Bạch chư đại đức, chín mươi hai điều pācittiya này được đưa ra đọc tụng.

6.1. PHẨM NÓI DỐI

  1. Điều học về nói dối
  2. Điều học về nói lời mắng nhiếc
  3. Điều học về nói đâm thọc
  4. Điều học về Pháp theo từng câu
  5. Điều học thứ nhất về nằm chung chỗ ngụ
  6. Điều học thứ nhì về nằm chung chỗ ngụ
  7. Điều học về thuyết Pháp
  8. Điều học về tuyên bố sự thực chứng
  9. Điều học về công bố tội xấu
  10. Điều học về việc đào đất

6.1.1. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI DỐI

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Hatthaka con trai dòng Sakya[1] nói năng tráo trở. Trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, vị ấy phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời. Những người ngoại đạo phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao Hatthaka con trai dòng Sakya trong khi nói chuyện với chúng tôi lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời?”

2. Các tỳ khưu đã nghe được những người ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp Hatthaka con trai dòng Sakya, sau khi đến đã nói với Hatthaka con trai dòng Sakya điều này: - “Này đại đức Hatthaka, nghe nói trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, đại đức phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời, có đúng không vậy?” - “Này các đại đức, những người ngoại đạo ấy cần bị đánh bại bằng bất cứ cách nào, sự chiến thắng là không bao giờ được dành cho bọn họ.” Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao Hatthaka con trai dòng Sakya trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời?”

3. Sau đó, khi đã khiển trách Hatthaka con trai dòng Sakya bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi Hatthaka con trai dòng Sakya rằng: - “Này Hatthaka, nghe nói trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, ngươi phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, ngươi lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố tình nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.”

4. Sau đó, khi đã khiển trách vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức Ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế thì Ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Khi cố tình nói dối thì phạm tội pācittiya.”

5. Cố tình nói dối nghĩa là lời nói, tiếng nói, cách nói, lời phát biểu, sự biểu hiện bằng lời nói của vị có ý định lừa dối có tám cách không thánh thiện là: Không thấy (nói rằng): “Tôi đã thấy,” không nghe (nói rằng): “Tôi đã nghe,” không cảm giác (nói rằng): “Tôi đã cảm giác,” không nhận thức (nói rằng): “Tôi đã nhận thức,” đã thấy (nói rằng): “Tôi đã không thấy,” đã nghe (nói rằng): “Tôi đã không nghe,” đã cảm giác (nói rằng): “Tôi đã không cảm giác,” đã nhận thức (nói rằng): “Tôi đã không nhận thức.”

Không thấy nghĩa là không được thấy bởi mắt. Không nghe nghĩa là không được nghe bởi tai. Không cảm giác nghĩa là không được ngửi bởi mũi, (và) không được nếm bởi lưỡi, (và) không được xúc chạm bởi thân. Không nhận thức nghĩa là không được nhận thức bởi ý. Đã thấy nghĩa là đã được thấy bởi mắt. Đã nghe nghĩa là đã được nghe bởi tai. Đã cảm giác nghĩa là đã được ngửi bởi mũi, (hoặc) đã được nếm bởi lưỡi, (hoặc) đã được xúc chạm bởi thân. Đã nhận thức nghĩa là đã được nhận thức bởi ý.

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”

Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm.

Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi.

Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát.

Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe” về điều đã không nghe ―(như trên)― “Tôi đã cảm giác” về điều đã không cảm giác ―(như trên)― “Tôi đã nhận thức” về điều đã không nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”

Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe” về điều đã không nghe ―(như trên)― “Tôi đã cảm giác” về điều đã không cảm giác ―(như trên)― “Tôi đã nhận thức” về điều đã không nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã cảm giác” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nhận thức” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” về điều đã không thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã thấy, đã nghe, và đã nhận thức” về điều đã không thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã thấy, đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” về điều đã không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe và đã cảm giác” về điều đã không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe và đã nhận thức” về điều đã không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe và đã thấy” về điều đã không nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” về điều đã không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe, đã cảm giác, và đã thấy” về điều đã không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe, đã cảm giác, đã nhận thức, và đã thấy” về điều đã không nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác và đã nhận thức” về điều đã không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác và đã thấy” về điều đã không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác và đã nghe” về điều đã không cảm giác bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, và đã thấy” về điều đã không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, và đã nghe” về điều đã không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, đã thấy, và đã nghe” về điều đã không cảm giác ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã thấy” về điều đã không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức và đã nghe” về điều đã không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức và đã cảm giác” về điều đã không nhận thức bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức, đã thấy, và đã nghe” về điều đã không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức, đã thấy, và đã cảm giác” về điều đã không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức, đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” về điều đã không nhận thức bị phạm tội pācittiya ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không thấy” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.” Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không thấy” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không nghe” về điều đã nghe ―(như trên)― “Tôi đã không cảm giác” về điều đã cảm giác ―(như trên)― “Tôi đã không nhận thức” về điều đã nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.” Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã không nghe” về điều đã nghe ―(như trên)― “Tôi đã không cảm giác” về điều đã cảm giác ―(như trên)― “Tôi đã không nhận thức” về điều đã nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe” về điều đã thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác” về điều đã thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nghe và đã cảm giác” về điều đã thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe và đã nhận thức” về điều đã thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” về điều đã thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác” về điều đã nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức” về điều đã nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã thấy” về điều đã nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã cảm giác và đã nhận thức” về điều đã nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác và đã thấy” về điều đã nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác, đã nhận thức, và đã thấy” về điều đã nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức” về điều đã cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã thấy” về điều đã cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe” về điều đã cảm giác bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã thấy” về điều đã cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức và đã nghe” về điều đã cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nhận thức, đã thấy và đã nghe” về điều đã cảm giác bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá:”Tôi đã thấy” về điều đã nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã nghe” về điều đã nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã cảm giác” về điều đã nhận thức bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe” về điều đã nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã thấy và đã cảm giác” về điều đã nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” về điều đã nhận thức bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị có hoài nghi về điều đã thấy, không tin điều đã thấy, không nhớ về điều đã thấy, quên điều đã thấy lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe” bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã thấy và đã nghe, đã cảm giác, và đã nhận thức” bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― vị có hoài nghi về điều đã nghe, không tin điều đã nghe, không nhớ về điều đã nghe, quên điều đã nghe ―(như trên)― vị có hoài nghi về điều đã cảm giác, không tin điều đã cảm giác, không nhớ về điều đã cảm giác, quên điều đã cảm giác ―(như trên)―

Với ba yếu tố, vị có hoài nghi về điều đã nhận thức, không tin điều đã nhận thức, không nhớ về điều đã nhận thức, quên điều đã nhận thức lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức và đã thấy” ―(như trên)― quên điều đã nhận thức ... “Tôi đã nhận thức và đã nghe” ―(như trên)― quên điều đã nhận thức ... “Tôi đã nhận thức và đã cảm giác” ―(như trên)― quên điều đã nhận thức ... “Tôi đã nhận thức, đã thấy, và đã nghe” ―(như trên)― quên điều đã nhận thức ... “Tôi đã nhận thức, đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói.”

Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, ... quên điều đã nhận thức lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã nhận thức, đã thấy, đã nghe, và đã cảm giác” bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đã nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đã được ta nói,” đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.

Vị nói không suy nghĩ, vị nói theo thói quen ― Nói không suy nghĩ nghĩa là nói vội (nói nhanh). Nói theo thói quen nghĩa là (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nói điều này’ lại nói điều khác ― vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về nói dối là thứ nhất.

--ooOoo--

6.1.2. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI LỜI MẮNG NHIẾC

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện đã mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo sự vi phạm, lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)―, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện lại mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo sự vi phạm, lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện?”

2. Sau đó, khi đã khiển trách các tỳ khưu nhóm Lục Sư bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện đã mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, ―(như trên)―lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện, có đúng không vậy?”

- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi trong khi cãi cọ với các tỳ khưu hiền thiện lại mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, ―(như trên)― lại còn chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:

3. - Này các tỳ khưu, vào thời trước đây ở thành Takkasilā có người Bà-la-môn nọ có con bò mộng tên là Nandivisāla. Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã nói với người Bà-la-môn ấy điều này: “Này Bà-la-môn, hãy đi và hãy đánh cá với nhà phú thương một ngàn (nói rằng): Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.” Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy đã đánh cá với nhà phú thương một ngàn (nói rằng): “Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.” Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy đã nối liền một trăm xe kéo lại với nhau rồi máng con bò mộng Nandivisāla vào và đã nói điều này: “Này đồ xạo, hãy kéo đi. Này đồ xạo, hãy lôi đi.” Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã đứng yên ngay tại chỗ ấy. Này các tỳ khưu, khi ấy người Bà-la-môn ấy bị thua một ngàn nên đã rầu rĩ.

4. Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã nói với người Bà-la-môn ấy điều này: “Này Bà-la-môn, vì sao ngươi lại rầu rĩ vậy?” “Này ông bò, bởi vì do ông mà ta đã bị thua một ngàn như thế.” “Này Bà-la-môn, vì sao ngươi lại bôi xấu ta bằng cách nói đồ xạo (trong khi) ta là kẻ không xạo? Này Bà-la-môn, ngươi hãy đi và hãy đánh cá với nhà phú thương hai ngàn (nói rằng): ‘Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.’ Và chớ có bôi xấu ta bằng cách nói đồ xạo (trong khi) ta là kẻ không xạo.” Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy đã đánh cá với nhà phú thương hai ngàn (nói rằng): “Con bò mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.”

5. Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy sau khi nối liền một trăm xe kéo lại với nhau rồi đã máng con bò mộng Nandivisāla vào và đã nói điều này: “Này bạn hiền, hãy kéo đi. Này bạn hiền, hãy lôi đi.” Này các tỳ khưu, khi ấy con bò mộng Nandivisāla đã lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.

6. Nên nói chỉ toàn lời hòa nhã, không nói lời không hòa nhã vào bất cứ lúc nào. (Con bò) đã lôi đi gánh hàng nặng cho người nói lời hòa nhã, và đã đạt được tài sản cho người ấy, và nhờ thế nó đã được hoan hỷ.

Này các tỳ khưu, ngay từ thời ấy sự chửi rủa và sự khinh bỉ đã không làm ta hài lòng, thì hiện nay điều gì khiến cho sự chửi rủa và sự khinh bỉ sẽ làm ta hài lòng? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Khi nói lời mắng nhiếc thì phạm tội pācittiya.”

7. Lời mắng nhiếc nghĩa là mắng nhiếc theo mười biểu hiện: theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo sự vi phạm, và bằng sự sỉ vả.

8. Sự sanh ra nghĩa là có hai sự sanh ra: sự sanh ra thấp kém và sự sanh ra cao quý. Sự sanh ra thấp kém nghĩa là sự sanh ra của hạng cùng đinh, sự sanh ra của hạng đan tre, sự sanh ra của hạng thợ săn, sự sanh ra của hạng làm xe, sự sanh ra của hạng hốt rác; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra thấp kém. Sự sanh ra cao quý là sự sanh ra của hạng Sát-đế-lỵ và sự sanh ra của Bà-la-môn; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra cao quý.

9. Tên gọi nghĩa là có hai loại tên gọi: tên gọi thấp kém và tên gọi cao quý. Tên gọi thấp kém nghĩa là tên Avakaṇṇaka, Javakaṇṇaka, Dhaniṭṭhaka, Saviṭṭhaka, Kulavaḍḍhaka, hoặc là (tên gọi) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; tên gọi ấy gọi là tên gọi thấp kém. Tên gọi cao quý nghĩa là được gắn liền với từ Buddha (đức Phật), được gắn liền với từ Dhamma (Giáo Pháp), được gắn liền với từ Saṅgha (Hội Chúng), hoặc là (tên gọi) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; tên gọi ấy gọi là tên gọi cao quý.

10. Dòng họ nghĩa là có hai loại dòng họ: dòng họ thấp kém và dòng họ cao quý. Dòng họ thấp kém nghĩa là dòng họ Kosiya, dòng họ Bhāradvāja, hoặc là (dòng họ) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; dòng họ ấy gọi là dòng họ thấp kém. Dòng họ cao quý nghĩa là dòng họ Gotama, dòng họ Moggallāna, dòng họ Kaccāna, dòng họ Vāseṭṭha, hoặc là (dòng họ) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; dòng họ ấy gọi là dòng họ cao quý.

11. Công việc nghĩa là có hai loại công việc: công việc thấp kém và công việc cao quý. Công việc thấp kém nghĩa là công việc của thợ mộc, công việc hốt dọn bông hoa, hoặc là (công việc) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; công việc ấy gọi là công việc thấp kém. Công việc cao quý nghĩa là việc đồng áng, việc thương buôn, việc chăn bò, hoặc là (công việc) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng trong những xứ sở ấy; công việc ấy gọi là công việc cao quý.

12. Nghề nghiệp nghĩa là có hai loại nghề nghiệp: nghề nghiệp thấp kém và nghề nghiệp cao quý. Nghề nghiệp thấp kém nghĩa là nghề đan tre, nghề làm gốm, nghề thợ dệt, nghề thuộc da, nghề hớt tóc, hoặc là (nghề nghiệp) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; nghề nghiệp ấy gọi là nghề nghiệp thấp kém. Nghề nghiệp cao quý nghĩa là nghề quản lý, nghề kế toán, nghề thư ký, hoặc là (nghề nghiệp) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng trong những xứ sở ấy; nghề nghiệp ấy gọi là nghề nghiệp cao quý.

13. Tất cả các bệnh tật là thấp kém, tuy nhiên bệnh tiểu đường là cao quý.

14. Đặc điểm nghĩa là có hai đặc điểm: đặc điểm thấp kém và đặc điểm cao quý. Đặc điểm thấp kém nghĩa là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng; đặc điểm ấy gọi là đặc điểm thấp kém. Đặc điểm cao quý nghĩa là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng; đặc điểm ấy gọi là đặc điểm cao quý.

