bát thuyết phi tưởng phi phi tưởng đó ra sao?

1. Như là có một nhóm Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có hình sắc, sau khi chết không biến đổi, mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

2. Một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã không có hình sắc, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

3. Một đám Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã gồm cả có hình sắc và không hình sắc, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

4. Có một nhóm Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có hình sắc cũng chẳng phải, không hình sắc cũng chẳng phải, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

5. Một nhóm Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có chỗ cùng tột, sau khi chết không biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

6. Một nhóm Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã không có chỗ cùng tột, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

7. Một nhóm Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã gồm cả cùng tột và không cùng tột, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

8. Một nhóm Sa-môn, Bà-la-môn chấp rằng cái ngã có chỗ cùng tột cũng chẳng phải, không cùng tột cũng chẳng phải, sau khi chết chẳng biến đổi nên mới định đặt cái ngã đó là phi tưởng phi phi tưởng.

Những thế gọi là bát thuyết phi tưởng phi phi tưởng (nevasaññināsaññivādā).

Xiển minh phần chín điều

1020.

Trong những phần chín điều, mà cửu cừu địch tông đó ra sao?

1. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đã làm cho ta hư hại.

2. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đang làm cho ta hư hại.

3. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm cho ta hư hại.

4. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đã làm cho kẻ thương mến của ta hư hại.

5. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đang làm cho kẻ thương yêu của ta hư hại.

6. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm cho kẻ thương yêu của ta hư hại.

7. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đã làm cho kẻ đối nghịch với ta đặng lợi ích.

8. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đang làm cho kẻ nghịch với ta đặng lợi ích.

9. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm cho kẻ nghịch với ta thêm lợi ích.

Những thế gọi là cửu hiệp cừu tông (ākhātavatthu).

1021.

Cửu ô uế đó ra sao? Như là sân, vong ân, đố kỵ, lẫn sắt, xảo quyệt, khoe khoan, vọng ngữ, hy vọng ô uế và tà kiến. Những thế gọi là cửu ô uế (purisamala).

1022.

Cửu ngã mạn đó ra sao?

1. Là hơn ỷ hơn (seyyassa seyyohamasmīti māno).

2. Là hơn ỷ bằng (seyyassa sadisohamasmīti māno).

3. Là hơn ỷ thua (seyyassa hīnohamasmīti māno).

4. Là bằng ỷ hơn (sadisassa seyyohamasmīti māno).

5. Là bằng ỷ bằng (sadisassa sadisohamasmīti māno).

6. Là bằng ỷ thua (sadisassa hīnohamasmīti māno).

7. Là thua ỷ hơn (hīnassa seyyohamasmīti māno).

8. Là thua ỷ bằng (hīnassa sadisohamasmīti māno).

9. Là thua ỷ thua (hīnassa hīnohamasmīti māno).

Những thế gọi là cửu ngã mạn (navavidhā mānā).

1023.

Cửu pháp căn ái đó ra sao?

1. Là do nương ái mới sanh cách tìm kiếm.

2. Là do nương cách tìm kiếm mới sanh cách đặng.

3. Là do nương cách đặng mới sanh cách phán đoán.

4. Là do nương cách phán đoán mới sanh cách dục ái.

5. Là do nương cách dục ái mới sanh cách chấp trước.

6. Là do nương cách chấp trước mới sanh cách bận bịu.

7. Là do nương cách bận bịu mới sanh sự bỏn xẻn.

8. Là do nương sự bỏn xẻn mới sanh cách gìn giữ.

9. Là do nương sự gìn giữ mới sanh ra pháp tội ác, nhiều cách như là cầm cây, cầm khí giới, cách rầy lộn, cách dành xé, cách tranh luận, cách nói mầy tao, cách nói thóc mách và cách nói láo.

Những thế gọi là cửu pháp căn ái (taṅhāmūlakā dhammā).

1024.

