LỜI GIỚI THIỆU
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) được chia làm 3 phần chính là Suttavibhaṅga (Phân Tích Giới Bổn), Khandhaka (Hợp Phần), và Parivāra (Tập Yếu). Trong đó Suttavibhaṅga (Phân Tích Giới Bổn) gồm có hai bộ là Pārājikapāḷi và Pācittiyapāḷi. Suttavibhaṅga sẽ được in làm ba tập:
- Pārājikapāḷi được in thành một tập tức là Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 1, ký hiệu là TTPV tập 01 (TTPV là từ viết tắt của Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt).
- Pācittiyapāḷi được in thành hai tập là Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 2 (TTPV tập 02), và Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (TTPV tập 03).
Hai tập Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 1 và Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 2 trình bày chi tiết đầy đủ 227 điều học của tỳ khưu được xác định nhờ vào dòng chữ kết thúc “bhikkhuvibhaṅgo niṭṭhito,” với nghĩa Việt là “Phần phân tích giới bổn của tỳ khưu được chấm dứt.” Vì thế hai tập này còn có tên gọi chung là Bhikkhuvibhaṅga.
Đây là Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 2 (TTPV tập 02) với nội dung như sau:
- 92 điều học Pācittiya
- 4 điều học Pāṭidesanīya
- 75 điều học về Sekhiya
- 7 pháp dàn xếp tranh tụng (adhikaraṇasamathā dhammā).
Cũng cần nhắc lại là Chú Giải Tạng Luật có tên là Samantapāsādikā được thực hiện do công của Chú Giải Sư Buddhaghosa. Phụ thêm vào đó còn có Sớ Giải (Ṭīkā) tên là Sāratthadīpanī nhằm phân tích về những điểm cần phải giải thích thêm hoặc chưa được đề cập ở trong Chú Giải (Aṭṭhakathā). Tác giả của Sớ Giải này được ghi nhận là vị tỳ khưu trí tuệ tên Sāriputta, thuộc nhóm Mahāvihāra (Đại Tự) ở Sri Lanka. Việc làm này được thực hiện theo lời yêu cầu của đức vua Parakkamabāhu I (1153-1186).
***
Cũng cần nói thêm là văn bản Pāḷi - Roman trình bày ở đây đã được phiên âm từ Tam Tạng ghi chép bằng mẫu tự Pāḷi – Sinhala thuộc ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước Sri Lanka. Nhân đây, chúng tôi cũng xin thành tâm tán dương công đức của Ven. Mettāvihārī đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bản đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet. Điều này đã tiết kiệm cho chúng tôi nhiều thời gian và công sức trong việc nhận diện mặt chữ và đánh máy; tuy nhiên việc kiểm tra đối chiếu lại với văn bản chánh cũng đã chiếm khá nhiều thời gian.
Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, như đã trình bày ở tập Luật trước, chúng tôi giữ nguyên từ Pāli của một số thuật ngữ không dịch sang tiếng Việt ví dụ như tên các điều học pārājika, saṅghādisesa, hoặc tên của các nghi thức như là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, v.v... Ngoài ra cũng có một số từ không tìm ra được nghĩa Việt như trường hợp tên các loại thảo mộc. Thêm vào đó, chúng tôi cũng đã sử dụng dạng chữ nghiêng cho một số câu hoặc đoạn văn nhằm gợi sự chú ý của người đọc về tầm quan trọng của ý nghĩa hoặc về tính chất thực dụng của chúng. Riêng về các câu kệ ngôn, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc.
Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Phật tử Phạm Thu Hương (Hồng Kông) và Phật tử Ngô Lý Vạn Ngọc (Việt Nam). Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ cấp thời và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát và hộ trì Tam Bảo.
Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Phật tử Tung Thiên cùng với hai người bạn là Đông Triều và Hiền đã sắp xếp thời gian để đọc qua bản thảo và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Nhân đây, cũng xin ghi nhận sự cúng dường cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Đại Đức Tâm Pháp, nhờ thế đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc xác định từ ngữ được thêm phần chuẩn xác. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.
Nhân đây, cũng xin thành kính tri ân công đức của Ven. Wattegama Dhammawasa, Sanghanāyaka ở Australia và cũng là Tu Viện Trưởng tu viện Sri Subodharama Buddhist Centre ở Peradeniya - Sri Lanka, đã cung cấp trú xứ cho chúng tôi ở Khu Ẩn Lâm Subodha, dưới chân núi Ambuluwawa, Gampola, cách thủ đô Colombo khoảng 150 cây số. Điều kiện yên tĩnh và khí hậu mát mẻ trong lành ở đây đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc chú tâm và kiên trì thực hiện bản soạn thảo của các tập Luật. Cũng không quên nhắc đến sự phục vụ và chăm sóc về mọi mặt, nhất là vật thực của ba vị cư sĩ người Sri Lanka là Gunavardhana, Jayampati, Dayānanda ở trú xứ này đã giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc phiên dịch này.
Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Kính bút,
ngày 15 tháng 02 năm 2009
Khu Ẩn Lâm Subodha
Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)
--ooOoo--
CÁC TỪ CHUYÊN MÔN
Một số từ chuyên môn cùng với các từ dịch nghĩa hoặc dịch âm bởi các dịch giả khác đã được trích lục và ghi lại dưới đây:
- Pātimokkha: giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, biệt biệt giải thoát giới.
- Pārājika: tội bất cộng trụ, ba-la-di, triệt khai, ba-la-thị-ca, giới khí.
- Saṅghādisesa: tội tội tăng tàn, tăng tàng, tăng-già-bà-thi-sa, tăng-già-phạt-thi-sa.
- Aniyata: tội bất định.
- Nissaggiya pācittiya: tội ưng xả đối trị, ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, giới xả đọa.
- Pācittiya: tội ưng đối trị, ba-dật-đề, ba-dật-để-ca, giới đọa.
- Pāṭidesanīya: tội ưng phát lộ, ba-la-đề đề-xá-ni, ba-dạ-đề, ba-la-để-đề-xá-ni, giới hối quá.
- Sekhiya dhamma: ưng học pháp, chúng-học-pháp, pháp chúng học, giới học.
- Adhikaraṇa dhamma: pháp diệt tranh, pháp diệt-tránh, pháp điều giải.
- Thullaccaya: trọng tội, tội thâu lan giá.
- Dukkaṭa: tội tác ác, đột cát la.
- Dubbhāsita: tội ác khẩu.
- Parivāsa: phạt biệt trú.
- Mānatta: hành tự hối.
- Abbhāna: phục vị.
- Uposatha: lễ Bố Tát.
- Pavāraṇā: lễ Tự Tứ.
--ooOoo--
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VinA. | Vinaya Aṭṭhakathā (Samantapāsādikā) - Chú Giải Tạng Luật (PTS) |
ND | Chú thích của Người Dịch |
PTS | Nhà Xuất Bản Pali Text Society (Anh Quốc) |
Sđd. | Sách đã dẫn |
TTPV | Tam Tạng Pāḷi - Việt |
Nguồn: tamtangpaliviet.net