6.6. PHẨM UỐNG RƯỢU
- Điều học về uống rượu
- Điều học về thọt lét bằng ngón tay
- Điều học về chơi giỡn
- Điều học về sự không tôn trọng
- Điều học về việc làm cho kinh sợ
- Điều học về ngọn lửa
- Điều học về việc tắm
- Điều học về việc làm hoại sắc
- Điều học về chú nguyện để dùng chung
- Điều học về việc thu giấu y
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn trong khi du hành ở xứ Cetiya đã đi đến Bhaddavatikā. Những người giữ bò, chăn dê, nông phu, khách đi đường đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa, là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hãm hại đức Thế Tôn.”
Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, những người giữ bò, chăn dê, nông phu, khách đi đường đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa, là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hãm hại đức Thế Tôn.” Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã im lặng.
2. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến Bhaddavatikā. Tại nơi đó, đức Thế Tôn đã trú ngụ ở Bhaddavatikā. Khi ấy, đại đức Sāgata đã đi về phía khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa thuộc vùng Ambatittha, sau khi đến đã đi vào nhà thờ lửa, rồi đã sắp đặt tấm thảm trải bằng cỏ, ngồi xuống, xếp (chân) thế kiết già, giữ thân thẳng, tập trung niệm ở phía trước. Khi ấy, con rồng ấy sau khi nhìn thấy đại đức Sāgata đi vào, có sự khó chịu, có tâm bực bội, đã phun khói. Đại đức Sāgata cũng đã phun khói. Khi ấy, con rồng không còn đè nén được cơn giận nên đã phun ra lửa. Đại đức Sāgata cũng đã nhập thiền đề mục lửa và đã phun ra lửa. Sau đó, đại đức Sāgata đã dùng lửa (của mình) đoạt lấy ngọn lửa của con rồng ấy rồi đã đi về phía Bhaddavatikā.
Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi đã ngự tại Bhaddavatikā theo như ý thích đã ra đi du hành về phía thành Kosambī. Các cư sĩ ở thành Kosambī đã nghe được rằng: “Nghe nói ngài đại đức Sāgata đã gây chiến với con rồng ở Ambatittha.”
3. Sau đó, trong khi tuần tự du hành, đức Thế Tôn đã ngự đến thành Kosambī. Khi ấy, các cư sĩ ở thành Kosambī sau khi đi ra tiếp đón đức Thế Tôn đã đi đến gặp đại đức Sāgata, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Sāgata rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, các cư sĩ ở thành Kosambī đã nói với đại đức Sāgata điều này: - “Thưa ngài, vật gì các ngài đại đức khó có được và ưng ý? Chúng tôi nên chuẩn bị vật gì?” Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nói với các cư sĩ ở thành Kosambī điều này: - “Này các đạo hữu, có thứ rượu cất tên Bồ Câu thì các tỳ khưu khó có được và ưng ý, hãy chuẩn bị thức ấy.”
Sau đó, các cư sĩ ở thành Kosambī đã chuẩn bị rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, rồi khi nhìn thấy đại đức Sāgata đang đi khất thực đã nói với đại đức Sāgata điều này: - “Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hãy uống rượu cất tên Bồ Câu. Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hãy uống rượu cất tên Bồ Câu.” Sau đó, khi đã uống rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, đại đức Sāgata trong lúc đang đi ra khỏi thành phố đã té ngã ở cổng thành.
4. Khi ấy, đức Thế Tôn cùng với nhiều vị tỳ khưu đang đi ra khỏi thành phố đã nhìn thấy đại đức Sāgata bị té ngã ở cổng thành, sau khi nhìn thấy đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hãy đưa Sāgata về.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Các vị tỳ khưu ấy nghe theo lời đức Thế Tôn sau khi đưa đại đức Sāgata về lại tu viện đã đặt nằm xuống, đầu hướng về đức Thế Tôn.
Khi ấy, đại đức Sāgata đã xoay tròn vòng đưa hai chân hướng về đức Thế Tôn rồi nằm ngủ. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đã có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai?”
- “Bạch ngài, đúng vậy.”
- “Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai không?”
- “Bạch ngài, điều ấy không có.”
- “Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đã gây chiến với con rồng ở Ambatittha?”
- “Bạch ngài, đúng vậy.”
- “Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có đủ sức gây chiến với con rắn nước không?”
