6.2. PHẨM THẢO MỘC
- Điều học về thảo mộc
- Điều học về nói tránh né
- Điều học về việc phàn nàn
- Điều học thứ nhất về chỗ nằm ngồi
- Điều học thứ nhì về chỗ nằm ngồi
- Điều học về việc chen vào
- Điều học về việc lôi kéo ra
- Điều học về căn gác lầu
- Điều học về trú xá lớn
- Điều học về (nước) có sinh vật
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong lúc thực hiện công trình mới, các tỳ khưu ở thành Āḷavī chặt cây và bảo người chặt. Có vị tỳ khưu nọ ở thành Āḷavī cũng chặt cây. Vị Thiên nhân ngụ ở trên cây ấy đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Thưa ngài, ngài có ý định làm chỗ ở cho mình thì xin ngài chớ phá hủy chỗ ở của chúng tôi.” Vị tỳ khưu ấy trong lúc không lưu tâm đã chặt đi và đã đánh trúng cánh tay đứa bé trai của vị Thiên nhân ấy. Khi ấy, vị Thiên nhân ấy đã khởi ý điều này: “Có lẽ ta nên đoạt mạng sống của vị tỳ khưu này ngay tại nơi đây?” Rồi vị Thiên nhân ấy đã khởi ý điều này: “Việc ta đoạt mạng sống của vị tỳ khưu này ngay tại nơi đây là không đúng đắn, có lẽ ta nên trình sự việc này lên đức Thế Tôn?” Sau đó, vị Thiên nhân ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này Thiên nhân, lành thay, lành thay! Này Thiên nhân, lành thay ngươi đã không đoạt lấy mạng sống của vị tỳ khưu ấy. Này Thiên nhân, nếu hôm nay ngươi đã đoạt lấy mạng sống của vị tỳ khưu ấy, này Thiên nhân ngươi đã gây ra nhiều sự vô phước. Này Thiên nhân, hãy đi, ở chỗ kia có thân cây mọc riêng biệt. Hãy đi đến nơi ấy.”
2. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại chặt cây và bảo người chặt? Các Sa-môn Thích tử giết hại mạng sống chỉ có một giác quan. Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī lại chặt cây và bảo người chặt?”
Khi ấy, đức Thế Tôn ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chặt cây và bảo người chặt, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại chặt cây và bảo người chặt vậy? Này những kẻ rồ dại, bởi vì dân chúng nghĩ rằng có mạng sống ở trong thân cây. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi phá hoại sự sống của thảo mộc thì phạm tội pācittiya.”
3. Thảo mộc nghĩa là có năm sự sanh ra bởi mầm giống: mầm giống từ rễ, mầm giống từ thân, mầm giống từ mắt chồi, mầm giống từ phần ngọn, mầm giống từ hạt là loại thứ năm.
Mầm giống từ rễ nghĩa là củ nghệ, củ gừng, cây vacā, cây vacattaṃ, cây ngải cứu, cây lê lư (trị bệnh điên?), cây usīraṃ, cỏ bhaddamuttakaṃ, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ rễ, được nảy mầm từ rễ, vật ấy được gọi là mầm giống từ rễ.
Mầm giống từ thân nghĩa là cây sung, cây đa, cây pilakkha, cây udumbara, cây tuyết tùng, cây kapiṭhana, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ thân, được nảy mầm từ thân, vật ấy được gọi là mầm giống từ thân.
Mầm giống từ mắt chồi nghĩa là cây mía, cây tre, cây sậy, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ đoạn nối, được nảy mầm từ đoạn nối, vật ấy được gọi là mầm giống từ mắt chồi.
Mầm giống từ phần ngọn nghĩa là cây húng quế, cỏ lạc đà, cỏ thơm hiriveraṃ, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ phần ngọn, được nảy mầm từ phần ngọn, điều ấy được gọi là mầm giống từ phần ngọn.
Mầm giống từ hạt nghĩa là hạt lúa bắp, hạt rau cải, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ hạt, được nảy mầm từ hạt, vật ấy được gọi là mầm giống từ hạt.
Mầm giống, nhận biết là mầm giống, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu thì phạm tội pācittiya. Mầm giống, có sự hoài nghi, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu thì phạm tội dukkaṭa. Mầm giống, (lầm) tưởng không phải là mầm giống, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu thì vô tội.
Không phải mầm giống, (lầm) tưởng là mầm giống, phạm tội dukkaṭa. Không phải là mầm giống, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là mầm giống, nhận biết không phải là mầm giống thì vô tội.