Cửu biến chuyển đó ra sao? Như là sự biến chuyển rằng có ta, sự biến chuyển cho rằng là ta, sự biến chuyển đây là ta; sự biến chuyển cho rằng ta sẽ là chúng sanh có hình sắc, sự biến chuyển cho rằng ta sẽ là chúng sanh không hình sắc, sự biến chuyển cho rằng ta sẽ là chúng sanh có tưởng, sự biến chuyển cho rằng ta sẽ là chúng sanh vô tưởng, sự biến chuyển cho rằng ta sẽ là chúng sanh phi tưởng phi phi tưởng. Những thế gọi là cửu biến chuyển (iñjita).

1025.

Cửu quan trọng, cửu chuyển động, cửu ám ảnh và cửu hữu vi đó ra sao? Như là sự chỉnh lý cho rằng ta có, sự chỉnh lý cho rằng là ta, sự chỉnh lý cho rằng đây là ta, sự chỉnh lý cho rằng ta sẽ có, sự chỉnh lý cho rằng ta sẽ là chúng sanh có hình sắc, sự chỉnh lý cho rằng ta sẽ là chúng sanh không hình sắc, sự chỉnh lý cho rằng ta sẽ là chúng sanh hữu tưởng, sự chỉnh lý cho rằng ta sẽ là chúng sanh vô tưởng, sự chỉnh lý cho rằng ta sẽ là chúng sanh phi tưởng phi phi tưởng. Những thế gọi là cửu hữu vi.

Xiển minh phần mười điều

1026.

Trong thập điều, mà thập phiền não tông ra sao? Như là tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật, vô tàm, vô úy. Những thế gọi là thập phiền não tông (kilesavatthu).

1027.

Thập hiệp cừu tông đó ra sao?

1. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đã làm cho ta hư hại.

2. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đang làm cho ta hư hại.

3. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm cho ta hư hại.

4. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đã làm hư hại cho kẻ yêu mến của ta.

5. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đang làm hư hại cho kẻ yêu mến ta.

6. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm hư hại cho kẻ yêu mến ta.

7. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy đã làm lợi ích cho kẻ mà ta không ưa.

8. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm lợi ích cho kẻ mà ta không ưa.

9. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng người ấy sẽ làm lợi ích cho kẻ mà ta không ưa thích.

10. Là sự hiệp cừu phát sanh do nghĩ rằng trong cơ bản (thāna) không thích hợp.

Những thế gọi là thập hiệp cừu tông (ākhātavatthu).

1028.

Thập ác đó ra sao? Như là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham ác và tà kiến ác. Những thế gọi là thập ác (dasa akusalakammapathā).

1029.

Thập triền đó ra sao? Như là dục ái triền, phẫn nhuế triền, ngã mạn triền, tà kiến triền, hoài nghi triền, giới cấm thủ triền, hữu ái triền, tật đố triền, lẫn sắc triền, vô minh triền. Những thế gọi là thập triền (dasa samyojanāhi).

1030.

Thập tà đó ra sao? Như là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà trí, tà giải thoát. Những thế gọi là thập tà (dasa micchattā).

1031.

Thập tà kiến tông đó ra sao? Là nhận thấy rằng bố thí cho người rồi không có quả phước; là nhận thấy rằng cách cúng dường tam bảo không có quả phước; là nhận thấy rằng cúng dường Chư thiên không có quả phước; là nhận thấy rằng dị thục quả của nghiệp tốt xấu không có; là nhận thấy rằng đời nầy không có; là nhận thấy rằng đời sau không có; là nhận thấy rằng cha không có; là nhận thấy rằng mẹ không có; là nhận thấy rằng chúng sanh chết và tục sinh không có; là nhận thấy rằng Sa-môn, Bà-la-môn thực hành chơn chánh đứng đắn hiểu rõ chắc chắn trong đời nầy và đời sau do tự mình tỏ ngộ rồi tuyên bố cho người khác biết như thế, trong đời không có. Những thế gọi là thập tà kiến tông (dasavatthukā micchādiṭṭhi).

1032.