15. Tất cả các phiền não là thấp kém.

16. Tất cả các sự vi phạm (āpatti) là thấp kém. Tuy nhiên, sự vi phạm vào dòng Thánh (quả vị Nhập Lưu) và sự tự mình vi phạm (sự chứng đạt) là cao quý.[2]

17. Sự sỉ vả nghĩa là có hai sự sỉ vả: sự sỉ vả thấp kém và sự sỉ vả cao quý. Sự sỉ vả thấp kém nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò , ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi,” đệm vào tiếng ‘ya,’[3] hoặc đệm vào tiếng ‘bha,’ hoặc gọi là ‘kāṭa’ đối với người nam và ‘koṭacikā’ đối với người nữ; sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả thấp kém. Sự sỉ vả cao quý nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả cao quý.

18. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

19. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

20. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Sát-đế-lỵ, ngươi là Bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

21. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Sát-đế-lỵ, ngươi là Bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

22. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) thấp kém là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Avakaṇṇaka, ngươi là Javakaṇṇaka, ngươi là Dhaniṭṭhaka, ngươi là Saviṭṭhaka, ngươi là Kulavaḍḍhaka;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

23. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) cao quý là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Avakaṇṇaka, ngươi là Javakaṇṇaka, ngươi là Dhaniṭṭhaka, ngươi là Saviṭṭhaka, ngươi là Kulavaḍḍhaka;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

24. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) thấp kém là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Buddharakkhita, ngươi là Dhammarakkhita, ngươi là Saṅgharakkhita;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

25. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có tên gọi) cao quý là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita, rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Buddharakkhita, ngươi là Dhammarakkhita, ngươi là Saṅgharakkhita;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

26. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) thấp kém là Kosiya, là Bhāradvāja rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Kosiya, ngươi là Bhāradvāja;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

27. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) cao quý là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Kosiya, ngươi là Bhāradvāja;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

28. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) thấp kém là Kosiya, là Bhāradvāja rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Gotama, ngươi là Moggallāna, ngươi là Kaccāna, ngươi là Vāseṭṭha;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

29. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có dòng họ) cao quý là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là Gotama, ngươi là Moggallāna, ngươi là Kaccāna, ngươi là Vāseṭṭha;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

30. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có công việc) thấp kém là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ mộc, ngươi là người hốt dọn bông hoa;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

31. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có công việc) cao quý là nông phu, thương buôn, người chăn bò rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ mộc, ngươi là người hốt dọn bông hoa;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

32. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có công việc) thấp kém là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là nông phu, ngươi là thương buôn, ngươi là người chăn bò;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

33. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có công việc) cao quý là nông phu, thương buôn, người chăn bò rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là nông phu, ngươi là thương buôn, ngươi là người chăn bò;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

34. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) thấp kém là nghề đan tre, nghề làm gốm, nghề thợ dệt, nghề thuộc da, nghề hớt tóc rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ đan tre, ngươi là thợ làm gốm, ngươi là thợ dệt, ngươi là thợ thuộc da, ngươi là thợ hớt tóc;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

35. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) cao quý là quản lý, kế toán, thư ký rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ đan tre, ngươi là thợ làm gốm, ngươi là thợ dệt, ngươi là thợ thuộc da, ngươi là thợ hớt tóc;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

36. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) thấp kém là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là quản lý, ngươi là kế toán, ngươi là thư ký;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

37. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) cao quý là quản lý, kế toán, thư ký rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là quản lý, ngươi là kế toán, ngươi là thư ký;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

38. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có bệnh tật) thấp kém là bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là người bệnh cùi, ngươi là người bệnh mụt nhọt, ngươi là người bệnh chàm, ngươi là người bệnh lao phổi, ngươi là người bệnh động kinh;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

39. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có bệnh tật) cao quý là bệnh tiểu đường rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là người bệnh cùi, ngươi là người bệnh mụt nhọt, ngươi là người bệnh chàm, ngươi là người bệnh lao phổi, ngươi là người bệnh động kinh;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

40. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có bệnh tật) thấp kém là bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người bệnh tiểu đường;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

41. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có bệnh tật) cao quý là bệnh tiểu đường rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người bệnh tiểu đường;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

42. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) thấp kém là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là quá cao, ngươi là quá lùn, ngươi là quá đen, ngươi là quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

43. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) cao quý là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là quá cao, ngươi là quá lùn, ngươi là quá đen, ngươi là quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

44. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) thấp kém là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là không quá cao, ngươi là không quá lùn, ngươi là không quá đen, ngươi là không quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

45. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có đặc điểm) cao quý là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là không quá cao, ngươi là không quá lùn, ngươi là không quá đen, ngươi là không quá trắng;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

46. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) thấp kém bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi bị tham khuấy nhiễu, ngươi bị sân khuấy nhiễu, ngươi bị si khuấy nhiễu;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

47. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) cao quý là có tham đã lìa, có sân đã lìa, có si đã lìa rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi bị tham khuấy nhiễu, ngươi bị sân khuấy nhiễu, ngươi bị si khuấy nhiễu;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

48. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) thấp kém bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi có tham đã lìa, ngươi có sân đã lìa, ngươi có si đã lìa;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

49. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có nội tâm) cao quý là có tham đã lìa, có sân đã lìa, có si đã lìa rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi có tham đã lìa, ngươi có sân đã lìa, ngươi có si đã lìa;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

50. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự vi phạm) thấp kém là vi phạm tội pārājika, vi phạm tội saṅghādisesa, vi phạm tội thullaccaya, vi phạm tội pācittiya, vi phạm tội pāṭidesanīya, vi phạm tội dukkaṭa, vi phạm tội dubbhāsita rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi đã vi phạm tội pārājika, ngươi đã vi phạm tội saṅghādisesa, ngươi đã vi phạm tội thullaccaya, ngươi đã vi phạm tội pācittiya, ngươi đã vi phạm tội pāṭidesanīya, ngươi đã vi phạm tội dukkaṭa, ngươi đã vi phạm tội dubbhāsita;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

51. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự vi phạm) cao quý là vi phạm vào dòng Thánh (quả vị Nhập Lưu) rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi đã vi phạm tội pārājika, ―(như trên)― ngươi đã vi phạm tội dubbhāsita;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

52. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự vi phạm) thấp kém là vi phạm tội pārājika, ―(như trên)― vi phạm tội dubbhāsita rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi đã vi phạm vào dòng Thánh (Ngươi là bậc Nhập Lưu);” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

53. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (có sự vi phạm) cao quý là vi phạm vào dòng Thánh (quả vị Nhập Lưu) rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi đã vi phạm vào dòng Thánh (Ngươi là bậc Nhập Lưu);” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

54. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

55. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) cao quý là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

56. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

57. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) cao quý là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

58. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

59. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là Sát-đế-lỵ, là Bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

60. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị tên là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị tên là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị dòng họ là Kosiya, là Bhāradvāja;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị dòng họ là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là nông phu, thương buôn, người chăn bò;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là quản lý, kế toán, thư ký;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là người bệnh cùi, người bệnh mụt nhọt, người bệnh chàm, người bệnh lao phổi, người bệnh động kinh;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là người bệnh tiểu đường;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị có tham đã lìa, có sân đã lìa, có si đã lìa;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị đã vi phạm tội pārājika,” vị nói thì ―(như trên)― đã vi phạm tội dubbhāsita;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị đã vi phạm vào dòng Thánh (Ở đây, có một số vị là các bậc Nhập Lưu);” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục, không có cõi trời cho những người ấy, khổ cảnh chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

61.Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

62. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói. ―(như trên)―

63. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

64. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

65. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quý rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quý là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

66. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

67. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

68. Vị đã tu lên bậc trên có ý định chửi rủa, có ý định khinh bỉ, có ý định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

69. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

70. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

71. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là hạng Sát-đế-lỵ, ngươi là hạng Bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

72. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quý là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là hạng Sát-đế-lỵ, ngươi là hạng Bà-la-môn;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

73. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quý rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

74. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

75. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

76. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn vị đã tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

77. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quý rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quý rồi nói theo sự cao quý rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

78. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

79. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

80. Vị đã tu lên bậc trên không có ý định chửi rủa, không có ý định khinh bỉ, không có ý định hạ nhục, có ý muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói thì ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói thì phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.