- “Bạch ngài, điều ấy không có.”
- “Này các tỳ khưu, vậy loại thức uống nào sau khi uống vào sẽ trở thành mất tỉnh táo thì có nên uống loại ấy không?”
- “Bạch ngài, điều ấy không nên.”
- “Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho Sāgata, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, vì sao Sāgata lại uống men say vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi uống rượu và men say thì phạm tội pācittiya.”
5. Rượu nghĩa là rượu từ bột, rượu từ bánh ngọt, rượu từ cơm, đã được rắc men vào, đã được trộn vào các hương liệu cần thiết.
Men say nghĩa là chất mật từ bông hoa, nước trích ra từ trái cây, nước trích ra từ mật ong, nước trích ra từ đường mía đã được trộn vào các hương liệu cần thiết.
Uống: vị uống vào dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa thì phạm tội pācittiya.
6. Men say, nhận biết là men say, vị uống vào thì phạm tội pācittiya. Men say, có sự hoài nghi, vị uống vào thì phạm tội pācittiya. Men say, (lầm) tưởng không phải là men say, vị uống vào thì phạm tội pācittiya.
7. Không phải là men say, (lầm) tưởng là men say, phạm tội dukkaṭa. Không phải là men say, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là men say, nhận biết không phải là men say thì vô tội.
8. Vị uống vào chất có màu sắc của men say có hương của men say có vị của men say nhưng không phải là men say, khi được nấu chung với xúp, khi được nấu chung với thịt, khi được nấu chung với dầu ăn, ở trong nước mật của trái cây āmalaka, vị uống nước cất không men say, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về uống rượu là thứ nhất.
--ooOoo--
6.6.2. ĐIỀU HỌC VỀ THỌT LÉT BẰNG NGÓN TAY
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã chọc cười vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư bằng cách dùng ngón tay thọt léc. Vị tỳ khưu ấy trong lúc bị cười quá mức không thở được nên đã chết đi. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi thọt léc bằng ngón tay thì phạm tội pācittiya.”
2. Thọt léc bằng ngón tay nghĩa là vị đã tu lên bậc trên, có ý định chọc cười vị đã tu lên bậc trên rồi sờ vào cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của mình) thì phạm tội pācittiya.
Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc thì phạm tội pācittiya.
Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (do vị kia) ném ra bằng vật (do mình) ném ra thì phạm tội dukkaṭa.
Với vị chưa tu lên bậc trên, vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của mình) thì phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Không có ý định chọc cười, vị sờ vào khi có việc cần phải làm, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về thọt lét bằng ngón tay là thứ nhì.
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đùa nghịch ở trong nước của dòng sông Aciravatī. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala cùng với hoàng hậu Mallikā ngự ở tầng trên của tòa lâu đài. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang đùa nghịch ở trong nước của dòng sông Aciravatī, sau khi nhìn thấy đã nói với với hoàng hậu Mallikā điều này: - “Này Mallikā, các vị A-la-hán này của khanh đùa nghịch ở trong nước.” - “Tâu đại vương, chắc chắn là điều học chưa được đức Thế Tôn quy định hoặc là các vị tỳ khưu ấy không biết.”
2. Sau đó, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã khởi ý điều này: “Bằng phương thức nào để ta không phải trình lên đức Thế Tôn mà đức Thế Tôn có thể biết được các tỳ khưu này đã đùa nghịch ở trong nước?” Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đã cho mời các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đến rồi đã dâng khối đường lớn cho các vị ấy (nói rằng): - “Thưa các ngài, xin hãy dâng lên đức Thế Tôn khối đường này.”
Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đã cầm lấy khối đường ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức vua Pasenadi xứ Kosala dâng khối đường này đến đức Thế Tôn.” - “Này các tỳ khưu, đức vua đã gặp các ngươi ở đâu?” - “Bạch Thế Tôn, trong khi đang đùa nghịch ở trong nước của dòng sông Aciravatī.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đùa nghịch ở trong nước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi chơi giỡn ở trong nước thì phạm tội pācittiya.”
3. Chơi giỡn ở trong nước nghĩa là ở trong nước ngập trên mắt cá chân vị có ý định chơi giỡn rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội thì phạm tội pācittiya.