Thập tông thường vô thường kiến đó ra sao? Như là sự nhận thấy đời nầy trường tồn, hoặc nhận thấy đời không trường tồn, hoặc nhận thấy đời có chỗ tột, hoặc nhận thấy đời không có chỗ tột, hoặc nhận thấy linh hồn cũng là thân thể, hoặc nhận thấy linh hồn với thân thể khác nhau, hoặc nhận thấy chúng sanh sau khi chết vẫn sanh nữa, hoặc nhận thấy chúng sanh sau khi chết không sanh nữa, hoặc nhận thấy chúng sanh sau khi tục sinh nữa cũng có không tục sinh nữa cũng có, hoặc nhận thấy chúng sanh sau khi chết tục sinh nữa cũng chẳng phải không tục sinh nữa cũng chẳng phải. Những thế gọi là thập tông thường vô thường kiến (dasavatthukā antaggāhikā diṭṭhi).

Xiển minh phần mười tám điều

1033.

Trong những đầu đề, mà thập bát ái du hành nương ngũ uẩn bên trong đó ra sao? 1) Là cũng muốn rằng ta có như thế cũng có; 2) là cũng muốn rằng ta bằng cách ấy; 3) là cũng muốn rằng ta là cách đó như thế; 4) là cũng muốn rằng ta bằng cách khác như thế; 5) là cũng muốn rằng ta sẽ sống như thế cũng có; 6) là cũng muốn rằng ta sẽ bằng cách ấy như thế; 7) là cũng muốn rằng ta sẽ thành cách đó như thế; 8) là cũng muốn rằng ta sẽ thành với cách khác như thế; 9) là cũng muốn rằng ta nhất định như thế; 10) là cũng muốn rằng ta không nhất định như thế; 11) là cũng muốn rằng ta phải còn như thế; 12) là cũng muốn rằng ta phải còn với cách ấy như thế; 13) là cũng muốn rằng ta phải thành cách đó như thế; 14) là cũng muốn rằng ta phải thành bằng cách khác như thế; 15) là cũng muốn rằng ta phải còn như thế; 16) là cũng muốn rằng ta phải còn với cách ấy như thế; 17) là cũng muốn rằng ta thành ra cách đó như thế; 18) là cũng muốn rằng ta phải thành theo cách khác như thế.

1034.

Cũng muốn rằng ta có như thế ra sao? Như là không phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã xa lìa nhau đặng thích rằng ta có, đặng ỷ rằng ta có, đặng nhận rằng ta có, đặng cho những ba pháp đó còn pháp thành cơ quan trì hưỡn. Những thế gọi là muốn rằng ta có như thế, hoặc ta bằng cách đó, hoặc ta thành bằng cách khác cũng vẫn có.

1035.

Cũng muốn rằng ta bằng cách ấy ra sao? Như là muốn rằng ta thành vua, quan hoặc thành Phạm chí hoặc thành thầy thuốc, hoặc thành cận thắng tiện dân, hoặc thành cư sĩ, hoặc thành nhà sư, hoặc thành chư thiên, hoặc thành nhân loại có hình sắc, hoặc không hình sắc, có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc phi tưởng phi phi tưởng. Như thế gọi là muốn rằng ta bằng cách ấy.

1036.

Cũng muốn rằng ta thành cách đó là sao? Như là muốn sanh ra vì so sánh với người khác cho rằng họ thành vua chúa thì ta cũng thành vua chúa như họ. Nếu họ thành Phạm chí thì ta cũng thành Phạm chí như họ. Nếu họ thành thầy thuốc thì ta cũng thành thầy thuốc như họ. Nếu họ thành cận thắng tiện dân (thợ săn) thì ta cũng thành cận thắng tiện dân như họ. Nếu họ thành cư sĩ thì ta cũng thành cư sĩ như họ. Nếu họ thành nhà sư thì ta cũng thành nhà sư như họ. Nếu họ thành Chư thiên thì ta cũng thành Chư thiên như họ. Nếu họ thành nhân loại thì ta cũng thành nhân loại như họ. Nếu họ có hình sắc thì ta cũng có hình sắc như họ. Nếu họ không hình sắc thì ta cũng không hình sắc như họ. Nếu họ có tưởng thì ta cũng có tưởng như họ. Nếu họ không có tưởng thì ta cũng không có tưởng như họ. Nếu họ phi tưởng phi phi tưởng thì ta cũng phi tưởng phi phi tưởng như họ. Như thế gọi là cũng muốn rằng ta thành bằng cách ấy.

1037.