81. Vị (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị (nói để) đề cập đến Pháp, vị (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về nói lời mắng nhiếc là thứ nhì.

--ooOoo--

6.1.3. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI ĐÂM THỌC

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đã nảy sanh sự xung đột, đã nảy sanh sự cãi cọ, đã tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)―, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đã nảy sanh sự xung đột, đã nảy sanh sự cãi cọ, đã tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa?”

2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đã nảy sanh sự xung đột, đã nảy sanh sự cãi cọ, đã tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đã nảy sanh sự xung đột, đã nảy sanh sự cãi cọ, đã tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; vì thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đã sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Khi (tạo ra) sự đâm thọc giữa các tỳ khưu thì phạm tội pācittiya.”

3. Sự đâm thọc nghĩa là sự đâm thọc vì hai nguyên do: của vị ao ước được thương hoặc là của vị có ý định chia rẽ. Vị tạo ra sự đâm thọc theo mười biểu hiện: theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo dòng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền não, theo sự vi phạm, và bằng sự sỉ vả.

4. Sự sanh ra nghĩa là có hai sự sanh ra: sự sanh ra thấp kém và sự sanh ra cao quý. Sự sanh ra thấp kém nghĩa là sự sanh ra của hạng cùng đinh, sự sanh ra của hạng đan tre, sự sanh ra của hạng thợ săn, sự sanh ra của hạng làm xe, sự sanh ra của hạng hốt rác; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra thấp kém. Sự sanh ra cao quý là sự sanh ra của hạng Sát-đế-lỵ và sự sanh ra của Bà-la-môn; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra cao quý. ―(như trên)―

5. Sự sỉ vả nghĩa là có hai sự sỉ vả: sự sỉ vả thấp kém và sự sỉ vả cao quý. Sự sỉ vả thấp kém nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con bò, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi,” đệm vào tiếng ‘ya,’ hoặc đệm vào tiếng ‘bha,’ hoặc gọi là ‘kāṭa’ đối với người nam và ‘koṭacikā’ đối với người nữ; sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả thấp kém. Sự sỉ vả cao quý nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi;” sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả cao quý.

6. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

7. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

8. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

9. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

10. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Kosiya, là Bhāradvāja” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

11. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

12. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

13. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là nông phu, thương buôn, người chăn bò” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

14. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

15. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là quản lý, kế toán, thư ký” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

16. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là người bệnh cùi, người bệnh mụt nhọt, người bệnh chàm, người bệnh lao phổi, người bệnh động kinh” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

17. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là người bệnh tiểu đường” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

18. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

19. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

20. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

21. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi có tham đã lìa, có sân đã lìa, có si đã lìa” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

22. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi vi phạm tội pārājika, vi phạm tội saṅghādisesa, vi phạm tội thullaccaya, vi phạm tội pācittiya, vi phạm tội pāṭidesanīya, vi phạm tội dukkaṭa, vi phạm tội dubbhāsita” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

23. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là vị vi phạm vào dòng Thánh” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

24. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là con lạc đà, con cừu, con bò, con lừa, loài thú, người địa ngục, không có cõi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

25. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cõi trời chờ đợi ngươi” thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

26. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

27. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là Sát-đế-lỵ, là Bà-la-môn.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

28. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cõi trời chờ đợi những người ấy.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

29. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

30. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ―(như trên)― ‘Có lẽ những người nào là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, những người ấy không có khổ cảnh, cõi trời chờ đợi những người ấy.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

31. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói. ―(như trên)―

32. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cõi trời chờ đợi chúng tôi.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

33. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya theo từng lời nói.

34. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ vị đã tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

35. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ người chưa tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

36. Vị đã tu lên bậc trên nghe từ người chưa tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.

37. Vị không ao ước được thương, vị không có ý định chia rẽ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về nói đâm thọc là thứ ba.

--ooOoo--

6.1.4. ĐIỀU HỌC VỀ PHÁP THEO TỪNG CÂU

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu. Các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)―, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu?”

2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào dạy người chưa tu lên bậc trên đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya.”

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, (các người) còn lại là người chưa tu lên bậc trên.

Theo từng câu nghĩa là một câu (của bài kệ), đọc tiếp theo, chỉ mỗi một âm, đọc hòa theo. Một câu (của bài kệ) nghĩa là bắt đầu đọc một lượt, chấm dứt một lượt. Đọc tiếp theo nghĩa là người đọc trước người đọc sau rồi chấm dứt một lượt. Chỉ mỗi một âm nghĩa là khi đang đọc chung ‘Rūpaṃ aniccaṃ,’ vị (tỳ khưu) chỉ đọc chữ ‘Rū’ rồi ngưng. Đọc hòa theo nghĩa là khi đang đọc ‘Rūpaṃ aniccaṃ,’ (người chưa tu lên bậc trên) phát ra âm ‘Vedanā aniccā.’ Điều gì là một câu (của bài kệ), điều gì là đọc tiếp theo, điều gì là chỉ mỗi một âm, điều gì là đọc hòa theo, tất cả điều ấy gọi là Pháp theo từng câu.

Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên, có liên quan đến mục đích, có liên quan đến Giáo Pháp.

Dạy đọc: Vị dạy đọc theo câu thì phạm tội pācittiya theo mỗi một câu. Vị dạy đọc theo từ thì phạm tội pācittiya theo mỗi một từ.

Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, vị dạy đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị dạy đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, vị dạy đọc Pháp theo từng câu thì phạm tội pācittiya.

Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên thì vô tội.

Trong khi (được) bảo đọc tụng chung, trong khi thực hiện việc học chung, vị dạy người (chưa tu lên bậc trên) đọc (bỏ băng) phần đã được học thuộc lòng nhiều lần, vị dạy người (chưa tu lên bậc trên) đang đọc sai, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về Pháp theo từng câu là thứ tư.

--ooOoo--

6.1.5. ĐIỀU HỌC VỀ NẰM CHUNG CHỖ NGỤ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ thường đi đến tu viện để nghe Pháp. Khi Pháp đã được thuyết giảng, các tỳ khưu trưởng lão đi về trú xá của các vị. Các tỳ khưu mới tu cùng với các cư sĩ nằm ngủ ngay tại nơi ấy ở phòng phục vụ; các vị bị thất niệm, không tỉnh giác, lõa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ. Các cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại nằm ngủ bị thất niệm, không tỉnh giác, lõa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ?” Các tỳ khưu đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên?”