Chơi giỡn ở trong nước, nhận biết là chơi giỡn, phạm tội pācittiya. Chơi giỡn ở trong nước, có sự hoài nghi, phạm tội pācittiya. Chơi giỡn ở trong nước, (lầm) tưởng là không chơi giỡn, phạm tội pācittiya.
Vị đùa nghịch ở trong nước ngập dưới mắt cá chân thì phạm tội dukkaṭa. Vị đùa nghịch với chiếc thuyền thì phạm tội dukkaṭa. Vị đập vỗ trong nước bằng cánh tay hoặc bằng bàn chân hoặc với khúc cây hoặc với mảnh sành thì phạm tội dukkaṭa. Vị đùa nghịch nước hoặc cháo chua hoặc sữa tươi hoặc sữa pha loãng hoặc nước nhuộm y hoặc nước tiểu hoặc nước bùn chứa ở trong chậu thì phạm tội dukkaṭa.
Không chơi giỡn ở trong nước, (lầm) tưởng là chơi giỡn, phạm tội dukkaṭa. Không chơi giỡn ở trong nước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không chơi giỡn ở trong nước, nhận biết là không chơi giỡn ở trong nước thì vô tội.
Không có ý định chơi giỡn, vị đi xuống nước khi có việc cần phải làm rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội, trong khi đi sang bờ bên kia rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về chơi giỡn là thứ ba.
--ooOoo--
6.6.4. ĐIỀU HỌC VỀ SỰ KHÔNG TÔN TRỌNG
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa hành xử không đúng nguyên tắc. Các tỳ khưu đã nói như vầy: - “Này đại đức Channa, chớ hành động như thế. Điều ấy không được phép.” Vị ấy hành động tỏ ra vẻ không tôn trọng.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Channa lại thể hiện sự không tôn trọng?” ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói ngươi thể hiện sự không tôn trọng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại thể hiện sự không tôn trọng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi có sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya.”
2. Sự không tôn trọng nghĩa là có hai sự không tôn trọng: sự không tôn trọng người và sự không tôn trọng Pháp.
Sự không tôn trọng người nghĩa là khi đang được vị đã tu lên bậc trên nói về điều đã được quy định, vị (nghĩ rằng): “Vị này bị phạt án treo, hoặc bị xem thường, hoặc bị khiển trách, hoặc lời nói của vị này sẽ không được thực hiện” rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya.
Sự không tôn trọng Pháp nghĩa là khi đang được vị đã tu lên bậc trên nói về điều đã được quy định, vị (nghĩ rằng): “Làm thế nào để điều này có thể được hủy bỏ, hoặc được thủ tiêu, hoặc được biến mất?” hoặc là vị không có ý muốn học tập điều ấy rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya.
Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội pācittiya.
Khi đang được vị đã tu lên bậc trên nói về điều không được quy định, vị (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ khước, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Khi đang được vị chưa tu lên bậc trên nói về điều đã được quy định hoặc không được quy định, vị (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ khước, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi thể hiện sự không tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Vị nói rằng: ‘Sự học tập, sự giải thích của các vị thầy dạy học của chúng tôi là như vậy,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về sự không tôn trọng là thứ tư.
--ooOoo--
6.6.5. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC LÀM CHO KINH SỢ
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã làm các vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư kinh sợ. Trong lúc bị làm cho kinh sợ, các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy: - “Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc?” - “Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này đã làm chúng tôi kinh sợ.” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại làm vị tỳ khưu kinh sợ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi làm vị tỳ khưu kinh sợ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại làm vị tỳ khưu kinh sợ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào làm vị tỳ khưu kinh sợ thì phạm tội pācittiya.”
2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Làm kinh sợ: vị đã tu lên bậc trên có ý định làm kinh sợ vị đã tu lên bậc trên rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc thì phạm tội pācittiya cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ. Vị kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ thì phạm tội pācittiya cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ.
Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị làm kinh sợ thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị làm kinh sợ thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị làm kinh sợ thì phạm tội pācittiya.
Có ý định làm kinh sợ vị chưa tu lên bậc trên rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc thì phạm tội dukkaṭa cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ. Vị kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ thì phạm tội dukkaṭa cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ.
Vị chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Vị chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
6. Vị không có ý định làm kinh sợ rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc, (hay là) kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc làm cho kinh sợ là thứ năm.