Cũng muốn rằng ta thành với cách ấy ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác rằng họ thành vua chúa, ta không đặng thành vua chúa như họ. Hoặc họ thành Phạm chí, ta không thành Phạm chí như họ. Hoặc họ thành y sĩ, ta không thành y sĩ như họ. Hoặc họ thành cận thắng tiện dân, ta không thành cận thắng tiện dân như họ. Hoặc họ thành cư sĩ, ta không đặng thành cư sĩ như họ. Hoặc họ thành nhà sư, ta không đặng thành nhà sư như họ. Hoặc họ thành Chư thiên, ta không đặng thành Chư thiên như họ. Hoặc họ thành nhân loại, ta không thành nhân loại như họ. Hoặc họ có hình sắc, ta không có hình sắc như họ. Hoặc họ không có hình sắc, ta chẳng phải không có hình sắc như họ. Hoặc họ có tưởng, ta không có tưởng như họ. Hoặc họ không có tưởng, ta chẳng phải không có tưởng như họ. Hoặc họ phi tưởng phi phi tưởng, ta chẳng phải phi tưởng phi phi tưởng như họ. Những cách ấy gọi là muốn rằng ta thành với cách khác.

1038.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành đó ra sao? Tức là không phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau. Đặng muốn rằng ta sẽ thành, đặng ỷ rằng ta sẽ thành, đặng nhận thấy rằng ta sẽ thành. Khi cả ba pháp đó vẫn có thì pháp thành cơ quan trì hưỡn. Những thế là ta sẽ thành bằng cách nầy, hoặc ta sẽ thành bằng cách đó, hoặc ta sẽ thành bằng cách kia cũng vẫn có.

1039.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành bằng cách nầy đó ra sao? Như là muốn rằng ta sẽ thành vua chúa, hoặc ta sẽ thành Phạm chí, sẽ thành y sĩ, hoặc sẽ thành cận thắng tiện dân (thợ săn), sẽ thành cư sĩ, hoặc sẽ thành nhà sư, sẽ thành chư thiên, hoặc sẽ thành nhân loại, sẽ có hình sắc, hoặc sẽ không hình sắc, hoặc sẽ có tưởng, hoặc sẽ không có tưởng, hoặc sẽ có phi tưởng phi phi tưởng. Những cách ấy gọi là muốn rằng ta sẽ thành bằng cách nầy.

1040.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành cách ấy là sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta cũng thành vua chúa như nhau. Hoặc họ thành Phạm chí, ta cũng sẽ thành Phạm chí như nhau ... Hoặc họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng có phi tưởng phi phi tưởng như họ. Cách ấy gọi là muốn rằng ta sẽ thành cách ấy.

1041.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành bằng cách khác đó ra sao? Như là muốn sanh ra bởi so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta sẽ không đặng thành vua chúa như họ. Nếu họ thành Phạm chí ta sẽ không đặng thành Phạm chí như họ. Nếu họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta sẽ không thành người có phi tưởng phi phi tưởng. Cách ấy gọi là muốn rằng ta sẽ thành với cách khác.

1042.

Cũng muốn rằng ta thành nhất định đó ra sao? Tức là phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau, có muốn rằng ta trường tồn, ta lâu dài, ta nhất định, ta không có sự thay đổi như thông thường. Cách ấy gọi là muốn rằng ta nhất định.

1043.

Cũng muốn rằng ta không nhất định đó ra sao? Tức là không phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã rời nhau, có muốn rằng ta sẽ tiêu diệt, ta sẽ tiêu tàn, ta sẽ không có. Cách ấy gọi là muốn rằng ta không nhất định.

1044.

Cũng muốn rằng ta phải thành đó ra sao? Tức là không phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức lìa nhau rồi đặng muốn rằng ta phải thành, đặng ỷ rằng ta phải thành, đặng nhận thấy rằng ta phải thành. Khi có cả ba pháp đó là pháp thành cơ quan đình đải. Những thế gọi là ta phải đặng bằng cách ấy, hoặc ta phải đặng bằng cách đó, hoặc ta phải đặng bằng cách khác cũng vẫn có.

1045.