2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

3. Sau đó, khi đã ngự tại thành Āḷavī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Kosambī. Trong khi tuần tự du hành, Ngài đã ngự đến thành Kosambī. Tại nơi đó trong thành Kosambī, đức Thế Tôn ngự ở tu viện Badarikā. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Rāhula điều này: - “Này đệ Rāhula, điều học đã được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên.’ Này đệ Rāhula, hãy tìm chỗ ngủ.” Khi ấy, trong khi không có được chỗ ngủ, đại đức Rāhula đã nằm ngủ ở nhà tiêu. Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn sau khi thức dậy đã đi đến nhà tiêu, sau khi đi đến đã tằng hắng. Đại đức Rāhula cũng đã tằng hắng lại. - “Ai đó vậy?” - “Bạch Thế Tôn, con là Rāhula.” - “Này Rāhula, sau con lại nằm ở đây?” Khi ấy, đại đức Rāhula đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên hai hoặc ba đêm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya.”

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu, (các người) còn lại gọi là người chưa tu lên bậc trên.

Quá hai ba đêm: là hơn hai hoặc ba đêm.

Với: là cùng chung.

Chỗ ngụ nghĩa là đã được lợp kín toàn bộ đã được che kín xung quanh toàn bộ, đã được lợp kín phần lớn đã được che kín xung quanh phần lớn.

Nằm chung chỗ ngụ: vào ngày thứ tư lúc mặt trời đã lặn, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, người chưa tu lên bậc trên nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya.

Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya.

Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa thì phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên thì vô tội.

Vị ngụ hai ba đêm, vị ngụ chưa đủ hai ba đêm, sau khi ngụ hai đêm vào đêm thứ ba đi ra ngoài trước rạng đông rồi lại trú ngụ tiếp, trong chỗ không được lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều, trong chỗ không được che kín xung quanh phần nhiều, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm thì vị tỳ khưu ngồi, khi vị tỳ khưu đang nằm thì người chưa tu lên bậc trên ngồi, hoặc là cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ nhất về nằm chung chỗ ngụ là thứ năm.

--ooOoo--

6.1.6. ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ VỀ NẰM CHUNG CHỖ NGỤ

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Anuruddha trong khi đang đi đến thành Sāvatthī trong xứ sở Kosala nhằm lúc chiều tối đã ghé lại ngôi làng nọ. Vào lúc bấy giờ, ở trong ngôi làng ấy có nhà nghỉ trọ của người đàn bà nọ đã được sắp đặt.[4] Khi ấy, đại đức Anuruddha đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này: - “Này chị gái, nếu chị không phiền lòng chúng tôi có thể ngụ một đêm ở phước xá.” - “Thưa ngài, ngài có thể ngụ.” Những khách lữ hành khác cũng đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này: - “Thưa bà, nếu bà không phiền lòng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.” - “Có ngài Sa-môn đã đến trước, nếu vị ấy cho phép thì các ông có thể trú lại.” Khi ấy, những khách lữ hành ấy đã đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, nếu ngài không phiền lòng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.” - “Này các đạo hữu, hãy trú lại.”

2. Khi ấy, người đàn bà ấy do sự nhìn thấy đại đức Anuruddha nên đã đem lòng say đắm. Sau đó, người đàn bà ấy đã đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, bị quấy rầy bởi những người này ngài sẽ ngụ không được an lạc. Thưa ngài, tốt thay tôi có thể sắp đặt cho ngài chiếc giường ở bên trong.” Đại đức Anuruddha đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, người đàn bà ấy đã sắp đặt chiếc giường của mình ở bên trong cho đại đức Anuruddha rồi đã khoác xiêm y và trang sức, xức hương thơm rồi đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, và thiếp là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Thưa ngài, tốt thay thiếp có thể là vợ của ngài.” Khi được nói như thế, đại đức Anuruddha đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, và thiếp là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Thưa ngài, tốt thay ngài hãy chấp nhận thiếp đây và tất cả tài sản.” Đến lần thứ ba, đại đức Anuruddha đã im lặng.

Sau đó, người đàn bà ấy đã cởi ra tấm áo choàng và đi qua đi lại phía trước đại đức Anuruddha, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống. Khi ấy, đại đức Anuruddha đã thu thúc các giác quan, cũng không nhìn người đàn bà ấy và cũng không nói. Khi ấy, người đàn bà ấy (nghĩ rằng): “Ngài thật là kỳ diệu! Ngài thật là phi thường! Nhiều người bỏ ra cả trăm cả ngàn vì ta, thế mà khi được đích thân ta van xin vị Sa-môn này lại không chịu chấp nhận ta đây và tất cả tài sản,” rồi đã quấn lại tấm áo choàng, đê đầu ở hai chân của đại đức Anuruddha và đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy con khiến con như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên con đã hành động như thế. Thưa ngài, đối với con đây xin ngài đại đức ghi nhận tội lỗi là tội lỗi hầu để ngăn ngừa trong tương lai.” - “Này chị gái, đúng như vậy, tội lỗi đã chiếm ngự lấy cô khiến cô như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên cô đã hành động như thế. Và này chị gái, chính từ việc đó cô đã thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, nay chúng tôi ghi nhận điều ấy cho cô. Này chị gái, chính điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: ‘Người nào sau khi thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai.’”

4. Sau đó, khi trải qua đêm ấy người đàn bà ấy đã tự tay làm hài lòng và toại ý đại đức Anuruddha với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đại đức Anuruddha đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, người đàn bà ấy đã ngồi xuống ở một bên. Đại đức Anuruddha đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người đàn bà ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Anuruddha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tợ như thế Pháp đã được ngài đại đức Anuruddha giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Thưa ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn ấy, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin ngài đại đức chấp nhận con là nữ cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”

5. Sau đó, đại đức Anuruddha đã đi đến thành Sāvatthī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Anuruddha lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―

- “Này Anuruddha, nghe nói ngươi nằm chung chỗ ngụ với người nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này Anuruddha, vì sao ngươi lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ vậy? Này Anuruddha, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người nữ thì phạm tội pācittiya.”

6. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.

Với: là cùng chung.

Chỗ ngụ nghĩa là đã được lợp kín toàn bộ đã được che kín xung quanh toàn bộ, đã được lợp kín phần lớn đã được che kín xung quanh phần lớn.

Nằm chung chỗ ngụ: là lúc mặt trời đã lặn, khi người nữ đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, người nữ nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya.

Người nữ, nhận biết là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya. Người nữ, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya. Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya.

Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa, phạm tội dukkaṭa. Vị nằm chung chỗ ngụ với nữ Dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với người vô căn, hoặc với thú cái thì phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.

Trong chỗ không được lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều, trong chỗ không được che kín xung quanh phần nhiều, trong khi người nữ đang nằm thì vị tỳ khưu ngồi, trong khi vị tỳ khưu đang nằm thì người nữ ngồi, hoặc cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ nhì về nằm chung chỗ ngụ là thứ sáu.