Vị nói rằng: ‘Hãy tìm vật này, hãy bố thí vật này, hãy mang lại vật này, có nhu cầu về vật này, hãy làm vật này thành đúng phép,’ không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về thảo mộc là thứ nhất.
--ooOoo--
6.2.2. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI TRÁNH NÉ
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa tự mình hành xử sai nguyên tắc và trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): - “Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Channa trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?’” ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?’ có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai?Ngươi nói điều gì?’ Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế thì hội chúng hãy phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Và này các tỳ khưu, nên phán quyết như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
2. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
3. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác. Hội chúng phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tội nói tránh né đã được hội chúng phán quyết đến tỳ khưu Channa. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
4. Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Channa bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi nói tránh né thì phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
5. Vào lúc bấy giờ, trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng, đại đức Channa (nghĩ rằng): “Trong khi phản kháng cách này hoặc cách khác, ta sẽ vi phạm tội” nên đã im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Channa trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng? ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng đã im lặng gây khó khăn cho hội chúng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại và bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế thì hội chúng hãy phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Và này các tỳ khưu, nên phán quyết như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
6. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
7. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Hội chúng phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ý việc phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Tội gây khó khăn đã được hội chúng phán quyết đến tỳ khưu Channa. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
8. Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách đại đức Channa bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi nói tránh né, gây khó khăn thì phạm tội pācittiya.”
9. Nói tránh né nghĩa là trong lúc được xác định sự việc hoặc tội ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?’ việc này nghĩa là nói tránh né.
Gây khó khăn nghĩa là trong lúc được xác định sự việc hoặc tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng; việc này nghĩa là gây khó khăn.
Khi tội nói tránh né chưa được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?’ thì phạm tội dukkaṭa.
Khi tội gây khó khăn chưa được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng thì phạm tội dukkaṭa.
Khi tội nói tránh né đã được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đã vi phạm? Đã vi phạm điều gì? Đã vi phạm ở đâu? Đã vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều gì?’ thì phạm tội pācittiya.
Khi tội gây khó khăn đã được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ý định nói lên điều ấy, không có ý định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng thì phạm tội pācittiya.
Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, khi nói tránh né gây khó khăn thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, khi nói tránh né gây khó khăn thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, khi nói tránh né gây khó khăn thì phạm tội pācittiya.
Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp thì vô tội.
Vị không biết rồi hỏi, hoặc vị bị bệnh rồi không nói, (nghĩ rằng): ‘Hội chúng sẽ có xung đột, hoặc cãi cọ, hoặc tranh luận, hoặc tranh cãi’ rồi không nói, (nghĩ rằng): ‘Sẽ có sự chia rẽ hội chúng hoặc là sự bất đồng hội chúng’ rồi không nói, (nghĩ rằng): ‘Sẽ thực hiện hành sự hoặc là sai pháp, hoặc là theo phe nhóm, hoặc là đến vị không xứng đáng với hành sự’ rồi không nói, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về nói tránh né là thứ nhì.
--ooOoo--
6.2.3. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC PHÀN NÀN
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ và sắp xếp các bữa ăn của hội chúng. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka chỉ là các vị mới tu có phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ kém thuộc về hội chúng và những bữa ăn tồi. Các vị ấy phàn nàn về đại đức Dabba Mallaputta với các tỳ khưu rằng: - “Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ theo sự ưa thích và sắp xếp các bữa ăn theo sự ưa thích.”
Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại phàn nàn về đại đức Dabba Mallaputta với các tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phàn nàn về Dabba Mallaputta với các tỳ khưu, có đúng không vậy? - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại phàn nàn về Dabba Mallaputta với các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi phàn nàn thì phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (nghĩ rằng): “Việc phê phán đã bị đức Thế Tôn cấm đoán, đã thế thì các tỳ khưu chỉ sẽ được nghe thôi” rồi phê phán đại đức Dabba Mallaputta ở xung quanh các vị tỳ khưu rằng: - “Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ theo sự ưa thích và sắp xếp các bữa ăn theo sự ưa thích.” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại phê phán đại đức Dabba Mallaputta?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phê phán Dabba Mallaputta, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại phê phán Dabba Mallaputta vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi phàn nàn, phê phán thì phạm tội pācittiya.”
3. Phê phán nghĩa là vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ, hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh rồi phàn nàn hoặc phê phán vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya.
Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, khi phàn nàn phê phán thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, khi phàn nàn phê phán thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, khi phàn nàn phê phán thì phạm tội pācittiya.