Cũng muốn rằng ta phải thành bằng cách ấy đó ra sao? Như là muốn ta phải thành vua chúa, hoặc phải thành Phạm chí, phải thành y sĩ, hoặc phải thành cận thắng tiện dân, phải thành cư sĩ, hoặc phải thành bực xuất gia, phải thành chư thiên, hoặc phải thành nhân loại, phải có hình sắc, hoặc phải không hình sắc, phải có tưởng, hoặc không có tưởng, hoặc phải đến phi tưởng phi phi tưởng. Những thứ nầy gọi là muốn rằng ta phải thành bằng cách ấy.

1046.

Cũng muốn rằng ta phải thành thứ đó ra sao? Như là muốn phát sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta cũng phải thành vua chúa như họ. Hoặc họ thành Phạm chí, ta cũng thành Phạm chí như họ ... Hoặc họ đến phi tưởng phi phi tưởng ta cũng phải đến phi tưởng phi phi tưởng như họ. Cách ấy gọi là muốn rằng ta phải thành thứ đó.

1047.

Cũng muốn rằng ta phải thành bằng cách khác đó ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta không nên thành vua chúa như họ. Hoặc họ thành Phạm chí ta không nên thành Phạm chí như họ ... Hoặc họ đến phi tưởng phi phi tưởng ta không nên đến phi tưởng phi phi tưởng như họ. Cách ấy gọi là muốn rằng ta phải thành bằng với cách khác.

1048.

Cũng muốn rằng ta hoặc phải thành đó ra sao? Tức là không phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau đặng muốn như vầy: Hoặc ta phải thành, đặng ỷ rằng ta phải thành, hoặc nhận thấy rằng ta phải thành. Khi ba pháp đó vẫn có là pháp thành cơ quan đình đải. Những thế là ta hoặc cũng nên thành bằng cách ấy, hoặc cũng nên thành bằng thứ đó, hoặc cũng nên thành bằng cách khác cũng vẫn có.

1049.

Cũng muốn rằng hoặc ta phải thành với cách ấy ra sao? Như là muốn rằng hoặc ta cũng phải thành vua chúa, hoặc ta cũng phải thành Phạm chí, hoặc ta phải thành y sĩ, hoặc phải thành cận thắng tiện dân, hoặc phải thành cư sĩ, hoặc phải thành bực xuất gia, hoặc phải thành chư thiên, hoặc phải thành nhân loại, hoặc phải thành có hình sắc, hoặc phải thành không có hình sắc, hoặc phải có tưởng, hoặc phải không có tưởng, hoặc phải đến phi tưởng phi phi tưởng. Như thế gọi là muốn rằng hoặc ta phải thành bằng cách ấy.

1050.

Cũng muốn rằng hoặc ta phải thành thứ đó ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta hoặc cũng thành vua chúa như họ; hoặc họ thành Phạm chí, hoặc ta cũng phải thành Phạm chí như họ ... Hoặc họ đến phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng hoặc đến phi tưởng phi phi tưởng như họ. Thế gọi là muốn rằng hoặc ta phải thành thứ đó.

1051.

Cũng muốn rằng hoặc ta phải thành bằng cách khác đó ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta cũng không thể thành vua chúa như họ, hoặc họ thành Phạm chí, ta cũng không thể thành Phạm chí như họ ... Hoặc họ đến phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng không thể đến phi tưởng phi phi tưởng như thế.

Những thế gọi là thập bát ái du hành nương ngũ uẩn bên trong (aṭṭhārasa taṅhāvicaritāni ajjhattikassa upādāya).

1052.