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại xứ Bhagga, thành Susumāragira, trong rừng Bhesakalā, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ trong tháng mùa lạnh, các tỳ khưu sau khi đốt lên ngọn lửa ở khúc gỗ lớn có lỗ hổng nọ rồi sưởi ấm. Và ở trong lỗ hổng ấy có con rắn đen bị đốt nóng bởi ngọn lửa nên bò ra ngoài và tấn công các vị tỳ khưu. Các tỳ khưu đã chạy nơi này nơi nọ.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu lại đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
2. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này: - “Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các đại đức, trước đây chúng tôi đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đã cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại nên không sưởi ấm; vì thế chúng tôi không được thoải mái.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào không bị bệnh có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại ngay cả trong việc thắp đèn, trong việc đốt lửa, luôn cả ở nhà tắm hơi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa khi có các nhân duyên như thế. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào không bị bệnh có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế.”
4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Không bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có ngọn lửa.
Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có ngọn lửa.
Có ý định sưởi ấm: có ý muốn hơ nóng.
Ngọn lửa nghĩa là lửa được đề cập đến.
Đốt lên: vị tự mình đốt lên thì phạm tội pācittiya.
Bảo đốt lên: vị ra lệnh người khác thì phạm tội pācittiya. Khi được ra lệnh một lần, dầu (vị kia) đốt nhiều lần vị (ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Ngoại trừ có nhân duyên như thế: trừ ra có nhân duyên như thế.
Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế. Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế. Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị có ý định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế.
Vị nhặt lên khúc củi đang cháy thì phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh thì vô tội.
Vị bị bệnh, vị sưởi ấm khi (ngọn lửa) đã được thực hiện bởi vị khác, vị sưởi ấm ở chỗ tro tàn (không còn ngọn lửa), khi thắp đèn, khi đốt lửa (nung bình bát), ở trong nhà tắm hơi, ngoại trừ có nhân duyên như thế, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về ngọn lửa là thứ sáu.
--ooOoo--
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thường tắm ở dòng sông Tapodā.[1] Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (nghĩ rằng): “Ta sẽ gội đầu” rồi đã đi đến sông Tapodā và đã chờ đợi ở một bên (nghĩ rằng): “Đến khi các ngài đại đức tắm xong.” Các tỳ khưu đã tắm đến khi trời tối hẳn.
Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha sau khi gội đầu xong vào ban đêm thì cửa thành đã đóng nên đã ngụ lại bên ngoài thành. Vào lúc sáng sớm, đức vua với dầu thoa chưa được tẩm hương đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đang ngồi một bên điều này: - “Tâu đại vương, vì sao ngài lại đến sớm với dầu thoa chưa được tẩm hương?” Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
2. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi đã hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi nhìn thấy ngay cả đức vua vẫn tắm không biết chừng mực?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy sau khi nhìn thấy ngay cả đức vua vẫn tắm không biết chừng mực vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, nhằm lúc trời nóng nực nhằm lúc trời oi bức, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vào lúc trời nóng nực vào lúc trời oi bức ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
4. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh tình đã nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này: - “Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các đại đức, trước đây chúng tôi tắm khi chưa đủ nửa tháng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đã cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại nên không tắm; vì thế chúng tôi không được thoải mái.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Biết rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
5. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi thực hiện công trình mới, trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, trong trường hợp có công việc ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi đi đường xa, trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, trong trường hợp đi đường xa ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc, trường hợp đi đường xa; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
7. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong khi thực hiện việc may y ở ngoài trời đã bị bao phủ bởi cơn gió có bụi, và trời thì mưa lâm râm. Các vị tỳ khưu trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể bị ẩm ướt. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, trong trường hợp mưa gió ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc, trường hợp đi đường xa, trường hợp mưa gió; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
8. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Chưa đủ nửa tháng: chưa tới nửa tháng.
Tắm: Vị tắm với bột tắm hoặc với đất sét, trong lúc tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Khi hoàn tất việc tắm thì phạm tội pācittiya.
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Lúc trời nóng nực nghĩa là một tháng rưỡi còn lại của mùa nóng.
Lúc trời oi bức nghĩa là tháng đầu tiên của mùa mưa; (nghĩ rằng): ‘Như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức’ rồi nên tắm.
Trường hợp bị bệnh nghĩa là vị không có thoải mái khi không tắm; (nghĩ rằng): ‘Trường hợp bị bệnh’ rồi nên tắm.