Vị phàn nàn hoặc phê phán người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa. Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ vị đã tu lên bậc trên không được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh rồi phàn nàn hoặc phê phán với vị đã tu lên bậc trên hoặc với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa.
Vị có ý định làm mất thể diện, có ý định làm mất danh dự, có ý định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định hoặc không được chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ, hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh, rồi phê phán hoặc phàn nàn với vị đã tu lên bậc trên hoặc với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa.
Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa.
Vị phàn nàn hoặc phê phán vị (khác) đang hành động theo thói thường vì ưa thích, vì sân hận, vì si mê, vì sợ hãi; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc phàn nàn là thứ ba.
--ooOoo--
6.2.4. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ CHỖ NẰM NGỒI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ nhằm lúc mùa lạnh, các tỳ khưu sắp đặt chỗ nằm ngồi ở ngoài trời rồi sưởi ấm thân hình. Khi thời giờ được thông báo, các vị trong lúc rời đi đã không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi đã ra đi không thông báo. Chỗ nằm ngồi trở nên ẩm ướt. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu sau khi sắp đặt chỗ nằm ngồi ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ nằm ngồi bị ẩm ướt?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi sắp đặt chỗ nằm ngồi ở ngoài trời, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi tự trải ra hoặc bảo trải ra giường, hoặc ghế, hoặc nệm, hoặc gối kê thuộc về hội chúng ở ngoài trời, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi ngụ ở ngoài trời rồi mang cất chỗ nằm ngồi lúc còn sớm. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy đang mang cất chỗ nằm ngồi lúc còn sớm; sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, trong tám tháng thông thường không có mưa ta cho phép cất giữ chỗ nằm ngồi ở nơi mái che, hoặc ở gốc cây, hoặc ngay tại chỗ nào các con quạ hoặc chim kên kên không phóng uế.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp, giường xếp, giường chân cong, giường có chân tháo rời được.
Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân cong, ghế có chân tháo rời được.
Nệm nghĩa là có năm loại nệm: nệm len, nệm bông vải, nệm vỏ cây, nệm cỏ, nệm lá.
Vật kê nghĩa là làm bằng bông vải, hoặc làm bằng cây usīra, hoặc làm bằng cỏ muñja, hoặc làm bằng cỏ pabbaja sau khi đã độn vào bên trong thì được buộc lại.
Sau khi tự trải ra: sau khi tự mình trải ra.
Sau khi bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra. Vị bảo người chưa tu lên bậc trên trải ra thì trách nhiệm thuộc về vị ấy. Vị bảo người đã tu lên bậc trên trải ra thì trách nhiệm thuộc về người đã trải ra.
Trong lúc rời đi không thu dọn vật ấy: không tự mình thu dọn.
Cũng không bảo thu dọn: không bảo người khác thu dọn.
Hoặc ra đi không thông báo: không thông báo vị tỳ khưu, hoặc vị Sa-di, hoặc người giúp việc tu viện. Vị vượt quá chỗ rơi của cục đất được ném đi bởi người nam (có sức mạnh) bậc trung[1] thì phạm tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya.
Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời tấm lót nền hoặc vải phủ giường ghế hoặc thảm trải nền hoặc thảm lót ngồi hoặc tấm da thú hoặc thảm chùi chân hoặc ghế kê chân, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong lúc lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
Sau khi thu dọn rồi ra đi, sau khi bảo thu dọn rồi ra đi, vị ra đi có thông báo, vị ra đi khi (vật ấy) đang còn được phơi nắng,[2] (vật ấy) đã được bất cứ ai chiếm hữu, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học thứ nhất về chỗ nằm ngồi là thứ tư.
--ooOoo--
6.2.5. ĐIỀU HỌC THỨ HAI VỀ CHỖ NẰM NGỒI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư là bạn hữu. Các vị ấy trong khi sống thì sống chung, trong khi ra đi thì ra đi chung. Các vị ấy sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi đã không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi đã ra đi không thông báo. Chỗ trú ngụ đã bị mối gặm nhấm.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi tự trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Chỗ nằm nghĩa là nệm, tấm lót nền, vải phủ giường ghế, thảm trải nền, thảm đan, tấm da thú, vật lót ngồi, tấm trải nằm, thảm cỏ, thảm lá.
Sau khi tự trải ra: sau khi tự mình trải ra.
Sau khi bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra.
Trong lúc rời đi không thu dọn vật ấy: không tự mình thu dọn.