Thập bát du hành nương ngũ uẩn bên ngoài đó ra sao? 1) Là muốn rằng ta có với hình sắc… luôn thức ấy; 2) là muốn rằng ta thành bằng cách ấy với hình sắc ấy… luôn thức ấy; 3) là muốn rằng ta thành thứ đó bằng hình sắc… luôn thức ấy; 4) là muốn rằng ta thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy; 5) là muốn rằng ta sẽ thành với hình sắc… luôn thức ấy; 6) là muốn rằng ta sẽ thành bằng cách ấy với hình sắc… luôn thức ấy; 7) là muốn rằng ta sẽ thành thứ đó bằng hình sắc … luôn thức ấy; 8) là muốn rằng ta sẽ thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy; 9) là muốn rằng ta nhất định với hình sắc… luôn thức ấy; 10) là muốn rằng ta không nhất định với hình sắc… luôn thức ấy; 11) là muốn rằng ta nên thành với hình sắc… luôn thức ấy; 12) là muốn rằng ta nên thành bằng cách ấy với hình sắc… luôn thức ấy; 13) là muốn rằng ta nên thành thứ đó bằng hình sắc… luôn thức ấy; 14) là muốn rằng ta phải thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy; 15) là muốn rằng ta phải thành với hình sắc… luôn thức ấy; 16) là muốn rằng ta phải thành bằng cách ấy với hình sắc… luôn thức ấy; 17) là muốn rằng ta phải thành thứ đó bằng hình sắc… luôn thức ấy; 18) là muốn rằng ta phải thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy.

1053.

Cũng muốn rằng ta có với hình sắc… luôn thức ấy ra sao? Tức là phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau đặng muốn rằng ta có với sắc… luôn thức ấy. Đặng ỷ rằng ta có với hình sắc… luôn thức ấy. Đặng kiến thức rằng ta có với hình sắc… luôn thức ấy. Khi cả ba pháp đó có cách cơ quan đình trệ. Những thế như vầy là ta có bằng cách ấy với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc ta thành thứ đó với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc ta thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy cũng vẫn có.

1054.

Cũng muốn rằng ta thành bằng cách ấy với hình sắc… luôn thức ấy đó ra sao? Như là muốn rằng ta thành vua chúa với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc thành Phạm chí với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc thành y sĩ với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc thành cận thắng tiện dân với hình sắc ấy… luôn thức ấy. Thành cư sĩ với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc thành bực xuất gia với hình sắc… luôn thức ấy. Thành Chư thiên với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc thành nhân loại với hình sắc… luôn thức ấy. Có sắc với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc không có sắc với hình sắc… luôn thức ấy. Có tưởng với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc không có tưởng với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… luôn thức ấy. Hoặc không có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… luôn thức ấy.

Những cách nầy gọi là muốn rằng ta thành bằng cách ấy với hình sắc… luôn thức ấy.

1055.

Cũng muốn rằng ta thành với thứ đó với hình sắc… hoặc thức ấy ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta cũng thành vua chúa với hình sắc… hoặc thức ấy như nhau. Nếu họ thành Phạm chí, ta cũng thành Phạm chí với hình sắc… hoặc thức ấy như nhau. Họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… hoặc thức ấy như nhau. Cách nầy gọi là muốn rằng ta thành thứ đó với hình sắc… hoặc thức ấy.

1056.

Cũng muốn rằng ta thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy là thế nào? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta cũng thành vua chúa như họ với hình sắc… luôn thức ấy. Nếu họ thành Phạm chí, ta thành Phạm chí như họ với hình sắc… luôn thức ấy. Nếu họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta có phi tưởng phi phi tưởng như họ với hình sắc… luôn thức ấy cũng là vô lý. Thế nầy gọi là muốn rằng ta thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy.

1057.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành với hình sắc… luôn thức ấy ra sao? Tức là phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau đặng muốn rằng ta sẽ thành với sắc… luôn thức ấy. Đặng ỷ rằng ta sẽ thành với hình sắc… luôn thức ấy. Đặng nhận thấy rằng ta sẽ thành với hình sắc… luôn thức ấy. Khi có ba pháp đó thành cơ quan đình trệ. Những ấy như thế là ta sẽ thành bằng cách nầy với hình thức… cũng là thức ấy. Hoặc ta sẽ thành thứ đó với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc ta sẽ thành bằng cách khác với hình sắc… cũng là thức ấy, thế vẫn có.

1058.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành bằng cách nầy với hình sắc… cũng là thức ấy đó ra sao? Như là muốn rằng ta sẽ thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc ta sẽ thành Phạm chí với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc ta sẽ thành y sĩ với hình sắc… cùng thức ấy. Hoặc sẽ thành cận thắng tiện dân với hình sắc… cũng là thức ấy. Sẽ thành cư sĩ với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc sẽ thành bực xuất gia với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc sẽ không có sắc với hình sắc… cùng thức ấy. Sẽ thành Chư thiên với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc sẽ thành nhân loại với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc sẽ có sắc với hình sắc… cũng là thức ấy. Sẽ có tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc sẽ không có tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc sẽ có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy. Những thế gọi là muốn rằng ta sẽ thành bằng cách nầy với hình sắc… cũng là thức ấy.

