1. Tiểu Kinh Phương Quảng (Cūḷavedallasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), tai Veluvana (Trúc Lâm), chỗ Kāḷandaka Nivapa. Rồi nam cư sĩ Visākhā đến chỗ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna ở, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Visākhā thưa với Tỷ-kheo-ni Dhammadinna: Thưa Ni sư, tự thân, tự thân, (Sakkaya), được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân là như thế nào?
  2. Tiểu Kinh Pháp Hành (Cūḷadhammasamādānasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Này các Tỷ-kheo, có bốn loại pháp hành này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, và tương lai quả báo cũng lạc.
  3. Ðại Kinh Pháp Hành (Mahādhammasamādānasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Này các Tỷ-kheo, phần lớn các loài hữu tình có dục như thế này, có ước vọng như thế này, có nguyện vọng như thế này: “Ôi, mong rằng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý được tiêu diệt! Mong rằng các pháp khả ái, khả lạc, khả ý được tăng trưởng!” Này các Tỷ-kheo, dầu cho các loài hữu tình ấy có dục như vậy, có ước vọng như vậy, có nguyện vọng như vậy, nhưng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý được tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Người có biết vì nguyên nhân gì không?
  4. Kinh Tư Sát (Vīmaṃsakasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Này các Tỷ-kheo, vị tư sát Tỷ-kheo muốn biết rõ tập tánh của người khác, cần phải tìm hiểu về Như Lai trên hai loại pháp: Các pháp do mắt, tai nhận thức, nghĩ rằng: “Những pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không hiện khởi?”
  5. Kinh Kosampiya (Kosambiyasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Thế Tôn ở Kosambī, tại tịnh xá Ghosita. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ở Kosambī sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Họ không tự thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm; họ không tự hòa giải, không chấp nhận hòa giải. Rồi một Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: Ở đây, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ở Kosambī sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi.
  6. Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ở tại Ukkaṭṭhā trong rừng Subhagavana, dưới gốc cây Tāla vương. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka khởi lên ác tà kiến như sau: “Cái này là thường, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này, không có một giải thoát nào khác hơn”.
  7. Kinh Hàng Ma (Māratajjaniyasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Tôn giả Mahā Moggallāna trú giữa dân chúng Bhagga, tại Sumsumaragira, rừng Bhessakalavana, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahā Moggallāna đang đi kinh hành ngoài trời. Khi ấy Ác ma đi vào bụng Tôn giả Mahā Moggallāna, ở trong bao tử. Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna nghĩ như sau: “Nay sao bụng của Ta lại nặng nặng như có gì chồng chất quá đầy?” Rồi Tôn giả Mahā Moggallāna từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào tự viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
  8. Kinh Kandaraka (Kandarakasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
  9. Kinh Bát thành (Aṭṭhakanāgarasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Tôn giả Ānanda trú ở Vesālī (Tỳ-xá-ly), tại Beluvagāmaka (ấp Trúc Lâm). Lúc bấy giờ gia chủ Dasama, người ở thành Aṭṭhaka đến tại Pataliputta (thành Ba-la-lị-phất) có công việc. Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Aṭṭhaka (Bát thành) đi đến Kukkuṭarama (Kê Viên), đến một Tỷ-kheo, đảnh lễ vị này, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, người ở thành Aṭṭhaka thưa với Tỷ-kheo ấy: Bạch Tôn giả, Tôn giả Ānanda nay an trú ở đâu? Chúng con muốn gặp Tôn giả Ānanda.
  10. Kinh Hữu học (Sekhasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Ở đây, này Mahānāma, vị Thánh đệ tử, thành tựu giới hạnh, hộ trì các căn, biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, thành tựu bảy diệu pháp, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức.
  11. Kinh Potaliya (Potaliyasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Gia chủ Potaliya đã tự cao tuyên bố rằng ông đã từ bỏ mọi nghiệp vụ, tục sự ràng buộc trong đời sống thế tục. Nhưng Đức Phật đã chỉ dạy cho ông như thế nào mới là đoạn tận các nghiệp vụ, tục sự trong giới luật của bậc Thánh. Và ông đã học được điều đó một cách rốt ráo. Đặc biệt, bài kinh đã đưa ra một loạt những ví dụ rất hay về sự nguy hiểm của các dục.