Cũng không bảo thu dọn: không bảo người khác thu dọn.
Hoặc ra đi không thông báo: không thông báo vị tỳ khưu, hoặc vị Sa-di, hoặc người giúp việc tu viện. Vị vượt quá hàng rào của tu viện được rào lại thì phạm tội pācittiya. Vị vượt qua vùng phụ cận của tu viện không được rào lại thì phạm tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội pācittiya.
Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong phòng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội dukkaṭa. Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra giường hoặc ghế ở trong trú xá hoặc ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong phòng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo thì phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
Sau khi thu dọn rồi ra đi, sau khi bảo thu dọn rồi ra đi, vị ra đi có thông báo, (vật ấy) đã được bất cứ ai chiếm hữu, vị có dự tính sau khi đi đến nơi ấy rồi (nhắn tin về) hỏi, vị bị cản trở bởi bất cứ điều gì, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học thứ nhì về chỗ nằm ngồi là thứ năm.
--ooOoo--
6.2.6. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC CHEN VÀO
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chiếm hữu các chỗ nằm tốt nhất; các tỳ khưu trưởng lão bảo các vị ấy đứng dậy. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã khởi ý điều này: “Bằng phương kế gì chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa ở chính nơi này?” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi nằm xuống (nghĩ rằng): “Người nào bực bội thì sẽ ra đi.”
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi nằm xuống?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lão rồi nằm xuống, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào ở trong trú xá thuộc về hội chúng dầu biết vẫn chen vào (chỗ) của vị tỳ khưu đã đến trước rồi nằm xuống (nghĩ rằng): ‘Người nào bực bội thì sẽ ra đi.’ Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác thì phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Biết nghĩa là vị biết rằng: ‘Vị già cả;’ vị biết rằng: ‘Vị bệnh;’ vị biết rằng: ‘Đã được hội chúng giao cho.’
Chen vào: là sau khi lấn chiếm.
Nằm xuống: Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm ở khu vực lân cận của giường hoặc của ghế hoặc của lối vào hoặc của lối ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (ở chỗ ấy) thì phạm tội pācittiya.
Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác: không có bất cứ nguyên nhân nào khác khiến (vị ấy) chen vào rồi nằm xuống.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị chen vào rồi nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị chen vào rồi nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị chen vào rồi nằm xuống thì phạm tội pācittiya.
Vị trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm không thuộc khu vực lân cận của giường hoặc của ghế hoặc của lối vào hoặc của lối ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (chỗ ấy) thì phạm tội dukkaṭa. Vị trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong phòng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây hoặc ở ngoài trời thì phạm tội dukkaṭa. Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (chỗ ấy) thì phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
Vị đi vào khi bị bệnh, vị đi vào vì lạnh hoặc vì nóng hoặc bị áp bức, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc chen vào là thứ sáu.
--ooOoo--
6.2.7. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC LÔI KÉO RA
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa ngôi trú xá lớn nọ ở vùng ven (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ sống mùa (an cư) mưa ở đây.’ Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa ngôi trú xá, sau khi nhìn thấy đã nói như vầy: - “Này các đại đức, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư này đang sửa chữa ngôi trú xá. Giờ chúng ta sẽ bảo họ rút đi.” Một số vị đã nói như vầy: - “Này các đại đức, hãy chờ đợi trong lúc họ đang sửa chữa. Khi đã được sửa chữa xong thì chúng ta sẽ bảo họ rút đi.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư điều này: - “Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.” - “Này các đại đức, sao lại không nói cho biết trước, chúng tôi đã có thể sửa chữa cái khác?” - “Này các đại đức, không phải trú xá thuộc về hội chúng hay sao?” - “Này các đại đức, đúng vậy, trú xá thuộc về hội chúng.” - “Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.” - “Này các đại đức, trú xá thì lớn, các vị ở được, thì chúng tôi cũng sẽ ở được.” - “Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.” Rồi đã nổi giận, bất bình nắm (các vị ấy) ở cổ lôi kéo ra ngoài. Trong lúc bị lôi kéo ra ngoài, các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy: - “Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc vậy?” - “Thưa các đại đức, những tỳ khưu nhóm Lục Sư này nổi giận, bất bình rồi lôi kéo chúng tôi ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng.”