Trường hợp có công việc nghĩa là ngay cả việc căn phòng được quét bụi; (nghĩ rằng): ‘Trường hợp có công việc’ rồi nên tắm.
Trường hợp đi đường xa nghĩa là (nghĩ rằng) ‘Ta sẽ đi nửa do tuần’[2] rồi nên tắm. Vị sắp sửa đi thì nên tắm. Vị đã đi thì nên tắm.
Trường hợp mưa gió nghĩa là các vị tỳ khưu đã bị bao phủ bởi cơn gió có bụi, hoặc là hai hoặc ba giọt nước mưa đã rơi trên thân thể; (nghĩ rằng): ‘Trường hợp mưa gió’ rồi nên tắm.
Chưa đủ nửa tháng, nhận biết là chưa đủ, vị tắm thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Chưa đủ nửa tháng, có sự hoài nghi, vị tắm thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Chưa đủ nửa tháng, (lầm) tưởng là đã hơn, vị tắm thì phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ.
Hơn nửa tháng, (lầm) tưởng là chưa đủ, phạm tội dukkaṭa. Hơn nửa tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hơn nửa tháng, nhận biết là đã hơn thì vô tội.
Khi có duyên cớ, vị tắm khi được nửa tháng, vị tắm khi hơn nửa tháng, vị tắm khi đi sang bờ bên kia sông, ở tất cả các xứ sở vùng biên địa,[3] trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc tắm là thứ bảy.
--ooOoo--
6.6.8. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC LÀM HOẠI SẮC
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu và các du sĩ ngoại đạo đang đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthī. Giữa đường, bọn trộm cướp đã xuất hiện và cướp bóc các vị ấy. Quân lính của đức vua xuất phát từ thành Sāvatthī sau khi bắt được bọn cướp ấy cùng với đồ đạc đã phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): - “Các đại đức hãy đi đến, các vị hãy nhận ra y của chính mình rồi hãy lấy.” Các vị tỳ khưu không nhận ra. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại không nhận biết y của chính bản thân?” Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
2. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy sau khi triệu tập hội chúng tỳ khưu lại đã nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ―(như trên)― nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nhận được y mới nên áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc là màu xanh, màu bùn, màu đen sẫm. Nếu vị tỳ khưu không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc mà sử dụng y mới thì phạm tội pācittiya.”
3. Mới nghĩa là đề cập đến việc làm thành đúng phép chưa được thực hiện.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.
Nên áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc: nên áp dụng dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.
Màu xanh nghĩa là có hai loại màu xanh: màu xanh của rỉ đồng và màu xanh lá cây.
Màu bùn nghĩa là nước (bùn) được đề cập đến.
Màu đen sẫm nghĩa là bất cứ (phẩm màu) gì liên quan đến màu đen.
Nếu vị tỳ khưu không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc: sau khi không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa, vị sử dụng y mới thì phạm tội pācittiya.
Khi chưa áp dụng, nhận biết là chưa áp dụng, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya. Khi chưa áp dụng, có sự hoài nghi, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya. Khi chưa áp dụng, (lầm) tưởng là đã áp dụng, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya.
Khi đã áp dụng, (lầm) tưởng là chưa áp dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi đã áp dụng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đã áp dụng, nhận biết là đã áp dụng thì vô tội.
Sau khi áp dụng rồi sử dụng, việc làm thành đúng phép bị hư hoại, chỗ đã thực hiện việc làm thành đúng phép bị sờn, (y) chưa được làm thành đúng phép được may chung với (y) đã được làm thành đúng phép, khi có miếng vá, khi có làm đường viền, khi có sự mạng lại, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc làm hoại sắc là thứ tám.
--ooOoo--
6.6.9. ĐIỀU HỌC VỀ CHÚ NGUYỆN ĐỂ DÙNG CHUNG
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sakya sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu là đệ tử của người anh lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện (của vị ấy). Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu: - “Này các đại đức, đại đức Upananda con trai dòng Sakya này sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến tôi lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện.”
Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sakya sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu hoặc đến vị tỳ khưu ni hoặc đến vị ni tu tập sự hoặc đến vị Sa-di hoặc đến vị Sa-di ni lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện thì phạm tội pācittiya.”