  12. Kinh Jīvaka (Jīvakasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Đức Phật đã giảng cho Jīvaka về việc ăn mặn và thái độ của các vị Tỷ-kheo để thọ thực các món ăn một cách hợp pháp, không lỗi lầm. Đây là kinh nói về ba trường hợp thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi vì mình mà giết và thường được gọi là giới luật về Tam Tịnh Nhục.
  13. Kinh Upāli (Upālisuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Gia chủ Upāli giàu có và uy thế, ông là một nhà tài trợ lớn của những Nigaṇṭha, ông đã đề nghị đến gặp Phật để bác bỏ giáo thuyết của Phật theo sự xúi giục của giáo chủ Nātaputta. Nhưng đến khi gặp Phật và nghe Phật thuyết giảng, Upāli đã quy y Phật. Chuyện kinh gắn liền với sự kiện giáo chủ giáo phái Nigaṇṭha đã qua đời không lâu sau khi ông gặp gia chủ Upāli và biết Upāli đã thực sự trở thành đệ tử Đức Phật.
  14. Kinh Hạnh Con Chó (Kukkuravatiyasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Koliya Haliddavasana là tên một thị trấn của dân chúng Koliya. Rồi Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chò hỏ như con chó.
  15. Kinh Vương Tử Vô Úy (Abhayarājakumārasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Giáo chủ Nigaṇṭha Nātaputta xúi giục vương tử Abhaya đến luận chiến với Đức Phật bằng cách đặt câu hỏi “hai móc”. Nhưng khi hoàng tử gặp Phật để đặt câu hỏi, Thế Tôn đã khéo léo trả lời và đã thu phục Abhaya quy ngưỡng Ngài. Đức Thế Tôn phân tích cho Abhaya sáu nội dung lời nói mà Thế Tôn có thái độ ứng xử khác nhau.
  16. Kinh Nhiều Cảm Thọ (Bahuvedaniyasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Tùy theo trường hợp, tùy theo các căn cảm nhận, tùy theo phương diện, tùy theo chủ đề… mà Đức Phật đã từng chỉ dạy hai, ba, năm, sáu, mười tám, ba mươi sáu hay một trăm lẻ tám loại cảm thọ khác nhau. Do vậy, trong kinh này Phật đã liệt kê ra những loại cảm thọ lạc và khổ khác nhau mà chúng sinh khác nhau có thể cảm nhận.
  17. Kinh Không Gì Chuyển Hướng (Apaṇṇakasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Đức Phật đã giảng cho làng ở Sālā pháp "không gì chuyển hướng" để giúp họ lựa chọn giáo lý thích hợp, do họ đang băn khoăn và không biết chọn giáo lý nào cho đúng, vì lúc đó làng của họ là trạm dừng chân của rất nhiều tu sĩ và họ đã thuyết giảng nhiều giáo lý khác nhau và bài bác giáo lý của những người khác.
  18. Lúc bấy giờ, Tôn giả Rāhula (La-hầu-la) ở tại Ambalaṭṭhikā (rừng Ambala). Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Ambalaṭṭhikā, chỗ Tôn giả Rāhula ở. Tôn giả Rāhula thấy Thế Tôn từ xa đi đến, sau khi thấy, liền sửa soạn chỗ ngồi và nước rửa chân. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, và sau khi ngồi, Ngài rửa chân. Tôn giả Rāhula đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn, sau khi để một ít nước còn lại trong chậu nước, bảo Tôn giả Rāhula: Này Rāhula, Ông có thấy một ít nước còn lại này trong chậu nước không?
  19. Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthi, Jetavana, tại tịnh xá Anāthapiṇḍika (Cấp Cô độc). Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthi để khất thực. Tôn giả Rāhula vào buổi sáng cũng đắp y, cầm y bát, đi sau lưng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn, sau khi đưa mắt ngó xung quanh, bảo Tôn giả Rāhula: Này Rāhula, bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả sắc pháp phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”.
  20. Tiểu Kinh Mālunkyāputta (Cūḷamāluṅkyasuttaṃ)
    Pāḷi - Việt | HT. Thích Minh Châu
    Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Tôn giả Mālunkyāputta, trong khi độc trú tịnh cư, khởi lên sự suy tư như sau: Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên, loại bỏ ra: “Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.