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư này khi nổi giận, bất bình lại lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nổi giận, bất bình rồi lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi khi nổi giận, bất bình lại lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nổi giận, bất bình rồi lôi kéo hoặc bảo lôi kéo vị tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng thì phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Nổi giận, bất bình: không được hài lòng, có tâm bực bội, nảy sanh lòng cay cú.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Lôi kéo ra: sau khi nắm lấy ở trong phòng rồi lôi kéo ra phía trước thì phạm tội pācittiya. Sau khi nắm lấy ở phía trước rồi lôi kéo ra bên ngoài thì phạm tội pācittiya. Với một lần ra sức, mặc dầu kéo đi qua nhiều cánh cửa phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Bảo lôi kéo ra: vị ra lệnh người khác thì phạm tội pācittiya. Được ra lệnh một lần, mặc dầu kéo đi qua nhiều cánh cửa (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội pācittiya.
Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia thì phạm tội dukkaṭa. Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra khỏi vùng phụ cận của trú xá, hoặc ra khỏi phòng phục vụ, hoặc ra khỏi mái che, hoặc ra khỏi gốc cây, hoặc ra khỏi khuôn viên bên ngoài thì phạm tội dukkaṭa.
Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo người chưa tu lên bậc trên ra khỏi trú xá, hoặc ra khỏi vùng phụ cận của trú xá, hoặc ra khỏi phòng phục vụ, hoặc ra khỏi mái che, hoặc ra khỏi gốc cây, hoặc ra khỏi khuôn viên bên ngoài thì phạm tội dukkaṭa. Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia thì phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
Vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị không biết hổ thẹn, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ấy; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị bị điên, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ấy; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị thường gây nên các sự xung đột, ... vị thường gây nên các sự cãi cọ, ... vị thường gây nên các sự tranh luận, ... vị thường gây nên các sự nói chuyện nhảm nhí, ... vị thường gây nên các sự tranh tụng trong hội chúng, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra người đệ tử hoặc người học trò không thực hành phận sự đúng đắn, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc lôi kéo ra là thứ bảy.
--ooOoo--
6.2.8. ĐIỀU HỌC VỀ CĂN GÁC LẦU
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu trong trú xá của hội chúng có căn gác lầu, một vị sống ở bên dưới, một vị ở phía trên. Vị tỳ khưu ở trên đã ngồi xuống một cách vội vã ở chiếc giường loại có chân tháo rời được. Chân giường đã rơi xuống và chạm vào đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đã thét lên. Các tỳ khưu đã chạy lại và đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, vì sao đại đức đã thét lên?” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao vị tỳ khưu lại ngồi xuống một cách vội vã ở chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi ngồi xuống một cách vội vã ở chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại ngồi xuống một cách vội vã ở chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào ngồi xuống hoặc nằm xuống ở chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng thì phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Thuộc về hội chúng nghĩa là trú xá đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Căn gác lầu nghĩa là không đụng vào đầu của người đàn ông (có chiều cao) bậc trung.
Giường loại có chân tháo rời được nghĩa là sau khi khoan lỗ rồi được gắn vào.
Ghế loại có chân tháo rời được nghĩa là sau khi khoan lỗ rồi được gắn vào.
Ngồi xuống: vị ngồi xuống ở chỗ ấy thì phạm tội pācittiya.
Nằm xuống: vị nằm xuống ở chỗ ấy thì phạm tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị ngồi xuống hoặc nằm xuống ở chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu thì phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị ngồi xuống hoặc nằm xuống ở chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu thì phạm tội pācittiya.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của mình thì vô tội.
Ở chỗ không phải là gác lầu, ở gác lầu (thấp) bị va chạm vào đầu, phần bên dưới là không được sử dụng, (gác lầu) đã được lót sàn, (giường ghế) đã được đóng đinh, vị đứng ở trên chỗ ấy lấy xuống hoặc treo lên, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về căn gác lầu là thứ tám.
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, vị quan đại thần người hộ độ cho đại đức Channa ra lệnh xây dựng trú xá cho đại đức Channa. Khi ấy, lúc trú xá đã được làm hoàn tất, đại đức Channa đã cho người lợp đi lợp lại, đã cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống. Sau đó, đại đức Channa trong lúc gom góp cỏ và cây gỗ đã làm hư hỏng ruộng lúa mạch của người Bà-la-môn nọ. Khi ấy, người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại làm hư hỏng ruộng lúa mạch của chúng tôi?” Các tỳ khưu đã nghe được người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao lúc trú xá đã được làm hoàn tất, đại đức Channa còn cho người lợp đi lợp lại, còn cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống?” ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói lúc trú xá đã được làm hoàn tất ngươi còn cho người lợp đi lợp lại, còn cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao lúc trú xá đã được làm hoàn tất, ngươi còn cho người lợp đi lợp lại, còn cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trong lúc cho xây dựng trú xá lớn, vị tỳ khưu nên đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định cách thức về hai ba lớp tô đắp đối với việc lắp đặt chốt cửa, đối với việc trang hoàng các lỗ thông hơi, cho đến khung cửa lớn. Nếu vượt quá điều ấy, cho dầu vị đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định vẫn phạm tội pācittiya.”