--ooOoo--

6.1.7. ĐIỀU HỌC VỀ THUYẾT PHÁP

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đình và đi đến nhiều gia đình ở thành Sāvatthī. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến gia đình nọ. Vào lúc bấy giờ, bà chủ nhà đang ngồi ở cửa lớn của căn nhà. Cô con dâu đang ngồi ở cửa phòng trong. Khi ấy, đại đức Udāyi đã đi đến gặp bà chủ nhà, sau khi đến đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của bà chủ nhà. Khi ấy, cô con dâu đã khởi ý điều này: “Vị Sa-môn ấy là tình nhân của mẹ chồng hay là đang tán tỉnh?”

2. Sau đó, khi đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của bà chủ nhà, đại đức Udāyi đã đi đến gặp cô con dâu, sau khi đến đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của cô con dâu. Khi ấy, bà chủ nhà đã khởi ý điều này: “Vị Sa-môn ấy là tình nhân của con dâu hay là đang tán tỉnh?”

3. Sau đó, khi đã thuyết Pháp thầm thì bên tai của cô con dâu, đại đức Udāyi đã ra đi. Khi ấy, bà chủ nhà đã nói với cô con dâu điều này: - “Này con, vị Sa-môn ấy đã nói gì với con vậy?” - “Thưa mẹ, vị ấy đã thuyết Pháp cho con. Vậy đã nói gì với mẹ?” - “Cũng đã thuyết Pháp cho mẹ.” Hai người nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao đại đức Udāyi lại thuyết Pháp thầm thì bên tai, không lẽ Pháp không nên được thuyết giảng công khai và minh bạch?”

4. Các tỳ khưu đã nghe được các người nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Udāyi lại thuyết Pháp đến người nữ?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Udāyi, nghe nói ngươi thuyết Pháp đến người nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại thuyết Pháp đến người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

5. Vào lúc bấy giờ, các nữ cư sĩ sau khi nhìn thấy các tỳ khưu đã nói điều này: - “Xin các ngài đại đức hãy thuyết Pháp.” - “Này các chị gái, không được phép thuyết Pháp đến người nữ.” - “Xin các ngài đại đức hãy thuyết Pháp năm sáu câu thôi, có thể biết được chỉ với chừng ấy.” - “Này các chị gái, không được phép thuyết Pháp đến người nữ.” Rồi trong khi ngần ngại, các vị đã không thuyết. Các nữ cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức khi được chúng tôi thỉnh cầu lại không thuyết Pháp?” Các tỳ khưu đã nghe được các nữ cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thuyết Pháp năm sáu câu đến người nữ. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cho phép thuyết Pháp năm sáu câu đến người nữ.” Các vị ấy sau khi bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu?”

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ hơn năm sáu câu ngoại trừ có người nam có trí suy xét thì phạm tội pācittiya.”

8. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có trí suy xét, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.

Hơn năm sáu câu: là vượt quá năm sáu câu.[5]

Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên, có liên quan đến mục đích, có liên quan đến Giáo Pháp.

Thuyết: vị thuyết theo câu thì phạm tội pācittiya theo mỗi một câu. Vị thuyết theo từ thì phạm tội pācittiya theo mỗi một từ.

Ngoại trừ có người nam có trí suy xét: trừ ra có người nam có trí suy xét.

Người nam có trí suy xét nghĩa là có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.

Người nữ, nhận biết là người nữ, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét. Người nữ, có sự hoài nghi, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét. Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét.

Vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu đến nữ Dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc người vô căn, hoặc loài thú có thân người nữ thì phạm tội dukkaṭa ngoại trừ có người nam có trí suy xét. Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Kkhông phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.

Vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu có người nam có trí suy xét, vị thuyết Pháp chưa tới năm sáu câu, vị sau khi đứng dậy ngồi xuống lại rồi thuyết Pháp, vị thuyết trong khi người nữ đứng dậy rồi ngồi xuống lại, vị thuyết đến người nữ khác,[6] vị hỏi câu hỏi, vị trả lời khi được hỏi câu hỏi, trong khi đang thuyết vì lợi ích của người nam khác thì người nữ lắng nghe, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về thuyết Pháp là thứ bảy.

--ooOoo--

6.1.8. ĐIỀU HỌC VỀ TUYÊN BỐ SỰ THỰC CHỨNG

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm đã vào mùa (an cư) mưa ở bờ sông Vaggumudā. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực.

2. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Còn chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau, vậy bằng phương thức nào chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?”

3. Một số vị đã nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng ta hãy quyết định làm công việc cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.”

4. Một số vị đã nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hãy đưa tin tức cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.”

5. Một số vị đã nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Việc gì lại đưa tin tức cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta sẽ nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: ‘Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt nhị thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tam thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tứ thiền, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhập Lưu, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị Bất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị A-la-hán, vị tỳ khưu như vầy có ba Minh, vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí;’ như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.”

6. - “Này các đại đức, chính điều này là tốt hơn hết tức là việc chúng ta nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia.” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia: - “Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, ―(như trên)― vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí.”

7. Khi ấy, những người dân ấy (nghĩ rằng): “Quả thật điều lợi ích đã có cho chúng ta! Quả thật chúng ta đã đạt được điều tốt! Chúng ta có được các tỳ khưu như vầy trong số họ vào mùa (an cư) mưa! Quả thật từ trước đến nay không có các tỳ khưu như vầy vào mùa (an cư) mưa như là các vị tỳ khưu có giới có thiện pháp này vậy!” Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại mềm mà họ không ăn cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại cứng, những thức nếm, những thức uống mà họ không uống cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống.

8. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã có được tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Điều này đã trở thành thông lệ cho các tỳ khưu đã trải qua mùa (an cư) mưa là đi đến diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy trải qua ba tháng mùa (an cư) mưa đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành, các vị đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

9. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương thì ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân; trái lại các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā có được tướng mạo, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến.

10. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa có được thoải mái không? Và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?” - “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.” Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các tỳ khưu bởi hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”

11. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực như thế nào?” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, các ngươi có thực chứng không?” - “Bạch Thế Tôn, có thực chứng.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các ngươi lại ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia vì lý do của bao tử vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào tuyên bố pháp thượng nhân đến người chưa tu lên bậc trên (nếu) đã thực chứng thì phạm tội pācittiya.”

12. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, (các người) còn lại là người chưa tu lên bậc trên.

13. Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự thực chứng về Quả, sự dứt bỏ phiền não, sự không còn bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng. Thiền: là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sự giải thoát: là vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát.[7] Định: là vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định. Sự chứng đạt: là sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện.

Trí tuệ và sự thấy biết: là ba Minh.

Sự tu tập về Đạo: là bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần.

Sự thực chứng về Quả: là sự thực chứng quả vị Nhập Lưu, sự thực chứng quả vị Nhất Lai, sự thực chứng quả vị Bất Lai, sự thực chứng phẩm vị A-la-hán.

Sự dứt bỏ phiền não: là sự dứt bỏ tham ái, sự dứt bỏ sân, sự dứt bỏ si.

Sự không còn bị che lấp của tâm: nghĩa là tâm không còn bị che lấp bởi tham ái, tâm không còn bị che lấp bởi sân, tâm không còn bị che lấp bởi si.

Sự thỏa thích ở nơi thanh vắng: là sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với sơ thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với nhị thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tam thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tứ thiền.

14. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi chứng sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng được sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi có đạt sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi có trú sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ngộ sơ thiền” thì phạm tội pācittiya.

15. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền, ... tôi có đạt tứ thiền ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ tứ thiền” thì phạm tội pācittiya.

16. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được vô phiền não giải thoát, ... vô tướng giải thoát, ... vô nguyện giải thoát, ... vô phiền não định, ... vô tướng định, ... vô nguyện định, ... tôi có đạt vô nguyện định ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ vô nguyện định” thì phạm tội pācittiya.

17. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sự chứng đạt về vô phiền não, ... sự chứng đạt về vô tướng, ... sự chứng đạt về vô nguyện, ... tôi có đạt sự chứng đạt về vô nguyện ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sự chứng đạt về vô nguyện” thì phạm tội pācittiya.

18. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được ba Minh, ... tôi có đạt ba Minh ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ ba Minh” thì phạm tội pācittiya.

19. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được bốn sự thiết lập niệm, ... bốn chánh cần, ... bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có đạt bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ bốn nền tảng của thần thông” thì phạm tội pācittiya.

20. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được năm quyền, ... năm lực, ... tôi có đạt năm lực ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ năm lực” thì phạm tội pācittiya.

21. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được bảy giác chi, ... tôi có đạt bảy giác chi, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ bảy giác chi” thì phạm tội pācittiya.

22. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có đạt Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ Thánh Đạo tám chi phần” thì phạm tội pācittiya.

23. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được quả vị Nhập Lưu, ... quả vị Nhất Lai, ... quả vị Bất Lai, ... phẩm vị A-la-hán, ... tôi có đạt phẩm vị A-la-hán, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ phẩm vị A-la-hán” thì phạm tội pācittiya.

24. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã từ bỏ tham ái, ... tôi đã từ bỏ sân, ... tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si” thì phạm tội pācittiya.

25. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, ... tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya.

26. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền, ... nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền ở nơi thanh vắng, ... tôi có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ tứ thiền ở nơi thanh vắng” thì phạm tội pācittiya.

27. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và nhị thiền, ... tôi có đạt sơ thiền và nhị thiền, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và nhị thiền” thì phạm tội pācittiya.

28. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tam thiền, ... sơ thiền và tứ thiền, ... tôi có đạt sơ thiền và tứ thiền, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và tứ thiền” thì phạm tội pācittiya.

29. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và vô phiền não giải thoát, ... và vô tướng giải thoát, ... và vô nguyện giải thoát, ... và vô phiền não định, ... và vô tướng định, ... và vô nguyện định, ... tôi có đạt sơ thiền và vô nguyện định, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và vô nguyện định” thì phạm tội pācittiya.

30. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và sự chứng đạt về vô phiền não, ... và sự chứng đạt về vô tướng, ... và sự chứng đạt về vô nguyện, ... tôi có đạt sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện” thì phạm tội pācittiya.

31. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và ba Minh, ... tôi có đạt sơ thiền và ba Minh, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và ba Minh” thì phạm tội pācittiya.

32. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và bốn sự thiết lập niệm, ... sơ thiền và bốn chánh cần, ... sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có đạt sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông” thì phạm tội pācittiya.

33. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và năm quyền, ... sơ thiền và năm lực, ... tôi có đạt sơ thiền và năm lực, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và năm lực” thì phạm tội pācittiya.

34. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và bảy giác chi, ... tôi có đạt sơ thiền và bảy giác chi, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và bảy giác chi” thì phạm tội pācittiya.

35. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có đạt sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần” thì phạm tội pācittiya.

36. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và quả vị Nhập Lưu, ... và quả vị Nhất Lai, ... và quả vị Bất Lai, ... và phẩm vị A-la-hán, ... tôi có đạt sơ thiền và phẩm vị A-la-hán, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và phẩm vị A-la-hán” thì phạm tội pācittiya.

37. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tôi đã từ bỏ tham ái, ... và tôi đã từ bỏ sân, ... và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si” thì phạm tội pācittiya.

38. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya.

39. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền và tam thiền, ... nhị thiền và tứ thiền, ... tôi có đạt nhị thiền và tứ thiền, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ nhị thiền và tứ thiền” thì phạm tội pācittiya.

40. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền ―(như trên)― và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya. ―(như trên)―

41. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được nhị thiền và sơ thiền, ... tôi có đạt nhị thiền và sơ thiền, ... tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ nhị thiền và sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. ―(như trên)―

[Phần căn bản đã được tóm lược]

42. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền. ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sơ thiền, ... tôi có trú ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ sơ thiền” thì phạm tội pācittiya. ―(như trên)―

43. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” thì phạm tội pācittiya. ―(như trên)―

44. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... tôi đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, và phẩm vị A-la-hán, ... Tôi đã từ bỏ tham ái, ... Tôi đã từ bỏ sân ... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” thì phạm tội pācittiya.

45. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại nói: “Tôi đã chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa.

46. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại nói: “Tôi đã chứng tam thiền, ... tứ thiền, ... vô phiền não giải thoát, ... vô tướng giải thoát, ... vô nguyện giải thoát, ... vô phiền não định, ... vô tướng định, ... vô nguyện định, ... sự chứng đạt về vô phiền não, ... sự chứng đạt về vô tướng, ... sự chứng đạt về vô nguyện, ... ba Minh, ... bốn sự thiết lập niệm, ... bốn chánh cần, ... bốn nền tảng của thần thông, ... năm quyền, ... năm lực, ... bảy giác chi, ... Thánh Đạo tám chi phần, ... quả vị Nhập Lưu, ... quả vị Nhất Lai, ... quả vị Bất Lai, ... phẩm vị A-la-hán, ... tôi đã từ bỏ tham ái, ... tôi đã từ bỏ sân, ... tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, ... tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa.

47. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” ... lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa.

48. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại nói: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

[Phần căn bản đã được tóm lược]

49. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

50. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

51. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền” ―(như trên)― Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

52. Tuyên bố: Vị có ý định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền” ... “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

53. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú sơ thiền, sơ thiền đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” thì phạm tội dukkaṭa.

54. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền; tứ thiền đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

55. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú vô nguyện định; vô nguyện định đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” thì phạm tội dukkaṭa.

56. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng sự chứng đạt về vô phiền não, ... sự chứng đạt về vô tướng, ... sự chứng đạt về vô nguyện, vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú sự chứng đạt về vô nguyện định; sự chứng đạt về vô nguyện định đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―

57. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được ba Minh, ... bốn sự thiết lập niệm, ... bốn chánh cần, ... bốn nền tảng của thần thông, ... năm quyền, ... năm lực, ... bảy giác chi, ... Thánh Đạo tám chi phần, ... quả vị Nhập Lưu, ... quả vị Nhất Lai, ... quả vị Bất Lai, ... phẩm vị A-la-hán, vị tỳ khưu ấy đã từ bỏ tham ái, ... đã từ bỏ sân ... đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, vị tỳ khưu ấy có tâm không bị che lấp bởi tham ái, có tâm không bị che lấp bởi sân, và có tâm không bị che lấp bởi si” thì phạm tội dukkaṭa.

58. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng... đã chứng được sơ thiền, ... nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy ở nơi thanh vắng” thì phạm tội dukkaṭa.

59. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng trú xá của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng y của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng vật thực của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng chỗ trú ngụ của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đã thọ dụng vật dụng là thuốc men trị bệnh của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” thì phạm tội dukkaṭa.

60. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Trú xá của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, y của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, ... Vật thực của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, ... Chỗ trú ngụ của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, ... Vật dụng là thuốc men trị bệnh của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” thì phạm tội dukkaṭa.

61. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đạo hữu đã đi đến và đã dâng trú xá, ... và đã dâng y, ... đã dâng vật thực, ... đã dâng chỗ trú ngụ, ... đã dâng vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” thì phạm tội dukkaṭa.

62. Vị tuyên bố sự thực chứng đến người đã tu lên bậc trên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về tuyên bố sự thực chứng là thứ tám.

--ooOoo--

6.1.9. ĐIỀU HỌC VỀ CÔNG BỐ TỘI XẤU

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sakya gây chuyện xung đột với các tỳ khưu nhóm Lục Sư. Vị ấy sau khi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã thỉnh cầu hội chúng hành phạt parivāsa về tội ấy. Hội chúng đã ban cho vị ấy hành phạt parivāsa về tội ấy.

2. Vào lúc bấy giờ, tại thành Sāvatthī có buổi trai phạn của phường hội nọ. Vị ấy đang chịu hành phạt parivāsa nên đã ngồi chỗ ngồi cuối cùng trong nhà ăn. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các cư sĩ ấy điều này: - “Này các đạo hữu, vị này là đại đức Upananda con trai dòng Sakya được quen thuộc với quý vị, là vị thường tới lui với các gia đình, là vị thọ dụng vật tín thí bằng chính bàn tay đã gắng sức làm xuất ra tinh dịch. Vị ấy sau khi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã thỉnh cầu hội chúng hành phạt parivāsa về tội ấy. Hội chúng đã ban cho vị ấy hành phạt parivāsa về tội ấy. Vị ấy đang chịu hành phạt parivāsa nên đã ngồi chỗ ngồi cuối cùng trong nhà ăn.”

3. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.”

4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Của tỳ khưu: là của vị tỳ khưu khác.

Tội xấu nghĩa là bốn tội pārājika và mười ba tội saṅghādisesa.

Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, (các người) còn lại là người chưa tu lên bậc trên.

Công bố: Vị công bố đến người nữ, hoặc đến người nam, hoặc đến người tại gia, hoặc đến vị xuất gia.

Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ý của các tỳ khưu. Có sự đồng ý của các tỳ khưu có sự giới hạn về tội không có sự giới hạn về gia đình, có sự đồng ý của các tỳ khưu có sự giới hạn về gia đình không có sự giới hạn về tội, có sự đồng ý của các tỳ khưu có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đình, có sự đồng ý của các tỳ khưu không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đình.

Có sự giới hạn về tội nghĩa là các tội được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội.” Có sự giới hạn về gia đình nghĩa là các gia đình được xét đến: “Nên công bố đến chừng ấy gia đình.” Có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đình nghĩa là các tội được xét đến và các gia đình được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội đến chừng ấy gia đình.” Không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đình nghĩa là các tội không được xét đến và các gia đình không được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội đến chừng ấy gia đình.”

Khi có sự giới hạn về tội, trừ ra các tội được xét đến vị công bố các tội khác thì phạm tội pācittiya.

Khi có sự giới hạn về gia đình, trừ ra các gia đình được xét đến vị công bố đến các gia đình khác thì phạm tội pācittiya.

Khi có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đình, trừ ra các tội được xét đến và trừ ra các gia đình được xét đến, vị công bố các tội khác đến các gia đình khác thì phạm tội pācittiya.

Khi không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đình thì vô tội.

Tội xấu, nhận biết là tội xấu, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Tội xấu, có sự hoài nghi, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Tội xấu, (lầm) tưởng không phải là tội xấu, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.

Vị công bố tội không phải là tội xấu thì phạm tội dukkaṭa. Vị công bố sự vi phạm tội xấu hoặc tội không xấu của người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa.

Không phải là tội xấu, (lầm) tưởng là tội xấu, phạm tội dukkaṭa. Không phải là tội xấu, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là tội xấu, nhận biết không phải là tội xấu, phạm tội dukkaṭa.

Vị tuyên bố về sự việc không (tuyên bố) về tội, vị tuyên bố về tội không (tuyên bố) về sự việc, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về công bố tội xấu là thứ chín.

--ooOoo--

6.1.10. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC ĐÀO ĐẤT

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong khi thực hiện công trình mới các tỳ khưu ở thành Āḷavī tự đào và bảo đào đất. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại tự đào và bảo đào đất, các Sa-môn Thích tử giết hại mạng sống chỉ có một giác quan?” Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī lại tự đào và bảo đào đất?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tự đào và bảo đào đất, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tự đào và bảo đào đất vậy? Này những kẻ rồ dại, bởi vì dân chúng nghĩ rằng có mạng sống ở trong đất. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào tự đào hoặc bảo đào đất thì phạm tội pācittiya.”

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Đất nghĩa là có hai loại đất: đất màu mỡ và đất không màu mỡ. Đất màu mỡ nghĩa là thuần đất thịt, thuần đất sét, có ít đá, có ít sỏi, có ít mảnh sành, có ít sạn, có ít cát, phần lớn là đất thịt, phần lớn là đất sét, đất chưa được đốt cháy là đất màu mỡ được nói đến. Đống đất thịt hoặc đống đất sét được thấm nước mưa hơn bốn tháng, đây cũng được gọi là đất màu mỡ. Đất không màu mỡ nghĩa là thuần đá, thuần sỏi, thuần mảnh sành, thuần sạn, thuần cát, có ít đất thịt, có ít đất sét, phần lớn là đá, phần lớn là sỏi, phần lớn là mảnh sành, phần lớn là sạn, phần lớn là cát, đã được đốt cháy là đất không màu mỡ được đề cập đến. Đống đất thịt hoặc đống đất sét được thấm nước mưa chưa tới bốn tháng, đây cũng được gọi là đất không màu mỡ.

Đào: là tự mình đào thì phạm tội pācittiya. Bảo đào: là bảo người khác đào thì phạm tội pācittiya. Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đào nhiều lần (vị ra lệnh chỉ) phạm (một) tội pācittiya.

Đất, nhận biết là đất, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy thì phạm tội pācittiya. Đất, có sự hoài nghi, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy thì phạm tội pācittiya. Đất, (lầm) tưởng không phải là đất, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy thì vô tội.

Không phải đất, (lầm) tưởng là đất, phạm tội dukkaṭa. Không phải là đất, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là đất, nhận biết không phải là đất thì vô tội.

Vị nói rằng: ‘Hãy tìm vật này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có nhu cầu về vật này, hãy làm vật này thành đúng phép,’ không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về việc đào đất là thứ mười.

Phẩm Nói Dối là thứ nhất.

--ooOoo--

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Nói dối, sự mắng nhiếc, và đâm thọc, câu (Pháp), và hai điều về việc nằm, ngoại trừ với người biết, việc thực chứng, tội xấu, và việc đào xới.

--ooOoo--