1059.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành thứ đó với hình sắc… luôn thức ấy như thế nào? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta cũng sẽ thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức đó như nhau. Hoặc họ thành Phạm chí, ta cũng sẽ thành Phạm chí với hình sắc… cũng là thức ấy như nhau. Hoặc họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng sẽ có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy như nhau. Thế nầy gọi là muốn rằng ta sẽ thành thứ đó với hình sắc… cũng là thức ấy.

1060.

Cũng muốn rằng ta sẽ thành bằng cách khác với hình sắc… luôn thức ấy như thế nào? Như là muốn sanh ra bởi so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta sẽ không thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức ấy như họ. Hoặc họ thành Phạm chí, ta sẽ không thành Phạm chí với hình sắc… cũng là thức ấy như họ. Hoặc họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta sẽ không có phi tưởng phi phi tưởngvới hình sắc… cũng là thức ấy như họ là vô lý. Thế nầy gọi là muốn rằng ta sẽ thành bằng cách khác với hình sắc… cũng là thức ấy.

1061.

Cũng muốn rằng ta nhất định với hình sắc… luôn thức ấy như thế nào? Tức là phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau có sự muốn rằng ta trường tồn, ta vĩnh viễn, ta nhất định, ta không có sự thay đổi theo lẽ thường với hình sắc… cũng là thức ấy. Thế nầy gọi là muốn rằng ta nhất định với hình sắc… cũng là thức ấy.

1062.

Cũng muốn rằng ta không nhất định với hình sắc… luôn thức ấy như thế nào? Tức là phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau, có muốn rằng ta sẽ tiêu mất, ta sẽ điêu tàn, ta sẽ không có với hình sắc… cũng là thức ấy. Cách nầy gọi là muốn rằng ta không nhất định với hình sắc… luôn thức ấy.

1063.

Cũng muốn rằng ta phải thành với hình sắc… cũng là thức ấy như thế ra sao? Tức là phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau đặng muốn rằng ta phải thành với hình sắc… cũng là thức ấy. Đặng ỷ rằng ta phải thành với hình sắc… cũng là thức ấy. Đặng nhận thấy rằng ta phải thành với hình sắc… cũng là thức ấy. Khi có cả ba pháp đó là pháp cơ quan đình đải những pháp ấy như vầy: Ta phải thành bằng cách nầy với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc ta phải thành thứ đó với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc ta cũng thành bằng cách khác với hình sắc… cũng là thức ấy vẫn có.

1064.

Cũng muốn rằng ta phải thành bằng cách nầy với hình sắc… cũng là thức ấy như thế ra sao? Như là muốn rằng ta phải thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc phải Phạm chí bằng hình sắc… cũng là thức ấy. Phải thành y sĩ với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc phải thành cận thắng tiện dân với hình sắc… cũng là thức ấy. Phải thành cư sĩ với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc phải thành bực xuất gia với hình sắc… cũng là thức ấy. Phải thành Chư thiên với hình sắc… cũng là thức ấy. Phải thành nhân loại với hình sắc… cũng là thức ấy. Phải thành người có sắc với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc phải thành người không có hình sắc… cũng là thức ấy. Phải thành người hữu tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc thành người vô tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc phải thành người có phi tưởng phi phi tưởng… cũng là thức ấy. Cách nầy gọi là muốn rằng ta phải thành bằng cách nầy với hình sắc… cũng là thức ấy.

1065.

Cũng muốn rằng ta phải thành thứ đó với hình sắc… cũng là thức ấy như thế ra sao? Như là muốn sanh ra bởi so sánh với người khác rằng họ thành vua chúa, ta cũng phải thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức ấy như họ. Hoặc họ thành Phạm chí, ta cũng thành Phạm chí với hình sắc… cũng là thức ấy như nhau. Hoặc họ có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy như họ. Những cách nầy gọi là muốn rằng ta phải thành thứ đó với hình sắc… cũng là thức đó.