3. Trú xá lớn: nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.
Trú xá: nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong lúc cho xây dựng: là (tự mình) đang làm hoặc đang bảo người làm.
Cho đến khung cửa lớn: là (khoảng rộng) một tầm tay (1 mét 25) ở các khu vực xung quanh của đà ngang và trụ cửa.
Đối với việc lắp đặt chốt cửa: của việc lắp đặt cánh cửa lớn.
Đối với việc trang hoàng các lỗ thông hơi: là của việc trang hoàng các cửa sổ (gồm có các việc): sơn màu trắng, sơn màu đen, sơn màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.
Nên đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định cách thức về hai ba lớp tô đắp: Được trồng trọt nghĩa là các loại lúa bắp và rau cải. Nếu đứng ở chỗ được trồng trọt mà xác định thì phạm tội dukkaṭa. Khi đang cho tô đắp theo đường thằng, sau khi đã quyết định hai đường và đã chỉ thị đường thứ ba thì nên rời đi. Khi đang cho tô đắp theo đường vòng, sau khi đã quyết định hai đường vòng và đã chỉ thị đường vòng thứ ba thì nên rời đi.
Nếu vượt quá điều ấy, cho dầu vị đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định: Vị đang cho tô đắp bằng ngói thì phạm tội pācittiya theo từng viên ngói. Vị đang cho tô đắp bằng đá phiến thì phạm tội pācittiya theo từng viên đá phiến. Vị đang cho tô đắp bằng vữa hồ thì phạm tội pācittiya theo từng cục vữa hồ. Vị đang cho tô đắp bằng cỏ thì phạm tội pācittiya theo từng nắm cỏ. Vị đang cho tô đắp bằng lá thì phạm tội pācittiya theo từng tấm lá.
Vượt quá hai hay ba cách thức, nhận biết là vượt quá, vị quyết định thì phạm tội pācittiya. Vượt quá hai hay ba cách thức, có sự hoài nghi, vị quyết định thì phạm tội pācittiya. Vượt quá hai hay ba cách thức, (lầm) tưởng là chưa quá, vị quyết định thì phạm tội pācittiya.
Chưa vượt quá hai hay ba cách thức, (lầm tưởng) là đã vượt quá, phạm tội dukkaṭa. Chưa vượt quá hai hay ba cách thức, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Chưa vượt quá hai hay ba cách thức, nhận biết là chưa quá thì vô tội.
Trong hai hay ba cách thức, khi chưa đủ hai hay ba cách thức, trong hang đá, trong hang động, trong cốc liêu bằng cỏ, vì nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, trừ ra nhà ở còn tất cả các nơi thì không phạm tội, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về trú xá lớn là thứ chín.
--ooOoo--
6.2.10. ĐIỀU HỌC VỀ (NƯỚC) CÓ SINH VẬT
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong lúc thực hiện công trình mới các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét thì phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết hoặc các người khác thông báo cho vị ấy.
Tưới: vị tự mình tưới thì phạm tội pācittiya.
Bảo tưới: Vị ra lệnh cho người khác thì phạm tội pācittiya. Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) tưới nhiều lần, (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Khi có sinh vật, nhận biết là có sinh vật, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét thì phạm tội pācittiya. Khi có sinh vật, có sự hoài nghi, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét thì phạm tội dukkaṭa. Khi có sinh vật, (lầm) tưởng là không có sinh vật, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét thì vô tội.
Khi không có sinh vật, (lầm tưởng) là có sinh vật, phạm tội dukkaṭa. Khi không có sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi không có sinh vật, nhận biết là không có sinh vật thì vô tội.
Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về (nước) có sinh vật là thứ mười.
Phẩm Thảo Mộc là thứ nhì.
--ooOoo--
Thảo mộc, nói tráo trở, trong khi phê phán, hai điều về vị rời đi, vị đến trước, việc lôi kéo ra, loại có chân tháo rời được, cửa lớn, và có sinh vật.
--ooOoo--