2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Đến vị tỳ khưu: là đến vị tỳ khưu khác.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ thực hành sự học tập về sáu pháp trong hai năm.
Sa-di nghĩa là người nam tu tập theo mười điều học.
Sa-di ni nghĩa là người nữ tu tập theo mười điều học.
Đích thân: sau tự mình chú nguyện để dùng chung.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Sự chú nguyện để dùng chung nghĩa là có hai sự chú nguyện để dùng chung: sự chú nguyện để dùng chung có mặt và sự chú nguyện để dùng chung vắng mặt.
Sự chú nguyện để dùng chung có mặt nghĩa là (nói rằng): ‘Tôi chú nguyện để dùng chung y này đến ngươi hoặc đến vị tên (như vầy).’
Sự chú nguyện để dùng chung vắng mặt nghĩa là (nói rằng): ‘Tôi trao y này đến ngươi vì mục đích chú nguyện để dùng chung.’ Vị kia nên nói rằng: ‘Ai là bạn bè hoặc là người thân thiết của ngài?’ ‘Vị tên (như vầy) và tên (như vầy).’ Vị kia nên nói rằng: ‘Tôi sẽ trao cho những người ấy. Ngài hãy sử dụng vật sở hữu của những người ấy hoặc ngài hãy phân phát hoặc ngài hãy tiến hành như là có duyên cớ.’
Chưa có sự xả lời nguyện nghĩa là chưa được cho lại[4] đến vị ấy hoặc là vị ấy sử dụng trong khi không có thân thiết với vị kia thì phạm tội pācittiya.
Chưa có sự xả lời nguyện, nhận biết là chưa có sự xả lời nguyện, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya. Chưa có sự xả lời nguyện, có sự hoài nghi, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya. Chưa có sự xả lời nguyện, (lầm) tưởng là đã có sự xả lời nguyện, vị sử dụng thì phạm tội pācittiya.
Vị chú nguyện để dùng riêng hoặc vị phân phát (y ấy) thì phạm tội dukkaṭa. Có sự xả lời nguyện, (lầm) tưởng là chưa có sự xả lời nguyện, phạm tội dukkaṭa. Có sự xả lời nguyện, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Có sự xả lời nguyện, nhận biết là đã có sự xả lời nguyện thì vô tội.
Hoặc là vị kia cho lại, hoặc là vị ấy (vị chủ nhân) sử dụng trong khi thân thiết với vị kia, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về chú nguyện để dùng chung là thứ chín.
--ooOoo--
6.6.10. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC THU GIẤU Y
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư có các vật dụng không được cất giữ. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đã nói với các tỳ khưu nhóm Lục Sư điều này: - “Này các đại đức, hãy cho lại chúng tôi bình bát và luôn cả y nữa.” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư cười. Các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vầy: - “Này các đại đức, vì sao các vị khóc lóc?” - “Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này thu giấu bình bát và luôn cả y của chúng tôi.”
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng của vị tỳ khưu cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Của vị tỳ khưu: là của vị tỳ khưu khác.
Bình bát nghĩa là có hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Tấm lót ngồi nghĩa là vật có đường biên được nói đến.
Ống đựng kim nghĩa là có kim hoặc không có kim.
Dây thắt lưng nghĩa là có hai loại dây thắt lưng: loại tết bằng vải sợi, loại tết kiểu đuôi heo.
Thu giấu: vị tự mình thu giấu thì phạm tội pācittiya.
Bảo thu giấu: vị ra lệnh vị khác thì phạm tội pācittiya. Khi được ra lệnh một lần, dầu (vị kia) thu giấu nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Cho dầu chỉ muốn cười giỡn: là có ý định đùa nghịch.
Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya.
Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu vật dụng khác cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội dukkaṭa. Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc vật dụng khác của người chưa tu lên bậc trên cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội dukkaṭa.
Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Không có ý định đùa giỡn, vị thu dọn vật được để lộn xộn, vị thu dọn (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ cho lại sau khi thuyết giảng bài Pháp,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc thu giấu y là thứ mười.
Phẩm Uống Rượu là thứ sáu.
--ooOoo--
Rượu, ngón tay, việc chơi giỡn (ở trong nước), sự không tôn trọng, sự làm cho kinh sợ, ngọn lửa, việc tắm, việc hoại sắc, đích thân (chú nguyện), và việc thu giấu.
--ooOoo--