1066.

Cũng muốn rằng ta phải thành bằng cách khác nhau với hình sắc… cũng là thức ấy ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta không nên thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức ấy như họ. Hoặc họ thành Phạm chí, ta không nên thành Phạm chí với hình sắc… cũng là thức ấy như họ. Hoặc họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta không nên có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy như họ. Thế nầy gọi là muốn rằng ta phải thành bằng cách khác với hình sắc… cũng là thức ấy.

1067.

Cũng muốn rằng ta phải thành với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy những thế ra sao? Tức là phân một pháp nào như là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã lìa nhau, đặng muốn rằng ta phải thành với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Đặng ỷ rằng ta phải thành với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Đặng kiến thức như vầy ta phải thành với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Khi có cả ba pháp đó là cơ quan đình đải rằng ta phải thành bằng cách nầy với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Hoặc ta phải thành thứ đó bằng hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Hoặc ta phải thành bằng cách khác với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy cũng vẫn có.

1068.

Cũng muốn rằng ta phải thành bằng cách nầy với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy những thế ra sao? Như là muốn rằng ta phải thành vua chúa với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Hoặc phải thành Phạm chí với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Ta phải thành y sĩ với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Hoặc phải thành cận thắng tiện dân với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Ta phải thành cư sĩ với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Hoặc phải thành bực xuất gia với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Ta phải thành Chư thiên với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Hoặc ta phải thành nhân loại với hình sắc… cũng là thức ấy. Ta phải có sắc với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc ta không có hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Ta phải có tưởng với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Hoặc phải không có tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy. Hoặc phải có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… cũng là thức ấy. Như thế gọi là muốn rằng ta phải thành bằng cách nầy với hình sắc… cũng là thức ấy.

1069.

Cũng muốn rằng ta phải thành thứ đó với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy những thế ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta cũng thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức ấy như nhau. Nếu họ thành Phạm chí, ta cũng phải thành Phạm chí với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy như nhau. Nếu họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng phải có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy như nhau. Cách nầy gọi là muốn rằng ta thành thứ đó với hình thức… cũng là thức ấy.

1070.

Cũng muốn rằng ta phải thành bằng cách khác với hình sắc… cũng là thức ấy những thế ra sao? Như là muốn sanh ra do so sánh với người khác như vầy: Họ thành vua chúa, ta không thành vua chúa với hình sắc… cũng là thức ấy. Nếu họ thành Phạm chí thì ta không nên thành Phạm chí như họ với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Nếu họ có phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng không nên có phi tưởng phi phi tưởng với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy. Thế nầy gọi là muốn rằng ta phải thành bằng cách khác với hình sắc… hoặc cũng là thức ấy.

Những thế gọi là thập bát ái du hành nương ngũ uẩn bên ngoài (aṭṭhārasa taṅhāvicaritāni bāhirassa upālāya).

1071.

Ái du hành nương ngũ uẩn bên trong có 18 và ái du hành nương ngũ uẩn bên ngoài cũng có 18, cộng lại thành 36 ái du hành. Nói theo thời quá khứ có 36, thời vị lai có 36, thời hiện tại cũng có 36, cộng lại thành ái du hành có 108.

1072.

Trong những đầu đề, mà 62 tà kiến Đức Phật ngài thuyết trong Kinh Phạm Võng đó ra sao? Như là tứ thường kiến (sassatavādā), tứ thường vô thường kiến (ekaccasassatikā), tứ vô gián kiến (antānantikā), tứ vô ký kiến (amarāvikkhepikā), nhị vô nhân sanh kiến (adhaccasamuppannikā), thập lục tưởng kiến (saññivādā), bát vô tưởng kiến (asaññivādā), bát phi tưởng phi phi tưởng kiến (novasaññinā-saññivādā), thất đoạn kiến (ucchedavādā), ngũ Níp-bàn hiện tại kiến (diṭṭhidham-mahibbānavādā).

62 tà kiến mà Đức Phật ngài thuyết trong Phạm Võng Kinh bằng cách như thế.

Dứt Tiểu tông phân tích

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~